Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Trong số các nước lớn, chính sách của Nhật Bản đối với Đông Nam A'(ĐNA) sau chiến tranh lạnh được điều chỉnh một cách sớm và rõ nét nhất. Một trong những hướng điều chỉnh nổi bật chính sách của Nhật Bản với khu vực là tăng cường nâng cao vai trò trên lĩnh vực an ninh, chính trị cho tương xứng với tiềm lực kinh tế của nước này. Khi không còn bị uy hiếp trực tiếp bởi "mối đe doạ Xô Viết" và nguy cơ của chiến tranh hạt nhân huỷ diệt, Nhật Bản tích cực tìm kiếm cho mình cơ chế tác động thích hợp đến đời sống chính trị Đông Nam A'(ĐNA), Châu A' - Thái Bình Dương (CA-TBD) và trên thế giới. Trên cơ sở đó, Nhật Bản có thể chuyển "sức mạnh khổng lồ về kinh tế" thành sức mạnh chính trị và ngoại giao, đồng thời cải thiện tình trạng bị lệ thuộc nặng nề vào Mỹ trên lĩnh vực an ninh như suốt thời chiến tranh lạnh. Tuy nhiên, cần nhận thấy rằng chính nhờ vào sự bảo hộ về an ninh của Mỹ mà Nhật Bản đã có điều kiện tập trung sức lực phát triển kinh tế và trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.
Trong hình thái chiến lược mới ở CA-TBD sau chiến tranh lạnh, sự lựa chọn chính sách đối ngoại của Nhật Bản khá rõ nét. Nhật Bản dựa vào hiệp ước an ninh với Mỹ để bảo vệ an ninh quốc gia, đồng thời tích cực sử dụng sức mạnh kinh tế, quan hệ kinh tế để mở rộng ảnh hưởng chính trị, hình thành trung tâm quyền lực kinh tế Đông A' để đối phó với hai trung tâm Bắc Mỹ và Tây Âu. Trên cơ sở đó, Nhật Bản hy vọng từng bước "hóa giải" mâu thuẫn về khoảng cách quá lớn giữa khả năng kinh tế - kỹ thuật với sức mạnh chính trị - quân sự ở khu vực cũng như trên thế giới. Sự lựa chọn mục tiêu và biện pháp chiến lược nêu trên của Nhật Bản mang tính tất yếu bởi họ có tiềm lực mạnh về kinh tế làm cơ sở. Mặt khác, sự lựa chọn này trở nên thích hợp hơn trong bối cảnh quốc tế khi những ưu tiên về quân sự - chiến lược, ở mức độ nhất định, bị đẩy xuống sau những ưu tiên về kinh tế. Hơn nữa, đối với Nhật Bản, ngay từ thời kỳ chiến tranh lạnh, quan niệm về an ninh bao giờ cũng được hiểu là nền an ninh toàn diện (Comprehensive security). Theo đó, an ninh kinh tế được nhấn mạnh so với an ninh quân sự, bởi nền kinh tế Nhật Bản mang tính đặc thù, phụ thuộc chặt chẽ vào các nguồn lực như nguyên liệu - năng lượng, thị trường bên ngoài. Ngoài ra, do những hạn chế được quy định trong Hiến pháp về khả năng quân sự, Nhật Bản khó có cách nào hiệu quả hơn là sử dụng lợi thế kinh tế và ngoại giao kinh tế để duy trì quyền lợi trên trường quốc tế. Với tư cách là một công cụ ngoại giao kinh tế chủ chốt, viện trợ phát triển (ODA) giúp Nhật Bản nâng cao trọng lượng tiếng nói trong các vấn đề quốc tế.
Đông Nam A' đối với Nhật Bản trở thành một địa bàn quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Bởi vì, đây không chỉ là nơi cung cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên, thị trường với nguồn nhân công rẻ cho nền kinh tế Nhật Bản mà còn là địa điểm hấp dẫn mạnh nguồn đầu tư và buôn bán. Đặc biệt, ĐNA án ngữ tuyến giao thông huyết mạch của Nhật Bản sang Trung Cận Đông, Vùng Vịnh, Địa Trung Hải, Tây Âu và xuống Nam Thái Bình Dương. Theo tính toán của giới nghiên cứu Nhật Bản, hiện nay 94% dầu lửa nhập khẩu của nước này được vận chuyển qua ĐNA. 10% dầu thô và 80% khí đốt thiên nhiên dùng vào sản xuất điện của Nhật Bản được nhập khẩu từ ĐNA. Năm 1995, kim ngạch buôn bán của Nhật Bản với Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippin, Thái Lan đã lên tới 77 tỉ USD ; tổng đầu tư của Nhật vào 5 nước này đạt 33 tỉ USD. Hiện ASEAN chiếm 16% kim ngạch buôn bán quốc tế của Nhật Bản. Với vị trí quan trọng như vậy, hầu như tất cả nội các Nhật Bản sau chiến tranh lạnh đều tích cực điều chỉnh chính sách với ĐNA, nhằm thực thi mục tiêu chiến lược giành vai trò chủ đạo ở CA-TBD, trước hết là ở ĐNA.
