Một số vấn đề tư tưởng - văn hóa thời Nguyễn

Chị Lan

New member
Một số vấn đề tư tưởng - văn hóa thời Nguyễn

Nho giáo

Cũng giống như triều Lê, các vua Nguyễn lấy Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc cho việc cai trị và giáo dục. Tư tưởng chính thống được hàm chứa trong Ngũ kinh: Dịch, Lễ, Thi, Thư, Xuân Thu và sau đó là Tứ thư: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học và Trung dung

Tư tưởng Khổng giám còn được vua Minh Mạng đem áp dụng cho dân gian qua "mười điều huấn dụ". Trong đó đề cao những nguyên tắc của Nho giáo như tam cương ngũ thường cùng khuyên dân chúng sống tiết kiệm, giữ gìn phong tục, làm điều lành... Huấn dụ này được chuyển đến các làng xã địa phương để từ đấy truyền bá trong dân chúng.
Vua Gia Long cho lập văn miếu tại các trấn để thờ Khổng Tử, lập Quốc Tử giám ở Kinh đô để dạy cho các con quan và sĩ tử. Nhà vua cho mở các khoa thi để chọn người tài ra làm quan. Tất cả mọi thần dân đều được tham dự các cuộc thi. Khoa thi hương đầu tiên được tổ chức ở Bắc Thành vào năm 1807. Đến đời Minh Mạnh thì khoa thi hội được tổ chức, cứ ba năm một lần. Chương trình học nặng nề tư tưởng Nho giáo, văn chương thơ phú được đề cao mà những vấn đề thực tế ích quốc lợi dân thì không được đề cập.

Phật giáo

Các vua của triều Nguyễn tôn trọng đạo Phật. Năm 1815, vua Gia Long cho tu bổ lại chùa Thiên Mụ. Năm 1826 vua Minh Mạng cho dựng lại chùa Thành Duyên. Chùa này ở cửa biển Tư Hiền (Thừa Thiên), được lập nên dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu và bị phá hủy trong thời kỳ chiến tranh. Năm 1830, vua Minh Mạng triệu tập các cao tăng về kinh đô để kiểm tra đạo học. Nhà vua cùng bộ Lễ chọn được 53 vị chân tu rồi cấp cho họ giới đao và độ điệp. Năm 1844, vua Thiệu Trị, theo di chúc của vua Minh Mạng cho dựng một ngôi tháp cao bảy tầng ở chùa Thiên Mụ, đặt tên là Từ Nhân Tháp (sau này đổi thành Phước Duyên Bảo Tháp). Cũng trong năm ấy ngôi chùa Diệu Đế nổi tiếng ở Huế được dựng lên. Vua Tự Đức cũng quan tâm đến đạo Phật. Các chùa công như chùa Thiên Mụ, Giác Hoàng đều có cao tăng trụ trì, được gọi là tăng cương. Vị này có lương bổng của triều đình và có nhiệm vụ dạy cho tăng chúng việc tu học. Nhà vua còn ban ruộng đất cho các chùa lớn để cày cấy tăng gia.

Ngoài ra, các vua triều Nguyễn cũng chú ý tu bổ lại các lăng tẩm đền đài xưa như đền Hùng Vương ở Vĩnh Phú, đền thờ An Dương Vương ở Cổ Loa, Lăng và miếu thờ vua Đinh Tiên Hoàng ở Ninh Bình...

Đạo Thiên Chúa

Đạo Thiên Chúa dưới thời Nguyễn bị hạn chế nặng nề. Vua Gia Long không đàn áp tôn giáo này, nhưng các vua sau thì cấm đạp cương quyết. Thừa sai và tín độ bị giết không ít. Hải quân Pháp lấy cớ ấy, thị uy ở cửa biển Đà Nẵng ba lần dưới thời vua Thiệu Trị, nhưng không làm thay đổi được chính sách cấm đạo của các vua Nguyễn.

Văn học

Thời Nguyễn đã để lại một khối lượng khổng lồ về văn học cả của Triều đình lẫn của dân gian nhất là dưới thời Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức sau khi đã thành lập Quốc sử quán.

Những tác phẩm quan trọng có thể kể như sau:

Nhất thống địa dư chí hoàn tất vào năm 1806, có tất cả 10 quyển viết về địa lý tự nhiên, tổ sản, đường sá, phong tục, chợ búa của tất cả các trấn từ Lạng Sơn đến Hà Tiên. Tác phẩm đồ sộ như Đạt Nam Thưc lục tiền biên và chính viên do Quốc sử quán biên soạn, kê khai theo kiểu biên niên các sự kiện từ thời các chúa Nguyễn cho đến các vua Nguyễn. Đại Nam liệt truyện viết về các nhân vật nổi tiếng của thời Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí viết về phong tục, sản vật, địa lý của tất cả các tỉnh (1865), Đại Nam hội điển sử lệ gồm 262 quyển ghi lại tất cả công việc của sáu bộ (1851), bộ Minh Mạng chính yếu hoàn thành năm 1884, bộ Việt sử thông giảm cương mục (lịch sử Việt Nam) cũng viết xong năm 1884...
Số lượng sáng tác trong dân chúng cũng rất đáng kể. ở đất Thăng Long nghìn năm văn vật có Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát... Ta từng biết tác phẩm bất hủ Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du:

"Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng..."


Hoặc Hồ Xuân Hương, một nhà thơ nữ với các bài thơ châm biếm:

"Anh đồ tỉnh, anh đồ say?
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay.


Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát được người đời ca tụng như sau:

Văn như Siêu, Quát vô tìn Hán
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường.

(Văn tài của Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát hơn thời tiền Hán, thơ của Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương lấn át cả thơ thời thịnh Đường).

ở miền Trung có nhóm "Mạc Thi vân xã" của nho sĩ quý tộc như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, tập hợp văn tài của đất Thần kinh có đến 50 người tham gia.

ở miền cực nam của đất nước có "Chiêu Anh các" tại Hà Tiên. ở Gia Định có nhóm "Gia Định Tam gia": Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tỉnh. Ba nhân vật này, ngoài tài thơ văn còn viết những tác phẩm chuyên khảo có giá trị sử liệu vô cùng quý giá như Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức viết về sản vật, phong tục, nhân vật, di tích của sáu tỉnh Nam Bộ thời ấy, Hoàng Việt nhất thống địa dư chí của Lê Quang Định mô tả phong tục, cảnh trí, địa dư, thổ sản của toàn nước Việt Nam.

Ngoài ra trong dân gian còn có các tác phẩm vô danh nhưng vô cùng giá trị, lưu lại cho đến ngày nay như "Lý Công, Phạm Tải - Ngọc Hoa", "Tống Trân-Ngọc Hoa"...

Nguồn : LSVN từ thượng cổ đến hiện đại
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top