Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 4

Bút Nghiên

ButNghien.com
Bài 4: Kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược (19/12/1946 - 20/7/1954)

I. ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN CỦA ĐẢNG

Hành động của thực dân Pháp mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương hòng đặt lại ách thống trị thực dân không phải là việc bất ngờ đối với Đảng và nhân dân ta. Ngay tại Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào, Đảng ta chỉ rõ, đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị của chúng ở Đông Dương.

Ngày 16-12-1946, những tên trùm thực dân Pháp ở Đông Dương đã họp tại Hải Phòng bàn triển khai kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực Bắc vĩ tuyến 16. Ngày 17 và 18-12-1946 tại Hà Nội, quân Pháp khiêu khích, tàn sát đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, Hàng Bún. Ngày 18-12-1946, đại diện Chính phủ Pháp cắt đứt mọi liên hệ với đại diện Chính phủ ta.
Cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp đang lan ra cả nước.

Nhân dân ta bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược với bao khó khăn: nước ta vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến mới được giải phóng, đất không rộng, người không đông, với một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, lại bị Chiến tranh thế giới thứ hai tàn phá và bị chủ nghĩa đế quốc bao vây bốn phía. Pháp là một nước đế quốc có nền kinh tế công nghiệp phát triển, có một quân đội chính quy, trang bị hiện đại, có sẵn 100.000 quân đóng tại đất nước ta, có kinh nghiệm chiến tranh xâm lược thuộc địa, lại được đế quốc Mỹ, Anh giúp sức... Tuy nhiên, chúng ta cũng có những thuận lợi nhất định: nhân dân ta đã giành được quyền làm chủ trong cả nước. Là người làm chủ đất nước, nhân dân ta quyết tâm bảo vệ đến cùng chế độ mới. Dân tộc Việt Nam có truyền thống chống xâm lược rất vẻ vang. Đảng ta và nhân dân ta đã có 16 tháng chuẩn bị cho kháng chiến. Lực lượng vũ trang của ta tuy non trẻ nhưng là lực lượng vũ trang cách mạng từ nhân dân mà ra, có lòng yêu nước nồng nàn và chí căm thù giặc sâu sắc. Đảng ta nắm vững quyền lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo Nhà nước. Pháp là một đế quốc bị bại trận và bị kiệt quệ trong chiến tranh, lại tiến hành xâm lược một nước ở xa nước Pháp hàng vạn kilômét. Mâu thuẫn trong nội bộ nước Pháp ngày càng sâu sắc, phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa Pháp đang phát triển mạnh mẽ. Cuộc kháng chiến toàn quốc của nhân dân ta lại diễn ra trong lúc phong trào độc lập dân tộc, hoà bình, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đang dâng lên mạnh mẽ, nhân dân ta cùng nhân dân hai nước Lào và Campuchia đấu tranh chống một kẻ thù là thực dân Pháp xâm lược.

Đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, nhất định thắng lợi thể hiện trong Chỉ thịToàn dân kháng chiến của Ban Thường vụ Trung ương Đảng ngày 12-12-1946. Từ tháng 3-1947, qua thực tiễn những ngày đầu của cuộc chiến đấu, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng đã viết một loạt bài làm sáng tỏ thêm đường lối kháng chiến của Đảng; những bài này sau được xuất bản thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi.

Mục tiêu của cuộc kháng chiến là giành độc lập và thống nhất. Cuộc kháng chiến là sự tiếp tục của cách mạng dân tộc dân chủ bằng hình thức chiến tranh, cho nên còn có mục tiêu vì dân chủ, tự do, vì hoà bình thế giới. Đường lối chung của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh.

Về chính trị, đoàn kết toàn dân, thực hiện quân, chính, dân nhất trí, động viên nhân lực, vật lực, tài lực của cả nước; đoàn kết với hai dân tộc Lào, Campuchia anh em, với nhân dân Pháp, với các nước châu Á và các dân tộc bị áp bức, các dân tộc yêu chuộng hoà bình, dân chủ trên thế giới, cô lập kẻ thù, tranh thủ thêm nhiều bầu bạn; củng cố chế độ cộng hoà dân chủ, lập ra uỷ ban kháng chiến các cấp.

Về quân sự, cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công; triệt để dùng "du kích vận động chiến", tiến công địch ở khắp nơi, vừa đánh địch vừa xây dựng lực lượng; tản cư nhân dân ra xa vùng chiến sự.