Thực ra, ngay từ nửa cuối thập kỷ 70 sau thất bại của Mỹ trong chiến tranh Đông Dương và sự cải thiện quan hệ giữa các siêu cường, Nhật Bản đã xúc tiến những nỗ lực đầu tiên theo hướng nâng cao vai trò ở ĐNA. Nhân chuyến thăm các nước ASEAN vào 8/1997, Thủ tướng Fukuđa đã trình bày chính sách mới của Nhật Bản với ĐNA và được gọi dưới tên "Học thuyết Fukuđa". Trong khi khẳng định Nhật Bản sẽ mãi mãi là quốc gia hoà bình, Fukuđa chủ trương, bằng khả năng kinh tế, Nhật Bản thúc đẩy ổn định, hợp tác khu vực ; xây dựng mối quan hệ hiểu biết, gắn bó tình cảm với ĐNA. Nhấn mạnh việc kiên trì quan hệ hợp tác hữu nghị với ASEAN, Nhật Bản đề xuất xây dựng quan hệ hợp tác với các nước Đông Dương. Trên cơ sở đó, Nhật Bản tỏ rõ mong muốn làm cầu nối hoà giải và thúc đẩy quan hệ giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương. Vì lẽ đó, Học thuyết Fukuđa được coi như bước khởi đầu thể hiện vai trò tự chủ của Nhật Bản trong việc tìm kiếm giải pháp chính trị hoà hợp ĐNA. Tuy nhiên, khi cuộc xung đột ở Campuchia nổ ra, việc thực hiện ý tưởng của Học thuyết Fukuđa trở nên khó khăn hơn. Nhưng thay vào đó, Nhật Bản có điều kiện phát huy vai trò chính trị thông qua các nỗ lực tháo gỡ vấn đề Campuchia.
Với sự giúp đỡ của ASEAN, năm 1990 Nhật Bản đứng ra đăng cai Hội nghị của các phái chính trị Campuchia nhằm thúc đẩy tiến trình hoà bình ở nước này. Bằng sự đóng góp tài chính đáng kể, Nhật Bản trở thành một trong những nước bảo trợ chính cho tiến trình hoà bình ở Campuchia. Nhật Bản được cử giữ chức chủ tịch UNTAC theo hiệp định Paris về Campuchia (1991). Sau khi Quốc hội Nhật Bản chính thức thông qua luật về các hoạt động gìn giữ hoà bình (PKO), lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II, chính phủ Nhật Bản đã gửi 700 quân của lực lượng phòng vệ tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc tại Campuchia. Đồng thời, cùng với việc ủng hộ đề nghị của Australia về việc thiết lập một cơ chế an ninh, chung cho toàn khu vực CA-TBD, năm 1991, Nhật Bản nêu đề nghị với ASEAN về một diễn đàn trao đổi quan điểm về an ninh khu vực v.v... Những hoạt động kể trên cho thấy Nhật Bản đã có những bước đi khá chắc chắn để nâng cao ảnh hưởng chính trị tại khu vực cho tương xứng với ảnh hưởng kinh tế.
Sự điều chỉnh chính sách ĐNA của Nhật Bản tương đối toàn diện trong Học thuyết Miyazawa được công bố nhân chuyến thăm các nước ASEAN tháng 1/1993. Xét về thực chất, đây là sự tiếp nối chính sách hai trụ cột ở ĐNA (ASEAN và Đông Dương) của học thuyết Fukuđa trong bối cảnh quốc tế mới ở khu vực. Học thuyết Miyazawa bao gồm hai nội dung then chốt : Thứ nhất, trên cơ sở một tầm nhìn lâu dài về an ninh ĐNA, Nhật Bản chủ trương cùng các nước khu vực tập trung hợp tác ổn định tình hình khu vực, thiết lập trật tự trị an và hoà bình ở khu vực. Thứ hai, Nhật Bản kêu gọi hợp tác, phối hợp chặt chẽ với ASEAN để tái thiết Đông Dương, xác lập "Diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương".
