- Khái niệm:
PPST là hệ thống những nguyên tắc tư tưởng nghệ thuật thống nhất trong nhận thức và hành động sáng tạo của hàng loạt nghệ sĩ. Nó bắt nguồn từ một thế giới quan nhất định, tồn tại và phát triển trong những điều kiện xã hội- lịch sử cụ thể, làm cơ sở có tính quy luật cho sự khai thác nghệ thuật đối với hiện thực bằng một kiểu cấu trúc các hình tượng và nhân vật. PPST là cái có tính tất yếu nên tồn tại vừa có tính tự phát lại vừa có tính tự giác trong mỗi tác phẩm nghệ thuật cụ thể.
Phong cách nghệ thuật cá nhân: Trong cuốn “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của nghệ thuật”, Khrapchenko dẫn ra định nghĩa về phong cách như sau: Phong cách cần phải định nghĩa như một thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đời sống, như thủ pháp thuyết phục và thủ pháp thu hút độc giả.
- So sánh sự khác nhau:
- MLH:
PPST chi phối đến sự phát triển của phong cách nghệ thuật cá nhân. Sự thay đổi của PPST đã tạo cho nhà văn PCNT riêng.
PPST và PCNTCN có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. PPST với tư cách là cơ sở tư tưởng nghệ thuật của cả một phong trào sáng tác thì nó có thể làm nghèo nàn về PCNTCN hoặc ngược lại làm cho PCNTCN đua nở.
- Ví dụ:
PPST CNCĐ: các sáng tác phải tuân theo luật Tam duy nhất, tôn sùng lí trí, dẫn đến xuất hiện hàng loạt những tác phẩm na ná giống nhau. Nhân vật chịu sự chi phối của quan niệm đạo đức phong kiến. điều này làm hạn chế sự sáng tạo của người nghệ sĩ, không hình thành được những PCNTCN
Sang đến PPST CNLM: phá bỏ luật Tam duy nhất, các nghệ sĩ đi vào khám phá chiều sâu tâm lí con người ở nhiều chiều nhiều vẻ và mang tính cá thể hóa. Điều này không có trong những PPST trước đó. Vì vậy, PPST CNLM đã hình thành, phát triển và nở rộ nhiểu PCNTCN, làm phong phú hơn các thể văn.
PPST là hệ thống những nguyên tắc tư tưởng nghệ thuật thống nhất trong nhận thức và hành động sáng tạo của hàng loạt nghệ sĩ. Nó bắt nguồn từ một thế giới quan nhất định, tồn tại và phát triển trong những điều kiện xã hội- lịch sử cụ thể, làm cơ sở có tính quy luật cho sự khai thác nghệ thuật đối với hiện thực bằng một kiểu cấu trúc các hình tượng và nhân vật. PPST là cái có tính tất yếu nên tồn tại vừa có tính tự phát lại vừa có tính tự giác trong mỗi tác phẩm nghệ thuật cụ thể.
Phong cách nghệ thuật cá nhân: Trong cuốn “Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của nghệ thuật”, Khrapchenko dẫn ra định nghĩa về phong cách như sau: Phong cách cần phải định nghĩa như một thủ pháp biểu hiện cách khai thác hình tượng đời sống, như thủ pháp thuyết phục và thủ pháp thu hút độc giả.
- So sánh sự khác nhau:
PPST | PCNT cá nhân |
Là cái chủ yếu thuộc về nội dung | Chủ yếu thuộc về hình thức |
Là cơ sở tư tưởng nghệ thuật của cả một phong trào sáng tác. Nó là cái chung của thời đại sáng tác | Là tài năng sáng tạo, là thành tích nghệ thuật cá nhân |
Là cái vốn có trong mỗi sáng tác | Là cái mà người nghệ sĩ phải phấn đấu mới có được, tức người nghệ sĩ phải có tài năng |
Gắn bó nhiều hơn với tính khách quan của lịch sử - xã hội | Gắn bó nhiều hơn với tính sáng tạo, chủ quan của người nghệ sĩ |
PPST chi phối đến sự phát triển của phong cách nghệ thuật cá nhân. Sự thay đổi của PPST đã tạo cho nhà văn PCNT riêng.
PPST và PCNTCN có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. PPST với tư cách là cơ sở tư tưởng nghệ thuật của cả một phong trào sáng tác thì nó có thể làm nghèo nàn về PCNTCN hoặc ngược lại làm cho PCNTCN đua nở.
- Ví dụ:
PPST CNCĐ: các sáng tác phải tuân theo luật Tam duy nhất, tôn sùng lí trí, dẫn đến xuất hiện hàng loạt những tác phẩm na ná giống nhau. Nhân vật chịu sự chi phối của quan niệm đạo đức phong kiến. điều này làm hạn chế sự sáng tạo của người nghệ sĩ, không hình thành được những PCNTCN
Sang đến PPST CNLM: phá bỏ luật Tam duy nhất, các nghệ sĩ đi vào khám phá chiều sâu tâm lí con người ở nhiều chiều nhiều vẻ và mang tính cá thể hóa. Điều này không có trong những PPST trước đó. Vì vậy, PPST CNLM đã hình thành, phát triển và nở rộ nhiểu PCNTCN, làm phong phú hơn các thể văn.