Lối sống hòa hợp và khuôn phép của Khổng giáo

Chị Lan

New member
KHỔNG GIÁO - LỐI SỐNG HÒA HỢP VÀ KHUÔN PHÉP

Huyền thoại kể rằng khi Lão Tử đã rất già thì có một thanh niên học rộng ở tỉnh lân cận đến thăm. Người thanh niên trẻ này, đã bỏ hầu hết ngày tháng của mình vào việc nghiên cứu, đến để hỏi một số câu hỏi. Giống như Lão Tử, người thanh niên này quan tâm đến phẩm chất đời sống tại Trung Hoa. Anh ta cũng tin rằng lùi lại "những ngày xưa cũ tốt đẹp" của thời đại vàng son mà người ta đã có đời sống tốt đẹp hơn và xứ sở này nói chung sung túc hơn.

Người thanh niên trẻ tuổi này là Khổng Tử, và Ngài đã tiến tới niềm tin này qua con đường nghiên cứu và tìm tòi những tài liệu cổ của Trung Hoa. Khi Ngài thu thập và giải thích những tác phẩm kinh điển, Ngài đã tìm ra điều được coi là manh mối của đời sống hạnh phúc hơn ở những ngày ban sơ. Để thực sự hiểu triết lý Khổng Tử, chúng ta vẫn phải quay về với những bình luận của Ngài về những tác phẩm kinh điển này. Những sách văn tuyển, các câu chuyện về Khổng Tử và những lời bình luận của Ngài về tình trạng đời sống cũng nói về những đề xuất vì lợi ích cho người đồng hương của Ngài.

Cả Lão Tử lẫn Khổng Tử đều quan tâm đến những yếu điểm xã hội và luân lý của thế hệ các Ngài. Lão Tử vấp phải sự thách thức của lối sống có quan điểm căn bản là những thể chế và phong tục vào thời Ngài không thiên nhiên, do đó cần phải tránh... Khổng Tử, một người bảo thủ thực sự, dạy rằng điều tốt nhất trong quá khứ phải được gìn giữ và cải tiến cho thích đáng. Trong quá khứ có chìa khóa cho hiện tại và tương lai. Ngài không tìm cách thiết lập một tôn giáo mới hay một hệ thống đạo đức mới.

Khổng Tử cũng đối đầu với câu hỏi căn bản mà Lão Tử quan tâm. "Đời sống là gì? Làm sao tôi có thể sống hòa hợp tốt nhất trong thế giới này? Làm sao tôi có thể sống một cuộc đời hạnh phúc? Tôi là gì?" Một phần câu trả lời Khổng Tử quay về với thiên nhiên và Đạo cũng như Lão Tử đã làm. Ngài quan sát thấy tất cả các bộ phận của thiên nhiên hoạt động hòa hợp với nhau. Ngài khẳng định con người có thể học từ thiên nhiên. Bằng cách theo con đường của thiên nhiên và sự hòa hợp, con người có thể làm điều tốt nhất mà con người có thể làm được trong thế giới này.

Hòa hợp là lý tưởng của Khổng Tử, cũng là lý tưởng của Lão Tử. Khác biệt giữa hai người ở chỗ nào? Trước hết là cá tính của hai người khác hẳn nhau. Trong những vấn đề mà hai vị phải đối đầu, tính khác nhau về quan điểm quyết định sự khác biệt trong cách giải quyết mà họ đưa ra. Trong khi Lão Tử có khuynh hướng là "cá nhân chủ nghĩa", thì Khổng Tử tin rằng toàn bộ trách nhiệm của con người là xã hội. Con người không phải là người sống tách khỏi đồng loại. Cho nên hòa hợp đối với con người có nghĩa hòa hợp với những người khác. Lão Tử tin tưởng rằng trách nhiệm của con người là phải hiểu mình và phải trực tiếp hướng mình vào hòa hợp với Đạo. Nhưng Đức Khổng Tử tin rằng trách nhiệm của con người là cùng cộng tác với nhau và thi hành nhiệm vụ mà xã hội kỳ vọng ở nơi họ. Dĩ nhiên sự cộng tác như thế bám chắc vào Đạo, nhưng trình độ kinh nghiệm của con người lại là phương tiện qua đó con người bầy tỏ họ thống thuộc về vũ trụ. Khi người ta phát triển được khả năng hòa hợp với những người đồng loại, thì họ có thể hiểu được sự hòa hợp của vạn vật.


