Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 9: Thực hiện đường lối đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng

Bút Nghiên

ButNghien.com
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 9:
Thực hiện đường lối đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (1986 - 2000)

I. VƯỢT QUA KHÓ KHĂN, MỞ ĐẦU QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TOÀN DIỆN (1986 - 1989)

Khi đường lối đổi mới toàn diện của Đảng được triển khai thực hiện, cũng là lúc tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp.

Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng, trực tiếp thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá trong xu thế chung là độc lập, hoà bình và phát triển, các nước vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau.

Những biến động phức tạp diễn ra tại Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu gây ra nhiều bất lợi cho cách mạng Việt Nam. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô không sửa chữa được những sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây, trái lại, đưa đất nước Xôviết lún sâu vào khủng hoảng kinh tế, chính trị. Tháng 5-1987, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Goócbachốp tuyên bố chuyển trọng tâm cải tổ sang lĩnh vực chính trị theo khuynh hướng xã hội - dân chủ, làm biến chất Đảng Cộng sản Liên Xô, chấp nhận đa nguyên, đa đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

Khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu bắt đầu trầm trọng từ Ba Lan, Hunggari. Tháng 3-1988, Chính phủ do Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan lãnh đạo từ chức. Tháng 9-1988, Uỷ ban Trung ương Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa Hunggari chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cho phép các thế lực chống đối chủ nghĩa xã hội công khai hoạt động. Chủ nghĩa đế quốc chớp lấy cơ hội đó, tăng cường hoạt động "diễn biến hoà bình".

Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, khủng hoảng kinh tế - xã hội của nước ta vẫn diễn ra nghiêm trọng. Các năm 1987 - 1988, lương thực thiếu, nạn đói xảy ra ở nhiều tỉnh, lạm phát cao, đời sống nhân dân rất khó khăn. Các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội tăng. Trên lĩnh vực tư tưởng chính trị xuất hiện một số luận điểm phủ nhận con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa Mác - Lênin, ca ngợi dân chủ tư sản và đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Về mặt an ninh, quốc phòng, chủ quyền lãnh thổ trên tuyến biên giới phía Bắc và quần đảo Trường Sa của nước ta luôn luôn bị xâm phạm. Các thế lực thù địch lấy cớ quân tình nguyện Việt Nam chưa rút hết khỏi Campuchia để tiếp tục cô lập Việt Nam. Mỹ vẫn cấm vận về kinh tế đối với nước ta. Quan hệ kinh tế giữa Liên Xô và các nước Đông Âu với nước ta bị thu hẹp.

Thuận lợi cơ bản của đất nước ta là đường lối đổi mới của Đảng được toàn dân nhất trí, tin tưởng và từ đó khơi dậy nhiều nguồn lực, tiềm năng lao động sản xuất, kinh doanh của nhân dân.

Để thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, đưa đất nước ta khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, điều kiện tiên quyết là giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, tạo môi trường quốc tế thuận lợi, phá thế bị bao vây và cấm vận, xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu và nhiệm vụ của công cuộc đổi mới.

Nhiệm vụ cấp bách cần được giải quyết ngay sau Đại hội VI là tháo gỡ những ách tắc trong phân phối, lưu thông.Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VI họptừ ngày 1 đến ngày 9-4-1987 xác định phân phối, lưu thông đang là mặt trận nóng bỏng. Nghị quyết Hội nghị đặt mục tiêu giảm tỷ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân lao động theo hướng xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, phát huy tính tích cực của các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức sản xuất. Hội nghị đề ra những quy định mới về giá cả và lưu thông vật tư - hàng hoá, chính sách và biện pháp giải quyết tiền lương và đời sống của công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang; chính sách và biện pháp tăng thu, hạn chế bội chi ngân sách, giảm tốc độ lạm phát; thực hiện chính sách thu mua nông sản của nông dân theo giá thoả thuận, điều chỉnh cơ cấu kinh tế và đầu tư theo hướng dành ưu tiên cho ba chương trình kinh tế lớn.

Những chủ trương về phân phối, lưu thông của Hội nghị chưa tạo ra được chuyển biến mới trong đời sống. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (họp từ ngày 20 đến ngày 28-8-1987) khẳng định: Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng là đúng đắn, song cần có những bước đi thích hợp với điều kiện thực tế, vừa tích cực vừa vững chắc. Hội nghị bổ sung những chủ trương và biện pháp cấp bách về phân phối, lưu thông.Về giá, phấn đấu tiến tới thực hiện cơ chế một giá, song trước mắt, đối với từng mặt hàng, cần xem xét cụ thể để áp dụng cơ chế một giá hay hai giá. Về lương, phải thực hiện chế độ lương thống nhất trong cả nước, định mức lương mới cho các khu vực sản xuất, hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang.Về ngân sách, phải thi hành các biện pháp giảm tỷ lệ bội chi ngân sách và bội chi tiền mặt bằng cách tăng thu, triệt để tiết kiệm chi, giữ vững kỷ cương, chống tiêu cực. Hội nghị còn ra nghị quyết về chuyển hoạt động của các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế.

Ngày 12-9-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết vềcuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Nghị quyết bao hàm những nội dung quan trọng của cuộc vận động trong nội bộ Đảng, chính quyền và trong toàn xã hội nhằm loại bỏ những hiện tượng tiêu cực, thoái hoá, tăng cường năng lực lãnh đạo của Đảng và năng lực hoạt động của các cơ quan nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Cuộc vận động được tiến hành trong cả nhiệm kỳ Đại hội VI với tinh thần cơ bản là xây dựng con người mới, nếp sống mới xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, lập lại kỷ cương trong Đảng và ngoài xã hội.
Ngày 21-9-1987, Ban Bí thư ra Chỉ thị về tăng cường lãnh đạo báo chí trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, uốn nắn những lệnh lạc của báo chí, định hướng cho báo chí trong chống tiêu cực, đề xuất chủ trương soạn thảo Luật báo chí mới.

Ngày 28-11-1987, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới.

Đầu tháng 11-1987, Bộ Chính trị và Ban Bí thư ra nghị quyết và chỉ thị về nhiệm vụ quốc phòng: phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, làm thất bại âm mưu chiến lược của chúng, ngăn chặn và sẵn sàng đánh thắng các loại chiến tranh xâm lược. Các cấp bộ Đảng được giao nhiệm vụ xây dựng các khu vực phòng thủ chiến lược vững chắc, tăng cường củng cố lực lượng vũ trang địa phương, thực hiện các chính sách hậu phương quân đội. Quân đội nhân dân được tăng cường về mọi mặt, từng bước tiến lên chính quy, hiện đại. Nhiệm vụ bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nhằm giữ vững ổn định chính trị được kết hợp chặt chẽ với nhiệm vụ quốc phòng và cũng có những bước tiến mới.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (họp từ ngày 8 đến ngày 17-12-1987) ra nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong ba năm 1988 - 1990. Hội nghị đánh giá tình hình, nêu rõ những chuyển biến bước đầu trên các mặt hoạt động của Đảng và nhân dân ta theo nội dung đổi mới của Đại hội VI. Tuy nhiên, những chuyển biến tiến bộ mới là bước đầu và những nhân tố mới vẫn còn mang tính chất bộ phận, chưa thật vững chắc, tình hình kinh tế - xã hội vẫn tiếp tục diễn biến xấu. Phân tích những nguyên nhân dẫn đến tình hình đó, Hội nghị nêu rõ những khuyết điểm về lãnh đạo, chỉ đạo mà trách nhiệm chính thuộc về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng.