Hai nội dung then chốt này, xét cho cùng, đều hướng tới một mục tiêu nhất quán là xác lập ảnh hưởng toàn diện và áp đảo của Nhật Bản ở ĐNA. Trật tự an ninh ở ĐNA mà Nhật Bản chủ trương thiết lập được dựa trên một nền tảng kinh tế phụ thuộc vào kinh tế Nhật Bản. Đồng thời, thông qua tái thiết Đông Dương, Nhật Bản có điều kiện mở rộng thâm nhập kinh tế vào khu vực vốn trước đây có quan hệ mật thiết với Liên Xô và Đông Âu, từ đó giành lợi ích kinh tế và tăng cường ảnh hưởng chính trị. Học thuyết Miyazawa được thực hiện trong khi Nhật Bản đang có xu hướng quay trở lại châu A', dựa vào vòng cung Đông A' để đối phó với xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Trên cơ sở đó, Nhật Bản hy vọng có thể một mặt cạnh tranh hiệu quả với các tập đoàn khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ, kiềm chế các đối thủ mới nổi lên ở Đông A'; mặt khác tranh giành "khoảng trống quyền lực" do Liên Xô tan rã để lại. Bên cạnh việc tích cực tham gia các hoạt động trên lĩnh vực an ninh, chính trị ở Đông Nam A', Nhật Bản nhanh chóng chuyển dịch kinh doanh và đầu tư vào các nước châu A', trước hết là Trung Quốc và ASEAN. Nhật Bản là nước nối lại ODA sớm nhất cho Việt Nam và các nước Đông Dương. Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng có mặt nhanh nhất ở Đông Dương ngay từ khi cuộc chiến tranh lạnh đang đi đến hồi kết thúc. Trong số 5 nước nhận ODA cao nhất của Nhật Bản ở châu á từ 1995 đến nay thì 4 nước thuộc ĐNA là Indonesia, Philippin, Thái Lan và Việt Nam. Riêng đối với Việt Nam, quan hệ của Nhật Bản được thúc đẩy khá mạnh mẽ trên nhiều mặt. Ngay từ năm 1992, trong khi lệnh cấm vận của Mỹ với Việt Nam vẫn chưa được bãi bỏ thì Nhật Bản đã nối lại ODA cho Việt Nam với số vốn liên tục tăng. Viện trợ phát triển và cho vay với lãi suất thấp mà Nhật Bản dành cho Việt Nam năm 1992 là 380 triệu USD, năm 1993 - 550 triệu, năm 1994 - 665 triệu, năm 1995 - 805 triệu, năm 1996 - 850 triệu USD. Như vậy, về cung cấp ODA cho ĐNA, từ 1994, Nhật Bản có xu hướng chú trọng vào Việt Nam, thay vì trước đây đã tập trung cho Thái Lan, Indonesia và Philippin.
Việc tăng cường ODA và các quan hệ kinh tế của Nhật Bản với ĐNA đương nhiên sẽ đưa lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Đồng thời, qua đó, Nhật Bản nâng cao được ảnh hưởng một cách toàn diện hơn ở khu vực. Bởi vì, theo quan điểm của Nhật Bản, điều đó "không chỉ đơn giản có ý nghĩa hẹp là lợi ích thương mại, mà nó bao hàm ý nghĩa sâu sắc hơn là lợi ích gián tiếp được các nước tiếp nhận đánh giá cao khi nó phù hợp với các nhu cầu cấp thiết của họ"(1) . Hoặc như Thủ tướng Kaifu đã từng phát biểu vào tháng 3/1990 rằng, Nhật Bản muốn "dùng các nguồn kỹ thuật công nghệ, kinh tế và vốn kinh nghiệm của mình làm cơ sở để đóng một vai trò tích cực trong các cố gắng quốc tế nhằm tạo nên một trật tự mới"(2).
Một số điều chỉnh trong chính sách ĐNA của Nhật Bản những năm 90
Bước vào nửa cuối thập kỷ 90, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tiến trình liên kết ĐNA với triển vọng hiện thực của ASEAN gồm 10 nước khu vực, và trước xu hướng mở rộng ảnh hưởng của các nước lớn khác tại đây, Nhật Bản lại điều chỉnh chính sách ĐNA của mình. Học thuyết Hashimoto ra đời nhân chuyến thăm của ông tới 5 nước ASEAN, trong đó có Việt Nam tháng 1/1997. Nội dung cơ bản của học thuyết này có thể khái quát trong 3 điểm chủ yếu sau: Một là, Nhật Bản mong muốn nâng quan hệ Nhật - ASEAN lên tầm cao hơn với việc tổ chức định kỳ các cuộc trao đổi cấp cao Nhật - ASEAN. Trước mắt, Nhật Bản đề nghị tham gia Hội nghị cấp cao không chính thức ASEAN vào tháng 11/1997 ở Malaysia. Hai là, Nhật Bản ủng hộ và đánh giá cao vai trò của ASEAN và việc mở rộng ASEAN bao gồm tất cả 10 nước ĐNA. Ba là, quan hệ Nhật - ASEAN từ nay sẽ chuyển từ quan hệ giữa nước viện trợ và nước nhận viện trợ sang mối quan hệ bè bạn, hợp tác bình đẳng, trao đổi rộng rãi không những về kinh tế mà cả trên các lĩnh vực an ninh, chính trị, văn hoá - xã hội. Sự điều chỉnh chính sách này rõ ràng là một bước tiến dài trong chiến lược đã được xác định của Nhật Bản với khả năng tăng cường vai trò chính trị của họ ở châu A' và đặc biệt ở ĐNA. Việc Thủ tướng Hashimoto kêu gọi tổ chức Hội nghị cấp cao định kỳ Nhật - ASEAN là nhằm để Nhật Bản có thể tác động một cách có hiệu quả đến các vấn đề song phương, khu vực và quốc tế, tìm kiếm cho Nhật Bản vị trí xứng đáng trong các cơ chế an ninh khu vực đang hình thành. Điều này được thể hiện rõ nét khi Hashimoto tuyên bố: "Để đảm bảo hoà bình và ổn định ở CA-TBD trong thế kỷ 21, tôi muốn thấy Nhật Bản có các cuộc đối thoại thẳng thắn về an ninh khu vực với từng nước ASEAN trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau"(1) . Học thuyết Hashimoto không chỉ nhấn mạnh củng cố quan hệ kinh tế mà còn đề cập đến tăng cường quan hệ chiến lược, chính trị với ĐNA, trước hết là ASEAN. Nhật Bản nhìn thấy ở ASEAN một khả năng hiện thực mà nếu dựa vào đó, Nhật Bản có thể đối phó với những thách thức đang gia tăng ngay tại CA-TBD. Trong số những thách thức đó, trước hết phải kể đến vai trò ngày càng tăng của Mỹ trong diễn đàn APEC và thế lực ngày càng mạnh của Trung Quốc ở Đông A' - Thái Bình Dương.