CẦN PHẢI CÓ LUẬT LỆ CHO CUỘC SỐNG


Khổng Tử thấy không phải tất cả mọi người đềụ cư xử một cách cộng tác và giúp đỡ lẫn nhau. Điều này, đối với tâm trí thực tiễn của Khổng Tử, có nghĩa đơn giản là họ cần một số tiêu chuẩn nhất định. Trong những tác phẩm của Ngài, Khổng Tử nhấn mạnh đến những tiêu chuẩn như vậy, Ngài nhắc lại, và giải thích những luật lệ truyền thống cổ của xã hội Trung Hoa. Ngài thấy không cần thêm những luật lệ mới. Nhiệm vụ của Ngài như Ngài đã dự tính là soạn thảo và truyền đạt cho hậu thế những tập tục và cách cư xử trước đây của xã hội Trung Hoa. Ngài không viết điều gì mới, vì Ngài tin tưởng và trân quý tổ tiên.

Tại sao những luật lệ đó lại cần thiết? Lúc đầu tất cả mọi luật lệ đều nảy sinh do nhu cầu của con người. Đây là chiều hướng mà tất cả những luật pháp có ích ra đời. Có những vấn đề khi cùng chung sống, và những luật lệ được soạn ra để giải quyết vấn đề. Ở đâu, có nhiều người chung sống với nhau thì ở đó có nhiều vấn đề hơn những nơi ít người. Chính quyền của một thành phố lớn phức tạp hơn chính quyền của một ngôi làng nhỏ nhiều. Trung Hoa đã có rất nhiều người. Nhờ có Khổng Tử Trung Hoa đã thu thập nhiều luật lệ. Tất cả những luật lệ này nhằm làm cuộc sống suông sẻ hơn. Những luật lệ này không bị ép buộc như luật lệ giao thông. Những luật lệ này giống phép xã giao hơn.

Luật lệ có nhiều ý nghĩa hơn khi nó rõ ràng rành mạch. Người thích sống trong một xã hội có trật tự cảm thấy thoải mái hơn khi luật lệ xã hội có nội quy rõ ràng và khi chúng định rõ thời gian và nơi chốn. Cứ thế, qua nhiều năm, những người theo Khổng Giáo coi trọng nhiều bản liệt kê luật lệ đặc biệt bao hàm mọi thứ từ chào hỏi và trò chuyện với bạn bè tới lễ lạy tổ tiên. Y phục và đàm luận được qui định. Cả đến tư thế và bước đi cũng được liệt kê, cho nên không ai cố gắng thành thật mà lại có thể không làm được điều phải. Đi theo những luật lệ này chứng tỏ ham thích thực sự cộng tác với người đồng hương của mình.

CÁCH SỐNG HÒA HỢP VỚI NGƯỜI KHÁC: QUÂN TỬ

Để cho người dân biết họ phải sống ra sao, Khổng Tử đưa ra mô hình "Người Quân Tử" hay một người cao quý hoặc sang trọng. Khổng Tử gọi người đó là "sang trọng" hay quân tử vì Ngài có niềm tin là coi những nhà cầm quyền là bậc thầy. Tuy nhiên, bất cứ ai vào bất cứ lúc nào cũng có thể sống như một người Quân Tử.

Người Quân Tử phát triển trong nhân cách của mình. Năm Đức Hạnh Kiên Định (Ngũ Thường) mà người ấy rèn tập cho đến khi chúng tự nhiên như hơi thở. Làm điều phải là một phần không thể tách rời của người quân tử. Khi Khổng Tử nói về chính Ngài rằng chẳng phải cho đến khi Ngài bẩy mươi tuổi Ngài mới đi theo tiếng gọi con tim mà vẫn không vượt qua ranh giới của lẽ phải, có lẽ Ngài quá khiêm tốn hay rất nhún nhường. Tuy nhiên, người theo đạo Khổng chân chính dành thì giờ cần thiết tạo nếp sống theo lẽ phải thành thói quen đến mức không ngưng nghỉ nghĩ đến việc làm điều phải.

(1) Thái đô chính đáng (Nhân). Đức hạnh thứ nhất trong Năm Đức Hạnh Kiên Định là thái độ người Quân Tử mong muốn hòa thuận với người khác. Người Quân Tử biết không thể làm tròn vai trò của mình trong đời sống trừ phi cộng tác và sẵn lòng giúp đỡ. Thái độ chính đáng biểu lộ qua hạnh kiểm. Con người có mầm mống thái độ như vậy ngay trong bản thân mình, nhưng nó phải được giúp phát triển. Đôi khi thái độ đức hạnh này được coi là phép tự chủ bên trong.

(2) Thủ Tục Chính Đáng (Lễ). Đức Hạnh Kiên Định thứ hai là thủ tục thích đáng. Người có một tâm hồn cao thượng đã tiến hành nghiên cứu về nguyên tắc hạnh kiểm. Người ấy biết cách áp dụng chúng vào từng sự việc xẩy đến. Người ấy biết tất cả phép tắc xã giao, những phép tắc này đưa ra cái mà mỗi hoàn cảnh xã hội qui định cho một người có lòng nhân ái đầy đủ. Người ấy biết tất cả những nghi lễ và nghi thức tập trung vào việc tôn thờ tổ tiên. Người ấy biết cách ngồi, cách đứng, cách nói chuyện, cách đi và cách biểu lộ diện mạo sắc thái của mình trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, những nghi thức và thủ tục này không giá trị nếu không có một thái độ thích đáng. "Người không có lòng nhân ái trong tâm, thì làm gì với những nghi lễ?"

(3) Kiến Thức Chính Đáng (Trí). Đức Hạnh Kiên Định thứ ba là kiến thức. Người Quân Tử là một người hiểu biết, vì con người phải được giáo dục nhằm ứng phó một cách đứng đắn. Mục tiêu của người theo Khổng Giáo là phát triển dần dần những phép tắc đã thuộc lòng thành thói quen. Những đề tài dạy người ta sửa chữa thói quen tinh thần là lịch sử, văn chương, và bổn phận công dân, đó là những cái hình thành những tác phẩm kinh điển Trung Hoa. Người Quân Tử đặt kế hoach giáo dục của mình gồm tất cả những thiết yếu như vậy. Qua nhiều thế kỷ, những tác phẩm kinh điển Trung Hoa là nền tảng giáo dục tại Trung Hoa. Thời đại tiên tiến đã thay vào những đề tài khác, nhưng người theo Khổng giáo vẫn dành cho các tác phẩm Cổ Điển một sự kính trọng.

Khi Khổng Tử nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục, Ngài không đề xuất khái niệm mới. Ngài chỉ nhắc lại và nhấn mạnh vào điều tổ tiên đã nói. Trật tự xã hội tùy thuộc vào luân lý căn bản -- luân lý trong lời nói và hành động đứng đắn. Cũng giống như người xưa, Khổng Tử tin tưởng luân lý phải được áp dụng vào mọi bình diện cuộc sống, đồng thời nó cũng rất có ý nghĩa trên bình diện chính quyền. Vì người cầm quyền là thầy của tất cả. Những vị thầy này dạy luân lý một cách rất hiệu quả khi họ làm tấm gương tốt về luân lý và khi họ cai trị một cách nhân từ. Chỉ qua một quá trình như vậy thì cuối cùng thời đại vàng son mới sẽ đến, khi tất cả mọi người đối với nhau trong sự ân cần tử tế và coi trọng nhau.

(4) Dũng Khí Đúng Theo Luân Lý (Nghĩa). Theo Đức Hạnh Kiên Định thứ tư, người Quân Tử nên phát triển dũng khí luân lý cần thiết để trung thành với chính mình và đem lòng nhân ái tới xóm giềng. Mọi việc người Quân Tử làm bằng chí khí đó đóng góp đáng giá cho xã hội. Qua từng hành vi của người Quân Tử, mà quan hệ con người được cải tiến.

(5) Kiên Trì Chính Đáng (Tín). Đức hạnh cuối cùng của Năm Đức Hạnh Kiên Định là tầm quan trọng về tư cách của họ -- sự kiên định. Người Quân Tử đã hoàn thành bốn đức hạnh, và sẽ kiên quyết hoàn thành. Người Quân Tử bao giờ cũng tử tế và hữu ích. Người Quân Tử lúc nào cũng biết bổn phận của mình và bao giờ cũng biết cách làm bổn phận ấy. Vì người Quân Tử đã phát triển hạt giống đức hạnh trong bản tính của mình, cho nên sống hòa hợp với mọi thứ trong vũ trụ. Vì người Quân Tử có sự hòa hợp trong chính mình, cho nên là một phần của sự hòa hợp vũ trụ. Đó là lý do tại sao người Quân Tử bao giờ cũng làm điều phải đúng lúc.