Hội nghị xác định: Trong ba năm 1988 - 1990, toàn Đảng, toàn dân phải phấn đấu thực hiện bằng được mục tiêu ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội, chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội trong các năm sau. Để đạt được mục tiêu đó phải: phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, trước hết phải tập trung sức thực hiện ba chương trình kinh tế, đặc biệt là chương trình lương thực - thực phẩm; chuyển mạnh các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật; khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác mọi năng lực sản xuất; đổi mới tổ chức và cán bộ. Nghị quyết đề ra nhiều chủ trương và biện pháp lớn cho việc thực hiện kế hoạch ba năm 1988 - 1990.

Bước sang đầu năm 1988, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục đương đầu với nhiều khó khăn gay gắt về kinh tế và những diễn biến phức tạp về quốc phòng. Trước hết là tình trạng thiếu lương thực, dẫn đến nạn đói ở 21 tỉnh miền Trung và miền Bắc. Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp bị giảm sút, giá hàng tăng cao.

Giữa lúc đó, các thế lực từ bên ngoài đã có nhiều hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia. Đối với những hành động đó, Bộ Chính trị đề ra chủ trương, biện pháp bảo vệ quần đảo Trường Sa và xác định rõ: toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải bình tĩnh, sáng suốt đấu tranh tích cực, kiên trì, mưu trí để giữ vững chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Chủ trương trên đã dấy lên phong trào cả nước bảo vệ Trường Sa và xây dựng địa bàn phòng thủ chiến lược.

Nhằm tháo gỡ những khó khăn trong sản xuất nông nghiệp mà cơ chế "khoán 100" không thể đáp ứng được, ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10/NQ-TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết 10 (khoán 10) đề ra cơ chế khoán mới, xác định hợp tác xã nông nghiệp là đơn vị kinh tế tự chủ tự quản, hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã. Nghị quyết 10 đã được giai cấp nông dân tiếp nhận, phấn khởi thực hiện, đưa lại nhiều chuyển biến rõ rệt: sản lượng lương thực tăng nhanh, không những cung cấp đủ nhu cầu cho nhân dân mà năm 1989 lần đầu tiên nước ta xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo. Tuy nhiên, khoán 10 chưa đề cập quyền sử dụng ruộng đất cho hộ nông dân và việc xây dựng hợp tác xã mới.

Để giải quyết những khó khăn gay gắt về tài chính - tiền tệ, ngày 2-5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 11 về các biện pháp cấp bách chống lạm phát: tập trung lực lượng giải quyết việc thu mua; cung cấp và dự trữ lương thực; tăng cường quản lý vật tư; tạm thời bán hai giá những hàng thiết yếu; từng bước xoá bao cấp qua giá; thực hiện chế độ trợ cấp khó khăn; thu các khoản chênh lệch giá; giảm phát hành tiền.
Ngày 15-7-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 16 về đổi mới chính sách và cơ chế quản lý đối với các cơ sở sản xuất thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Nghị quyết xác định các thành phần kinh tế đó tồn tại lâu dài; thực hiện các nguyên tắc quản lý dân chủ, công bằng, bình đẳng và tự quản.

Trước những biến động phức tạp trong nước và trên thế giới, từ ngày 14 đến ngày 20-6-1988, Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã họp Hội nghị lần thứ năm quyết địnhmột số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng, bảo đảm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Hội nghị cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa ngang tầm nhiệm vụ cách mạng, chưa đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới và yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Những vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng cần phải tiến hành là: phát huy bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của Đảng; đổi mới tư duy, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và phương pháp công tác; nâng cao giác ngộ cách mạng, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất, kiến thức và năng lực lãnh đạo chính trị của cán bộ, đảng viên; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Từ giữa năm 1988, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực trong nông nghiệp, công nghiệp và đời sống nhân dân. Nhiều tiềm năng lao động, đất đai, tiền vốn được khai thác và đầu tư cho sản xuất. Tốc độ tăng giá hàng và lạm phát đã bị kiềm chế một bước. Nạn đói được khắc phục.

Trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta thực hiện chủ trương tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia, cải thiện quan hệ Việt - Trung, quan hệ Việt Nam - ASEAN. Về vấn đề Campuchia, từ tháng 5-1988, Bộ Quốc phòng tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ Tư lệnh quân tình nguyện về nước. Tiếp đó, tháng 1-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã tuyên bố tại Phnôm Pênh: Việt Nam sẽ rút hết quân tình nguyện về nước vào tháng 9-1989 (sớm hơn 1 năm theo kế hoạch đã định), đi đôi với việc nước ngoài chấm dứt viện trợ quân sự cho các bên Campuchia, chấm dứt việc sử dụng lãnh thổ nước ngoài làm căn cứ chống lại nhân dân Campuchia. Đồng thời, Tổng Bí thư cũng khẳng định thiện chí của Việt Nam mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước Đông Nam Á và phấn đấu để sớm bình thường hoá quan hệ Việt - Trung, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với tất cả các nước trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi, vì hoà bình và phát triển.

Lập trường và biện pháp của Đảng ta về việc giải quyết vấn đề Campuchia và mối quan hệ Việt Nam - ASEAN, Việt Nam - Trung Quốc là thiện chí có nguyên tắc, đã góp phần mở ra những triển vọng mới về đối ngoại. Điều đó được thể hiện ở những đóng góp của Việt Nam tại các cuộc họp không chính thức về vấn đề Campuchia tại Giacacta (JIM1, JIM2) và cuộc tiếp xúc cấp thứ trưởng ngoại giao Việt Nam, Trung Quốc bàn về vấn đề bình thường hoá quan hệ Việt - Trung và vấn đề Campuchia (tháng 1-1989).

Từ ngày 20 đến ngày 29-3-1989, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đã họp Hội nghị lần thứ sáu để kiểm điểm 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho ba năm tới.

Hội nghị khẳng định: Thực tế chứng minh đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn. Chính sách kinh tế nhiều thành phần và việc thực hiện ba chương trình kinh tế bước đầu đã giải phóng được sức sản xuất; dân chủ được phát huy; chiến lược bảo vệ Tổ quốc được chuyển hướng phù hợp; quan hệ quốc tế được mở rộng. Nhưng đất nước vẫn chưa ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Hội nghị đã đề ra những quan điểm và phương hướng chỉ đạo công cuộc đổi mới với những nguyên tắc cơ bản về đổi mới như sau:

Một là, đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện tốt hơn bằng quan niệm đúng đắn, hình thức, biện pháp và bước đi thích hợp.

Hai là, đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin mà là vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin và khắc phục những quan niệm không đúng về học thuyết đó.

Ba là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải nhằm tăng cường chứ không phải là làm yếu sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản.

Bốn là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, song dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo phải trên cơ sở dân chủ, dân chủ với nhân dân nhưng phải chuyên chính với kẻ địch.

Năm là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Năm nguyên tắc trên đây cũng là những bài học mang tính quy luật mà Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã đúc kết qua thực tiễn đổi mới.

Hội nghị đề ra những chủ trương cụ thể nhằm tiếp tục công cuộc đổi mới. Đó là điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế; khai thác mọi nguồn vốn đầu tư và đổi mới cơ chế đầu tư; thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất; đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội; kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, thực hiện chính sách một giá; phát huy vai trò động lực của khoa học - kỹ thuật gắn với yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá; đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại; tập trung giải quyết những vấn đề cấp bách về chính sách xã hội phù hợp với việc đổi mới chính sách kinh tế; tăng cường công tác quốc phòng và an ninh.

