Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 8:
Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986)
Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986)
I. THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ VỀ MẶT NHÀ NƯỚC
1. Yêu cầu lịch sử của đất nước sau 30 năm chiến tranh
Sau đại thắng mùa Xuân 1975, một thời kỳ mới đã mở ra trên đất nước ta: thời kỳ hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội vừa là xu thế phát triển của đất nước ta vừa là nguyện vọng của nhân dân ta. Với việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, chiến tranh kết thúc, hoà bình được lập lại, giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta đã hoàn thành, đất nước thống nhất, nhân dân ta trở thành người làm chủ toàn bộ đất nước, làm chủ toàn bộ đất đai, rừng biển và thiên nhiên. Như vậy, chúng ta đã có đủ điều kiện để xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, công bằng, phù hợp xu thế phát triển của thời đại. Sau bao nhiêu năm chiến tranh, nhân dân ta không có nguyện vọng nào tha thiết hơn là được sống độc lập, tự do để xây dựng lại đất nước nhưDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn:
"Còn non, còn nước, còn người
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay"
Cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội là xu thế chung của đất nước. Nhưngquá độ lên chủ nghĩa xã hội như thế nào cho phù hợp đặc điểm nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, chưa có đại công nghiệp, đó là yêu cầu lịch sử thứ nhất đặt ra cho Đảng ta và nhân dân ta sau 30 năm chiến tranh.
Yêu cầu lịch sử thứ hai đặt ra cho Đảng và nhân dân ta là ở một nước đã trải qua ba mươi năm chiến tranh quyết liệt, liên tục, sau khi kết thúc chiến tranh các thế lực thù địch lại có âm mưu gây chiến mới, nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa cảnh giác và chuẩn bị đối phó với những âm mưu gây chiến.
Yêu cầu lịch sử thứ ba là muốn tạo thêm sức mạnh mới, phải củng cố sự thống nhất đất nước bằng cách hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của sự nghiệp thống nhất.
2. Thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước
Sau ngày 30-4-1975 tuy nhân dân ta làm chủ toàn bộ đất nước, đất nước đã thống nhất, nhưng về mặt Nhà nước thì còn hai chính phủ, ở hai miền có hai mặt trận và các đoàn thể quần chúng riêng. Tháng 8-1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã quyết định: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24, tháng 10-1975, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp phiên đặc biệt bàn việc thống nhất nước nhà và cử đoàn đại biểu hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam. Tháng 11-1975, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ và đại biểu nhân sĩ, trí thức đã họp hội nghị liên tịch bàn việc thống nhất nước nhà và cử đoàn đại biểu hiệp thương với đoàn đại biểu miền Bắc.
Hội nghị hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu Nam, Bắc họp tại Sài Gòn từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975 đã ra Thông cáo khẳng định nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước nhà cần được sớm thống nhất về mặt Nhà nước. Hội nghị nhất trí: Cần tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976, theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị nêu rõ tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp uỷ lãnh đạo cuộc bầu cử.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam quyết định lấy ngày 25-4-1976 là ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất và thành lập Hội đồng bầu cử toàn quốc.
Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước đã phấn khởi đi bỏ phiếu, đạt tỉ lệ 98,77% (miền Bắc 99,36%, miền Nam 98,39%). 492 đại biểu đã được bầu vào Quốc hội gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, đại biểu các tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo.
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước - đây là Quốc hội khoá VI, biểu thị ý chí của toàn dân ta xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, là thắng lợi của lòng quyết tâm phấn đấu thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà".
Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội.
Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất của Đảng - đã trình bày trước Quốc hội tình hình và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam và kiến nghị về đường lối đối nội và đối ngoại của Nhà nước.
Ngày 2-7-1976, Quốc hội đã quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quốc kỳ nền đỏ sao vàng, Thủ đô là Hà Nội, quốc ca là bài Tiến quân ca.