LÒNG NHÂN ĐẠO HOÀN HẢO

Người theo Khổng Giáo thường nói về "lòng nhân đạo hoàn hảo". Con người có thể đạt được lòng nhân này vì người theo Khổng giáo tin là có cái gì đó trong mỗi người, ngay từ khi mới lọt lòng. Đó là một tính thiện bẩm sinh hay tính khả ái có thể được phát triển do những cảm nghĩ giúp đỡ người khác. Chính Mạnh Tử, một người theo Khổng Giáo nổi tiếng sau này, là người nhấn mạnh tính thiện bẩm sinh của con người. Khi Mạnh Tử và Khổng Tử nói về tính thiện của con người rút cục có nghĩa là con người thích hợp để sống với người khác. Đúng là có một quá trình sửa soạn lúc đầu, như chúng ta đã nhìn thấy. Cách cư xử, thói quen, kiểu suy nghĩ và những phán xét phải được cải thiện.

Khi một người tự giáo dục lấy mình để thành người Quân Tử, người ấy tử tế, hữu ích và có đạo đức. Hạt giống tính tốt trong chính con người ấy tạo thành các đức tính ấy. Cho nên có thể có nhiều hành động thiện mà người Trung Hoa thật hết hy vọng từng liệt kê tất cả chúng từng hành động một. Khuôn vàng thước ngọc của họ được nói lên bằng ngôn ngữ tiêu cực. Tuy nhiên, nó tràn đầy mối quan tâm vì người khác. "Đừng làm cho người khác điều gì mà bạn không muốn người ta làm điều ấy cho bạn"

QUAN HỆ CHÍNH ĐÁNG


Một phần cố gắng làm cho cách sống chính đáng dễ dàng cho mọi người, người theo Khổng Giáo nhấn mạnh năm quan hệ cá nhân quan trọng đòi hỏi phải khả ái và lịch thiệp. Những điều này đã từng được dạy cho từng học sinh, nhưng hệ thống giáo dục này đã bị gián đoạn vào đầu thế kỷ này. Tuy vậy nhiều người theo Khổng Giáo vẫn nghĩ rằng nếu ai nấy đều sử dụng năm Đức Hạnh Kiên Định trong năm mối quan hệ, thời đại vàng son thực sự sẽ bắt đầu. Nếu có hạnh phúc hay hòa hợp, mười người liên hệ trong những giao tiếp này phải sử dụng thái độ có đạo đức và đức hạnh đối với nhau:

(a) Chồng và vợ (Phu thê)
(b) Cha và con (Phụ tử)
(c) Anh và em (Huynh đệ)
(d) Vua và tôi (Quân thần)
(c) Bạn và bạn (Bằng hữu)


Xin lưu ý rằng cả hai phía điều mong mỏi là mối quan hệ. Mỗi phía đều chịu trách nhiệm về hành động, nói năng và suy nghĩ trên phương diện khả ái và hữu ích.

Một số người có thể nói rằng điều này chưa đủ. Những người khác trên xứ sở của họ và những vùng đất khác thì sao? Người theo Khổng Giáo giữ lý tưởng khoan dung và khả ái đối với tất cả láng giềng của mình và tất cả người khác trên trái đất. Nhưng cá nhân họ không giao tiếp với tất cả người khác. Phạm vi quen biết của người ấy có giới hạn. Chính vì lý do này mà năm quan hệ cá nhân được liệt kê. Một người hành động bằng lòng tốt và quan tâm đến một số ít người mà người ấy tiếp xúc thường xuyên thì tốt hơn nhiều là chỉ nói miệng về "thương yêu" tất cả con người. Người ấy không bao giờ biết tất cả mọi người. Một đời sống thiện là ở chỗ hành động thích hợp với những người mà ta gặp hàng ngày theo những kinh nghiệm hàng ngày.


Nguồn : Đạo học và cuộc sống​
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top