II. KIÊN TRÌ ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, NGĂN CHẶN ẢNH HƯỞNG BẤT LỢI CỦA TÌNH HÌNH QUỐC TẾ

Năm 1989, tại nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã diễn ra những biến động lớn dẫn đến sự tan rã và sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Ở Ba Lan, Công đoàn Đoàn kết lên nắm chính quyền. Ở Hunggari, cánh hữu giành thắng lợi, chế độ xã hội chủ nghĩa bị xoá bỏ. Tại Liên Xô, Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền lãnh đạo trong bầu cử Đại hội đại biểu nhân dân tháng 3-1989. Tháng 4-1989, tại Trung Quốc diễn ra phong trào "tự do hoá tư sản" dẫn tới sự kiện Thiên An Môn, thực chất là vụ bạo loạn phản cách mạng.

Những biến động chính trị trên đã tác động trực tiếp đến nước ta. Để giữ vững ổn định chính trị, từ ngày 15 đến ngày 24-8-1989, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã họp và ra Nghị quyết vềmột số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay. Nghị quyết phân tích những khuynh hướng chính trị của ban lãnh đạo Đảng ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa: một là, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; hai là, dân chủ hoá không giới hạn, gây mất ổn định chính trị;ba là, hạ thấp và thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng; bốn là, phủ định thành tựu lịch sử; năm là, hy vọng nhiều ở phương Tây tư bản chủ nghĩa.

Về tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, Nghị quyết nhận định: Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vui mừng trước những thành tựu đổi mới, tin tưởng hơn vào sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời có nhiều lo lắng trước những khó khăn về kinh tế - xã hội, một số ít người bi quan, giảm lòng tin. Đáng chú ý là có một số người nhìn nhận một cách mơ hồ về bản chất của chủ nghĩa tư bản, chỉ thấy những biểu hiện phồn vinh bên ngoài về kinh tế và kỹ thuật, mà không thấy những mâu thuẫn chứa chất bên trong sẽ đưa chủ nghĩa tư bản tới chỗ diệt vong. Khuynh hướng dân chủ tư sản, vô chính phủ có chiều hướng phát triển; nảy sinh ý đồ đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, tư nhân hoá kinh tế quốc doanh.

Nghị quyết chỉ ra những khuyết điểm của công tác lãnh đạo tư tưởng, văn hoá là chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của đấu tranh tư tưởng trước tình hình quốc tế và trong nước; coi nhẹ đấu tranh chống các thế lực thù địch và đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa; quản lý lỏng lẻo các phương tiện thông tin đại chúng và văn hoá phẩm đã để cho những luận điểm trái với quan điểm của Đảng ta lưu hành; nhiều đảng viên, cán bộ và tổ chức đảng buông lỏng công tác tư tưởng và thiếu tinh thần đấu tranh chống những tư tưởng và hành động sai trái.

Nghị quyết nêu ra những quan điểm của Đảng về tính tất yếu lịch sử và những thành tựu của chủ nghĩa xã hội; về tính tất yếu khách quan và phương hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới; về bản chất và sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Trên cơ sở đó, giáo dục đảng viên và nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa; quán triệt những nguyên tắc và chính sách đổi mới của Đảng; nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống các âm mưu và hành động phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động; nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng; tăng cường đoàn kết thống nhất ý chí, hành động trong Đảng và toàn xã hội, đấu tranh chống tiêu cực; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng chính trị của các cấp bộ Đảng; chính quyền và đoàn thể.

Cùng với Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy đã kịp thời ngăn chặn làn sóng xét lại, trào lưu xã hội dân chủ và hệ tư tưởng tư sản tràn vào nước ta. Nhờ đó, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trụ vững trước sự sụp đổ của Đông Âu xã hội chủ nghĩa và sự rệu rã của Liên Xô.

Tháng 9-1989, quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia rút hết về nước theo đúng cam kết của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Sự kiện đó đã đưa việc giải quyết vấn đề Campuchia chuyển sang một giai đoạn mới và làm mất đi cái cớ mà các thế lực thù địch dựa vào để chống Việt Nam.
Đến cuối năm 1989, sau ba năm thực hiện đường lối đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã có nhiều khởi sắc. Lạm phát và tốc độ tăng giá đã bị kiềm chế. Nếu như năm 1987, hàng tháng giá thị trường tăng bình quân 19,8% thì đến năm 1989 chỉ còn 2,5%. Lần đầu tiên, lương thực đạt tổng sản lượng 21,5 triệu tấn quy thóc, không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và dự trữ quốc gia mà còn xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo. Đời sống của nhân dân được ổn định, giảm bớt khó khăn. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được mở rộng và phát huy trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ổn định chính trị được giữ vững.

Vào những tháng cuối năm 1989 và đầu năm 1990, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước Đông Âu liên tiếp diễn ra. Tháng 10-1989, ở Hunggari, Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa tự giải tán, Quốc hội tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Hunggari. Tại Tiệp Khắc, ngày 24-11-1989, Tổng Bí thư Giakét, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản từ chức và ngày 28-12 ông Haven thuộc nhóm "Hiến chương 77" được bầu làm Tổng thống.

Tại Cộng hoà Dân chủ Đức, ngày 28-10-1989, Tổng Bí thư Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Erích Hônêchcơ và 2 Uỷ viên Bộ Chính trị từ chức. Ngày 8-11-1989 tập thể Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức từ chức. Ngày 1-12, Quốc hội Cộng hoà Dân chủ Đức bỏ điều khoản trong Hiến pháp quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức đối với toàn xã hội.

Ở Rumani, ngày 22-12-1989 bạo loạn nổ ra ở nhiều nơi. Ngày 26-12, "Mặt trận cứu nước" thành lập chính phủ lâm thời, đổi tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Rumani thành nước Cộng hoà Rumani. Ở Bungari, ngày 30-10-1989, Tôđo Gipcốp từ chức Tổng Bí thư. Quốc hội sửa đổi Hiến pháp và đổi tên nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Bungari thành nước Cộng hoà Bungari. Đảng Cộng sản Bungari đổi tên thành Đảng Xã hội Bungari.

Sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã tác động bất lợi đến nước ta về nhiều mặt, làm nảy sinh trong Đảng và trong nhân dân tâm trạng lo lắng cho tương lai của chủ nghĩa xã hội. Khuynh hướng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập xuất hiện.

Từ ngày 12 đến ngày 27-3-1990, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đã thông qua nghị quyết quan trọng vềtình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta (Nghị quyết 8A) và nghị quyết vềđổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân (Nghị quyết 8B).

Nghị quyết 8A nhận định: Các nước xã hội chủ nghĩa đang lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng nhất từ trước đến nay. Tình trạng đó bắt nguồn từ những khuyết điểm và nhược điểm của mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa khác. Trong những điều kiện lịch sử đặc biệt, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã mang lại những thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học - kỹ thuật và quốc phòng, nhưng những khuyết điểm và nhược điểm của mô hình đó chậm được khắc phục làm cho quan hệ sản xuất ngày càng không phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sụp đổ của nhiều nước xã hội chủ nghĩa là do Đảng Cộng sản và công nhân ở các nước đó đã phạm những sai lầm có tính nguyên tắc về quan điểm, đường lối, xa rời hoặc từ bỏ những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin khi tiến hành cải tổ, cải cách nhằm đối phó với khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong khi đó, các thế lực đế quốc và phản động quốc tế đã triệt để khai thác những sai lầm và khó khăn của các nước xã hội chủ nghĩa để thực hiện chiến lược "diễn biến hoà bình" nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết cũng chỉ rõ: Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tập trung chống lại nước ta trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, tư tưởng, văn hoá.

Nghị quyết xác định: Nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là phải đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới mà mấu chốt là giữ vững ổn định chính trị. Trước mắt, phải tăng cường công tác chính trị, tư tưởng; đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; tiếp tục làm chuyển biến tốt tình hình kinh tế - xã hội ; tăng cường công tác quốc phòng và an ninh, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chủ động ứng phó với mọi tình huống; tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại theo phương châm thêm bạn, bớt thù, giữ vững hoà bình để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nghị quyết 8B nhận định: Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân vô cùng hệ trọng, có quan hệ đến vận mệnh chính trị của Đảng ta và sự sống còn của cách mạng nước ta. Nghị quyết nêu lên bốn quan điểm trong công tác quần chúng của Đảng: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân; công tác quần chúng của Đảng phải đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hoà các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ; các hình thức tập hợp nhân dân phải đa dạng; công tác quần chúng là trách nhiệm của các đoàn thể, của Nhà nước và của Đảng.
Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tự phê bình về trách nhiệm của tập thể và cá nhân kể từ Đại hội VI. Hội nghị đã quyết định cách chức Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng và Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đối với đồng chí Trần Xuân Bách vì đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và kỷ luật của Đảng, gây ra nhiều hậu quả xấu.

Hội nghị đã quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII vào quý II năm 1991.

Cùng với Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy và tám khoá VI cũng có ý nghĩa quan trọng đối với sự sống còn của chế độ mới, đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu cực của tình hình quốc tế.
Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (tháng 8-1990) đã thông qua dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và dự thảoChiến lược kinh tế - xã hội đến năm 2000.

Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương (tháng 11-1990) thông qua các dự thảo Báo cáo xây dựng Đảng và Báo cáo về Điều lệ Đảng (sửa đổi). Đầu tháng 12-1990, các dự thảo văn kiện được đăng tải trên các báo chí để lấy ý kiến toàn dân và gửi các chi bộ lấy ý kiến đảng viên.
Hội nghị lần thứ mười đề ra phương hướng chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội năm 1991. Hội nghị nhận định tình hình kinh tế - xã hội năm 1990 có một số chuyển biến tốt về sản xuất lương thực, xuất khẩu và xây dựng các công trình trọng điểm; về phát huy tính tích cực của chính sách kinh tế nhiều thành phần và kiềm chế lạm phát. Song, nền kinh tế còn mất cân đối nặng về nhiều mặt, phát triển chậm, kém hiệu quả; đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn; văn hoá, xã hội còn nhiều mặt chưa tốt; trật tự an toàn xã hội còn phức tạp... Nguyên nhân của tình hình trên là do tác động tiêu cực của sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu, tình trạng khủng hoảng trầm trọng của Liên Xô, chính sách cấm vận của Mỹ...; song, chủ yếu là do những khuyết điểm chỉ đạo, điều hành, nhất là ở tầm vĩ mô, về cơ chế quản lý và công tác kiểm tra, thanh tra.

Mục tiêu kế hoạch năm 1991 được xác định là: vượt qua những khó khăn về kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tạo thế đi lên cho những năm sau; phấn đấu đạt mức tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân năm 1991 cao hơn năm 1990. Phương hướng chỉ đạo kế hoạch năm 1991 là nêu cao tinh thần tự lực tự cường, khai thác mọi tiềm năng của đất nước, mở rộng quan hệ quốc tế, mở rộng thị trường, thu hút nguồn vốn và kỹ thuật bên ngoài..., triệt để thực hành tiết kiệm, quản lý chặt chẽ tài sản nhà nước, kiên trì đấu tranh chống tham nhũng, buôn lậu và làm ăn bất chính.

Trên lĩnh vực ngoại giao, đầu tháng 9-1990 đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước ta do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh dẫn đầu đã sang Trung Quốc, hội đàm với đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và Nhà nước Trung Quốc, mở đầu cho quá trình bình thường hoá quan hệ Việt - Trung.
Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương khoá VI (họp từ ngày 7 đến ngày 12-1-1991) góp ý kiến về dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Dự thảo Báo cáo chính trị đã được đưa ra lấy ý kiến của toàn Đảng, toàn dân. Hội nghị lần thứ mười hai (tháng 5-1991) và lần thứ mười ba (tháng 6-1991) Ban Chấp hành Trung ương xem xét lần cuối các văn kiện Đại hội, chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương khóa VII.
 
III. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII (THÁNG 6-1991)

Đại hội VII của Đảng đã được tiến hành qua hai bước: Đại hội nội bộ từ ngày 17 đến ngày 22-6-1991 và Đại hội công khai từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho trên hai triệu đảng viên. Nhận lời mời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta, các đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng Cộng sản Cu Ba và nhiều khách quốc tế đã tham dự Đại hội.

Đại hội đã nghe đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đọc Diễn văn khai mạc và đọc Báo cáo chung về các văn kiện Đại hội, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Báo cáo chung nêu bật những vấn đề quan trọng sau đây:
- Đảng ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và quyết tâm thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tư tưởng, chính trị và thực tiễn trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước bị khủng hoảng và sụp đổ.
- Sự nghiệp phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt con người ở vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Chính sách kinh tế nhiều thành phần được thực hiện nhất quán; kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và phải được củng cố, phát triển; kinh tế tập thể cần được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động để đạt hiệu quả thiết thực. Áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tăng cường kinh tế gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Có chính sách công nghệ thích hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, vốn ít, lao động dư thừa. Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ - coi đó là quốc sách hàng đầu.

- Đổi mới hệ thống chính trị giữ vai trò rất quan trọng trong công cuộc đổi mới và phải xác định đúng nội dung, bước đi thích hợp. Đảng là người lãnh đạo hệ thống chính trị. Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ phải gắn liền với tập trung, kỷ cương và kỷ luật; không chấp nhận chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập.

- Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng thể hiện ở những tiến bộ về kinh tế, đời sống và dân chủ hoá xã hội, cũng như ở những thành tựu trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Mặc dù vậy, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội và không thể coi thường những nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị.

- Mục tiêu của kế hoạch 5 năm tới là vượt qua những khó khăn gay gắt trước mắt, tăng cường ổn định chính trị, đưa đất nước cơ bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Phương hướng thực hiện nhiệm vụ trên là đoàn kết và động viên lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.

- Về vấn đề Đảng, các văn kiện trình Đại hội đều khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thảo luận và thông qua, đã tổng kết tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và nêu ra những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo thắng lợi cách mạng Việt Nam.

Cương lĩnh xác định rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Chế độ xã hội đó mang những đặc trưng: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.

Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được Đại hội thảo luận và thông qua đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000: đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI, tăng tổng sản phẩm trong nước đến năm 2000 gấp đôi so với năm 1990. Chiến lược đề ra phương hướng đổi mới cơ cấu kinh tế, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chiến lược nêu rõ các chính sách và giải pháp về vốn và kinh tế đối ngoại, dân số và việc làm, văn hoá, giáo dục, khoa học, tài nguyên và môi trường; phương hướng cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác cán bộ.

Báo cáo chính trị đánh giá tình hình đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội và đề ra những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995. Báo cáo nhận định: nhân tố quyết định đưa lại những thành tựu đổi mới là sự lãnh đạo kiên định, vững vàng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng và sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân. Báo cáo cũng chỉ rõ những mặt yếu kém, những khó khăn của đất nước biểu hiện tập trung ở tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; pháp luật, kỷ cương chưa được chấp hành nghiêm; an ninh, trật tự an toàn xã hội còn nhiều hiện tượng phức tạp, những yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị vẫn tồn tại.
Báo cáo chính trị tổng kết bước khởi đầu tiến trình đổi mới, rút ra năm bài học kinh nghiệm; một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới;hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi và cách làm phù hợp; ba là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội; bốn là, phát huy dân chủ phải được lãnh đạo tốt;năm là, trong quá trình đổi mới, phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát triển và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Báo cáo chính trị xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được trong những năm 1991 - 1995 là: tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nền kinh tế quốc dân; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số; ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân; tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hoạt động của Nhà nước; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng.