Về kinh tế, toàn dân tăng gia sản xuất, tự túc tự cấp, xây dựng kinh tế theo hướng "vừa kháng chiến vừa kiến quốc"; ra sức phá kinh tế địch, không cho chúng lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.

Về văn hoá, đánh đổ văn hoá nô dịch, ngu dân, xâm lược của thực dân Pháp, xây dựng nền văn hoá mới, xoá nạn mù chữ; thực hiện cần, kiệm, liêm, chính; động viên các nhà văn hoá tham gia kháng chiến.

Ta chủ trương đánh lâu dài để làm cho những chỗ yếu cơ bản của địch ngày càng bộc lộ, chỗ mạnh của địch ngày một hạn chế; chỗ yếu của ta từng bước được khắc phục, chỗ mạnh của ta ngày một phát huy.
Tự lực cánh sinh là dựa vào sức lực của toàn dân, vào đường lối của Đảng, vào các điều kiện nhân hoà, địa lợi, thiên thời của đất nước ta, đồng thời ra sức tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để chiến thắng kẻ thù.

Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh raLời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người nói: "Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ... Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc... Thắng lợi nhất định về dân tộc ta!".

II. MỞ ĐẦU KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC, CHIẾN THẮNG VIỆT BẮC

Đêm 19-12-1946, cuộc chiến đấu của nhân dân ta nổ ra ở Thủ đô Hà Nội, các thành phố, thị xã (Nam Định, Hải Dương, Vinh, Huế, Đà Nẵng...)
Tiêu biểu cho cả nước là cuộc chiến đấu ngoan cường của quân và dân Thủ đô Hà Nội. Trong hai tháng (từ ngày 19-12-1946 đến ngày 17-2-1947) quân và dân trong nội thành cũng như ngoại thành đã anh dũng chiến đấu, phục vụ chiến đấu, giành giật với địch ở nhiều nơi. Với nhiều cách đánh sáng tạo, linh hoạt, quân dân Thủ đô đã tiêu diệt, tiêu hao hơn 2.000 tên giặc, bảo vệ các cơ quan lãnh đạo của ta, tạo điều kiện cho hàng vạn đồng bào ra khỏi thành phố, di chuyển nhiều máy móc, nguyên liệu ra vùng tự do.

Từ ngày 3 đến ngày 6-4-1947, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tậpHội nghị cán bộ Trung ương, Hội nghị nhận định bốn tháng kháng chiến chứng tỏ địch không thể khuất phục được nhân dân ta, toàn dân ta hăng hái kháng chiến làm cho địch mới chỉ chiếm được một số ít thành phố. Hội nghị nhấn mạnh nhiệm vụ mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất chống thực dân Pháp, củng cố chính quyền nhân dân ở vùng bị địch chiếm, phát động phong trào du kích chiến tranh, tổ chức căn cứ địa, đẩy mạnh công tác ngoại giao và tăng cường công tác xây dựng Đảng.
Đất nước đã kịp thời chuyển sang thời chiến và bước đầu triển khai thế trận chiến tranh nhân dân. Các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận... chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc. Các cơ quan dân, chính, đảng địa phương cũng về đóng nơi tạm thời an toàn. Bộ máy chính quyền các cấp được kiện toàn.

Trong Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ và Thư gửi các đồng chí Trung Bộ (tháng 3 - 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên tu dưỡng, gương mẫu về đạo đức, trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ, một lòng, một dạ vì dân, chống bệnh chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, địa phương chủ nghĩa, bè phái, vô kỷ luật.

Để tăng cường lực lượng lãnh đạo của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương mở đợt phát triển đảng viên "Lớp tháng Tám". Hàng nghìn công nhân, nông dân, trí thức cách mạng và chiến sĩ lực lượng vũ trang ưu tú đã gia nhập Đảng. Cuối năm 1947, tổng số đảng viên có trên 70.000 người.

Lực lượng vũ trang được chăm lo xây dựng, công tác Đảng trong quân đội được tăng cường một bước. Riêng mùa hè năm 1947 có tới 35.000 người tình nguyện nhập ngũ. Bộ đội chủ lực cũng phát triển từ 80.000 lên 120.000 chiến sĩ. Lực lượng dân quân tự vệ lên tới 1 triệu người. Nhiều căn cứ địa kháng chiến ở địa phương được xây dựng.

