Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
NƯỚC MỸ THỜI LẬP QUỐC
NHỮNG NGƯỜI MỸ ĐẦU TIÊN
Lúc đỉnh cao của thời kỳ băng hà vào khoảng giữa năm 34000 và năm 30000 trước công nguyên, phần lớn lượng nước trên thế giới được bao bọc trong những lớp băng lục địa rộng lớn. Vì vậy, biển Bering nông hơn mực nước biển ngày nay hàng trăm mét, đồng thời khi đó có một dải đất mang tên Beringia đã nổi lên giữa châu Á và Bắc Mỹ. Người ta cho rằng, tại đỉnh của nó, Beringia rộng tới 1.500 km. Là vùng đất trơ trụi và ẩm ướt, Beringia được bao phủ bởi thảm cỏ và các loài thực vật, thu hút các loài thú lớn - những con mồi mà con người thời tiền sử đã săn bắt để đảm bảo sự sinh tồn của chính họ.
Những con người đầu tiên đến Bắc Mỹ chắc chắn đã tới đây mà không hề biết rằng họ đã vượt qua biển cả để đến một lục địa mới. Chắc chắn họ đã săn đuổi các loài thú như tổ tiên họ đã làm suốt hàng nghìn năm dọc bờ biển Siberia và sau đó băng qua vùng đất nổi ấy.
Khi đã tới Alaska, những cư dân Bắc Mỹ đầu tiên đó có thể đã phải mất thêm hàng nghìn năm nữa mới xuyên qua những khoảng trống trong những tảng băng hà khổng lồ ở phía nam để đến vùng đất ngày nay là Hoa Kỳ. Người ta vẫn tiếp tục tìm thấy những bằng chứng về cuộc sống thời tiền sử ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng có thể được xác định một cách đáng tin cậy là đã có từ trước năm 12000 trước công nguyên, chẳng hạn, việc một chòi canh săn bắn ở miền Bắc Alaska được phát hiện gần đây có thể đã có từ thời gian đó. Những mũi lao được gia công rất khéo cùng những cổ vật khác tìm thấy gần Clovis, bang New Mexico, cũng được xác định có niên đại như vậy.
Các di vật tương tự cũng đã được tìm thấy tại nhiều nơi khắp Bắc và Nam Mỹ. Điều đó chứng tỏ cuộc sống có thể đã rất phát triển ở phần lớn diện tích thuộc Tây bán cầu trước năm 10000 trước công nguyên. Cũng trong thời gian đó, voi ma-mút đã bắt đầu bị tuyệt diệt và bò rừng đã thay thế voi ma -mút làm nguồn cung cấp thực phẩm và da cho những cư dân Bắc Mỹ thời xa xưa ấy. Theo thời gian, do ngày càng nhiều loài thú lớn bị diệt vong vì bị săn bắn quá mức hoặc do thiên tai, nên các loài cây, quả mọng và các loại hạt ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong thực phẩm của người Mỹ thời tiền sử. Dần dần, việc tìm kiếm thức ăn và những nỗ lực canh tác nông nghiệp nguyên thủy đã xuất hiện. Những người da đỏ ở khu vực nay là miền Trung Mexico đã tiên phong trong việc trồng ngô, bí và đậu có thể ngay từ đầu năm 8000 trước công nguyên. Dần dần, tri thức của họ đã được phổ biến lên phía Bắc.
Cho đến năm 3000 trước công nguyên, loại ngô nguyên thủy đã được trồng ở các lưu vực sông ở tiểu bang New Mexico và Arizona. Sau đó, những dấu hiệu đầu tiên của công tác thủy lợi đã xuất hiện và tới năm 300 trước công nguyên, những dấu hiện đầu tiên về cuộc sống theo công xã nguyên thủy đã bắt đầu.
Trong những thế kỷ đầu sau công nguyên, người Hohokum sống ở các khu vực quần cư ở những khu vực giáp Phoenix, bang Arizona ngày nay. Họ đã xây dựng những ngôi nhà hình cầu và kim tự tháp như những cái gò khiến chúng ta liên tưởng tới những công trình được phát hiện ở Mexico, và họ cũng xây dựng một hệ thống kênh và thủy lợi nữa.