Báo cáo về xây dựng Đảng xác định nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng là: phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, và phải gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đại hội thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi), trong đó có nhiều điểm mới được bổ sung và sửa đổi, như tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng; giữa hai kỳ đại hội đại biểu, Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp (trừ Đảng bộ cơ sở) triệu tập hội nghị đại biểu; Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp chỉ có uỷ viên chính thức, không có uỷ viên dự khuyết, chức vụ Tổng Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Uỷ viên Bộ Chính trị.

Đại hội đã bầu 146 đồng chí vào Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trọng trách là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương khoá VII.

Đại hội VII đã được tiến hành theo phương châm "trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ cương, đoàn kết" đánh dấu một bước trưởng thành mới của Đảng ta. Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của Việt Nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn. Đại hội đã củng cố thêm niềm tin của nhân dân ta đối với công cuộc đổi mới, đối với việc thực hiện mục tiêu trước mắt đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Sau Đại hội VII, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Sự kiện lớn nhất là Đảng Cộng sản Liên Xô bị giải tán (ngày 25-8-1991) và Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết sụp đổ (ngày 8-12-1991). Phong trào cách mạng thế giới lâm vào thời kỳ thoái trào.

Đối với Việt Nam, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tác động mạnh về mọi phương diện: tư tưởng, chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng... Một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân lao động mất phương hướng. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với Liên Xô và các nước Đông Âu bị đảo lộn, sản xuất hàng xuất khẩu sang các thị trường đó bị đình đốn. Bọn phản động đẩy mạnh hoạt động phá rối, thậm chí âm mưu cướp chính quyền ở vài nơi. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, xoá bỏ nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đất nước ta đứng trước những thách thức hết sức nghiêm trọng, đòi hỏi Đảng ta và nhân dân ta phải quán triệt và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại

hội VII, tìm tòi những giải pháp tiếp tục con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt là đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.

Từ tháng 11-1991 đến tháng 6-1993, Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã họp 4 hội nghị.

Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (từ ngày 25-11 đến ngày 4-12-1991) ra nghị quyết Về nhiệm vụ và giải pháp ổn định, phát triển kinh tế - xã hội trong những năm 1992 - 1995,đề ra các nhiệm vụ cụ thể và giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội, nêu ra các quan điểm và phương hướng cơ bản trong việc sửa đổi Hiến pháp, cải cách một bước bộ máy nhà nước.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (từ ngày 18-6 đến ngày 29-6-1992) ra nghị quyết Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xác định bốn nhiệm vụ quan trọng: tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; chỉnh đốn Đảng về tổ chức; tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết nhấn mạnh: Đảng có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân là điều có ý nghĩa cực kỳ to lớn, bảo đảm sự vững chắc của chế độ. Hội nghị ra nghị quyết về chính sách đối ngoại, nêu rõ cần mở rộng đa dạng hoá và đa phương hóa quan hệ đối ngoại trên cơ sở nắm vững tư tưởng chỉ đạo là giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt. Hội nghị còn ra nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; nhấn mạnh phải thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình", đồng thời phải lường trước tình huống xấu nhất để có phương án đối phó.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (họp từ ngày 4 đến ngày 14-1-1993) ra nghị quyết về năm vấn đề: tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt; những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; công tác thanh niên.

Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (họp từ ngày 3 đến ngày 10-6-1993) ra nghị quyết về Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, nêu ba mục tiêu phấn đấu đến năm 2000: phát triển nhanh và vững chắc các ngành kinh tế chủ yếu, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực, nguyên liệu, đẩy mạnh xuất khẩu; bảo vệ tài nguyên, cải thiện môi trường sinh thái; cải thiện một bước đời sống, tăng diện giàu, đủ ăn, xoá đói, giảm nghèo; xây dựng nông thôn mới về mọi mặt. Nghị quyết xác định bốn quan điểm chỉ đạo: phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn liền sản xuất với thị trường, đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật; gắn phát triển kinh tế đi đôi với đổi mới chính trị. Nghị quyết là cơ sở cho việc thông qua Luật đất đai, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá IX. Nghị quyết được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng và nhanh chóng đi vào cuộc sống.

Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Bộ Chính trị đã ra một số chỉ thị, nghị quyết quan trọng chỉ đạo các mặt hoạt động. Đáng chú ý là Chỉ thị 01 ngày 16-7-1991 chỉ đạo việc quán triệt Nghị quyết Đại hội VII ở Đảng bộ các cấp; Nghị quyết số 01-NQ/TW ngày 28-3-1992 Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay (từ đó các chương trình nghiên cứu khoa học xã hội cấp Nhà nước đã được thông qua), Nghị quyết 04 ngày 12-9-1993 Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết 07 ngày 17-11-1993Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất... nhằm phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đấu tranh cho mục tiêu: giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Tinh thần Nghị quyết Đại hội VII và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương sau đó đã được quán triệt trong hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.

Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 11 từ ngày 24-3 đến ngày 25-4-1992 đã nhất trí thông qua Hiến pháp mới, Luật tổ chức Quốc hội và Luật bầu cử Quốc hội. Hiến pháp mới đã thể chế hoáCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII đề ra.

Ngày 19-7-1992, nhân dân cả nước đã hăng hái đi bỏ phiếu bầu Quốc hội khoá IX. Cuộc bầu cử đã tiến hành dân chủ, đúng pháp luật, 395 đại biểu đã trúng cử. Ngày 19-9-1992, Quốc hội khoá IX đã tiến hành kỳ họp đầu tiên, bầu đồng chí Nông Đức Mạnh làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng Chính phủ. Quốc hội thông qua Luật tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Toà án nhân dân tối cao và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Năm 1992, mặt trận kinh tế - xã hội giành được một số thắng lợi lớn. Đây là năm đầu tiên thực hiện vượt mức các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu: tổng sản phẩm trong nước tăng 8% (năm 1991: 6%), sản lượng nông nghiệp tăng 34,5%, công nghiệp tăng 22,6%, dịch vụ tăng 42,9%; tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người đã là 220 USD. Tỷ lệ lạm phát còn 17,5%. Mô hình mới về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang hình thành. Tuy nhiên, những yếu kém còn nhiều: hiệu quả của nền kinh tế nói chung kém, thị trường tiêu thụ hẹp, quản lý còn sơ hở, ngân sách còn thâm hụt lớn, khu vực quốc doanh còn chậm được chấn chỉnh, các cơ sở giáo dục và y tế xuống cấp, tệ nạn xã hội phát triển. Nhìn chung, thành tựu về kinh tế - xã hội năm 1992 là kết quả phấn đấu vượt bậc và sự tranh thủ những nhân tố quốc tế thuận lợi của nhân dân ta để vượt qua thử thách, tạo đà cho phát triển toàn diện năm 1993.