Trong quan hệ kinh tế với các nước ĐNA, Nhật Bản muốn nhấn mạnh đến hợp tác bình đẳng. Sở dĩ vậy là do khu vực ĐNA đã trở thành một trung tâm tăng trưởng kinh tế lớn trên thế giới. Có nước như Singapore đã có trình độ phát triển tương đương với các nước công nghiệp tiên tiến ; Malaysia, Thái Lan và Indonesia đang tiếp cận trình độ các NICs. Trên thực tế, mặc dù ĐNA hiện vẫn nhận được nguồn ODA lớn nhất của Nhật Bản, song bắt đầu từ 1993 đến nay, cơ cấu phân bổ ODA đối với khu vực đã thay đổi. Trong ba dạng ODA cơ bản là viện trợ cho vay, viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật thì các nước ASEAN chủ yếu nhận được viện trợ cho vay và hợp tác kỹ thuật. Khoản viện trợ không hoàn lại được dành cho các nước ĐNA khác. Từ năm 1996, Singapore và Brunei được đưa ra khỏi danh sách các nước nhận ODA của Nhật Bản ở ĐNA. Việt Nam từ 1994 trở lại đây trở thành nước nhận được ODA lớn nhất của Nhật Bản ở ĐNA. Cùng với ODA, về thương mại, hiện nay Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch buôn bán gia tăng nhanh từ 910 triệu USD/năm 1991 lên 2 tỉ năm 1994, 2,48 tỉ năm 1995 và 3 tỉ năm 1996. Nhật Bản còn có 168 dự án đầu tư ở Việt Nam tính đến 1996 với tổng số vốn 2,51 tỉ USD xếp thứ 4 trong 54 đối tác có đầu tư ở Việt Nam(2) . Với kết quả của chuyến thăm của Việt Nam tháng 1/1997 của Thủ tướng Hashimoto, quan hệ kinh tế Nhật - Việt đang hứa hẹn những bước phát triển thuận lợi.
Sự điều chỉnh chính sách đầu tiên của Nhật Bản ở ĐNA những năm gần đây chứng tỏ vị trí của khu vực đối với họ ngày càng trở nên quan trọng xét trên mọi lĩnh vực. Đồng thời, điều đó cũng cho thấy những nỗ lực to lớn của Nhật Bản trong quyết tâm phát huy ảnh hưởng hàng đầu ở khu vực. Từ học thuyết Phukuđa đến học thuyết Miyazawa và học thuyết Hashimoto, thực chất là một sợi dây xuyên suốt phản ánh những nỗ lực kể trên. Nhờ vậy, cho đến nay Nhật Bản đã tạo dựng cho mình một chỗ đứng khá ổn định và chắc chắn trong đời sống chính trị khu vực. Bất cứ một cường quốc nào muốn tăng cường vị trí của mình ở ĐNA không thể không tính đến nhân tố Nhật Bản tại đó.
Tài liệu trích dẫn:
(1) (2) Dương Lan Hải : ODA của Nhật Bản với các nước Đông Nam A', Tạp chí "Nghiên cứu Đông Nam A'", số 3(24)-1996, tr. 36-37.
(1) Phát biểu của Thủ tướng Hashimoto nhân chuyến thăm các nước ASEAN, Tài liệu tham khảo TTXVN, 14/1/1997.
(2) Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Nhật Bản không ngừng phát triển. Tạp chí Thương mại, số 3 + 4 - 1997.tr.64.
Tài liệu tham khảo :
1. Chiến lược của Nhật Bản, Viện Thông tin, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, H. 1993.
2. Sự thay đổi môi trường chiến lược quân sự ở Châu A' - Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam A'..., Viện nghiên cứu bảo vệ hoà bình và an ninh Nhật Bản, 7-1994 (Tài liệu dịch).
3. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế (Trung Quốc).
4. Dương Lan Hải : ODA của Nhật Bản với các nước Đông Nam A', Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam A', số 3(24) - 1996.
5. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Nhật Bản không ngừng phát triển, Tạp chí Thương mại, số 3 + 4 - 1997.
6. Chuyến công du của Thủ tướng Nhật Bản và học thuyết Hashimoto, báo "Đầu tư" số 17 ngày 20/1/1997.
Tác giả: Nguyễn Hoàng Giáp.
Trong hình thái chiến lược mới ở CA-TBD sau chiến tranh lạnh, sự lựa chọn chính sách đối ngoại của Nhật Bản khá rõ nét. Nhật Bản dựa vào hiệp ước an ninh với Mỹ để bảo vệ an ninh quốc gia, đồng thời tích cực sử dụng sức mạnh kinh tế, quan hệ kinh tế để mở rộng ảnh hưởng chính trị, hình thành trung tâm quyền lực kinh tế Đông A' để đối phó với hai trung tâm Bắc Mỹ và Tây Âu. Trên cơ sở đó, Nhật Bản hy vọng từng bước "hóa giải" mâu thuẫn về khoảng cách quá lớn giữa khả năng kinh tế - kỹ thuật với sức mạnh chính trị - quân sự ở khu vực cũng như trên thế giới. Sự lựa chọn mục tiêu và biện pháp chiến lược nêu trên của Nhật Bản mang tính tất yếu bởi họ có tiềm lực mạnh về kinh tế làm cơ sở. Mặt khác, sự lựa chọn này trở nên thích hợp hơn trong bối cảnh quốc tế khi những ưu tiên về quân sự - chiến lược, ở mức độ nhất định, bị đẩy xuống sau những ưu tiên về kinh tế. Hơn nữa, đối với Nhật Bản, ngay từ thời kỳ chiến tranh lạnh, quan niệm về an ninh bao giờ cũng được hiểu là nền an ninh toàn diện (Comprehensive security). Theo đó, an ninh kinh tế được nhấn mạnh so với an ninh quân sự, bởi nền kinh tế Nhật Bản mang tính đặc thù, phụ thuộc chặt chẽ vào các nguồn lực như nguyên liệu - năng lượng, thị trường bên ngoài. Ngoài ra, do những hạn chế được quy định trong Hiến pháp về khả năng quân sự, Nhật Bản khó có cách nào hiệu quả hơn là sử dụng lợi thế kinh tế và ngoại giao kinh tế để duy trì quyền lợi trên trường quốc tế. Với tư cách là một công cụ ngoại giao kinh tế chủ chốt, viện trợ phát triển (ODA) giúp Nhật Bản nâng cao trọng lượng tiếng nói trong các vấn đề quốc tế.
Đông Nam A' đối với Nhật Bản trở thành một địa bàn quan trọng hàng đầu trong chính sách đối ngoại. Bởi vì, đây không chỉ là nơi cung cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên, thị trường với nguồn nhân công rẻ cho nền kinh tế Nhật Bản mà còn là địa điểm hấp dẫn mạnh nguồn đầu tư và buôn bán. Đặc biệt, ĐNA án ngữ tuyến giao thông huyết mạch của Nhật Bản sang Trung Cận Đông, Vùng Vịnh, Địa Trung Hải, Tây Âu và xuống Nam Thái Bình Dương. Theo tính toán của giới nghiên cứu Nhật Bản, hiện nay 94% dầu lửa nhập khẩu của nước này được vận chuyển qua ĐNA. 10% dầu thô và 80% khí đốt thiên nhiên dùng vào sản xuất điện của Nhật Bản được nhập khẩu từ ĐNA. Năm 1995, kim ngạch buôn bán của Nhật Bản với Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippin, Thái Lan đã lên tới 77 tỉ USD ; tổng đầu tư của Nhật vào 5 nước này đạt 33 tỉ USD. Hiện ASEAN chiếm 16% kim ngạch buôn bán quốc tế của Nhật Bản. Với vị trí quan trọng như vậy, hầu như tất cả nội các Nhật Bản sau chiến tranh lạnh đều tích cực điều chỉnh chính sách với ĐNA, nhằm thực thi mục tiêu chiến lược giành vai trò chủ đạo ở CA-TBD, trước hết là ở ĐNA.