Quốc hội khoá VI quyết định thành phố Sài Gòn được mang tên Hồ Chí Minh và quyết định thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước, các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch, đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội và đồng chí Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tháng 6-1976, theo chủ trương của Trung ương Đảng, các tổ chức quần chúng thanh niên, phụ nữ, công đoàn và Mặt trận Tổ quốc cũng họp hội nghị hợp nhất, thống nhất cơ quan lãnh đạo trong toàn quốc.
II. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ IV CỦA ĐẢNG (THÁNG 12-1976)
Quá trình chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng được tiến hành từ sau khi ký Hiệp định Pari. Các dự thảo văn kiện trình Đại hội đã tiếp thu ý kiến của Đại hội các cấp bộ Đảng.
Đại hội trù bị của Đại hội IV họp từ ngày 29-11 đến ngày 10-12-1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước.
Đại hội chính thức họp từ ngày 14 đến 20-12-1976. Đến tham dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế.
Sau lời khai mạc của đồng chí Tôn Đức Thắng, đồng chí Trường Chinh chủ trì phiên họp, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất trình bàyBáo cáo chính trị, đồng chí Phạm Văn Đồng trình bàyBáo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), đồng chí Lê Đức Thọ trình bàyBáo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.
Nội dung cơ bản của các văn kiện trình Đại hội như sau:
Báo cáo chính trị đánh giá ý nghĩa thắng lợi và rút ra bài học của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Báo cáo chính trị nêu ba đặc điểm của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
- Nước ta đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Tổ quốc ta đã hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với nhiều thuận lợi song cũng còn nhiều khó khăn do hậu quả của cuộc chiến tranh và tàn dư của chủ nghĩa thực dân gây ra.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh quốc tế thuận lợi, song cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa thế lực cách mạng và thế lực phản cách mạng trên thế giới vẫn diễn ra gay go, quyết liệt.
Trên cơ sở phân tích những đặc điểm trên, Báo cáo chính trị vạch ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là:"Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".
Báo cáo chính trị nêu lên đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn cách mạng mới ở nước ta: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc".
Đại hội quyết định phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976-1980:
- Xây dựng một bước cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp.
- Cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân lao động.
Đại hội đã đề ra nhiệm vụ và chính sách đối ngoại nhằm tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, củng cố quốc phòng, cùng các nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ trên thế giới góp phần vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Đại hội đã thảo luận và quyết định một số điểm bổ sung vào Điều lệ Đảng. Điều lệ mới đặt lại chức danh Tổng Bí thư thay chức danh Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 101 uỷ viên chính thức và 32 uỷ viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương mới họp Hội nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Tổng Bí thư. Bộ Chính trị gồm 14 uỷ viên chính thức, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.
Đại hội thông qua các nghị quyết về đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thànhĐảng Cộng sản Việt Nam và thông qua các Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế, Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.
Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc diễn văn bế mạc.
Đại hội IV là đại hội thống nhất Tổ quốc và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiếp tục khẳng định con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn, xác định đường lối chung đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Đại hội IV có một số hạn chế:
- Đại hội chưa tổng kết được những kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
- Đại hội chưa nhấn mạnh việc bức thiết phải làm sau chiến tranh là khắc phục hậu quả chiến tranh.
- Đại hội dự kiến thời gian phấn đấu để hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng 20 năm là không hiện thực.
Nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Ban Chấp hành Trung ương khoá IV đã có nhiều hội nghị chuyên bàn về kinh tế. Hội nghị lần thứ hai (tháng 7-1977) bàn về nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Hội nghị lần thứ ba (tháng 12-1977) bàn về kế hoạch kinh tế năm 1978, về khắc phục sự trì trệ trong sản xuất và quản lý kinh tế. Hội nghị lần thứ năm (tháng 12-1978) đề ra ba nhiệm vụ lớn của năm 1979: ổn định và bảo đảm đời sống, bảo đảm an ninh, bảo vệ Tổ quốc; xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đáp ứng yêu cầu trước mắt; đồng thời chuẩn bị điều kiện phát triển cho những năm sau.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV chủ trương phấn đấu đến năm 1980 hoàn thành cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh phía Nam. Kết quả cải tạo công thương tư bản tư doanh ở miền Nam trong những năm 1976-1979 như sau:
- Đối với công nghiệp tư bản tư doanh, đã cải tạo được 3452 cơ sở trong tổng số 3560 với các hình thức xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác gia công.