Năm 1993, nước ta đã hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại, đặc biệt là hoàn thành vượt kế hoạch các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu, mặc dù trong năm có nhiều thiên tai. Quan hệ kinh tế với nước ngoài được mở rộng. Cán cân thanh toán được cải thiện, nguồn thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu vật tư, hàng hoá cần thiết. Nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ. Lạm phát cả năm chỉ ở mức 5%. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Xoá đói, giảm nghèo trở thành phong trào quần chúng. Hơn 5 triệu lượt hộ nghèo được vay hơn 6.000 tỷ đồng để phát triển sản xuất. Không có nạn đói, số hộ nghèo giảm, số hộ giàu tăng. Một số vụ chống đối và âm mưu bạo loạn bị dập tắt, tình hình chính trị ổn định. Nhìn chung, trong 3 năm 1991-1993, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,2%.
Quan hệ đối ngoại của nước ta được mở rộng, Đảng và Chính phủ ta đã đón nhiều đoàn khách quốc tế của Chính phủ Lào, Chính phủ Campuchia, Phó Tổng thống Ấn Độ, Tổng thống Pháp, Phó Thủ tướng Bỉ, Hoàng tử Hà Lan, Bộ trưởng ngoại giao Cộng hoà Liên bang Đức... Đảng và Chính phủ ta cử nhiều đoàn cấp cao đi thăm các nước Nhật, Ôxtrâylia, Phần Lan, Thuỵ Điển, Pháp, Anh, Cộng đồng châu Âu..., đặc biệt là chuyến đi của Tổng Bí thư Đỗ Mười đến Xingapo và Thái Lan, chuyến đi của Chủ tịch nước Lê Đức Anh đến Trung Quốc. Kết quả quan trọng đạt được là đã đẩy lùi một bước và phá vỡ từng phần thế bao vây nước ta của Mỹ. Ngày 2-7-1993, Tổng thống Mỹ phải tuyên bố chấm dứt việc chống các nước cho Việt Nam vay tiền. Ngày 23-12-1993, Bộ Tài chính Mỹ ra tuyên bố cho phép các công ty Mỹ tham gia các dự án do các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế thực hiện ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á đã thoả thuận cho Việt Nam vay tiền. Việt Nam và Trung Quốc đã lập lại Tổng lãnh sự quán. Quan hệ với Lào, Cuba vẫn đặc biệt thuỷ chung, trong sáng.
Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn. Ở bên ngoài, các thế lực thù địch vẫn ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá ta. Ở trong nước, hoạt động chống đối của bọn phản động diễn ra ở một số nơi. Tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều yếu tố chưa vững chắc: thiếu việc làm, tệ nạn xã hội tăng, tệ quan liêu, tham nhũng chưa chặn được, thua thiệt trong cạnh tranh và hợp tác quốc tế.

IV. HỘI NGHỊ ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC GIỮA NHIỆM KỲ (THÁNG 1-1994). ĐẤT NƯỚC RA KHỎI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - XÃ HỘI

Yêu cầu đặt ra cho Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ là kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tổng kết một bước gần 10 năm đổi mới, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng đất nước.

Từ ngày 24-11 đến ngày 1-12-1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã họp Hội nghị lần thứ sáu để chuẩn bị Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí nhiều vấn đề quan trọng của dự thảo Báo cáo chính trị: chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy mạnh đổi mới và chỉnh đốn Đảng bảo đảm cho quá trình đổi mới đi đúng hướng và đạt thành tựu cao. Thành công của Hội nghị lần thứ sáu là tiền đề cho thành công của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã họp từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994 tại Hà Nội. Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã đọc Báo cáo chính trị, chỉ rõ ba thành tựu quan trọng:

- Khắc phục một bước quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.

- Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị.

- Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của nước ta trên thế giới được nâng lên, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Những thành tựu quan trọng đạt được tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Báo cáo chính trị cũng vạch ra những mặt yếu kém và những vấn đề mới nảy sinh.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã chỉ ra bốn nguy cơ: 1- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; 2- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; 3- Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; 4- Nguy cơ "diễn biến hoà bình".

Đồng thời, Hội nghị khẳng định những thuận lợi cơ bản và thời cơ trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới: đường lối của Đảng đúng đắn; nhân dân ta yêu nước, tin Đảng; những thành tựu đổi mới đang tạo ra thế và lực mới; cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế hợp tác, phát triển trên thế giới.

Nắm vững thời cơ và đẩy lùi nguy cơ là tư tưởng chỉ đạo nổi bật của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ.

Hội nghị xác định những nhiệm vụ cho những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII:

- Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh và có hiệu quả.

- Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Chăm lo các vấn đề văn hoá, xã hội.

- Tăng cường quốc phòng, an ninh, quán triệt tư tưởng chỉ đạo và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh mà Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương đề ra.

- Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại.

- Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

- Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, mở rộng khối đại đoàn kết, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng. Tích cực tiến hành tổng kết công tác xây dựng Đảng, chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.

Hội nghị bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương 20 đồng chí, đồng ý để một số đồng chí vì lý do sức khoẻ tự nguyện xin rút khỏi Ban Chấp hành Trung ương.

Sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, các tỉnh, thành uỷ, các đảng uỷ khối cơ quan trung ương đã tiến hành Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ, vạch chương trình công tác hai năm 1994-1995, bầu bổ sung cấp uỷ. Kết quả hội nghị các cấp tạo nên khí thế mới trong toàn Đảng, toàn dân.

Tiếp tục thực hiện chương trình cụ thể hoá và phát triển đường lối do Đại hội VII đề ra, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (từ ngày 25 đến ngày 30-7-1994) ra nghị quyết vềphát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, phấn đấu đến năm 2000 đạt và vượt các chỉ tiêu đã xác định trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Hội nghị đã xác định sáu quan điểm cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là, giữ vững độc lập, tự chủ phải đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ;ba là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế;bốn là, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển; năm là, khoa học và công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá;sáu là, hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản. Nghị quyết cũng vạch rõ hướng bố trí các ngành công nghiệp, kết cấu hạ tầng, các vùng, các địa bàn quan trọng; đề ra các chính sách để thực hiện.

Về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, Nghị quyết xác định: cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng; có trình độ học vấn, tay nghề cao, có năng lực tiếp thu, sáng tạo công nghệ mới; lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 1-1995) ra Nghị quyết về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nêu lên những quan điểm chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, việc cải cách hành chính và những nội dung cơ bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Chính phủ. Trong hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, quyết định, nguyên tắc, giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân sinh, bảo đảm ổn định, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong bước ngoặt của cách mạng.

Với Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã hoàn thành chương trình, cụ thể hoá một bước Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội VII đã thông qua, chuẩn bị tiến tới Đại hội VIII vào năm 1996.

Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương đã uỷ nhiệm Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay nhằm tăng cường sự nhất trí tư tưởng trong Đảng, sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Nghị quyết nêu ra 6 định hướng:

Một là: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam.

Hai là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.

Ba là: Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ; Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Bốn là: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ.

Năm là: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.

Sáu là: Phát triển văn hoá, gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trong năm 1994, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu mới trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,8%; tổng sản lượng nông nghiệp tăng 4%; tổng sản phẩm công nghiệp tăng 13,5%; sản lượng lương thực đạt 26 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu 5 tỷ USD. Vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội đạt 48.000 tỷ đồng, khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước đạt 8.833 tỷ đồng. Ngân hàng nhà nước thu vượt dự toán 6,3%.

Bước sang năm 1995, tình hình nước ta tiếp tục có những chuyển biến tốt về mọi mặt. Tổng sản phẩm trong nước tăng 9,5%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,7%, sản lượng lương thực đạt 27 triệu tấn, sản xuất công nghiệp tăng 14%, dịch vụ tăng 12,6%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng 85,4%, xuất khẩu đạt 5,3 tỷ USD, nhập khẩu đạt 7,5 tỷ USD.
Tiếp theo những thành tựu của các năm trước, thắng lợi năm 1995 đã góp phần quan trọng hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995. Nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm đạt 8,2%, sản xuất công nghiệp tăng 13,3%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,5%. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm trong nước từ 22,6% (năm 1990) tăng lên 29,1% (năm 1995), dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%, lạm phát bị đẩy lùi từ 67,47% (năm 1991) giảm xuống còn 12,7% (năm 1995). Lương thực đủ ăn và xuất khẩu mỗi năm khoảng 2 triệu tấn. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghệ trọng yếu được xây dựng. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh thêm một bước phù hợp với tính chất, trình độ, yêu cầu phát triển sản xuất.