Thực ra, ngay từ nửa cuối thập kỷ 70 sau thất bại của Mỹ trong chiến tranh Đông Dương và sự cải thiện quan hệ giữa các siêu cường, Nhật Bản đã xúc tiến những nỗ lực đầu tiên theo hướng nâng cao vai trò ở ĐNA. Nhân chuyến thăm các nước ASEAN vào 8/1997, Thủ tướng Fukuđa đã trình bày chính sách mới của Nhật Bản với ĐNA và được gọi dưới tên "Học thuyết Fukuđa". Trong khi khẳng định Nhật Bản sẽ mãi mãi là quốc gia hoà bình, Fukuđa chủ trương, bằng khả năng kinh tế, Nhật Bản thúc đẩy ổn định, hợp tác khu vực ; xây dựng mối quan hệ hiểu biết, gắn bó tình cảm với ĐNA. Nhấn mạnh việc kiên trì quan hệ hợp tác hữu nghị với ASEAN, Nhật Bản đề xuất xây dựng quan hệ hợp tác với các nước Đông Dương. Trên cơ sở đó, Nhật Bản tỏ rõ mong muốn làm cầu nối hoà giải và thúc đẩy quan hệ giữa hai nhóm nước ASEAN và Đông Dương. Vì lẽ đó, Học thuyết Fukuđa được coi như bước khởi đầu thể hiện vai trò tự chủ của Nhật Bản trong việc tìm kiếm giải pháp chính trị hoà hợp ĐNA. Tuy nhiên, khi cuộc xung đột ở Campuchia nổ ra, việc thực hiện ý tưởng của Học thuyết Fukuđa trở nên khó khăn hơn. Nhưng thay vào đó, Nhật Bản có điều kiện phát huy vai trò chính trị thông qua các nỗ lực tháo gỡ vấn đề Campuchia.
Với sự giúp đỡ của ASEAN, năm 1990 Nhật Bản đứng ra đăng cai Hội nghị của các phái chính trị Campuchia nhằm thúc đẩy tiến trình hoà bình ở nước này. Bằng sự đóng góp tài chính đáng kể, Nhật Bản trở thành một trong những nước bảo trợ chính cho tiến trình hoà bình ở Campuchia. Nhật Bản được cử giữ chức chủ tịch UNTAC theo hiệp định Paris về Campuchia (1991). Sau khi Quốc hội Nhật Bản chính thức thông qua luật về các hoạt động gìn giữ hoà bình (PKO), lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh thế giới thứ II, chính phủ Nhật Bản đã gửi 700 quân của lực lượng phòng vệ tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc tại Campuchia. Đồng thời, cùng với việc ủng hộ đề nghị của Australia về việc thiết lập một cơ chế an ninh, chung cho toàn khu vực CA-TBD, năm 1991, Nhật Bản nêu đề nghị với ASEAN về một diễn đàn trao đổi quan điểm về an ninh khu vực v.v... Những hoạt động kể trên cho thấy Nhật Bản đã có những bước đi khá chắc chắn để nâng cao ảnh hưởng chính trị tại khu vực cho tương xứng với ảnh hưởng kinh tế.
Sự điều chỉnh chính sách ĐNA của Nhật Bản tương đối toàn diện trong Học thuyết Miyazawa được công bố nhân chuyến thăm các nước ASEAN tháng 1/1993. Xét về thực chất, đây là sự tiếp nối chính sách hai trụ cột ở ĐNA (ASEAN và Đông Dương) của học thuyết Fukuđa trong bối cảnh quốc tế mới ở khu vực. Học thuyết Miyazawa bao gồm hai nội dung then chốt : Thứ nhất, trên cơ sở một tầm nhìn lâu dài về an ninh ĐNA, Nhật Bản chủ trương cùng các nước khu vực tập trung hợp tác ổn định tình hình khu vực, thiết lập trật tự trị an và hoà bình ở khu vực. Thứ hai, Nhật Bản kêu gọi hợp tác, phối hợp chặt chẽ với ASEAN để tái thiết Đông Dương, xác lập "Diễn đàn phát triển toàn diện Đông Dương".
Hai nội dung then chốt này, xét cho cùng, đều hướng tới một mục tiêu nhất quán là xác lập ảnh hưởng toàn diện và áp đảo của Nhật Bản ở ĐNA. Trật tự an ninh ở ĐNA mà Nhật Bản chủ trương thiết lập được dựa trên một nền tảng kinh tế phụ thuộc vào kinh tế Nhật Bản. Đồng thời, thông qua tái thiết Đông Dương, Nhật Bản có điều kiện mở rộng thâm nhập kinh tế vào khu vực vốn trước đây có quan hệ mật thiết với Liên Xô và Đông Âu, từ đó giành lợi ích kinh tế và tăng cường ảnh hưởng chính trị. Học thuyết Miyazawa được thực hiện trong khi Nhật Bản đang có xu hướng quay trở lại châu A', dựa vào vòng cung Đông A' để đối phó với xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Trên cơ sở đó, Nhật Bản hy vọng có thể một mặt cạnh tranh hiệu quả với các tập đoàn khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ, kiềm chế các đối thủ mới nổi lên ở Đông A'; mặt khác tranh giành "khoảng trống quyền lực" do Liên Xô tan rã để lại. Bên cạnh việc tích cực tham gia các hoạt động trên lĩnh vực an ninh, chính trị ở Đông Nam A', Nhật Bản nhanh chóng chuyển dịch kinh doanh và đầu tư vào các nước châu A', trước hết là Trung Quốc và ASEAN. Nhật Bản là nước nối lại ODA sớm nhất cho Việt Nam và các nước Đông Dương. Các doanh nghiệp Nhật Bản cũng có mặt nhanh nhất ở Đông Dương ngay từ khi cuộc chiến tranh lạnh đang đi đến hồi kết thúc. Trong số 5 nước nhận ODA cao nhất của Nhật Bản ở châu á từ 1995 đến nay thì 4 nước thuộc ĐNA là Indonesia, Philippin, Thái Lan và Việt Nam. Riêng đối với Việt Nam, quan hệ của Nhật Bản được thúc đẩy khá mạnh mẽ trên nhiều mặt. Ngay từ năm 1992, trong khi lệnh cấm vận của Mỹ với Việt Nam vẫn chưa được bãi bỏ thì Nhật Bản đã nối lại ODA cho Việt Nam với số vốn liên tục tăng. Viện trợ phát triển và cho vay với lãi suất thấp mà Nhật Bản dành cho Việt Nam năm 1992 là 380 triệu USD, năm 1993 - 550 triệu, năm 1994 - 665 triệu, năm 1995 - 805 triệu, năm 1996 - 850 triệu USD. Như vậy, về cung cấp ODA cho ĐNA, từ 1994, Nhật Bản có xu hướng chú trọng vào Việt Nam, thay vì trước đây đã tập trung cho Thái Lan, Indonesia và Philippin.