NHỮNG NGƯỜI THỢ XÂY DỰNG ĐỒI GÒ VÀ NHỮNG NGÔI LÀNG CỦA NGƯỜI BẢN ĐỊA
Nhóm người da đỏ đầu tiên xây dựng những khu đồi gò ở khu vực nay là của Hoa Kỳ thường được gọi là người Adenans. Họ bắt đầu xây cất những khu nghĩa địa và thành lũy vào khoảng năm 600 truớc công nguyên. Một số gò đồi trong thời kỳ đó còn có hình những con chim hay những con rắn lớn. Có thể những khu vực đó đã được dùng cho những mục đích tôn giáo nhưng cho đến nay người ta vẫn chưa hiểu biết trọn vẹn.
Người Adenans dường như đã bị đồng hóa hoặc bị những nhóm người khác - thường được gọi chung là Hopewellian - đánh đuổi khỏi khu vực này. Một trong những trung tâm quan trọng nhất trong nền văn hóa của họ đã được phát hiện ở miền Nam bang Ohio với những dấu tích của hàng ngàn đồi gò như thế vẫn còn sót lại. Người ta tin rằng người Hopewellian là những lái buôn cừ khôi bởi lẽ họ đã sử dụng và trao đổi các công cụ và nguyên liệu ở một khu vực rộng hàng trăm cây số.
Cho đến khoảng năm 500 sau công nguyên, người Hopewellian cũng biến mất và dần dần nhường vị trí cho một nhóm đông đảo các bộ lạc mang tên Mississippi hoặc văn hóa Đền. Người ta cho rằng đô thị Cahokia giáp Collinsville, bang Illinois vào thời kỳ hưng thịnh nhất đầu thế kỷ XII đã có số dân chừng hai vạn người. Tại trung tâm thành phố có một gò đất lớn với mặt phẳng ở trên đỉnh, cao 30 mét và đáy rộng 37 hécta. Xung quanh đó cũng có tới 80 cái gò đồi khác.
Nguồn thực phẩm và các nhu yếu phẩm khác ở những đô thị như Cahokia phụ thuộc vào việc kết hợp săn bắt, cướp phá, buôn bán và làm nông nghiệp. Trước ảnh hưởng của những xã hội phồn thịnh ở phía nam, các đô thị này phát triển thành những xã hội có tôn ti trật tự phức tạp, có chiếm hữu nô lệ và tế thần bằng con người.
ở vùng đất thuộc tây nam Hoa Kỳ, người Anasazi - tổ tiên của người da đỏ Hopi hiện đại - đã bắt đầu xây dựng những ngôi làng bằng đá và gạch thô vào khoảng năm 900. Những kiến trúc giống như khu chung cư độc đáo này thường được xây dọc theo các vách đá. Nổi tiếng nhất là lâu đài vách đá ở Mesa Verde, Colorado, có hơn 200 phòng. Một nơi khác - những tàn tích của làng Bonito dọc sông Chaco ở bang New Mexico - đã từng có hơn 800 phòng.
Có lẽ những dân tộc phồn thịnh nhất trong số những người da đỏ châu Mỹ thời kỳ tiền Columbus đã sống ở miền Tây bắc Thái Bình Dương trù phú, có nhiều cá và nguyên liệu thô để làm nguồn thực phẩm rất dồi dào và xây dựng những ngôi làng khoảng năm 1000 trước công nguyên. Sự xa hoa trong những buổi lễ phân phát của cải vẫn là một chuẩn mực đánh giá sự hoang phí và cảnh hội hè đình đám dường như không gì có thể sánh nổi trong lịch sử nước Mỹ thời lập quốc.
NHỮNG NỀN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI DA ĐỎ
Như vậy, nước Mỹ khi chào đón những người châu Âu đầu tiên đã hoàn toàn không phải là vùng đất hoang. Ngày nay, người ta cho rằng vào thời đó, dân số của Tây bán cầu đã ngang bằng ở Tây Âu - khoảng 40 triệu người. Những ước tính về số người da đỏ sinh sống ở vùng đất nay là Hoa Kỳ khi mới là thuộc địa của người châu Âu dao động từ 2 tới 18 triệu. Tuy nhiên, phần lớn các nhà sử học chọn con số thấp hơn. Một điều chắc chắn là ngay từ buổi đầu tiếp xúc, những căn bệnh được mang tới từ châu Âu đã gây ra những hậu quả tàn khốc cho cư dân bản xứ. Đặc biệt, bệnh đậu mùa đã tàn phá toàn bộ nhiều cộng đồng và được coi là nguyên nhân trực tiếp làm sụt giảm nhiều người da đỏ vào những năm 1600 hơn là các cuộc chiến và giao tranh với dân di cư từ châu Âu.
Phong tục và văn hóa của người da đỏ thời gian đó đa dạng một cách lạ thường do họ sinh sống trên vùng lãnh thổ rộng lớn và thích nghi với nhiều môi trường khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể đúc kết một số khái quát chung về họ. Hầu hết các bộ lạc, đặc biệt ở miền Đông có rừng bao phủ và ở miền Trung Tây, đã khéo léo kết hợp săn bắt, hái lượm, trồng ngô và những sản phẩm khác để có đủ lương thực. Thông thường phụ nữ đảm đương việc trồng cấy và phân phối thức ăn, còn đàn ông thì đi săn bắn và tham gia chiến đấu.
Xét từ mọi góc độ, xã hội của người da đỏ ở Bắc Mỹ gắn bó chặt chẽ với đất đai. Việc tìm hiểu thiên nhiên và các hiện tượng tự nhiên đã góp phần tạo nên những tín ngưỡng của họ. Cuộc sống của họ về cơ bản được tổ chức theo hình thức lãnh địa và công xã, trong đó trẻ em được hưởng nhiều quyền tự do và khoan dung hơn so với phong tục châu Âu khi đó.
Tuy một số bộ lạc Bắc Mỹ có phát minh ra một kiểu chữ tượng hình để giữ gìn tri thức, song nền văn hóa của người da đỏ vẫn mang đậm nét truyền khẩu, đề cao việc thuật lại các câu chuyện và những giấc mơ. Đồng thời, giữa các bộ tộc khác nhau đã có nhiều mối quan hệ buôn bán. Có rất nhiều bằng chứng đầy thuyết phục cho thấy những bộ lạc sống gần nhau đã duy trì những mối quan hệ thật rộng rãi và nghiêm túc - có cả hữu hảo lẫn thù nghịch.
NHỮNG NGƯỜI CHÂU ÂU ĐẦU TIÊN
Những người châu Âu đầu tiên đến Bắc Mỹ - ít nhất là với những người đầu tiên mà chúng ta có bằng chứng đáng tin cậy - là người Na Uy. Họ đã khởi hành từ Greenland để đi về hướng tây - nơi thủ lĩnh Erik the Red đã lập một khu định cư vào khoảng năm 985. Người ta cho rằng Leif, con trai của ông, vào năm 1001 đã thám hiểm vùng duyên hải ông Bắc - Canada ngày nay - và đã sống ở đó ít nhất một mùa đông.
Mặc dù những trường ca của người Na Uy mô tả các thủy thủ người Viking đã phiêu lưu thám hiểm duyên hải Đại Tây Dương của Bắc Mỹ đến tới tận vùng Bahamas, song những nội dung như vậy vẫn chưa được chứng minh. Tuy nhiên, vào năm 1963, những dấu tích của một số ngôi nhà của người Na Uy có niên đại từ thời đồ đá được phát hiện ở L'Anse-aux-Meadows tại miền Bắc Newfoundland, do đó đã minh chứng cho ít nhất một số nội dung trong trường ca của người Na Uy.
Năm 1497, đúng 5 năm sau khi Christopher Columbus đặt chân lên vùng đất Caribê để đi tìm đường từ phía Tây sang châu Á, một thủy thủ người Venetia (vùng đông bắc Italia) tên là John Cabot đã tới Newfoundland theo sứ mệnh của vua Anh. Mặc dù nhanh chóng bị chìm vào quên lãng, song chuyến hành trình của Cabot về sau này đã trở thành căn cứ để người Anh đề ra yêu sách với Bắc Mỹ. Chuyến đi đó cũng mở đường tới những khu vực giàu hải sản ở ngoài khơi khu vực Georges Bank. Không lâu sau đó, ngư dân châu Âu, đặc biệt là người Bồ Đào Nha, đã thường xuyên lui tới khu vực này.
Mặc dù Columbus chưa bao giờ nhìn thấy đất liền của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tương lai, song những cuộc thám hiểm đầu tiên với sự giúp đỡ của ông đã được tổ chức nhờ đóng góp vật chất của người Tây Ban Nha. Cuộc thám hiểm đầu tiên trong số đó được tiến hành năm 1513 khi một nhóm thủy thủ dưới sự chỉ huy của Juan Ponce de Leon đã đặt chân lên bờ biển Florida gần thành phố St.Augustine ngày nay.
Nhờ chinh phục được Mexico vào năm 1522, người Tây Ban Nha đã củng cố vững chắc vị trí của mình ở Tây bán cầu. Những phát hiện tiếp theo đã bổ sung thêm cho tri thức của người châu Âu về miền đất mà bây giờ được gọi là nước Mỹ (America) theo tên của nhà hàng hải người Italia - Amerigo Vespucci. Amerigo đã có những bài mô tả nổi tiếng về các cuộc hành trình của ông tới Tân Thế giới. Đến năm 1529, người ta đã vẽ được những tấm bản đồ đáng tin cậy của vùng bờ biển Đại Tây Dương từ Labrador đến Tierra del Fuego. Tuy nhiên, trải qua hơn một thế kỷ nữa thì niềm hy vọng phát hiện ra con đường phía tây sang châu Á mới hoàn toàn bị gác bỏ.
Một trong những cuộc thám hiểm đầu tiên quan trọng nhất của người Tây Ban Nha là của Hernando De Doto. Ông đã từng tháp tùng Francisco Pizzaro trong cuộc chinh phục Peru. Sau khi rời Havana vào năm 1539, đoàn thám hiểm của De Soto đặt chân tới Florida và đi sâu vào miền Đông nam nước Mỹ tới tận sông Mississippi để tìm kiếm của cải.
Một người Tây Ban Nha khác, Francisco Coronado, đã khởi hành từ Mexico vào năm 1540 để đi tìm bảy đô thị huyền bí của xứ Cibola. Những cuộc thám hiểm đã đưa Coronado tới vùng Grand Canyon và Kansas, nhưng ông đã không tìm thấy vàng hay kho báu mà người Tây Ban Nha đã ra sức tìm kiếm.
Trong khi người Tây Ban Nha ra sức thám hiểm miền Nam thì miền Bắc nước Mỹ cũng đã dần được phát hiện thông qua những chuyến đi của các nhà thám hiểm như Giovanni da Verrazano. Là người xứ Florence lái thuyền thuê cho người Pháp, Verrazano đã đặt chân tới Nam Carolina vào năm 1524 và tiến về phía bắc dọc theo Đại Tây Dương đến tận cảng New York ngày nay.
Mười năm sau, một người Pháp tên là Jacques Cartier, cũng giống như những người châu Âu khác trước đó, đã ra khơi với hy vọng tìm được tuyến đường biển tới châu Á. Các cuộc thám hiểm của Cartier dọc theo sông St. Lawrence đã trở thành căn cứ để người Pháp đưa ra yêu sách đòi đất ở Bắc Mỹ. Những yêu sách này còn kéo dài tới tận năm 1763.
Sau khi thuộc địa Quebec đầu tiên của họ bị sụp đổ vào những năm 1540, những người Pháp theo đạo Tin Lành tìm cách định cư ở vùng bờ biển phía bắc Florida suốt hai mươi năm sau đó. Vì cho rằng người Pháp là mối đe dọa đối với tuyến đường thương mại dọc hải lưu Gulf Stream của mình nên người Tây Ban Nha đã tàn phá thuộc địa này vào năm 1565. Thật trớ trêu, thủ lĩnh của đội quân Tây Ban Nha, Pedro Menendez, ngay sau đó đã xây dựng một thị trấn cách đó không xa mang tên St. Augustine. Đây là khu vực định cư lâu dài đầu tiên của người châu Âu ở vùng đất là nước Mỹ ngày nay.
Số của cải khổng lồ từ các thuộc địa ở Mexico, quần đảo Caribê và Peru được chở về Tây Ban Nha đã thôi thúc nhiều cường quốc châu Âu khác. Những quốc gia hàng hải mới nổi lên như Anh đã bắt đầu quan tâm đến Tân Thế giới, một phần là vì các cuộc tấn công dưới sự chỉ huy của Francis Drake nhằm vào tàu chở kho báu của người Tây Ban Nha đã thành công.
Năm 1578, Humphrey Gibert, tác giả luận thuyết về việc tìm đường theo hướng tây bắc, đã được Nữ hoàng Elizabeth cho phép thành lập một thuộc địa cho những vùng đất còn man di, mọi rợ ở Tân Thế giới nơi các nước châu Âu khác vẫn chưa xác lập quyền kiểm soát. Phải mất năm năm Humphrey Gibert mới thực sự bắt đầu những nỗ lực của mình. Song khi ông bị mất tích trên biển, người em trai cùng mẹ khác cha của ông là Walter Raleigh đã tiếp bước.
Năm 1585, Raleigh thiết lập thuộc địa của người Anh đầu tiên ở Bắc Mỹ trên đảo Roanoke ngoài khơi bờ biển bang Bắc Carolina. Sau đó thuộc địa này đã bị từ bỏ, và những nỗ lực tiếp theo của ông hai năm sau đó cũng bị thất bại. Hai mươi năm sau người Anh mới cố gắng lần nữa tại Jamestown vào năm 1607. Thuộc địa của họ đã thành công và Bắc Mỹ bước vào một kỷ nguyên mới.
NHỮNG KHU ĐỊNH CƯ ĐẦU TIÊN
Làn sóng nhập cư ồ ạt từ châu Âu sang Bắc Mỹ đã bắt đầu vào đầu những năm 1600. Phong trào này kéo dài suốt hơn ba thế kỷ, bắt đầu từ nhóm nhỏ vài trăm người Anh tới sự xuất hiện ồ ạt của hàng triệu người nhập cư mới. Được thôi thúc bởi những động lực mạnh mẽ khác nhau, họ đã xây dựng một nền văn minh mới ở phần phía bắc của lục địa này.
Những dân nhập cư người Anh đầu tiên tới miền đất là Hoa Kỳ ngày nay đã vượt Đại Tây Dương rất lâu sau khi người Tây Ban Nha đã gây dựng được những thuộc địa giàu có ở Mexico, Tây ấn và Nam Mỹ. Cũng giống như tất cả những người đầu tiên đến Tân Thế giới, họ đã tới đây trên những con tàu nhỏ bé, chật chội. Suốt chặng đường kéo dài từ sáu tới 12 tuần lễ, họ chỉ được ăn rất ít và rất nhiều người đã chết vì bệnh tật. Tàu của họ thường xuyên bị đánh tơi tả trong các cơn bão và một số tàu đã mất tích ngoài khơi.
Phần lớn dân di cư châu Âu vượt biên để tránh các cuộc đàn áp chính trị và tìm đến những vùng đất được tự do hành đạo hoặc được hưởng những cơ hội luôn nằm ngoài tầm tay của họ ở cố quốc. Từ năm 1620 đến 1635, nước Anh nhanh chóng lâm vào cảnh khó khăn kinh tế. Nhiều người không thể tìm được việc làm. Thậm chí ngay cả những nghệ nhân cũng chỉ có mức thu nhập giúp họ sống trên mức thiếu thốn. Những đợt mất mùa càng làm tình cảnh khốn khó trở nên tồi tệ hơn. Ngoài ra, cuộc cách mạng thương mại đã mở đường cho ngành dệt phát triển mạnh mẽ và đòi hỏi nguồn cung cấp lông cừu tăng nhanh chưa từng có nhằm duy trì hoạt động của những cỗ máy dệt. Địa chủ đã rào đất, đuổi nông dân để dành đất nuôi cừu. Do đó, việc mở rộng thuộc địa đã trở thành lối thoát cho những tá điền bị gạt ra ngoài lề xã hội như vậy.
Cảm nhận đầu tiên của những người dân di cư tới vùng đất mới là khung cảnh những cánh rừng bạt ngàn. Nhưng chắc hẳn họ đã không thể sống sót nếu như không có những người da đỏ tốt bụng giúp đỡ và dạy cách trồng những loài cây bản địa như bí ngô, bí, đậu và ngô. Ngoài ra, những cánh rừng nguyên sinh rộng lớn trải dài gần 2100 cây số dọc duyên hải phía đông cung cấp cho họ nguồn củi gỗ và những loài thú săn thật phong phú. Rừng cũng cung cấp cho họ gỗ để dựng nhà, đóng đồ, đóng thuyền và sản xuất những mặt hàng có giá trị để xuất khẩu.
Mặc dù lục địa mới được thiên nhiên ưu đãi, song việc buôn bán với châu Âu vẫn đóng vai trò quan trọng sống còn, giúp những người định cư có được những mặt hàng họ không thể tự sản xuất được. Khu vực duyên hải rất có ý nghĩa với những người nhập cư. Dọc theo toàn bộ chiều dài của bờ biển có vô số vịnh và hải cảng. Chỉ có hai khu vực Bắc Carolina và Nam New Jersey là thiếu các cảng cho tàu viễn dương tới neo đậu.
Những dòng sông hùng vĩ như Kennebec, Hudson, Delaware, Susquehanna, Potomac và rất nhiều con sông khác nối các vùng đất nằm giữa bờ biển và dãy núi Appalachian với đại dương. Tuy nhiên, chỉ duy nhất dòng sông St. Lawrence thuộc quyền kiểm soát của người Pháp ở Canada là tuyến đường thủy nối với vùng Hồ Lớn và trung tâm của lục địa. Những cánh rừng ngút ngàn, sự phản kháng của một số bộ lạc da đỏ và dãy núi Appalachian cao sừng sững đã làm nản lòng những người muốn lập khu định cư cách xa đồng bằng ven biển. Chỉ có những người đặt bẫy thú lấy da và những lái buôn mới mạo hiểm tiến vào vùng đất hoang vu. Trong một trăm năm đầu tiên, những người đi khai hoang đã xây dựng những khu định cư thật khăng khít bên nhau dọc theo bờ biển.
Có nhiều lý do chính trị thôi thúc người ta di cư sang Mỹ. Vào những năm 1630, chế độ cai trị chuyên quyền của vua Anh Charles đệ Nhất đã trở thành động lực thúc đẩy phong trào di cư. Cuộc nổi dậy và những thắng lợi sau đó của những người chống đối Charles đệ Nhất dưới sự lãnh đạo của Oliver Cromwell trong những năm 1640 đã khiến những tên nịnh thần trong triều đình phải tha hương tới vùng đất Virginia. Ở những khu vực nói tiếng Đức tại châu Âu, các chính sách đàn áp của nhiều vị hoàng thân có tư tưởng hẹp hòi - đặc biệt về vấn đề tôn giáo - cùng với hậu quả nặng nề của hàng loạt các cuộc chiến đã tạo làn sóng di cư sang Mỹ cuối thế kỷ XVII và XVIII.
Mỗi chuyến đi đều đòi hỏi việc lập kế hoạch và quản lý thật cẩn trọng và phải tính tới chi phí cùng những rủi ro. Những người di cư đã phải vượt chặng đường dài gần 5000 km trên biển cả. Họ cần có những dụng cụ, quần áo, hạt giống, công cụ, vật liệu xây dựng, vật nuôi, vũ khí và đạn dược. Khác với các chính sách thực dân của các quốc gia vào những thời kỳ khác nhau, phong trào di cư từ nước Anh không trực tiếp do chính phủ hậu thuẫn, mà do các nhóm gồm những cá nhân riêng rẽ thực hiện với động cơ chủ yếu là lợi nhuận.