Về xã hội, đã có một số chuyển biến tích cực: Đời sống phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ giàu tăng, số hộ nghèo giảm; Nhà nước có "chương trình việc làm quốc gia", hàng năm chi từ 200 đến 350 tỷ đồng để giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Trình độ dân trí được nâng lên. Người lao động được giải phóng khỏi nhiều cơ chế không hợp lý. Chủ trương "Đền ơn đáp nghĩa" đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng. 37.154 bà mẹ được phong danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng". Phong trào "Xoá đói, giảm nghèo" và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng. Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước, vào Đảng và Nhà nước tăng lên.

Sự ổn định chính trị và quốc phòng, an ninh được củng cố. Việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh tiếp tục được thực hiện có kết quả. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Đời sống lực lượng vũ trang được cải thiện. Cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" thu nhiều thắng lợi, gần 500 cuộc bạo loạn và âm mưu bạo loạn đã bị dập tắt từ trong trứng, một số tổ chức phản động bị đưa ra xét xử.

Đã có một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.Đảng đã từng bước được đổi mới và củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Hiến pháp mới năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật quan trọng được ban hành. Nền hành chính Nhà nước được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị và xã hội đã đổi mới từng bước nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy. Đồng bào ta ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc.
Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh, nước ta đã phá được thế bị bao vây, cấm vận. Đảng và Nhà nước đã thực hiện tích cực đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ, đã khôi phục và mở rộng quan hệ bình thường với Trung Quốc, phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN (ngày 28-7-1995); củng cố và đổi mới quan hệ truyền thống với Liên bang Nga và các nước Đông Âu; bình thường hoá quan hệ về ngoại giao với Mỹ (ngày 11-7-1995); ký Hiệp định chung với Liên hiệp châu Âu (ngày 17-7-1995). Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế viện trợ hoặc cho ta vay... Quan hệ đoàn kết với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc tiếp tục phát triển, quan hệ với đảng cầm quyền ở một số nước được thiết lập.

Trong không khí phấn khởi trước những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, từ ngày 6 đến ngày 14-11-1995, Hội nghị lần thứ chínBan Chấp hành Trung ương khoá VII đã thảo luận và thông qua các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, hoàn thành về cơ bản việc chuẩn bị cho Đại hội VIII.
 
V. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VIII (THÁNG 6-1996) VÀ NHIỆM VỤ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 22-6 đến ngày 1-7-1996, trong đó từ ngày 22-6 đến ngày 26-6 là Đại hội nội bộ, từ ngày 28-6 đến ngày 1-7 là Đại hội công khai.

Đại hội có nhiệm vụ tổng kết 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, đề ra mục tiêu, phương hướng và giải pháp thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020 và trước mắt đến năm 2000; bổ sung và sửa đổi Điều lệ Đảng, bầu Ban Chấp hành Trung ương mới.

Dự Đại hội có 1.196 đại biểu trong nước và 35 đoàn đại biểu các Đảng Cộng sản, công nhân, phong trào giải phóng dân tộc và một số đảng cầm quyền có quan hệ với Đảng ta.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng được chuẩn bị từ năm 1994. Các dự thảo văn kiện của Đại hội được Bộ Chính trị thảo luận nhiều lần và được các Hội nghị lần thứ chín (tháng 11-1995), lần thứ mười (tháng 4-1996) và lần thứ 11 (tháng 6-1996) Ban Chấp hành Trung ương khoá VII thảo luận và thông qua.

Đánh giá tình hình đất nước sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và 10 năm đổi mới, Đại hội VIII khẳng định những thành tựu đã đạt được:

- Đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn thành nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm.

- Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.

- Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng an ninh.

- Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.

- Phát triển mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây, tham gia tích cực vào đời sống cộng đồng quốc tế.

Đại hội VIII nhất trí khẳng định: Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được hoàn thành về cơ bản. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản được hoàn thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước... Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy trong quá trình thực hiện có một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác.

Cùng với những thành tựu to lớn đã đạt được, Đại hội VIII thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm và yếu kém: Một là, nước ta còn nghèo và kém phát triển, chúng ta lại chưa thực hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển.Hai là, tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và nhiều vấn đề phải giải quyết. Ba là, việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa buông lỏng. Bốn là, quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều thiết sót. Năm là, hệ thống chính trị còn nhiều nhược điểm.

Đại hội VIII đã rút ra sáu bài học chủ yếu của 10 năm đổi mới:

- Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.

- Xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.

- Mở rộng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.

- Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại. Mở rộng quan hệ đối ngoại phải trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường.

- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng phân tích đặc điểm tình hình thế giới, nêu rõ những xu thế chủ yếu trong quan hệ quốc tế, những thời cơ và thách thức lớn.

Những đặc điểm nổi bật là: Mặc dù chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào thoái trào, nhưng tính chất thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không thay đổi; chiến tranh cục bộ, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi; cách mạng khoa học và công nghệ thúc đẩy quá trình quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội, song chênh lệch giàu - nghèo ngày càng lớn, cạnh tranh kinh tế gay gắt; cộng đồng thế giới đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu. Hoà bình, ổn định và hợp tác là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc; các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình, độc lập tự chủ chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài; các lực lượng cách mạng kiên trì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Thời cơ lớn được tạo ra do xu thế tích cực của thế giới, nhưng trước hết là do thành tựu đổi mới của nước ta. Thách thức lớn vẫn là bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã nêu (tụt hậu, chệch hướng, tham nhũng, "diễn biến hoà bình"). Trách nhiệm lịch sử của Đảng ta là tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, đưa đất nước tiến lên.

Xuất phát từ tình hình trên, căn cứ vào Cương lĩnh của Đảng, Đại hội nêu rõ phương hướng của cách mạng nước ta là tiếp tục nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Từ mục tiêu chung, Đại hội thông qua phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000 với 11 chương trình và lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội lớn, với chỉ tiêu đến năm 2000 tăng gấp đôi tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người so với năm 1990.

Để bảo đảm thực hiện mục tiêu, Đại hội VIII đề ra những định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu:

- Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quán triệt các quan điểm và nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.

- Nắm vững chính sách đối với các thành phần kinh tế, nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo, đồng thời phát triển kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, tiểu thủ công, kinh tế tư bản tư nhân.

- Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế bao gồm việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh tế, tiếp tục đổi mới công tác kế hoạch hoá, đổi mới các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước.

- Phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

- Giải quyết một số vấn đề xã hội, trước mắt là tập trung sức tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, đẩy mạnh công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, đẩy lùi tệ nạn xã hội.

- Thực hiện đại đoàn kết dân tộc, nâng cao vai trò làm chủ của nhân dân, xây dựng cơ chế cụ thể, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".

- Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng.

- Tăng cường quốc phòng và an ninh, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, kết hợp thế trận quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân.

- Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.

Đại hội thông qua Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi nhằm giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, tiếp tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng. Đại hội khẳng định đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân, đồng thời nhắc lại Điều 1 trong Điều lệ Đảng (sửa đổi) về tiêu chuẩn đảng viên là người "có lao động, không bóc lột".

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII gồm 170 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã bầu Bộ Chính trị gồm 19 đồng chí, bầu Tổng Bí thư là đồng chí Đỗ Mười, bầu Uỷ ban Kiểm tra Trung ương gồm 7 đồng chí. Bộ Chính trị cử Thường vụ Bộ Chính trị 5 đồng chí: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng. Ban Chấp hành Trung ương tôn vinh các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công tiếp tục làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII.

Sau Đại hội VIII là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Phát triển quan điểm của Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương (khoá VIII) đã quyết định những vấn đề về phát triển giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ, nhấn mạnh nhiệm vụ đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, tăng cường vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển của đất nước. Đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu của khoa học tự nhiên và công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao để có thể đi nhanh vào hiện đại. Trung ương nhấn mạnh phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ làquốc sách hàng đầu. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII (tháng 6-1997) chủ trương phát huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, đồng thời có Nghị quyếtvề chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Tháng 12-1997, để bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển của Đảng, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII đã bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Thường vụ Bộ Chính trị mới do Bộ Chính trị cử ra gồm các đồng chí: Lê Khả Phiêu, Phạm Thế Duyệt, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông Đức Mạnh. Các đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt được tôn vinh làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Từ tháng 7-1997 cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ xảy ra ở các nước trong khu vực Đông Nam Á và châu Á và có ảnh hưởng đến nền kinh tế nước ta. Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể để khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng trong khu vực, ngăn chặn sự suy giảm của nền kinh tế. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII (tháng 12-1997) nêu cao tinh thần tự lực tự cường, nhấn mạnh việc phát huy nội lực để vượt qua khó khăn, thách thức mới. Cùng với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, nền kinh tế nước ta cũng bộc lộ những yếu kém vốn có và thiên tai lớn diễn ra liên tiếp trên địa bàn cả nước. Các Hội nghị Trung ương đã tập trung trí tuệ, quyết định nhiều vấn đề lớn của đất nước, quyết tâm thực hiện những mục tiêu mà Đại hội VIII đã đề ra.

Thời kỳ 1996-2000, sự nghiệp đổi mới, nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá mặc dù gặp nhiều khó khăn và thách thức mới, nhưng vẫn đạt được những thành tựu quan trọng. Kinh tế vẫn tăng trưởng khá, GDP tăng bình quân hàng năm là 6,94%. Năm 2000 đã chặn được đà giảm sút về mức tăng trưởng kinh tế, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt mức kế hoạch đề ra, nhất là sản xuất nông nghiệp và công nghiệp. Văn hoá, xã hội có những tiến bộ, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Nước ta đã đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Đã chú trọng xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc theo nội dung và định hướng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấphành Trung ương khoá VIII. Phong trào và chính sách xoá đói giảm nghèo cùng các chính sách xã hội khác được thực hiện tốt hơn. Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Các lực lượng vũ trang nhân dân có nhiều cố gắng bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.Quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và thu nhiều kết quả tốt. Công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng được chú trọng theo yêu cầu, nội dung của Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII. Tiến hành cải cách một bước nền hành chính quốc gia, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền. Bước đầu thực hiện một số chính sách và quy chế bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở. Vì vậy, hệ thống chính trị được củng cố. Những thành tựu trong 5 năm (1996-2000) đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của nước ta.

Năm 2000, Đảng Cộng sản Việt Nam kỷ niệm 70 năm thành lập Đảng và tích cực chuẩn bị các văn kiện để tiến tới Đại hội IX của Đảng, đánh giá thành tựu của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, tổng kết 15 năm đổi mới và 10 năm thực hiệnChiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Đến năm 2000 tổng sản phẩm trong nước (GDP) đã tăng gấp đôi so với năm 1990. Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hụt hẫng về thị trường do những biến động ở Liên Xô và các nước Đông Âu gây ra; không bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở khu vực châu Á. Hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ (1996), chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; quốc phòng- an ninh được củng cố. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với mười năm trước. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta được xác định ngày càng rõ hơn.

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, ở từng thời kỳ, các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII của Đảng đã tổng kết các bài học có giá trị lý luận và có ý nghĩa sâu sắc để chỉ đạo thực tiễn.

Thành tựu và bài học của 15 năm đổi mới là cơ sở quan trọng để Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX quyết định những vấn đề lớn của đất nước, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Hà Nội từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001. Đại hội kiểm điểm 5 năm thực hiện nghị quyết của Đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII đề ra và tổng kết 15 năm đổi mới kể từ Đại hội VI (1986). Về bài học của quá trình đổi mới, Đại hội IX của Đảng nêu rõ những bài học mà các Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII đã tổng kết vẫn có giá trị to lớn và nhấn mạnh những bài học chủ yếu.

"Một là, trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh...

Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo...

Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại...
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới".

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 uỷ viên. Ban Chấp hành Trung ương trong Hội nghị lần thứ nhất đã bầu Bộ Chính trị gồm 15 đồng chí và Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới; thể hiện ý chí kiên cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc ta trong thời điểm trọng đại bước vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới.

Thực hiện phương hướng cơ bản do Đại hội IX đề ra là phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, toàn Đảng, toàn dân nỗ lực đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010.

Trung ương Đảng đã cụ thể hóa những quan điểm, phương hướng và những mục tiêu do Đại hội IX đề ra: Quốc hội và Chính phủ của nhiệm kỳ khóa XI (2002-2007) đã thể chế hóa, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách để đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ra những nghị quyết quan trọng làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn, tổng kết việc thực hiện những vấn đề lớn mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa trước đã đề ra.

Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa IX họp từ ngày 13 đến 22-8-2001 đã có Nghị quyết Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nhấn mạnh kinh tế nhà nước có vai trò chủ đạo và quyết định việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 5 đến 13-11-2001 cho ý kiến về một số điểm cần sửa đổi của Hiến pháp 1992, đánh giá và đề ra giải pháp tiếp tục thực hiện nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII về xây dựng chỉnh đốn Đảng.

Đặc biệt Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua nhiều nghị quyết rất quan trọng: Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân; Về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010; Về đổi mới và nâng cao hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn và Nghị quyết về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới.

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa IX họp từ ngày 4 đến ngày 15-7-2002 đã kết luận Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII, phương hướng phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ đến năm 2005 và 2010. Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII về công tác tổ chức và cán bộ.

Phương hướng chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã được Hội nghị Trung ương 8 khóa IX họp từ ngày 2 đến 12-7-2003 thảo luận và quyết định công cuộc đổi mới tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Để thực hiện tốt nhất nghị quyết của Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 9 khóa IX (từ ngày 5 đến ngày 12-1-2004) đã kiểm điểm nửa nhiệm kỳ khóa IX và

ra Nghị quyết về một số chủ trương, chính sách và giải pháp lớn. Hội nghị Trung ương 10 khoá IX (ngày 5  10-7-2004) đã kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và chủ trương tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đó trong thời kỳ mới.

Bộ Chính trị đã sớm có chủ trương tổng kết 20 năm đổi mới.

Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương khóa IX họp từ ngày 17 đến 25-1-2005 đã thảo luận nội dung Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới và thảo luận những báo cáo và những vấn đề chuẩn bị cho Đại hội X của Đảng. Những nội dung đó được tiếp tục thảo luận và hoàn tất tại các Hội nghị Trung ương lần thứ mười hai (4 – 13-7-2005), lần thứ mười ba (11 – 18-1-2006) và lần thứ mười bốn (20 – 24-3-2006).

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006. Đại hội đã thảo luận và thông qua Báo cáo chính trị; Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; Báo cáo về công tác xây dựng Đảng; thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung và sửa đổi. Đại hội X đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 160 uỷ viên chính thức và 21 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã họp Hội nghị lần thứ nhất, bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí và Ban Bí thư gồm 8 đồng chí, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương gồm 14 uỷ viên. Đồng chí Nông Đức Mạnh được tái cử giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội X tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX (2001-2005), đồng thời đã tổng kết 20 năm đổi mới. Đại hội khẳng định: Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. "Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp".

Đại hội X đã tổng kết một số Bài học lớn của 20 năm đổi mới:

- Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm thích hợp.

- Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.

- Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.

- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

(Nguồn:Báo ĐT ĐCS)
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top