Việc tăng cường ODA và các quan hệ kinh tế của Nhật Bản với ĐNA đương nhiên sẽ đưa lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên. Đồng thời, qua đó, Nhật Bản nâng cao được ảnh hưởng một cách toàn diện hơn ở khu vực. Bởi vì, theo quan điểm của Nhật Bản, điều đó "không chỉ đơn giản có ý nghĩa hẹp là lợi ích thương mại, mà nó bao hàm ý nghĩa sâu sắc hơn là lợi ích gián tiếp được các nước tiếp nhận đánh giá cao khi nó phù hợp với các nhu cầu cấp thiết của họ"(1) . Hoặc như Thủ tướng Kaifu đã từng phát biểu vào tháng 3/1990 rằng, Nhật Bản muốn "dùng các nguồn kỹ thuật công nghệ, kinh tế và vốn kinh nghiệm của mình làm cơ sở để đóng một vai trò tích cực trong các cố gắng quốc tế nhằm tạo nên một trật tự mới"(2).
Một số điều chỉnh trong chính sách ĐNA của Nhật Bản những năm 90
Bước vào nửa cuối thập kỷ 90, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tiến trình liên kết ĐNA với triển vọng hiện thực của ASEAN gồm 10 nước khu vực, và trước xu hướng mở rộng ảnh hưởng của các nước lớn khác tại đây, Nhật Bản lại điều chỉnh chính sách ĐNA của mình. Học thuyết Hashimoto ra đời nhân chuyến thăm của ông tới 5 nước ASEAN, trong đó có Việt Nam tháng 1/1997. Nội dung cơ bản của học thuyết này có thể khái quát trong 3 điểm chủ yếu sau: Một là, Nhật Bản mong muốn nâng quan hệ Nhật - ASEAN lên tầm cao hơn với việc tổ chức định kỳ các cuộc trao đổi cấp cao Nhật - ASEAN. Trước mắt, Nhật Bản đề nghị tham gia Hội nghị cấp cao không chính thức ASEAN vào tháng 11/1997 ở Malaysia. Hai là, Nhật Bản ủng hộ và đánh giá cao vai trò của ASEAN và việc mở rộng ASEAN bao gồm tất cả 10 nước ĐNA. Ba là, quan hệ Nhật - ASEAN từ nay sẽ chuyển từ quan hệ giữa nước viện trợ và nước nhận viện trợ sang mối quan hệ bè bạn, hợp tác bình đẳng, trao đổi rộng rãi không những về kinh tế mà cả trên các lĩnh vực an ninh, chính trị, văn hoá - xã hội. Sự điều chỉnh chính sách này rõ ràng là một bước tiến dài trong chiến lược đã được xác định của Nhật Bản với khả năng tăng cường vai trò chính trị của họ ở châu A' và đặc biệt ở ĐNA. Việc Thủ tướng Hashimoto kêu gọi tổ chức Hội nghị cấp cao định kỳ Nhật - ASEAN là nhằm để Nhật Bản có thể tác động một cách có hiệu quả đến các vấn đề song phương, khu vực và quốc tế, tìm kiếm cho Nhật Bản vị trí xứng đáng trong các cơ chế an ninh khu vực đang hình thành. Điều này được thể hiện rõ nét khi Hashimoto tuyên bố: "Để đảm bảo hoà bình và ổn định ở CA-TBD trong thế kỷ 21, tôi muốn thấy Nhật Bản có các cuộc đối thoại thẳng thắn về an ninh khu vực với từng nước ASEAN trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau"(1) . Học thuyết Hashimoto không chỉ nhấn mạnh củng cố quan hệ kinh tế mà còn đề cập đến tăng cường quan hệ chiến lược, chính trị với ĐNA, trước hết là ASEAN. Nhật Bản nhìn thấy ở ASEAN một khả năng hiện thực mà nếu dựa vào đó, Nhật Bản có thể đối phó với những thách thức đang gia tăng ngay tại CA-TBD. Trong số những thách thức đó, trước hết phải kể đến vai trò ngày càng tăng của Mỹ trong diễn đàn APEC và thế lực ngày càng mạnh của Trung Quốc ở Đông A' - Thái Bình Dương.
Trong quan hệ kinh tế với các nước ĐNA, Nhật Bản muốn nhấn mạnh đến hợp tác bình đẳng. Sở dĩ vậy là do khu vực ĐNA đã trở thành một trung tâm tăng trưởng kinh tế lớn trên thế giới. Có nước như Singapore đã có trình độ phát triển tương đương với các nước công nghiệp tiên tiến ; Malaysia, Thái Lan và Indonesia đang tiếp cận trình độ các NICs. Trên thực tế, mặc dù ĐNA hiện vẫn nhận được nguồn ODA lớn nhất của Nhật Bản, song bắt đầu từ 1993 đến nay, cơ cấu phân bổ ODA đối với khu vực đã thay đổi. Trong ba dạng ODA cơ bản là viện trợ cho vay, viện trợ không hoàn lại và hợp tác kỹ thuật thì các nước ASEAN chủ yếu nhận được viện trợ cho vay và hợp tác kỹ thuật. Khoản viện trợ không hoàn lại được dành cho các nước ĐNA khác. Từ năm 1996, Singapore và Brunei được đưa ra khỏi danh sách các nước nhận ODA của Nhật Bản ở ĐNA. Việt Nam từ 1994 trở lại đây trở thành nước nhận được ODA lớn nhất của Nhật Bản ở ĐNA. Cùng với ODA, về thương mại, hiện nay Nhật Bản là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch buôn bán gia tăng nhanh từ 910 triệu USD/năm 1991 lên 2 tỉ năm 1994, 2,48 tỉ năm 1995 và 3 tỉ năm 1996. Nhật Bản còn có 168 dự án đầu tư ở Việt Nam tính đến 1996 với tổng số vốn 2,51 tỉ USD xếp thứ 4 trong 54 đối tác có đầu tư ở Việt Nam(2) . Với kết quả của chuyến thăm của Việt Nam tháng 1/1997 của Thủ tướng Hashimoto, quan hệ kinh tế Nhật - Việt đang hứa hẹn những bước phát triển thuận lợi.
Sự điều chỉnh chính sách đầu tiên của Nhật Bản ở ĐNA những năm gần đây chứng tỏ vị trí của khu vực đối với họ ngày càng trở nên quan trọng xét trên mọi lĩnh vực. Đồng thời, điều đó cũng cho thấy những nỗ lực to lớn của Nhật Bản trong quyết tâm phát huy ảnh hưởng hàng đầu ở khu vực. Từ học thuyết Phukuđa đến học thuyết Miyazawa và học thuyết Hashimoto, thực chất là một sợi dây xuyên suốt phản ánh những nỗ lực kể trên. Nhờ vậy, cho đến nay Nhật Bản đã tạo dựng cho mình một chỗ đứng khá ổn định và chắc chắn trong đời sống chính trị khu vực. Bất cứ một cường quốc nào muốn tăng cường vị trí của mình ở ĐNA không thể không tính đến nhân tố Nhật Bản tại đó.
Tài liệu trích dẫn:
(1) (2) Dương Lan Hải : ODA của Nhật Bản với các nước Đông Nam A', Tạp chí "Nghiên cứu Đông Nam A'", số 3(24)-1996, tr. 36-37.
(1) Phát biểu của Thủ tướng Hashimoto nhân chuyến thăm các nước ASEAN, Tài liệu tham khảo TTXVN, 14/1/1997.
(2) Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Nhật Bản không ngừng phát triển. Tạp chí Thương mại, số 3 + 4 - 1997.tr.64.
Tài liệu tham khảo :
1. Chiến lược của Nhật Bản, Viện Thông tin, Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, H. 1993.
2. Sự thay đổi môi trường chiến lược quân sự ở Châu A' - Thái Bình Dương và khu vực Đông Nam A'..., Viện nghiên cứu bảo vệ hoà bình và an ninh Nhật Bản, 7-1994 (Tài liệu dịch).
3. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Tạp chí Nghiên cứu quốc tế (Trung Quốc).
4. Dương Lan Hải : ODA của Nhật Bản với các nước Đông Nam A', Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam A', số 3(24) - 1996.
5. Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Nhật Bản không ngừng phát triển, Tạp chí Thương mại, số 3 + 4 - 1997.
6. Chuyến công du của Thủ tướng Nhật Bản và học thuyết Hashimoto, báo "Đầu tư" số 17 ngày 20/1/1997.
Tác giả: Nguyễn Hoàng Giáp.