Để động viên toàn dân tham gia kháng chiến, Đảng và Chính phủ tìm mọi biện pháp ổn định đời sống nhân dân và xây dựng những cơ sở ban đầu của nền kinh tế và văn hoá kháng chiến.

Đảng cũng quan tâm lãnh đạo công tác đối ngoại để tranh thủ sự đồng tình của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến, đặt cơ quan đại diện ở Thái Lan, Miến Điện và cử đoàn đại biểu đi dự các hội nghị quốc tế.
Sau khi chiếm được một số thành phố, thị xã ở Bắc Bộ, quân Pháp tổ chức tiến công ở Trung Trung Bộ, Tây Bắc, Đông Bắc và đồng bằng Bắc Bộ hòng mở rộng khu vực chiếm đóng và tạo vành đai giữ các thành thị. Quân và dân ta chặn đánh địch khắp nơi, tiêu hao sinh lực địch, làm chậm bước tiến của chúng, giữ gìn và phát triển lực lượng. Ở Nam Bộ, quân và dân ta tiến công quấy rối, phá hoại, đánh nhiều trận, diệt từng trung đội, đại đội địch, phá nhiều đoàn tàu quân sự. Bị thiệt hại nhiều mà không tiêu diệt được quân chủ lực ta, tháng 5-1947 quân Pháp tạm co về thành thị chúng mới chiếm được và chuẩn bị kế hoạch xâm lược mới.
Đó là kế hoạch lập chính phủ bù nhìn tay sai Bảo Đại và tổ chức cuộc tấn công đại quy mô bất ngờ lên Việt Bắc nhằm tiêu diệt quân chủ lực ta, bắt cho được Trung ương Đảng và Chính phủ ta, nhanh chóng kết thúc chiến tranh. (Ngày 19-7-1947, Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp Valuy (Valluy) gửi công văn số 478/AB cho Xalăng nói rõ "về mặt chính trị cần phải có hệ thống hình tháp Bảo Đại để chống lại chính quyền Việt Minh và về mặt quân sự phải đánh vào ngọn hệ thống chính quyền của Việt Minh. Đó là nhiệm vụ số 1" (G.Sáppha, BáoNgười quan sát, tháng 9-1968) - TG).

Ngày 10-9-1947, Cao uỷ Pháp ở Đông Dương Bôla (Bollaert) đọc diễn văn tại thị xã Hà Đông, tuyên bố lập trường của Pháp không công nhận nước Việt Nam độc lập và thống nhất, không công nhận Chính phủ Hồ Chí Minh là đại diện chính thức của nước Việt Nam.

Ngày 15-9-1947, Trung ương Đảng ra chỉ thị "Bôla nói gì, ta phải làm gì?" nêu rõ nhiệm vụ của nhân dân ta chống âm mưu "dùng người Việt trị người Việt" của thực dân Pháp và chuẩn bị phá những cuộc tấn công lớn của địch trong những tháng tới.

Ngày 7-10-1947, thực dân Pháp huy động 12 ngàn quân tinh nhuệ mở cuộc tiến công lên Việt Bắc. Quân nhảy dù bất ngờ nhảy xuống Bắc Cạn, Chợ Mới đánh vào sau lưng quân ta. Một binh đoàn bộ binh Pháp kéo từ Lạng Sơn lên Cao Bằng, Bắc Cạn, bao vây phía đông và phía bắc Việt Bắc; một cánh quân đường thuỷ tiến lên Phú Thọ, Tuyên Quang bao vây Việt Bắc ở phía tây.

Ở Bắc Cạn, tuy bị bất ngờ nhưng quân và dân ta đã đánh địch ngay khi chúng vừa nhảy dù xuống. Quân và dân Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên tiêu diệt cơ quan tham mưu chiến dịch của Pháp, bắn rơi máy bay địch. Quân dân Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang phục kích diệt địch, bắn chìm tàu chiến địch trên sông Lô.