- Đối với tiểu thủ công nghiệp và thủ công nghiệp, đã tổ chức được 4.000 tổ đoàn kết sản xuất, thu hút được 70% lao động chuyên nghiệp trong các ngành nghề quan trọng.
- Đối với thương nghiệp, đã chuyển gần 5.000 tư sản thương nghiệp và 9 vạn tiểu thương sang sản xuất. Trong thời gian cải tạo, số tiểu thương kinh doanh lương thực và nông sản lại phát triển thêm 10 vạn người.
Về công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa và củng cố quan hệ sản xuất trong nông nghiệp, đến năm 1979 toàn miền Bắc có 4.154 hợp tác xã có quy mô toàn xã, ở một số địa phương đã hợp nhất 2-3 hợp tác xã thành một hợp tác xã có quy mô trên 1.000 ha.
Mô hình hợp tác xã lớn và tập trung bộc lộ nhược điểm ngày càng rõ rệt: ruộng đất bị bỏ hoang, xã viên không thiết tha với ruộng đồng, các ngành nghề làm ăn thua lỗ, thu nhập của xã viên ngày càng thấp. Từ cuối những năm 1970 đã xuất hiện hiện tượng "khoán chui".
Do vị trí địa lý và đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội, nông thôn miền Nam (chủ yếu là Nam Bộ) có nhiều đặc điểm khác biệt với nông thôn miền Bắc
do đó đòi hỏi phải có hình thức tổ chức và quản lý thích hợp.
Cuối năm 1975, tình hình ruộng đất ở các tỉnh phía Nam diễn biến phức tạp. Đảng chủ trương điều chỉnh ruộng đất, coi đó là bước chuẩn bị để đưa nông dân phía Nam đi dần vào con đường làm ăn tập thể.
Trong những năm 1976-1978, Đảng và Nhà nước đã tiến hành xây dựng thí điểm một số hợp tác xã nông nghiệp. Đến năm 1979,ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, đã căn bản hoàn thành việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể dưới hai hình thức: hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Ở Nam Bộ, đã lập được 12.246 tập đoàn sản xuất.
Về sản xuất nông nghiệp, trên phạm vi cả nước từ năm 1976 đến năm 1980, đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp không ngừng tăng, nhưng năng suất lúa, sản lượng lương thực giảm đến mức thấp nhất. Nhà nước đã phải nhập khẩu lương thực ngày càng lớn.
Về sản xuất công nghiệp, tốc độ tăng bình quân hàng năm thời kỳ 1976 - 1980 là 0,6%. Các mục tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đề ra đều không đạt. Tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1,4% hàng năm, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4% trong khi dân số tăng 2,24% một năm.
Nền kinh tế nước ta thời kỳ 1976-1980 có chiều hướng đi xuống. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do hậu quả của 30 năm chiến tranh nhưng chủ yếu là do sai lầm, khuyết điểm duy ý chí trong quá trình lãnh đạo và quản lý kinh tế.
Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Bộ máy các cấp của Đảng được kiện toàn. Số cấp uỷ viên được đào tạo ngày một tăng. Số đồng chí có trình độ đại học, trung học tăng từ 1% đến 5%. Trong 2 năm 1977-1978 có 42.741 người được kết nạp vào Đảng, trong đó có 85,2% tuổi đời dưới 30. Việc đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng được tiến hành thường xuyên.
Các hoạt động về đối ngoại của Đảng và Nhà nước được triển khai mạnh mẽ. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và bầu bạn đã tận tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Ngày 20-9-1977, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc và thành viên của hơn 20 tổ chức quốc tế khác. Đến cuối năm 1980 đã có 106 nước lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Đầu tháng 11-1978, các đồng chí Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng sang thăm Liên Xô và ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước.