Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 6: Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đánh thắng ba chiến lược chiến tr

Bút Nghiên

ButNghien.com
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 6:
Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đánh thắng ba chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ (1961 - 1972)

I. XÂY DỰNG MIỀN BẮC, ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT" CỦA ĐẾ QUỐC MỸ (TỪ NĂM 1961 ĐẾN ĐẦU NĂM 1965)

1. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và chủ trương của Đảng chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách mạng

Với thắng lợi của công cuộc củng cố miền Bắc và cao trào Đồng khởi ở miền Nam, cách mạng Việt Nam đứng trước tình thế mới đầy triển vọng. Tuy sự phát triển của chủ nghĩa xã hội lúc đó có những biểu hiện trì trệ và trong phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện sự bất đồng, song sức mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn là một dòng thác cách mạng ngăn chặn những âm mưu đen tối của chủ nghĩa đế quốc, là chỗ dựa vững chắc cho cách mạng thế giới và cách mạng nước ta. Phong trào giải phóng dân tộc giành thắng lợi ở hơn 60 nước châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh là đồng minh hỗ trợ mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, hoà bình và tiến bộ xã hội của công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa là một dòng thác nữa đánh vào chính sách phản động gây chiến của đế quốc Mỹ.

Trước tình hình trên, đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ G. Kennơđi buộc phải điều chỉnh chiến lược từ "trả đũa ồ ạt" sang "phản ứng linh hoạt" với ba loại chiến tranh: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và chiến tranh tổng lực.

Mục tiêu chính của "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ ở miền Nam là dập tắt phong trào "Đồng khởi", bình định miền Nam trong 18 tháng với lực lượng quân nguỵ do Mỹ trang bị và cố vấn Mỹ chỉ huy, sử dụng chiến thuật cơ động bằng trực thăng và thiết giáp để tiêu diệt lực lượng vũ trang cách mạng; lập hệ thống ấp chiến lược để ngăn cản phong trào nổi dậy; ngăn chặn chi viện của miền Bắc, cô lập miền Bắc, khi cần sẽ ném bom miền Bắc.

"Chiến tranh đặc biệt" là một chiến lược chiến tranh thâm độc và nguy hiểm gây nhiều khó khăn cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta. Tuy nhiên, ra đời trong thế bị động, "chiến tranh đặc biệt" không những không phát huy được tác dụng mà còn từng bước bị bẻ gẫy trước cao trào nổi dậy và tiến công, giữ vững và mở rộng quyền làm chủ của nhân dân ta ở miền Nam.

Tháng 1-1961, Bộ Chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách mạng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập Trung ương cục miền Nam thay cho Xứ uỷ Nam Bộ (Khu V và Trị Thiên vẫn trực thuộc Trung ương Đảng). Ngày 31-1-1961, Bộ Chính trị ra Chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng miền Nam. Chỉ thị nhấn mạnh phải tăng cường đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ trước mắt là nhanh chóng xây dựng lực lượng về cả hai mặt chính trị và quân sự: tập hợp đông đảo lực lượng chống Mỹ trong Mặt trận dân tộc thống nhất, phát động phong trào đấu tranh chính trị mạnh mẽ của quần chúng; tích cực tiêu diệt sinh lực địch, bảo tồn và phát triển lực lượng ta, làm tan rã nguỵ quyền, nguỵ quân trên phạm vi ngày càng rộng; tiến lên làm chủ rừng núi, giành lại toàn bộ đồng bằng, ra sức xây dựng cơ sở và đẩy mạnh đấu tranh chính trị ở đô thị, tạo mọi điều kiện và nắm mọi thời cơ thuận lợi để đánh đổ chính quyền tay sai Mỹ, giải phóng miền Nam.

Tháng 2-1961, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về nhiệm vụ quân sự, Nghị quyết nêu rõ phải kiềm chế Mỹ và thắng Mỹ ở miền Nam, chuẩn bị sẵn sàng đối phó với âm mưu và hành động mở rộng chiến tranh của địch. Bộ Chính trị chủ trương củng cố quốc phòng trên miền Bắc, xây dựng ở miền Nam một lực lượng vũ trang tập trung đủ mạnh; giúp cách mạng Lào xây dựng lực lượng vũ trang và sẵn sàng tổ chức bộ đội tình nguyện sang phối hợp chiến đấu khi bạn yêu cầu: kiện toàn bộ máy chỉ đạo quân sự của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Đảng đối với lực lượng vũ trang, tổ chức hệ thống chỉ huy quân sự trực thuộc các cấp Đảng bộ ở miền Nam. Bộ Chính trị quyết định giao cho Quân uỷ Trung ương nhiệm vụ chỉ đạo toàn bộ công tác quân sự ở miền Nam.

Tháng 9-1961, Bộ Chính trị thông qua đề án tăng cường cho miền Nam từ 3 đến 4 vạn cán bộ, chiến sĩ đã được huấn luyện chính quy trên miền Bắc; tăng lực lượng, phương tiện cơ giới cho Đoàn vận tải quân sự 559 trên đường Trường Sơn.

Quán triệt chỉ thị và nghị quyết của Bộ Chính trị, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ nhất (tháng 10-1961) đã nhất trí khẳng định sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hội nghị thường vụ Khu uỷ Khu V (tháng 5-1961) chủ trương đẩy mạnh tiến công địch cả về chính trị và quân sự nhằm tiếp tục củng cố và mở rộng căn cứ địa miền núi, phá thế kìm kẹp của địch ở đồng bằng.

2. Đẩy mạnh xây dựng miền Bắc

Chỉ đạo thực hiện kế hoạch 5 năm (1961 - 1965), Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tiến hành một số cuộc hội nghị bàn giải pháp xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và củng cố miền Bắc về mọi mặt.

Tháng 1-1961, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) thông qua những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch nhà nước năm 1961, tập trung vào việc củng cố và phát triển hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Tháng 7-1961,Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ năm chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện, giải quyết vấn đề lương thực là chính, coi trọng cây công nghiệp, đẩy mạnh chăn nuôi, thả cá, nghề phụ.

Tháng 2-1961, Bộ Chính trị quyết định mở cuộc chỉnh huấn mùa xuân 1961. Ban Bí thư ra nghị quyết đẩy mạnh phong trào thi đua trong sản xuất, học tập, công tác. Tổng Công đoàn Việt Nam phát động phong trào phấn đấu trở thành tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa. Nhà máy cơ khí Duyên Hải (Hải Phòng) được công nhận là lá cờ đầu phong trào thi đua hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật của ngành công nghiệp. Hợp tác xã Đại Phong (Quảng Bình) là lá cờ đầu phong trào thi đua trong nông nghiệp. Trong quân đội có phong trào thi đuaBa nhất (lập thành tích nhiều nhất, đều nhất, giỏi nhất). Trong ngành giáo dục có phong tràoHai tốt (dạy tốt, học tốt), đi đầu là Trường phổ thông cấp II Bắc Lý (Hà Nam).

Năm 1961 sản lượng lương thực trên miền Bắc đạt 5,8 triệu tấn, tăng 8,8% so với năm 1960. Tháng 11-1961, Bộ Chính trị chủ trương mở cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc. Qua cuộc vận động, các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp được củng cố thêm một bước; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền đối với nông nghiệp có nhiều tiến bộ. Đến năm 1965, 88,8% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp, trong đó 71,7% số hộ lên hợp tác xã bậc cao. Từ một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng suất thấp và tự túc tự cấp, nông nghiệp miền Bắc đã phát triển tương đối toàn diện, giải quyết được một phần nhu cầu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và một phần sản phẩm cho xuất khẩu, bảo đảm cho miền Bắc ổn định về kinh tế - xã hội, phát huy vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn. Tuy vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất và tổ chức sản xuất nông nghiệp còn có nhiều yếu kém, trình độ quản lý của cán bộ non yếu, cơ sở vật chất nghèo nàn, nông cụ chủ yếu là thô sơ.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 6-1962,Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ bảy (mở rộng), bàn việc xây dựng và phát triển công nghiệp trong kế hoạch 5 năm lần thứ nhất. Tháng 7- 1963, Bộ Chính trị mở cuộc vận động "Nâng cao ý thức trách nhiệm tăng cường quản lý kinh tế tài chính, cải tiến kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí, quan liêu" (gọi tắt là "Ba xây, ba chống").
Từ năm 1961 đến năm 1965, miền Bắc đã thực hiện được một bước đáng kể kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật. Các ngành công nghiệp chủ yếu như điện, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng... hình thành và phát triển nhanh. So với năm 1955 sản lượng điện năm 1965 tăng gấp 10 lần, cơ khí tăng bình quân hàng năm 30%. Đến năm 1965, 1.132 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh đã được xây dựng, đội ngũ cán bộ công nhân và lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lên tới 650.000 người. Mặt yếu kém của công nghiệp là chưa hướng vào mục tiêu trung tâm phục vụ sản xuất nông nghiệp và hàng tiêu dùng.

Tháng 12-1964, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III họp Hội nghị lần thứ 10 bàn về thương nghiệp và giá cả. Hội nghị đã bổ sung hai điểm quan trọng vào đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa: a) Trong điều kiện còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu, lực lượng sản xuất chưa phát triển, sản phẩm xã hội chưa dồi dào, sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá ở miền Bắc nước ta là một tất yếu khách quan; b) Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, lấy cách mạng kỹ thuật làm then chốt.

Kế hoạch 5 năm xây dựng miền Bắc cũng thu được nhiều thành tựu. Về văn hoá - xã hội, năm 1965 toàn miền Bắc có 4,5 triệu người đi học (trong 16 triệu dân). Năm 1965 đã có 10.290 trường phổ thông các cấp (năm 1960 có 7.066 trường, với gần 3 triệu học sinh); có 18 trường đại học và cao đẳng với 34.000 sinh viên (năm 1960 có 9 trường và 8.000 sinh viên) và có gần 100 đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp. Các tệ nạn xã hội giảm mạnh. Đạo đức mới, nếp sống mới xã hội chủ nghĩa hình thành rõ nét.

Về quốc phòng và an ninh, ba thứ quân đã nâng cao một bước sức mạnh chiến đấu. Dân quân, tự vệ được tổ chức rộng khắp với số lượng 1,4 triệu người, trong đó 1/5 được trang bị vũ khí, 30% ngân sách quốc phòng được đầu tư xây dựng các công trình quân sự. Các lực lượng làm nhiệm vụ an ninh quốc gia và giữ vững trật tự an toàn xã hội hoạt động có hiệu quả. Đường Trường Sơn hoàn thành tốt việc chi viện góp phần quan trọng xây dựng hệ thống lãnh đạo, chỉ huy quân sự và tăng cường lực lượng vũ trang tập trung miền Nam.

Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước đã nâng cao địa vị quốc tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của các nước anh em và nhân dân thế giới đối với cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam. Trước diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III (12-1963) đã nêu rõ lập trường, quan điểm của Đảng ta về chiến lược và sách lược đấu tranh cách mạng, chiến tranh và hoà bình, phong trào giải phóng dân tộc, về quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và đoàn kết quốc tế đặt ra những yêu cầu mới về xây dựng Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Tiếp theo đợt sinh hoạt chính trị mùa xuân 1961, Trung ương Đảng chủ trương tăng cường công tác giáo dục lý luận và chính trị (tháng 3-1962), mở cuộc vận động xây dựng chi bộ và đảng bộ 4 tốt (tháng 6-1962), kiện toàn tổ chức và cải tiến lề lối làm việc từ Trung ương đến cơ sở, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, kết nạp đảng viên mới. Từ năm 1961 đến năm 1965 đã kết nạp 30 vạn đảng viên, tổ chức Đảng ở các cấp được củng cố.

Đến cuối năm 1964, kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã giành được những thắng lợi quan trọng. Miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc của cả nước.

3. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ phá sản


Thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt", Mỹ vạch ra kế hoạch Xtalây - Taylo nhằm bình định miền Nam trong 18 tháng. Viện trợ quân sự của Mỹ tăng gấp hai lần, quân chính quy nguỵ từ 15 vạn tăng lên tới 30 vạn. Lực lượng yểm trợ và cố vấn của Mỹ tăng từ 2.000 tên năm 1960 lên gần 1,2 vạn tên năm 1962. Tháng 2-1962, Mỹ chuyển cơ quan viện trợ (MAAG) thành Bộ tư lệnh quân sự (MACV). (MAAG (Military Assistance and Advisory Group): Phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự Mỹ ở Đông Dương thành lập năm 1950 để phụ trách viện trợ quân sự Mỹ cho lực lượng Pháp tham chiến ở Đông Nam Á. MACV (Military Assistance Command Vietnam): Bộ tư lệnh viện trợ quân sự Mỹ ở miền Nam Việt Nam đặt dưới sự chỉ huy của Tư lệnh Thái Bình Dương, thực chất là Bộ Tư lệnh của quân đội xâm lược Mỹ ở miền Nam Việt Nam). Mỹ - nguỵ coi việc lập ấp chiến lược là "xương sống" của chiến lược "chiến tranh đặc biệt" nhằm kìm kẹp dân, lùng bắt cán bộ, đảng viên của ta, đánh phá tận gốc phong trào đấu tranh của quần chúng. Chúng dự tính đến hết năm 1962 tập trung 10 triệu dân ở nông thôn vào 16.000 ấp chiến lược. Để lập ấp chiến lược, Mỹ - nguỵ tiến hành những cuộc hành quân càn quét, dồn dân, thực hiện các chiến thuật mới "trực thăng vận", "thiết xa vận" đóng thêm hơn 1.000 đồn bốt.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đấu tranh kiên cường, chống trả các hành động chiến tranh mới của địch. Đảng bộ miền Nam được kiện toàn với hệ thống tổ chức thống nhất, tập trung từ Trung ương Cục đến các chi bộ. Mặt trận giải phóng làm thêm chức năng của chính quyền cách mạng.

Ngày 15-2-1961, các lực lượng vũ trang ở miền Nam được thống nhất với tên gọi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Lực lượng vũ trang ba thứ quân được chú trọng xây dựng. 50% số đảng viên toàn Đảng bộ miền Nam được điều động làm nòng cốt xây dựng bộ đội tập trung. Phối hợp với đấu tranh chính trị và binh vận, lực lượng vũ trang đẩy mạnh hoạt động tiêu hao, tiêu diệt địch, đẩy lùi nhiều cuộc càn quét của quân nguỵ, hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành và giữ quyền làm chủ. Trong năm 1961 hơn 33,8 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính trị. Tính đến cuối năm 1961 ta đã phá thế kìm kẹp ở hơn 8.000 thôn, giải phóng 6,5 triệu dân trong số 14 triệu ở miền Nam. Các Đảng bộ lãnh đạo thực hiện từng bước cải cách ruộng đất, chia thêm cho nông dân 4 vạn hécta đất canh tác.

Ngày 16-2-1962, Đại hội lần thứ nhất Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam họp cử ra Uỷ ban Trung ương do luật sư Nguyễn Hữu Thọ làm Chủ tịch.

Tháng 2-1962, Bộ Chính trị họp khẳng định những thắng lợi to lớn trong năm 1961, đề ra nhiệm vụ trước mắt là đẩy mạnh đấu tranh chính trị, quân sự, giành và giữ thế chủ động, tích cực xây dựng lực lượng về mọi mặt, phát triển cơ sở Đảng ở miền Nam.

Tháng 4-1962, Hội nghị Thường vụ Trung ương Cục và Hội nghị Khu uỷ Khu V quán triệt nghị quyết Bộ Chính trị, nhấn mạnh ba nhiệm vụ lớn: tích cực phá ấp chiến lược; ra sức xây dựng và mở rộng căn cứ địa; khẩn trương xây dựng lực lượng vũ trang ba thứ quân, đẩy mạnh tác chiến tiêu hao, tiêu diệt địch. Nhiều tỉnh tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm chống càn, phá ấp chiến lược, vận dụng phương châm đấu tranh "hai chân, ba mũi". Tháng 11-1962, Trung ương Cục mở hội nghị tổng kết kinh nghiệm chiến tranh du kích.

Cũng trong thời gian này, cuộc chiến tranh cách mạng ở Lào đã có bước phát triển nhảy vọt. Đế quốc Mỹ và tay sai buộc phải chấp nhận ngừng bắn, thành lập chính phủ liên hiệp ba phái. Tháng 7-1962, Hiệp định Giơnevơ về Lào được ký kết, cam kết tôn trọng nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Lào.

Từ thực tiễn cuộc kháng chiến, ngày 6-12-1962, Bộ Chính trị họp, khẳng định ta phải và có khả năng kiềm chế và thắng địch trong "chiến tranh đặc biệt" nhưng phải sẵn sàng đối phó với mọi hoạt động phiêu lưu, mạo hiểm của đế quốc Mỹ, tiến hành một cuộc chiến tranh toàn dân và trường kỳ, trước mắt là làm thất bại kế hoạch tiến công của địch trong năm 1963.

Bước sang năm 1963, cuộc kháng chiến miền Nam giành được nhiều thắng lợi lớn. Mở đầu là trận Ấp Bắc (Mỹ Tho) ngày 2-1-1963, lần đầu tiên tại vùng đồng bằng lực lượng vũ trang phối hợp với lực lượng chính trị đánh bại cuộc càn quét lớn của Mỹ - nguỵ, mở ra khả năng đánh bại các chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng và thiết giáp của chúng. Nhân thắng lợi này, Trung ương Cục phát động phong trào "Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công". Hàng nghìn ấp chiến lược được chuyển thành làng chiến đấu. Phong trào đấu tranh ở nông thôn tác động mạnh đến các đô thị, thúc đẩy phong trào đấu tranh của công nhân, nhân dân lao động, sinh viên, phật tử chống Mỹ - nguỵ.

Nguỵ quyền Sài Gòn khủng hoảng trầm trọng. Ngày 1-11-1963, Mỹ đạo diễn cuộc đảo chính giết Diệm và Nhu. Kế hoạch Xtalây - Taylo bị phá sản.

Tháng 12-1963, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ chín (khoá III) bàn về cách mạng miền Nam, tiếp tục khẳng định phương châm kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, trong đó đấu tranh vũ trang có vị trí quyết định trực tiếp. Hội nghị nhấn mạnh: tiến hành cuộc chiến tranh cách mạng giải phóng miền Nam là nhiệm vụ của cả nước nhưng do chủ trương kiềm chế và thắng địch ở miền Nam nên cách tham gia của mỗi miền khác nhau. Quân và dân miền Bắc phải tăng cường hơn nữa tiềm lực kinh tế, quốc phòng, đẩy mạnh chi viện miền Nam về mọi mặt, khẩn trương chuẩn bị để đánh bại hành động mở rộng chiến tranh của Mỹ.

Đầu năm 1964, Giônxơn lên làm Tổng thống Mỹ thay Kennơđi (bị ám sát), Giônxơn chủ trương tăng cường mở rộng "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam Việt Nam, ném bom miền Bắc Việt Nam và Lào, đe doạ, gây sức ép hòng buộc miền Bắc ngừng chi viện cho miền Nam.

Ngày 27-3-1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tậpHội nghị chính trị đặc biệt. Người vạch rõ âm mưu và hành động chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, khẳng định sự thất bại của "chiến tranh đặc biệt" là không thể tránh khỏi và cách giải quyết đúng đắn vấn đề Việt Nam là quân đội và vũ khí Mỹ phải rút khỏi miền Nam. Người tuyên bố: nếu đế quốc Mỹ liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại thảm hại; quân và dân miền Bắc nêu cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, "làm việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt".

Tháng 6-1964, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị "tăng cường sẵn sàng chiến đấu, phá tan âm mưu khiêu khích, đánh phá miền Bắc của không quân địch". Ngày 2-8-1964, bộ đội hải quân anh dũng đánh đuổi tàu chiến Mỹ xâm phạm vùng biển miền Bắc. Ngày 5-8-1964, sau hàng loạt hành động khiêu khích phá hoại có hệ thống và dựng lên "sự kiện Vịnh Bắc Bộ" đánh lừa Quốc hội, nhân dân Mỹ và dư luận thế giới, chính quyền Mỹ chính thức dùng không quân đánh phá miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại quy mô lớn, dài ngày và vô cùng tàn bạo.
Với tinh thần sẵn sàng chiến đấu cao, được chuẩn bị tốt về mọi mặt, các đơn vị bộ đội hải quân, phòng không và lực lượng vũ trang các địa phương đã nổ súng kịp thời, anh dũng đánh trả các đợt tiến công của địch, bắn rơi 8 máy bay hiện đại, bắn bị thương một số chiếc khác, bắt sống một giặc lái. Chiến thắng ngày 5-8-1964 chứng tỏ quân và dân ta có khả năng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, cổ vũ mạnh mẽ khí thế chiến đấu, củng cố niềm tin đánh thắng đế quốc Mỹ của quân và dân cả nước.

Tháng 9-1964, Bộ Chính trị họp nhận định tình hình, quyết định động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tập trung mọi khả năng, đẩy mạnh tác chiến tập trung quy mô chiến dịch, giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong một vài năm tới. Tháng 9-1964, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng cùng nhiều cán bộ quân sự cao cấp được Bộ Chính trị cử vào miền Nam trực tiếp phụ trách, chỉ đạo phong trào.

Chấp hành chủ trương của Bộ Chính trị, ngày 11-10-1964, Quân uỷ Trung ương chỉ thị "mở đợt hoạt động Đông Xuân 1964-1965 trên khắp chiến trường miền Nam". Ở Khu V (gồm cả Tây Nguyên và Trị Thiên), quân và dân ta giành thắng lợi liên tiếp trong các trận đánh, các chiến dịch An Lão, Đèo Nhông - Dương Liễu, Việt An, Ba Gia... Ở Nam Bộ thắng lợi nổi bật là các chiến dịch Bình Giã, Đồng Xoài với lực lượng tập trung quy mô nhiều trung đoàn trong mỗi chiến dịch, tiêu diệt nhiều tiểu đoàn địch. Đòn tiến công quân sự hỗ trợ nhân dân nổi dậy phá tan từng mảng lớn ấp chiến lược. Ở thành thị, bộ đội đặc công, biệt động đánh vào một loạt căn cứ, hậu cứ, sân bay, kho tàng.

Nguỵ quân, nguỵ quyền đứng trước nguy cơ bị tiêu diệt và sụp đổ, không làm được chức năng là công cụ chủ yếu để tiến hành chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ. Chiến lược "chiến tranh đặc biệt" bị phá sản.

Thất bại của chiến lược "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam Việt Nam có ý nghĩa quốc tế quan trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: "Cuộc "chiến tranh đặc biệt" mà chúng đang thí nghiệm ở miền Nam Việt Nam đã thất bại, thì chúng cũng sẽ thất bại ở bất kỳ nơi nào khác".
 
II. CHUYỂN HƯỚNG XÂY DỰNG MIỀN BẮC, ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC "CHIẾN TRANH CỤC BỘ" (1965-1968)

1. Chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ và Nghị quyết lần thứ 11, 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III)

Đầu năm 1965, Mỹ chuyển sang chiến lược "chiến tranh cục bộ", đưa quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam và ném bom miền Bắc. Mục tiêu của Mỹ là tiêu diệt chủ lực quân giải phóng, bình định miền Nam, buộc phía Việt Nam phải ngồi vào bàn đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Để tránh gây ảnh hưởng xấu tới thế bố trí chiến lược toàn cầu, cũng như tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Mỹ, tránh lôi kéo các nước lớn như Trung Quốc, Liên Xô trực tiếp tham chiến, chính quyền Giônxơn chủ trương đưa quân Mỹ vào nhanh và rút ra nhanh, nghĩa là muốngiành thắng lợi trong một thời gian ngắn.

Từ mùa hè năm 1965, quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ (Nam Triều Tiên, Úc, Niu Dilân...) ồ ạt đổ bộ vào miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1965 đội quân đó lên tới hơn 20 vạn, trong đó có nhiều sư đoàn, lữ đoàn tinh nhuệ của Mỹ.

Tháng 7-1965, Giônxơn chấp thuận kế hoạch chiến lược "tìm và diệt" của đại tướng Oétmolen, Tư lệnh Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam. Mỹ dự tính đạt các mục tiêu chiến lược trên đây trong khoảng hai năm đến hai năm sáu tháng (từ tháng 7-1965 đến giữa hoặc cuối năm 1967).

Để có một chính quyền tay sai đắc lực hơn, ngày 18-6-1965, Mỹ đạo diễn cho Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ làm đảo chính lật đổ Nguyễn Khánh, lập chính phủ quân sự. Trên miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ từng bước được mở rộng về quy mô và cường độ. Mỹ đồng thời đẩy mạnh "chiến tranh đặc biệt" ở Lào; gây sức ép nhằm buộc chính phủ Vương quốc Campuchia từ bỏ chính sách trung lập. Trên trường quốc tế, Mỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung và mở "chiến dịch hoà bình" hòng cô lập Việt Nam. Trong nước, chính quyền Mỹ thi hành các biện pháp bưng bít tin tức, không gọi lính trù bị, không tăng thuế, với hy vọng duy trì được sự ổn định nội bộ, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của Quốc hội và nhân dân Mỹ đối với chiến tranh Việt Nam.

Việc Mỹ đổ quân vào miền Nam và "leo thang" đánh phá miền Bắc đặt ra cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta câu hỏi lớn: Việt Nam có đánh được Mỹ không, đánh Mỹ và thắng Mỹ bằng cách nào? Sự nghiệp xây dựng miền Bắc vẫn tiếp tục hay phải dừng lại?

Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) tháng 3-1965 đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân, hải quân Mỹ, phát huy vai trò của hậu phương lớn đối với tiền tuyến miền Nam, làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng hai nước Lào, Campuchia.

Mọi hoạt động ở miền Bắc nhanh chóng chuyển hướng. Các cơ quan, nhà máy, trường học và một bộ phận dân cư khẩn trương phân tán, sơ tán khỏi những vùng trọng điểm đánh phá của địch. Các phong trào thi đua dấy lên mạnh mẽ, rộng khắp, liên tục, với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Chỉ một thời gian ngắn, gần 27 vạn thanh niên được động viên vào quân đội. Đến cuối năm 1965 quân chủ lực miền Bắc tăng gấp 2 lần, dân quân, tự vệ tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng.

Được miền Bắc tăng sức chi viện, chủ lực Quân giải phóng miền Nam phát triển từ 10 trung đoàn (1964) lên tới 5 sư đoàn, 11 trung đoàn và một số trung đoàn, tiểu đoàn binh chủng kỹ thuật. Toàn bộ lực lượng này được bố trí trên các địa bàn chiến lược rừng núi, nông thôn, đồng bằng, vùng ven và đô thị. Dựa trên thế trận đó, khi quân Mỹ vừa triển khai lực lượng, quân và dân miền Nam tổ chức một số trận đánh phủ đầu: Núi Thành (3-1965), Vạn Tường (8-1965), Plâyme (11-1965), Đất Cuốc, Bầu Bàng (11-1965), đánh thắng một số đơn vị tinh nhuệ lính thuỷ đánh bộ, kỵ binh không vận của Mỹ.

Từ thực tiễn đó,Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) tháng 12-1965 kết luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân đội viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn, cuộc chiến tranh trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm mưu trước mắt và lâu dài của địch.

Hội nghị hạ quyết tâm chiến lược: động viên lực lượng cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào. Phương châm chiến lược chung vẫn làđánh lâu dài, dựa vào sức mình là chính.Tuy nhiên, trong hoàn cảnh cụ thể lúc đó, Hội nghị cũng dự báo một khả năng khác: trên cơ sở quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, cần phải cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền đểtranh thủ thời cơ, giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam. Hội nghị nhấn mạnh việc tăng cường công tác tư tưởng và tổ chức của Đảng.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 và 12 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) có tầm quan trọng trong việc đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ.

2. Đánh thắng hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ - nguỵ trên chiến trường miền Nam

Trước mùa khô 1965-1966, Bộ Chính trị chỉ thị cho quân và dân ta ở miền Nam ra sức chuẩn bị thế trận và lực lượng, kiên quyết giữ vững thế chủ động tiến công, dùng hình thức phản công chiến dịch, phản công chiến đấu để tiêu diệt quân Mỹ và quân nguỵ, làm thất bại các mục tiêu cơ bản của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966. Trung ương Cục, các Khu uỷ và Quân khu uỷ, các cấp Đảng uỷ địa phương miền Nam khẩn trương mở các cuộc hội nghị bàn biện pháp tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức, gấp rút chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng chủ động đối phó với địch.

Những ngày đầu tháng 1-1966, Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ đã sử dụng 72 vạn quân với khối lượng vũ khí lớn mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất, đánh vào miền Đông Nam Bộ và Khu V. Mục tiêu là "tìm - diệt" quân giải phóng, giành lại quyền chủ động chiến trường, "bình định" các vùng nông thôn đồng bằng quan trọng.

Dựa vào thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng và phát triển trên ba vùng chiến lược, kết hợp chặt chẽ các hình thức tác chiến của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích, lực lượng vũ trang ta đã liên tục chặn đánh, kìm chân, phản công và tiến công, làm thất bại nhiều cuộc hành quân "tìm - diệt" của quân Mỹ và chư hầu ở Củ Chi, Nhà Đỏ - Bông Trang - Bình Mỹ, chiến khu D, chiến khu Dương Minh Châu, Bắc Bình Định, Nam Phú Yên, Tây Sơn Tịnh... Các đơn vị đặc công biệt động, pháo cối luồn sâu, các lực lượng du kích "vành đai diệt Mỹ" đã tổ chức các trận tập kích, phục kích, đánh vào hậu phương, hậu cứ của địch.

Trên mặt trận phá "bình định", kết hợp chặt chẽ "ba mũi giáp công" (quân sự, chính trị, binh vận), quân và dân ta đã phá vỡ kế hoạch lập 900 ấp và củng cố 19.000 ấp trong năm 1966 của địch.

Không "tìm - diệt" được chủ lực Quân giải phóng, lại bị Quân giải phóng tiêu diệt, tiêu hao, không đạt được chỉ tiêu "bình định" vùng nông thôn đồng bằng, tháng 4-1966, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải kết thúc cuộc phản công sớm hơn dự định.

Thất bại đó khiến cho một số quan chức cao cấp của Mỹ từ chỗ hoài nghi đi tới chỗ nhận ra rằng: sức mạnh quân sự Mỹ không thể kết thúc cuộc chiến tranh và giành phần thắng cho Mỹ như dự tính ban đầu. Song với bản chất ngoan cố và hiếu chiến, Mỹ vẫn tăng quân và trang bị vũ khí vào miền Nam. Đến giữa năm 1967, số quân Mỹ đã lên tới 469.000 tên. Với binh lực lớn, Mỹ mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào mùa khô 1966 - 1967.

Để phân tán lực lượng địch, tháng 4-1966, Bộ Chính trị quyết định tách hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên khỏi Khu V, để thành lập Khu uỷ và Quân khu Trị - Thiên - Huế. Tháng 6-1966, Quân uỷ Trung ương quyết định thành lập Mặt trận Đường 9 - Bắc Quảng Trị.

Cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của địch được thực hiện với một lực lượng lớn gồm 20 sư đoàn và 10 lữ đoàn chủ lực (trong đó có 7 sư đoàn và 6 lữ đoàn quân Mỹ), 4.000 máy bay, 2.500 xe tăng, xe bọc thép, nhằm đánh phá các căn cứ của ta ở phía Bắc Sài Gòn. Trong vòng 6 tháng, địch liên tiếp mở 3 cuộc hành quân quy mô lớn, nhằm "tìm - diệt" chủ lực và cơ quan chỉ đạo cách mạng miền Nam.

Phán đoán đúng ý đồ và thủ đoạn của địch, Trung ương Cục cùng Bộ chỉ huy Miền đã lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức cho các đơn vị, các địa phương bố trí lực lượng, hình thành thế trận liên hoàn giữa phía trước với phía sau, giữa bộ đội chủ lực với bộ đội địa phương và dân quân, du kích. Quân và dân vùng căn cứ và các địa phương miền Đông Nam Bộ đã trụ bám địa bàn, liên tục tiến công đánh bại các cuộc hành quân Attơnborơ, Xiđaphôn, Gianxơn Xiti, làm thất bại mục tiêu "tìm - diệt" của địch. Phối hợp với quân dân miền Đông Nam Bộ, trên các hướng Nam Bộ, Khu V, Tây Nguyên, Trị - Thiên, quân và dân ta đẩy mạnh các hoạt động, mở một số chiến dịch tiến công.

Trên mặt trận "bình định", quân và dân các vùng nông thôn đã kiên trì phương châm "ba bám", đẩy mạnh "ba mũi giáp công", chặn đánh quyết liệt các cuộc hành quân càn quét và bình định của Mỹ - nguỵ; trừng trị bọn tay sai, ác ôn; phá vỡ chính quyền cơ sở địch ở nhiều nơi; giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, xây dựng các ấp, xã chiến đấu liên hoàn, làng giải phóng, vành đai diệt Mỹ, bao vây, uy hiếp hoặc cắt đứt các tuyến giao thông huyết mạch của địch. Trong mùa khô 1966-1967 ta đã giành thêm 390 xã, ấp; nâng tổng số xã, ấp được giải phóng lên 700 xã và 6.750 ấp. Phong trào đấu tranh chính trị phát triển, từ đòi quyền dân sinh, dân chủ đến đấu tranh chống nguỵ quyền Thiệu - Kỳ.

Bị thất bại nặng, Bộ chỉ huy quân sự Mỹ buộc phải chấm dứt cuộc phản công chiến lược lần thứ hai vào giữa tháng 5-1967.

Thắng lợi của ta đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của quân viễn chinh Mỹ đã tạo ra cục diện mới trên chiến trường miền Nam.

3. Chuyển hướng xây dựng miền Bắc, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của không quân, hải quân Mỹ

Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân, hải quân của Mỹ là một bộ phận hữu cơ của chiến lược "chiến tranh cục bộ". Máy bay, tàu chiến Mỹ đánh phá ác liệt hầu hết các vị trí quân sự và dân sự quan trọng, thả mìn phong toả các cửa biển, lạch sông hòng ngăn chặn sự tiếp tế bên ngoài vào miền Bắc. Đến năm 1967, khối lượng bom đạn Mỹ dội xuống miền Bắc lớn gấp 7 lần năm 1965, gây nên nhiều tổn thất về người và của cho nhân dân ta.

Chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt, nhưng nhân dân miền Bắc cũng như nhân dân cả nước không hề nao núng.

Ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do!".

Ngay từ đầu và trong suốt quá trình chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất, quân và dân miền Bắc đã đánh trả mãnh liệt không quân, hải quân Mỹ, bắn hạ hàng nghìn máy bay, bắn cháy hàng chục tàu chiến Mỹ, tiêu diệt hoặc bắt sống nhiều giặc lái. Bảo đảm giao thông, vận tải thông suốt liên tục trở thành một công tác trọng tâm của kháng chiến. Đảng và Nhà nước đã phát động và tổ chức phong trào toàn dân làm công tác giao thông, vận tải, trong đó lực lượng giao thông, vận tải chuyên nghiệp là nòng cốt và bộ đội công binh, hậu cần, vận tải, phòng không là lực lượng xung kích.

Dưới bom đạn ác liệt, sản xuất nông nghiệp miền Bắc vẫn có bước phát triển. Sản lượng lương thực hàng năm trong những năm 1965 - 1968 vẫn đạt xấp xỉ năm 1961; hàng nghìn hợp tác xã đạt năng suất 5 tấn/ha. Sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp được duy trì, các nhà máy đã được sơ tán, bảo vệ để tiếp tục sản xuất. Việc xây dựng và phát triển công nghiệp địa phương được đặc biệt chú trọng. Nếu năm 1965 toàn miền Bắc có 205 xí nghiệp trung ương và 927 xí nghiệp địa phương thì đến năm 1969 con số tương ứng là 277 và 1.075. Một trong những thành tựu nổi bật là các mặt văn hoá, giáo dục, đào tạo cán bộ, y tế phát triển, góp phần bảo đảm cho miền Bắc càng đánh càng mạnh. Đời sống các tầng lớp nhân dân nói chung ổn định. Nhiều gia đình neo đơn, gia đình liệt sĩ, thương binh, bộ đội được tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chăm nom giúp đỡ. Vừa chiến đấu và sản xuất, miền Bắc vừa nỗ lực chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam. Trong khoảng thời gian 1965-1968, gần 89 vạn thanh niên miền Bắc được động viên vào lực lượng vũ trang. Hơn nửa lực lượng bộ đội chủ lực và gần 80% vũ khí đạn dược được sử dụng ở miền Nam là do Đảng, Nhà nước ta động viên từ miền Bắc đưa vào.

Tháng 1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ hơn nữa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới và nhân dân tiến bộ Mỹ, khoét sâu mâu thuẫn trong nội bộ địch, cô lập cao độ phái hiếu chiến trong giới cầm quyền Mỹ, hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và quân sự của quân và dân ta.

4. Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân

Mỹ đã tiến hành chiến tranh cục bộ với mọi thủ đoạn và biện pháp, song âm mưu giành thắng lợi quyết định ở miền Nam Việt Nam trong hai năm của Mỹ đã bị phá vỡ. Thất bại ở Việt Nam làm cho tình hình nước Mỹ trở nên không ổn định. Nước Mỹ đang đến gần năm vận động tranh cử Tổng thống. Dù là Tổng thống hiếu chiến, Giônxơn buộc phải thận trọng trong việc tính toán bước đi của Mỹ sao cho vừa tránh mọi sự đảo lộn bất ngờ trên chiến trường vừa xoa dịu được dư luận trong nước để bước vào năm tranh cử (1968) một cách thuận lợi.

Về phía ta, qua hai năm đương đầu với chiến tranh cục bộ, quân dân miền Nam đã phát huy mạnh mẽ chiến lược tiến công, từng bước bẻ gẫy hai gọng kìm "tìm - diệt" và "bình định", làm thất bại các mục tiêu quân sự, chính trị của Mỹ - nguỵ. Miền Bắc càng chứng tỏ tính bền vững của một hậu phương cùng một lúc làm tròn hai nhiệm vụ là: xây dựng, bảo vệ miền Bắc và chi viện cho miền Nam. Về đối ngoại, sự nghiệp chính nghĩa và đường lối đối ngoại đúng đắn của ta đã tranh thủ được ngày càng rộng rãi sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân và chính phủ nhiều nước - đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa, mặc dầu có sự bất đồng nghiêm trọng giữa Liên Xô và Trung Quốc.

Tất cả các nhân tố nói trên đã được Bộ Chính trị, Quân uỷ Trung ương theo dõi, kịp thời đánh giá để đi đến nhận định: một thời cơ mới đang xuất hiện, cần phải tìm cách khai thác triệt để nhằm tạo nên chuyển biến chiến lược có lợi cho ta. Ngay sau khi đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ-nguỵ, từ tháng 5-1967 Bộ Chính trị và các cơ quan chỉ đạo chiến lược đã có nhiều cuộc họp bàn về chủ trương chiến lược Đông Xuân 1967 - 1968. Bộ Chính trị đã đi đến kết luận: nếu cứ tiếp tục mở các hoạt động quân sự như trước, đánh theo cách thức cũ thì khó tận dụng được thời cơ và cuộc chiến sẽ vẫn diễn ra trong thế nhùng nhằng và kéo dài; nhưng mặt khác, trước đối thủ có quân số đông, hoả lực mạnh, sức cơ động cao và khả năng tiếp ứng bổ sung lực lượng nhanh như quân Mỹ thì phương án bao vây chiến lược để tiêu diệt lớn đội quân này là không hiện thực. Vì vậy, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng (tháng 12-1967) đã quyết định một phương thức tiến công mới nhằm tạo nên sự chuyển biến cục diện chiến tranh.Đó là cáchtổng công kích - tổng khởi nghĩa vào tất cả các đô thị - dinh luỹ của Mỹ - nguỵ trên toàn miền Nam.

Các chiến trường, các địa phương miền Nam được lệnh bắt tay ngay vào công tác chuẩn bị: tổ chức lại chiến trường, xây dựng phương án tác chiến và kế hoạch khởi nghĩa, triển khai công tác bảo đảm hậu cần, tăng cường lực lượng, bố trí thế trận. Để phân tán lực lượng địch, ta mở chiến dịch Khe Sanh và cùng với bạn Lào phối hợp mở chiến dịch Nậm Bạc.
Tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) thông qua Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 12-1967, Hội nghị nhận định: điểm cơ bản của tình hình vẫn là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn;xu thế của tình hình trong cả năm 1968 là địch sẽ ngày càng chuyển vào phòng ngự một cách bị động hơn trước.Hội nghị hạquyết tâm chiến lược: chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định. Để thực hiện quyết tâm đó, phải động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng lên bước phát triển cao nhất,dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định. Hướng tiến công được xác định gồm đòn đánh tiêu diệt của bộ đội chủ lực ở chiến trường rừng núi và đòn công kích quân sự kết hợp với nổi dậy của quần chúng đánh sập cơ quan đầu não của Mỹ - nguỵ ở các đô thị quan trọng, trên toàn miền Nam.Mục tiêu chiến lược là đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải chịu thua ở miền Nam, chấm dứt mọi hành động chiến tranh đối với miền Bắc. Hội nghị dự kiến các khả năng diễn biến của tình hình và chỉ rõ cần nỗ lực phi thường để giành thắng lợi theo khả năng tốt nhất, đồng thời cảnh giác đề phòng khả năng xấu nhất.

Trung tuần tháng 1-1968, liên quân Lào - Việt mở chiến dịch Nậm Bạc và lực lượng vũ trang bất ngờ tiến công mãnh liệt vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Trong khi Mỹ dồn tâm trí và lực lượng ra hướng Đường 9 - Khe Sanh, thì đêm 29 rạng ngày 30 và đêm 30 rạng ngày 31-1-1968 (tức đêm giao thừa và đêm mồng 1 Tết), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân nổ ra trên khắp chiến trường với hướng chính là các đô thị, trung tâm quân sự, chính trị của Mỹ - nguỵ.

Trong gần hai tháng, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy như những đợt sóng lớn đánh vào 4 trong 6 thành phố lớn, 37 trong số 40 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ. Tại nhiều đô thị lực lượng vũ trang của ta đã chiếm giữ nhiều nơi trong nhiều ngày, nhiều giờ. Tại Sài Gòn đặc công, biệt động và các tiểu đoàn mũi nhọn đã đánh vào các mục tiêu trọng yếu: toà Đại sứ Mỹ, Bộ Tổng tham mưu nguỵ, Dinh Độc lập, Đài phát thanh... rồi trụ lại đánh các đợt phản kích của địch ở nhiều khu phố. Tại Huế, lực lượng vũ trang ta đã làm chủ 25 ngày, phát động nhân dân nổi dậy, truy bắt ác ôn, thiết lập chính quyền cách mạng, đánh lui nhiều đợt phản kích của địch.

Bị tấn công mạnh đồng loạt và bất ngờ, thoạt đầu địch lúng túng chống đỡ. Nhưng ngay sau đó, chúng điều động lực lượng sử dụng cả máy bay và vũ khí hạng nặng phản kích điên cuồng.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân và dân ta đã giành được kết quả to lớn: tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực và phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch; phá rã nguỵ quyền ở nhiều vùng nông thôn; phá vỡ hệ thống phòng thủ đô thị của Mỹ - nguỵ trên quy mô toàn miền. Điều quan trọng nhất là đã làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, phơi bày toàn bộ những mâu thuẫn mà Mỹ - nguỵ không sao khắc phục được trong đường lối và cách thức điều hành chiến tranh.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã gây nên tác động rất mạnh ở nước Mỹ, làm lộ rõ một sự thật: sức mạnh kinh tế và quân sự của Mỹ là có giới hạn. Trong giới hạn đó, nếu Mỹ vẫn theo đuổi chiến tranh Việt Nam theo chiến lược cũ thì sẽ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề về kinh tế, quân sự và chính trị. Chính quyền Mỹ bị phân hoá sâu sắc. Nhân dân Mỹ phản đối chiến tranh ngày càng mạnh. Các tập đoàn tài chính - công nghiệp Mỹ bị "vỡ mộng", không còn hậu thuẫn cho chính sách Việt Nam của chính quyền Giônxơn.

Đêm 31-3-1968, Tổng thống Mỹ Giônxơn đã phải tuyên bố đơn phương xuống thang chiến tranh, ngừng ném bom miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra; sẵn sàng cử đại diện đàm phán với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,rút bỏ cam kết đưa quân Mỹ vào cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam Việt Nam, thực hiện chính sách "phi Mỹ hoá" cuộc chiến tranh. Tổng thống Giônxơn cũng tuyên bố không ra tranh cử Tổng thống nhiệm kỳ tiếp theo. Như vậy, chính quyền Mỹ mặc nhiên thừa nhận sự thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở Việt Nam.

Ngày 31-10-1968, Tổng thống Giônxơn phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn việc ném bom, bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chấp nhận họp Hội nghị Pari để giải quyết chiến tranh Việt Nam và thừa nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tại Hội nghị.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ, tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, khởi đầu quá trình đi xuống trong chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ.

Sau Tết Mậu Thân, nhằm đẩy địch vào thế thất bại liên tiếp, ngày càng suy yếu, không sao gượng dậy được, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương mở tiếp các đợt Tổng tiến công và nổi dậy tháng 5 và tháng 8-1968, hướng chính vẫn nhằm vào các thành thị lớn trên toàn miền. Nhưng do dồn sức tiến công và nổi dậy liên tục trên quy mô rộng lớn và trong điều kiện yếu tố bất ngờ không còn, nên lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị của ta trong năm 1968 bị tổn thất nặng nề: hơn 11 vạn cán bộ, chiến sĩ hy sinh và bị thương, hàng vạn quần chúng cách mạng đã ngã xuống. Mặt khác, do dồn sức tấn công đô thị, ta đã bỏ hở nông thôn. Bằng nỗ lực và thủ đoạn mới, lại kịp thời lợi dụng sơ hở đó của ta, từ giữa năm 1968 địch đã lấy lại được hầu hết những khu vực vừa bị mất trong dịp Tết Mậu Thân. Từ đây kéo dài sang năm 1969 - 1970, thế trận chiến tranh nhân dân của ta bị suy giảm, cách mạng miền Nam đứng trước những thử thách nặng nề.

Đảng ta đã đánh giá, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, chúng ta đã mắc khuyết điểm "chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên đề ra yêu cầu chưa sát với tình hình thực tế", "chủ trương tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất".
 
III. ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH", QUÂN MỸ PHẢI RÚT KHỎI MIỀN NAM NƯỚC TA (1969 - 1-1973)

1. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ và chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng

Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.


Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, nước Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng nặng nề nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngân sách thâm hụt lớn, lạm phát tăng, đội quân thất nghiệp ngày càng đông và "xã hội Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần và bị giằng xé, chia rẽ về chính trị". Trong khi Mỹ sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, các nước Tây Âu và Nhật Bản nhanh chóng vượt lên về kinh tế. Cạnh tranh với Mỹ, Liên Xô đã giành được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ. Phong trào độc lập dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và ngay cả Mỹ Latinh, "sân sau" của đế quốc Mỹ.

Tình hình đó thúc ép giai cấp thống trị Mỹ phải điều chỉnh chiến lược để tiếp tục thực hiện âm mưu bá chủ thế giới. Đầu năm 1969, bước vào Nhà Trắng, Níchxơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên "học thuyết Níchxơn", với ba nguyên tắc "tập thể tham gia", "sức mạnh của Mỹ", "sẵn sàng thương lượng".

Níchxơn vận dụng học thuyết này vào cuộc chiến tranh Việt Nam, đề ra chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", một sự điều chỉnh chủ trương "phi Mỹ hoá" của Giônxơn, thực chất là "dùng người Việt giết người Việt" để duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.

Thực hiện chiến lược mới, Mỹ áp dụng một loạt biện pháp: ra sức củng cố nguỵ quyền, xây dựng đội quân nguỵ đông và hiện đại, tự gánh vác được nhiệm vụ chiến tranh để cho quân Mỹ rút; ráo riết thực hiện chương trình bình định, tăng cường chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam nhằm cắt nguồn viện trợ của miền Nam; mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia; thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô hòng cắt giảm nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam.

"Việt Nam hoá chiến tranh" là một chiến lược hết sức thâm độc và nguy hiểm. Nhưng như Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969 chỉ rõ, chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" ra đời trong thế Mỹ thua, buộc phải xuống thang chiến tranh nhưng lại muốn xuống thang trên thế mạnh; phải rút quân Mỹ ra mà lại muốn quân nguỵ mạnh lên; muốn giảm thương vong và chi phí cho chiến tranh nhưng lại buộc phải rút quân nhỏ giọt, kéo dài và mở rộng chiến tranh; muốn xoa dịu sự chống đối ở trong nước và dư luận thế giới nhưng không che giấu được tính chất tàn bạo của "Việt Nam hoá chiến tranh". Đó là những mâu thuẫn cơ bản, đồng thời là những chỗ yếu cơ bản của chiến lược chiến tranh mới của Mỹ.

Năm 1969 và đầu năm 1970 là giai đoạn đầu Mỹ thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Mỹ - nguỵ tiến hành liên tiếp các chiến dịch bình định, mở hàng vạn cuộc hành quân càn quét, đóng hàng nghìn đồn bốt ở ấp xã, dồn dân vào các khu tập trung để kìm kẹp dân, tìm diệt lực lượng của ta; đánh phá các căn cứ giải phóng ở miền núi và vùng giáp ranh. Đồng thời, Mỹ ra sức tăng cường quân nguỵ, củng cố nguỵ quyền Thiệu - Kỳ. Không quân Mỹ tăng cường đánh phá đường Hồ Chí Minh và các kho tàng, bến bãi của ta từ Quảng Bình đến Vĩnh Linh, hòng chặn đứng sự tăng viện của miền Bắc vào miền Nam. Tại cuộc đàm phán ở Pari, phía Mỹ đưa ra những đề nghị ngang ngược (như đòi miền Bắc rút quân khỏi miền Nam) để kéo dài đàm phán.

Chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng.

Để củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, ngày 1-1-1969, trong Thư chúc mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào...".
Tiếp theo Chỉ thị gửi Đảng bộ miền Nam tháng 11-1968, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969 động viên quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của Mỹ. Như vậy, tuy đã thấy những khuyết điểm sau đợt Tổng tiến công Xuân 1968, nhưng như các Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 18 và 21 sau này vạch rõ, ta chưa đánh giá thật đầy đủ ý đồ thâm độc và khả năng mới của địch cũng như tình hình khó khăn của ta trên chiến trường, cho nên chưa thấy cần phải chuyển hướng tiến công về nông thôn để phá tan âm mưu của địch.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, miền Bắc đưa một khối lượng lớn người và vũ khí vào tăng cường sức chiến đấu cho miền Nam. (6 trung đoàn bộ binh, 10 tiểu đoàn và 100 đại đội, trung đội đặc công, 8 vạn quân bổ sung cùng 17 vạn tấn vũ khí - TG). Quân và dân miền Nam anh dũng đồng loạt mở hai cuộc tiến công mùa Xuân và mùa Hè 1969, diệt hàng vạn tên địch, hỗ trợ nhân dân nhiều nơi nổi dậy giành quyền làm chủ.

Tháng 6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được thành lập, đánh dấu một bước thắng lợi trong việc củng cố chính quyền cách mạng, nâng cao vị trí quốc tế của Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Trước đó, tại Hội nghị Pari đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm, trong đó nêu rõ hai vấn đề chủ yếu là Mỹ rút quân và vấn đề nội bộ giữa người Việt Nam với nhau ở miền Nam sau khi Mỹ rút quân. Hai sự kiện trên được dư luận rộng rãi trên thế giới đồng tình và ủng hộ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ.(Hội nghị quốc tế ủng hộ Việt Nam của 50 nước và 21 tổ chức tại Xtốckhôm - Thuỵ Điển tháng 5-1969 hoan nghênh lập trường của ta, đòi Mỹ rút quân, chấm dứt chiến tranh - TG).

Sau các đợt hoạt động Xuân và Hè 1969, lực lượng ta bị hao mòn chưa kịp được củng cố thì địch lại lợi dụng mùa mưa phản kích quyết liệt tại vùng nông thôn, đánh phá các căn cứ miền núi. Chúng lấn chiếm phần lớn vùng đồng bằng, chiếm thêm 3.000 ấp với gần 3 triệu dân (so với cuối năm 1968). Lực lượng chính trị và vũ trang cơ sở của ta bị tổn thất nặng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên bị đánh bật khỏi địa bàn, dạt lên vùng căn cứ. Bộ đội chủ lực bị đẩy lên vùng biên giới, một bộ phận phải di chuyển ra sát miền Bắc để củng cố. Tư tưởng hữu khuynh, tiêu cực xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ mùa Thu năm 1969, Bộ Chính trị chỉ đạo các chiến trường chuyển hướng hành động nhằm đánh mạnh vào kế hoạch bình định của địch, song địch vẫn mở rộng được vùng bình định.

Tháng 1-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họpHội nghị lần thứ 18, đánh giá cục diện kháng chiến, đề ra phương hướng và giải pháp đưa cuộc kháng chiến tiến lên. Hội nghị khẳng định những thắng lợi đạt được trong hai năm 1968-1969, vạch rõ khuyết điểm của sự chỉ đạo là chưa đánh giá đầy đủ, kịp thời âm mưu mới của địch, chậm đề ra sự chuyển hướng chiến lược, dẫn đến nhiều thiệt hại, khó khăn. Hội nghị dự đoán sắp tới địch sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Lào và Campuchia và tiếp tục bám giữ lập trường ngoan cố trong đàm phán, với hy vọng thực hiện được "Việt Nam hoá chiến tranh". Hội nghị nhấn mạnh phải nhận thức rõ tính chất lâu dài, gay go phức tạp của cuộc đấu tranh, kiên trì khôi phục và xây dựng lực lượng chiến đấu, tiến tới giành thắng lợi quyết định. Hội nghị chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các thành thị, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn, mở rộng vùng giải phóng.

Hội nghị Trung ương lần thứ 18 đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết Hội nghị được truyền xuống các cấp tạo ra sự nhất trí, tin tưởng và quyết tâm mới trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.

2. Tăng cường củng cố miền Bắc và liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia

Xây dựng miền Bắc ngang tầm nhiệm vụ hậu phương lớn của các chiến trường Đông Dương.

Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18 chỉ rõ, miền Bắc có nhiệm vụ tranh thủ thuận lợi mới trong hoàn cảnh không còn chiến tranh phá hoại, tiếp tục khẩn trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, có kế hoạch làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu đánh bại mọi âm mưu khiêu khích vũ trang hoặc mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ.

Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, thọ 79 tuổi. Tổn thất này vô cùng to lớn. Dân tộc ta, Đảng ta mất một lãnh tụ thiên tài và một người thầy vĩ đại. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc.
Khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân ta bảnDi chúc lịch sử. Người dặn lại đồng bào và chiến sĩ cả nước "phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn" và khẳng định: "Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Người căn dặn "phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình", "phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Người nhắc nhở Đảng ta phải quan tâm "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau", "có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Người mong "Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình".

Để biến đau thương thành sức mạnh, ngày 29-9-1969 Bộ Chính trị quyết định mở đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân học tập và làm theoDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đầu năm 1970, Trung ương Đảng phát động ba cuộc vận động lớn: lao động sản xuất, phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ ở nông thôn, nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm khắc phục khó khăn, khuyết điểm, giành thắng lợi mới trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, tăng cường lực lượng về mọi mặt.

Đầu năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 19, chủ trương kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, phát triển kinh tế ở miền Bắc mà nhiệm vụ trung tâm là phát triển nông nghiệp.
Các cuộc vận động đã đem lại một số kết quả quan trọng. Nhờ các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp nên sản lượng lương thực năm 1970 đạt gần 5,3 triệu tấn, tăng 50 vạn tấn so với năm 1969 và xấp xỉ năm 1965; năm 1971 mặc dù bị trận lũ lớn vẫn đạt xấp xỉ năm 1970. Trong công nghiệp, nhờ chú trọng chỉ đạo ổn định sản xuất và chấn chỉnh quản lý, sản xuất có chuyển biến tốt, đạt giá trị sản lượng năm 1970 xấp xỉ năm 1965, năm 1971 tăng 14% so với năm 1970. Hệ thống giao thông vận tải được khẩn trương khôi phục, bảo đảm vận chuyển thông suốt trên các tuyến. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế được đẩy mạnh về chất lượng. Đời sống nhân dân bớt khó khăn.

Công tác xây dựng Đảng đã được kết hợp với việc vận động quần chúng thực hiện dân chủ, đẩy mạnh sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành các nhiệm vụ trước mắt. Cuộc vận động kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh được tiến hành trong một năm (từ ngày 19-5-1970 đến ngày 19-5-1971), đã kết nạp gần 4 vạn đảng viên mới đủ tiêu chuẩn, góp phần tăng cường sức chiến đấu của Đảng.

Cùng với nhiệm vụ khôi phục kinh tế, việc xây dựng tiềm lực quốc phòng và lực lượng vũ trang được tăng cường. Các sư đoàn chủ lực cơ động tăng từ 4 lên 6 sư đoàn, được xây dựng thành những binh đoàn mạnh. Các lực lượng phòng không, pháo bờ biển được kiện toàn về tổ chức và trang bị. Tháng 6-1970, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương nhằm động viên hơn nữa sức mạnh của hậu phương lớn tăng viện cho các chiến trường. Tuyến đường vận tải Bắc Nam được mở rộng, tuyến đường ống dẫn dầu dài gần 1.500 km được xây dựng. Mặc dù địch tăng cường đánh phá, nhưng khối lượng chi viện vật chất cho miền Nam ngày càng tăng, năm 1969 được 2 vạn tấn, năm 1970 lên 4 vạn tấn và năm 1971 đạt tới 6 vạn tấn. Từ cuối năm 1969 đến năm 1971, miền Bắc tăng viện một lực lượng bộ binh và đặc công đông tới 19,5 vạn người, giúp chiến trường duy trì và tăng cường sức chiến đấu.

Sự cố gắng vượt bậc của quân và dân miền Bắc đã củng cố hậu phương vững mạnh và phát huy vai trò to lớn của hậu phương đối với tiền tuyến, góp phần quyết định vào những chiến thắng trong các năm 1971-1972.
Liên minh chiến đấu với Lào và Campuchia, mở ra thế chiến lược mới.
Nhằm hỗ trợ cho chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", áp đặt ách thống trị thực dân mới trên cả bán đảo Đông Dương, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược sang Lào và Campuchia.

Hội nghị Bộ Chính trị tháng 4-1969 và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 18 tháng 1-1970 đã dự đoán đúng âm mưu của Mỹ mở rộng chiến tranh và vạch rõ nhiệm vụ của nhân dân ta tăng cường đoàn kết chiến đấu với nhân dân Lào và Campuchia, đánh bại mưu đồ xâm lược của chúng.

Ở Lào, đầu năm 1970 Mỹ mở cuộc hành quân của hơn một vạn quân nguỵ Lào được không quân Mỹ chi viện tiến công lấn chiếm khu vực chiến lược Cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng). Thực hiện chủ trương của lãnh đạo Đảng ta và lãnh đạo Đảng bạn, lực lượng vũ trang của hai nước đã phối hợp mở chiến dịch phản công quy mô lớn, đánh bại cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 6.000 tên, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía tây miền Bắc nước ta và tuyến vận tải Tây Trường Sơn.

Ở Campuchia, ngày 18-3-1970, Mỹ cho bọn tay sai làm đảo chính lật đổ Chính phủ Vương quốc trung lập Campuchia do Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc đứng đầu, lập chính quyền tay sai Lon Non. Đây là nấc thang chiến tranh mới của Mỹ nhằm biến Campuchia thành thuộc địa kiểu mới, xoá bỏ căn cứ và bàn đạp chiến lược của ta, cắt đứt tuyến tiếp tế miền Bắc cho miền Nam (qua nước Campuchia), bóp nghẹt cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị Đảng ta chủ trương ủng hộ Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc, giúp nhân dân Campuchia chống đế quốc Mỹ và tay sai và chỉ thị cho các đơn vị quân đội ta phối hợp với bạn đánh địch và phát động quần chúng tiến công và nổi dậy.

Trước tình hình chiến tranh xâm lược của Mỹ mở rộng, sự phối hợp chiến trường ba nước Đông Dương trở nên cấp bách. Bộ Chính trị cử đồng chí Phạm Văn Đồng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ sang Bắc Kinh thống nhất với Hoàng thân Xihanúc và Pôn Pốt về chủ trương lập Mặt trận thống nhất chống Mỹ và tay sai của ba nước Đông Dương, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Trong hai ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước Đông Dương họp ra Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm của nhân dân ba nước liên minh chiến đấu, đoàn kết trong mặt trận đấu tranh chung trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự chủ của mỗi nước.

Ngày 29-4-1970, 10 vạn quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn tiến công xâm lược Campuchia nhằm củng cố chế độ Lon Non, tìm diệt cơ quan đầu não kháng chiến và phá cơ sở hậu phương của cách mạng miền Nam. Được chuẩn bị sẵn, các lực lượng vũ trang của ta phối hợp với bạn kịp thời phản công và tiến công địch, giành thắng lợi to lớn và toàn diện: loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên Mỹ - nguỵ, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh đông bắc và phần lớn 6 tỉnh khác, hình thành vùng giải phóng rộng lớn với hơn 3 triệu dân nằm kề vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính quyền cách mạng cùng với lực lượng chính trị và vũ trang ba thứ quân của bạn được ta giúp xây dựng tương đối hoàn chỉnh. (Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia từ 9 trung đội, đến cuối năm 1970, đã có 5 tiểu đoàn, 36 đại đội, 127 trung đội gồm 9.399 người. Tỉnh, huyện có bộ đội địa phương, xã có du kích). Ngày 30-6-1970, Mỹ phải tuyên bố rút quân ra khỏi Campuchia.

Phối hợp với cuộc phản công ở Campuchia, liên quân Việt - Lào tiến công giải phóng vùng Hạ Lào, hình thành vùng giải phóng rộng lớn của ba nước liên hoàn với nhau, tạo thế trận vững chắc cho nhân dân ba nước chống kẻ thù chung. Ở miền Nam quân và dân ta mở đợt hoạt động Xuân - Hè, đẩy mạnh hoạt động phá bình định ở nông thôn và đấu tranh chính trị ở thành thị.

Ngày 19-6-1970, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ mới, dự đoán Mỹ còn tìm cách mở rộng chiến tranh trên bán đảo Đông Dương và xác định nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân; nhấn mạnh việc tăng cường đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.

Đầu năm 1971, đế quốc Mỹ huy động 4 vạn quânnguỵ Sài Gòn được sự yểm trợ của 1,5 vạn quân Mỹ và hàng nghìn máy bay, xe tăng, pháo lớn mở cuộc hành quân "Lam Sơn 719" đánh ra Đường 9 - Nam Lào, hòng đánh phá tận gốc đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương, chủ yếu là miền Nam Việt Nam, thử nghiệm công thức của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh": bộ binh nguỵ + hoả lực + hậu cần Mỹ. Đồng thời, Mỹ mở hai cuộc hành quân đánh vào tuyến hành lang chiến lược ở khu vực đông - bắc Campuchia và vùng Ba biên giới ở Tây Nguyên.

Tại mặt trận Đường 9 - Nam Lào, quân ta và bạn Lào mở chiến dịch phản công, kiên quyết đánh thắng vì đây là "một trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược". Sau 43 ngày đêm chiến đấu (từ 8-2 đến 23-3-1971), ta và bạn đã giành thắng lợi lớn: tiêu diệt và bắt sống hơn 2 vạn tên địch, đánh thiệt hại nặng 3 sư đoàn tinh nhuệ quân nguỵ Sài Gòn, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ - nguỵ trong chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh".
Tại mặt trận đông - bắc Campuchia và mặt trận vùng Ba biên giới, ta và bạn cũng đánh thắng cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn tên, bảo vệ tuyến hành lang chiến lược.

3. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972

Quyết tâm chiến lược của Đảng


Những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta trong Xuân - Hè 1970 và 1971 đã đẩy Mỹ - nguỵ vào thế phòng ngự bị động, lúng túng về chiến lược; nước Mỹ lại sắp bước vào cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972. Chúng ta đứng trước tình thế thuận lợi mới, có điều kiện kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, chủ động tiếp tục tiến công để giành thắng lợi lớn.

Tháng 5-1971, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 nhằm giành thắng lợi quyết định, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp chiến tranh còn kéo dài. Cuộc tiến công dự định tiến hành bằng ba đòn chiến lược kết hợp: đòn tiến công tiêu diệt địch của bộ đội chủ lực trên ba hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên; đòn tiến công và nổi dậy ở vùng nông thôn đánh phá bình định; đòn đấu tranh chính trị ở các thành thị làm lung lay tận gốc chính quyền địch.

Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ đạo các địa phương dốc sức chuẩn bị trong 9 tháng, đặc biệt là về vận chuyển tăng cường lực lượng chiến đấu cho các chiến trường. Miền Bắc đã tăng viện cho miền Nam 5,5 vạn cán bộ chiến sĩ cùng một khối lượng lớn trang bị kỹ thuật gồm cả xe tăng và pháo cơ giới là những vũ khí hạng nặng lần đầu tiên được đưa vào chiến trường. Các "Hội đồng cung cấp tiền phương" ở miền Nam tích cực vận động nhân dân tạo nguồn vật chất tại chỗ.

Tháng 2-1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn đi Trung Quốc, ký "Thông cáo chung Thượng Hải" nhằm phân chia khu vực ảnh hưởng đồng thời cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Cuối tháng 3-1972, trước diễn biến phức tạp của tình hình mới, Bộ Chính trị sau khi cân nhắc mọi mặt đã khẳng định quyết tâm không có gì thay đổi là kiên quyết tiến hành cuộc tiến công chiến lược đánh bại về cơ bản chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", làm chuyển biến cục diện chiến tranh.

Cuộc tiến công chiến lược năm 1972

Ngày 30-3-1972, nhằm lúc địch chủ quan, sơ hở dophán đoán sai thời gian, quy mô và hướng tiến công của ta, quân và dân ta mở đầu cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn và cường độ mạnh vào hướng chủ yếu là Trị - Thiên, đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của địch ở Đường 9, tiếp sau là các hướng Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ rồi đến đồng bằng Khu V và đồng bằng sông Cửu Long. Mỹ - nguỵ phản công quyết liệt ở Quảng Trị và ngày 6-4-1972 không quân và hải quân Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam.

Sau 2 tháng tiến công, đến cuối tháng 5-1972 quân và dân ta giành thắng lợi lớn: phá vỡ từng mảng ba tuyến phòng thủ vòng ngoài mạnh nhất của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 11 vạn quân địch, giải phóng tỉnh Quảng Trị và một số vùng đất rộng gồm hơn 1 triệu dân. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.

Tháng 5-1972, Níchxơn đi Mátxcơva nhằm tranh thủ Liên Xô để cùng Trung Quốc hạn chế viện trợ vật chất cho ta và ép ta đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Song do sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa tất thắng và đường lối quốc tế đúng đắn của ta, ta vẫn tiếp tục nhận được sự ủng hộ lớn nhất có thể có của cả Trung Quốc và Liên Xô.

Ngày 1-6-1972, nhận định cục diện kháng chiến đã có điều kiện để tiến lên đánh bại về cơ bản chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ, Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, bảo đảm hậu phương làm tốt nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến.

Thực hiện quyết tâm của Đảng, quân và dân ta không quản hy sinh gian khổ, kiên cường đánh bại nhiều cuộc phản kích quyết liệt của địch, bảo vệ Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm và giữ được phần lớn các vùng giải phóng mới mở ra ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Khu V. Đồng thời, quân và dân ta mở các chiến dịch kết hợp tiến công và nổi dậy ở đồng bằng Nam Bộ và Khu V, tiêu diệt nhiều địch, phá kế hoạch bình định của chúng. Riêng ở đồng bằng Nam Bộ, ta đã giải phóng và làm chủ 72 xã với 48 vạn dân, tạo thế đứng vững chắc cho lực lượng tương đương 2 sư đoàn chủ lực ta trở về hoạt động. Quân và dân ở hai nước Lào và Campuchia liên tiếp tiến công địch ở nhiều nơi, phối hợp với cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam.

Cuộc tiến công chiến lược 1972 đã giành thắng lợi to lớn, làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh. Ta đã diệt và làm tan rã khoảng 30 vạn quân địch, giải phóng những vùng đất rộng gồm trên 1 triệu dân, đưa tổng số dân được giải phóng lên tới 4 triệu (trong tổng số 11 triệu dân). Bộ đội chủ lực ta trở về miền Nam đứng vững trên những địa bàn quan trọng, bộ đội địa phương và dân quân, du kích phát triển. Thắng lợi của cuộc tiến công đã góp phần quyết định buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút hết quân ra khỏi miền Nam nước ta.

Tuy nhiên, bên cạnh thắng lợi mà ta đạt được, sự chỉ đạo của Đảng còn có nhiều thiếu sót trong việc đánh giá tình hình và so sánh lực lượng, chưa thấy hết khả năng đối phó của địch cũng như những mặt hạn chế của ta, đề ra mục tiêu của cuộc tiến công vượt quá khả năng của ta, chỉ đạo kế hoạch ứng phó chưa đầy đủ và kịp thời. Vì vậy thương vong và tổn thất còn ở mức cao.

4. Đánh thắng trận tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ. Hiệp định Pari được ký kết

Miền Bắc đánh thắng hành động chiến tranh mới của Mỹ


Đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân và hải quân Mỹ ồ ạt tham chiến ở miền Nam, đồng thời đánh phá trở lại miền Bắc, thả thuỷ lôi phong toả các cảng biển, cửa sông hòng ngăn chặn viện trợ quốc tế vào miền Bắc và sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, cứu nguy cho nguỵ quyền Sài Gòn và tăng sức ép đối với ta trong đàm phán. Thủ đoạn đánh phá của Mỹ rất tàn bạo, đã gây cho ta nhiều thiệt hại về người và của và những khó khăn lớn trên mặt trận giao thông vận tải.

Cuối tháng 5-1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chuyển mọi hoạt động của miền Bắc cho phù hợp với tình hình mới, phát động cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tiếp tục làm nhiệm vụ tăng viện cho các chiến trường. Quân và dân miền Bắc đã kiên cường đánh trả địch, bắn rơi hàng trăm máy bay, bắn cháy nhiều tàu chiến Mỹ.

Miền Bắc thực hiện nhiều biện pháp vượt qua sự phong toả của địch, tổ chức tiếp nhận hàng viện trợ của các nước bạn và tăng cường chi viện cho tiền tuyến. Khối lượng hàng vận chuyển cho các chiến trường tăng 1,7 lần so với năm 1971.

Đẩy mạnh tiến công ngoại giao phối hợp với tiến công quân sự

Tháng 10-1972, mặc dù đế quốc Mỹ có cố gắng chiến tranh rất lớn và phải chịu nhiều tổn thất trên cả hai miền nước ta, nhưng chúng vẫn không đạt được các mục tiêu đề ra. Tại nước Mỹ, chính quyền Níchxơn gặp khó khăn về nhiều mặt do chính sách mở rộng chiến tranh xâm lược.
Dựa trên thắng lợi quân sự và chính trị, ta đẩy mạnh tiến công ngoại giao. Cuối tháng 9-1972, Bộ Chính trị đề ra chủ trương về đàm phán tại Hội nghị Pari. Trên cơ sở nhận định thế và lực của ta, đặc biệt trên chiến trường miền Nam không ngừng phát triển, nhưng quân nguỵ còn đông (65 vạn) và còn kiểm soát nhiều vùng đông dân, Bộ Chính trị đề ra mục tiêu chính cần đạt được là chấm dứt mọi sự dính líu quân sự của Mỹ. Ta không đòi phải có ngay giải pháp toàn bộ, tạm thời gác khẩu hiệu đánh đổ chính quyền Thiệu mà chỉ đề ra việc thành lập chính phủ hoà hợp ba thành phần. Chủ trương này thể hiện bước đi đúng đắn và sáng tạo theo phương hướng chiến lược được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát "đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào".

Ngày 8-10-1972, Đoàn đại biểu Chính phủ ta tại Hội nghị Pari đưa ra bản dự thảo "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam", với nội dung giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam theo hai bước:bước 1, hai bên Mỹ và Việt Nam ký hiệp định chấm dứt chiến tranh, Mỹ rút hết quân và chấm dứt mọi sự dính líu về quân sự; bước 2, hai bên chính quyền ở miền Nam Việt Nam bàn giải quyết vấn đề nội bộ miền Nam.
Ngày 20-10-1972, phía Mỹ chấp nhận những điểm căn bản của bản dự thảo hiệp định và thoả thuận lịch ký kết. Nhưng ngay sau đó, Mỹ lật lọng, vin lý do "khó khăn từ phía chính quyền Sài Gòn" đòi ta phải sửa nhiều điều khoản đã thoả thuận. Âm mưu của Tổng thống Mỹ Níchxơn là muốn đánh thêm một đòn quân sự nữa sau bầu cử Tổng thống ở Mỹ để ép ta phải nhượng bộ và tranh thủ thời gian viện trợ cho quân nguỵ Sài Gòn.

Đánh thắng cuộc tập kích bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ. Hiệp định Pari được ký kết

Ngay sau khi Mỹ có thái độ tráo trở, Bộ Chính trị chỉ rõ: sau khi vượt qua tuyển cử, Níchxơn sẽ tăng cường hành động quân sự; quân và dân cả nước phải kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, đánh thắng âm mưu kéo dài và kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của đế quốc Mỹ; miền Bắc có nhiệm vụ đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở mức độ cao, đặc biệt là bằng máy bay B.52. Từ cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự kiến: Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 đánh ra Hà Nội trước khi chúng chịu thua trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Dự kiến sáng suốt của Người đã soi đường cho quân và dân ta trong nhiệm vụ đánh thắng máy bay B.52 của Mỹ. Quân và dân ta ráo riết chuẩn bị chiến đấu, tăng cường công tác phòng không nhân dân, hoàn chỉnh các phương án đánh địch, đồng thời đánh trả các cuộc đánh phá quyết liệt của máy bay Mỹ từ vĩ tuyến 20 trở vào.

Từ đêm 18 đến ngày 30-12, trong 12 ngày đêm đế quốc Mỹ đã sử dụng 729 lượt B.52 và 1.900 lượt máy bay cường kích tập trung đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, thả một khối lượng bom có sức công phá bằng 5 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản hồi tháng 8-1945.
Quân và dân miền Bắc đã kiên cường, mưu trí giáng cho địch những đòn đích đáng từ trận đầu và đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ. 81 máy bay hiện đại, trong đó có 34 B.52 và 5F.111 bị bắn rơi; 43 giặc lái bị bắt sống. Riêng Hà Nội bắn rơi 23 B.52, phần lớn là bắn rơi tại chỗ. Đây là một chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong chiến dịch phòng không đầu tiên trên thế giới tiêu diệt nhiều máy bay B.52 của Mỹ, giáng cho không quân chiến lược Mỹ đòn thất bại nặng nề nhất trong lịch sử xâm lược của đế quốc Mỹ. Nói về tầm vóc to lớn của chiến thắng vẻ vang này, dư luận thế giới gọi đây là trận "Điện Biên Phủ trên không".

Ngày 30-12-1972, sau khi buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, Chính phủ Mỹ đề nghị gặp lại đại biểu Chính phủ ta để bàn việc ký Hiệp định. Từ ngày 8 đến ngày 13-1-1973, tại Hội nghị Pari phái đoàn ta kiên quyết đấu tranh buộc Mỹ phải chấp nhận những điều khoản cơ bản của bản dự thảo Hiệp định tháng 10-1972.

Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai mà đỉnh cao là cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc diễn ra gần 9 tháng (từ ngày 6-4 đến ngày 29-12-1972) đã bị quân và dân ta đánh bại hoàn toàn.

Ngày 23-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký tắt giữa đại diện Chính phủ ta và Chính phủ Mỹ. Ngày 27-1-1973, Hiệp định được chính thức ký kết tại Pari và bắt đầu có hiệu lực từ 9 giờ ngày 28-1-1973.

Theo Hiệp định, Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chấm dứt mọi sự dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam; chấp nhận lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam vẫn ở nguyên tại miền Nam; hai bên ở miền Nam hiệp thương giải quyết vấn đề nội bộ ở miền Nam Việt Nam. Tình hình sau đó của đất nước ta chứng minh rằng, một khi quân Mỹ đã rút đi và quân ta vẫn còn đó thì lực lượng so sánh giữa ta và địch đã thay đổi căn bản. Đây là tiền đề cơ bản cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam hơn hai năm sau.

Hiệp định Pari đã ghi lại những thắng lợi rất to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Trong suốt 5 năm, khoảng thời gian dài chưa từng thấy của lịch sử đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam, cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Pari đã thực sự góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Nguồn: Báo ĐT ĐCS​
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top