Phối hợp với cuộc chiến đấu của quân và dân Việt Bắc, chiến tranh du kích, phá tề, trừ gian được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch. Ở Hà Nội và Sài Gòn, những tên việt gian đầu sỏ bị bắn chết ngay giữa thành phố.
Ngày 22-12-1947, một phần lớn quân Pháp buộc phải rút khỏi Việt Bắc. Hơn 7.000 tên xâm lược bị chết, bị thương và bị bắt: 18 máy bay bị hạ, 16 tàu chiến và nhiều ca nô bị đánh đắm, hàng trăm xe bị phá và nhiều vũ khí rơi vào tay quân ta. Chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của quân Pháp thất bại. Mặc dù bị bất ngờ, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng kịp thời chuyển sang phản công thắng lợi. Bộ đội ta trưởng thành một bước về trình độ tác chiến. Đảng ta có thêm kinh nghiệm về chỉ đạo chiến tranh. Nhân dân ta phấn khởi, tin tưởng ở thắng lợi của cuộc kháng chiến.

Tổng kết năm đầu cuộc kháng chiến toàn quốc, trongLời kêu gọi nhân kỷ niệm một năm ngày kháng chiến toàn quốc 19-12-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận định thực dân Pháp muốn đánh nhanh thắng nhanh, nhưng đã thất bại. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ, lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh như suối mới chảy, như lửa mới nhóm, chỉ có tiến không có thoái... Lực lượng địch như mặt trời vào lúc hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở quân ta không được chủ quan, khinh địch.

III. ĐẨY MẠNH KHÁNG CHIẾN SANG GIAI ĐOẠN MỚI. CHIẾN THẮNG BIÊN GIỚI

Trong những năm 1948 - 1949, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Liên Xô thực hiện vượt kế hoạch 5 năm 1946 - 1950, đạt những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội và thử thành công bom nguyên tử (9-1949) làm mất thế độc quyền về vũ khí nguyên tử của Mỹ. Các nước dân chủ nhân dân ở châu Âu và châu Á xây dựng xã hội mới đạt nhiều thắng lợi. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển ở châu Phi, châu Á và Trung Cận Đông. Mỹ thực hiện kế hoạch Mácsan nhằm vừa vực dậy các nước Tây Âu, vừa khống chế các nước này. Tại Pháp cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài: thất bại bước đầu trong chiến tranh Đông Dương làm cho Pháp khó khăn thêm. Chỉ tính đến đầu năm 1949, Chính phủ Pháp đã bị đổ tới 8 lần. Phong trào phản chiến của nhân dân Pháp phát triển.

Ở Đông Dương, từ năm 1948 thực dân Pháp phải chuyển từ chiến lược đánh nhanh thắng nhanh sang chiến lược đánh lâu dài, "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt". Chúng bình định vùng chiếm đóng, mở các cuộc hành quân nhỏ nhằm tiêu diệt cơ sở kháng chiến, mở rộng nguỵ quân (năm 1948 có 8 vạn nguỵ binh, chiếm gần 30% tổng số quân địch).

Ngày 20-1-1948, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp mở rộng, nhận định tình hình sau chiến thắng Việt Bắc và đề ra những nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Về quân sự, mở rộng chiến tranh du kích, nhất là trong vùng địch kiểm soát, tuỳ điều kiện tập trung đánh vận động tiêu diệt địch, tăng cường công tác địch vận.

Về chính trị, củng cố khối đoàn kết toàn dân kháng chiến, thực hiện khẩu hiệu "Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết", củng cố bộ máy kháng chiến, phá tan chính quyền bù nhìn, làm thất bại âm mưu "dùng người Việt trị người Việt".

Về kinh tế, tăng gia sản xuất tự cấp tự túc, cải thiện đời sống nhân dân lao động, phá kinh tế địch, tịch thu tài sản, ruộng đất của bọn phản quốc chia cho dân nghèo, giảm tô, chia lại công điền, khuyến khích đổi công trong nông dân lao động, thí điểm lập hợp tác xã.

Về văn hoá, động viên mọi lực lượng văn hoá phục vụ kháng chiến, chấn chỉnh giáo dục, xoá nạn mù chữ.

Về xây dựng Đảng, củng cố và phát triển Đảng làm cho Đảng thực sự có tính chất quần chúng mạnh mẽ, tích cực phát triển Đảng ở các vùng địch kiểm soát, tăng cường giáo dục đảng viên, đào tạo cán bộ; chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc.

Sau Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, hai cuộc hội nghị cán bộ tháng 5-1948 và tháng 8-1948 được triệu tập bàn những biện pháp cụ thể thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương. Hội nghị cán bộ tháng 8-1948 bàn sâu về công tác vùng sau lưng địch.

Ngày 27-3-1948, theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc. Hướng thi đua chủ yếu là tăng gia sản xuất và luyện quân lập công.
Thực hiện chủ trương của Đảng, hàng nghìn cán bộ Đảng và Mặt trận Việt Minh đã qua thử thách và có kinh nghiệm công tác, các đại đội độc lập và đội vũ trang tuyên truyền, đội xung phong công tác đã vào hoạt động trong các vùng tạm bị chiếm. Ở nhiều nơi, cơ sở kháng chiến dần dần được khôi phục. Nhân dân cùng lực lượng vũ trang phá tề trừ gian, chống thuế, chống đi phu, chống bắt lính, tiến lên phát triển chiến tranh du kích, tiêu hao, tiêu diệt địch. Nhiều căn cứ du kích được thành lập, nhiều làng chiến đấu xuất hiện. Năm 1948, được lực lượng vũ trang hỗ trợ, nhân dân quét sạch chính quyền bù nhìn cơ sở ở nhiều vùng rộng lớn trong cả nước, lập lại chính quyền cách mạng. Tổng phá tề thực chất là cuộc nổi dậy đồng loạt của nhân dân vùng sau lưng địch; phá hệ thống kìm kẹp của địch, chống lại một cách có hiệu quả chính sách "dùng người Việt trị người Việt".

Phong trào nổi dậy của quần chúng được kết hợp chặt chẽ với các cuộc tiến công quân sự của dân quân du kích, các đội vũ trang tuyên truyền và các đại đội độc lập. Các tiểu đoàn tập trung tập dượt đánh chính quy, giành chiến thắng ở một số nơi (Bắc Cạn, Lạng Sơn, Trà Vinh, sông Lô, v.v.).

Hoà nhịp với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia cũng có bước phát triển mới.
Trước tình hình khó khăn ở Đông Dương và trước cuộc Nam tiến thắng lợi của Quân giải phóng Trung Quốc, đế quốc Pháp phải có kế hoạch đối phó gấp. Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp, tướng Rơve (Revers) đưa ra kế hoạch: mở rộng chiếm đóng ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, phong toả biên giới Việt - Trung, tăng cường xây dựng quân nguỵ để làm nhiệm vụ chiếm đóng và dùng quân Âu - Phi làm lực lượng cơ động tăng cường càn quét.

Về phía ta, sau Hội nghị cán bộ Trung ương Đảng tháng 1-1949, thực hiện chủ trương tăng cường bộ đội chủ lực, tháng 11-1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh về nghĩa vụ quân sự. Chỉ trong một thời gian ngắn, tính từ Liên khu IV trở ra đã có thêm 50 vạn thanh niên ghi tên tòng quân. Từ 8 vạn người lúc bắt đầu kháng chiến qua hơn ba năm, quân đội ta đã có 23 vạn người. Đầu năm 1950 hai đại đoàn và hai trung đoàn chủ lực thuộc Bộ Tổng Tư lệnh và 12 trung đoàn chủ lực các liên khu đã ra đời. Về quân số lực lượng cơ động của ta nhiều hơn lực lượng cơ động địch. Dân quân tự vệ và du kích lên tới gần 3 triệu người.

Vừa chăm lo xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng và Chính phủ vừa ra sứccủng cố hậu phương, bồi dưỡng sức dân. Các địa phương tích cực thực hiện các sắc lệnh, thông tư về tạm cấp ruộng đất cho nông dân nghèo, về giảm tô, giảm tức. Đến cuối năm 1949, chỉ tính từ Liên khu IV trở ra, hơn 113.000 ha ruộng đất đã được tạm cấp cho nông dân, giảm tô được thực hiện với mức ít nhất là 25%. Liên khu V nêu cao tinh thần tự lực tự cường, không những tự cấp được vải, gạo và vật dụng cần thiết mà còn dành ra được một phần để tương trợ những vùng lân cận.
Từ năm 1949, nhiều địa phương đã xúc tiến việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt. Các đoàn thể Tổng liên đoàn lao động, Hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc. Hội liên hiệp phụ nữ... được củng cố và phát triển. Tại các vùng tập trung đồng bào có đạo, Đảng chỉ đạo việc đi sâu giác ngộ quần chúng, tranh thủ tầng lớp trên và kiên quyết trừng trị bọn phản động đội lốt tôn giáo. Đảng tích cực đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng và chính trị sai lầm, như chống khuynh hướng đòi chia quyền lãnh đạo với Đảng ta của những phần tử phái hữu trong Đảng Dân chủ, chống khuynh hướng đòi tư pháp độc lập, đòi quyền tự do cá nhân theo quan điểm tư sản trong ngành tư pháp.

Trên mặt trận văn hoá, nền văn hoá ngu dân, nô dịch của thực dân Pháp bị xoá bỏ; nền văn hoá mới được xây dựng. Đường lối, nhiệm vụ công tác văn hoá kháng chiến được xác định tại Hội nghị văn hoá toàn quốc tháng 7-1948. Hội Văn hoá Việt Nam được thành lập. Các tệ nạn xã hội như trộm cắp, cờ bạc, rượu chè... giảm đi nhiều. Phong trào xoá nạn mù chữ phát triển mạnh. Chương trình giáo dục phổ thông bước đầu được cải tiến theo nội dung dân tộc, dân chủ, nhân dân và phù hợp với hoàn cảnh kháng chiến.

Về xây dựng Đảng, trong hai năm 1948 - 1949, Đảng đã kết nạp hơn 50 vạn đảng viên. Tổ chức cơ sở Đảng được xây dựng rộng khắp. Qua cuộc vận động xây dựng "chi bộ tự động công tác", tổ chức cơ sở Đảng được tôi luyện và trưởng thành thật sự là hạt nhân lãnh đạo kháng chiến ở các địa phương, các ngành và trong quân đội. Tuy nhiên, trong công tác xây dựng Đảng, có nhiều trường hợp không nắm vững tiêu chuẩn đảng viên, củng cố không theo kịp phát triển. Để khắc phục thiếu sót đó, tháng 9-1950 Đảng quyết định tạm ngừng phát triển để củng cố.

Về đối ngoại, cuối tháng 12-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường đi công tác nước ngoài. Sau khi hội đàm với đồng chí Mao Trạch Đông, Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc, Người sang Liên Xô trao đổi ý kiến về cuộc kháng chiến của Việt Nam với đồng chí Xtalin, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Tiếp đó, Người sang Hunggari dự cuộc họp của các đại biểu phong trào cộng sản quốc tế.
Ngày 14-1-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra tuyên bố về việc Chính phủ ta sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với chính phủ các nước tôn trọng quyền bình đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của Việt Nam. Ngày 18-1-1950, Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, sau đó ngày 30-1-1950 Chính phủ Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết và liên tiếp trong tháng 2-1950 chính phủ các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và Triều Tiên công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta.

Ở Pháp, phong trào nhân dân Pháp phản đối "cuộc chiến tranh bẩn thỉu" của thực dân Pháp dâng cao. Tháng 7-1950, đồng chí Lêô Phighe, Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Pháp, đại biểu Quốc hội, Thư ký Đoàn Thanh niên cộng sản Pháp thăm Việt Nam, tìm hiểu tình hình để phối hợp hành động và thắt chặt tình đoàn kết chiến đấu giữa hai Đảng và nhân dân hai nước.

Nhân dân nhiều nước châu Á, châu Phi đã dành cho nhân dân ta mối cảm tình đặc biệt và sự ủng hộ tích cực.

Đảng và Chính phủ ta đặc biệt coi trọng xây dựng quan hệ đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước trên bán đảo Đông Dương và quan hệ với nước láng giềng Trung Quốc. Ở Lào, cuối năm 1947, Đảng và Chính phủ đã cử một số cán bộ, chiến sĩ sang giúp lực lượng kháng chiến Lào. Đến đầu năm 1950, các khu căn cứ kháng chiến từ Hạ Lào, Trung Lào đến Thượng Lào được thành lập. Ở Campuchia, cuối năm 1946 cán bộ và Việt kiều ở Thái Lan đã giúp đỡ lực lượng yêu nước Campuchia thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng Khơme. Từ năm 1947, khu căn cứ Tây Bắc Campuchia được thành lập và vùng giải phóng được mở rộng. Tháng 3-1949, theo đề nghị của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng và Chính phủ ta đã phái một đơn vị lực lượng vũ trang sang phía nam Trung Quốc cùng Quân giải phóng và du kích địa phương Trung Quốc tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Trung Hoa Quốc dân đảng.

Những thắng lợi về mọi mặt của quân, dân ta đã đưa cuộc kháng chiến tiến mạnh sang giai đoạn mới. Ngày 21-1-1950, Hội nghị toàn quốc lần thứ ba của Đảng họp, đề ra chủ trương "hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công" và quyết định tổng động viên theo khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".

Thực hiện nghị quyết của Đảng, nhân dân ta hăng hái đóng góp thóc gạo, tiền bạc và các vật tư cho kháng chiến. Hàng chục vạn thanh niên xung phong tòng quân. Việc chuẩn bị chiến trường, đặc biệt là mở đường và tổ chức lực lượng vận tải được tiến hành. Ở các thành phố bị tạm chiếm, phong trào đấu tranh chính trị chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ phát triển.

Song vì nóng vội và ỷ lại vào tình hình khách quan thuận lợi, trong Đảng đã có một số lệch lạc khi chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công. Để kịp thời uốn nắn, khắc phục những lệch lạc, mùa hè năm 1950 đồng chí Trường Chinh viết bài Nhận định đúng, hành động đúng và một số bài khác đăng trên Tạp chí Cộng sản. Tháng 6-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào, cán bộ Liên khu IV phê bình sai lầm của cán bộ trong tổng động viên. (Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương (khoá II) đã tự phê bình về chủ trương "chuyển mạnh sang tổng phản công" nêu ra ở Hội nghị toàn quốc lần thứ ba tháng 1-1950. Bản báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương ba (khoá II) có đoạn viết, đây là chủ trương "vội vàng, chủ quan, đã tạo ra một không khí chủ quan, ảnh hưởng đến công tác trong toàn Đảng"- TG).

Trước yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến, để giải phóng vùng biên giới phía bắc phá thế bao vây của địch, tiến tới giành quyền chủ động về chiến lược trên chiến trường chính, tháng 6-1950 Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương mở Chiến dịch biên giới. Trong chỉ thị ngày 12-8-1950, Trung ương Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ của các địa phương trong toàn quốc phối hợp với chiến dịch kiềm chế và tiêu hao lực lượng địch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư nhắc nhở chiến sĩ ngoài mặt trận phải dũng cảm, kiên quyết chiến đấu tiêu diệt địch. Người ra mặt trận để cùng Bộ Chỉ huy chỉ đạo chiến dịch.

Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định đánhĐông Khê (Cao Bằng) để mở màn chiến dịch. Lần đầu tiên ta huy động một lực lượng lớn gồm một đại đoàn và hai trung đoàn chủ lực cơ động của Bộ; ba tiểu đoàn chủ lực của Liên khu Việt Bắc và các đơn vị bộ đội địa phương, dân quân du kích hai tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn.

Đêm 16-9-1950, trận Đông Khê bắt đầu. Sau hai ngày đêm chiến đấu ác liệt, quân ta đã tiêu diệt hoàn toàn cụm cứ điểm Đông Khê, diệt trên 300 địch. Sau đó đầu tháng 10 quân ta truy kích và bắt gọn quân địch rút chạy từ Cao Bằng. Ngày 8-10 quân ta tiêu diệt hai binh đoàn ứng cứu của Pháp ở Đông Khê.

Qua 29 ngày chiến đấu ở vùng biên giới ta đã diệt và bắt sống 8.300 địch, đa số là Âu - Phi, tiêu diệt 10 tiểu đoàn (gần một nửa lực lượng cơ động chiến lược địch), thu trên 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh, giải phóng hoàn toàn khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập. Phối hợp với chiến dịch biên giới, quân và dân ta tăng cường chiến đấu ở đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Tính chung cả nước, ta đã tiêu diệt 12.000 tên địch, giải phóng 5 thị xã, 13 thị trấn và nhiều vùng rộng lớn.

Thắng lợi của Chiến dịch biên giới đã làm phá sản kế hoạch Rơve (Revers). Thực dân Pháp thấy rõ chúng không thể thắng bằng quân sự. Ý chí xâm lược của chúng bị lung lay. Đây là lần đầu tiên ta mở một chiến dịch tiến công lớn thắng lợi đánh vào một tuyến phòng thủ mạnh của địch. Ta mở được đường giao thông quốc tế nối liền Việt Nam với các nước xã hội chủ nghĩa sau 5 năm bị chủ nghĩa đế quốc bao vây. Đường liên lạc giữa Việt Bắc với đồng bằng Bắc Bộ và Liên khu IV được thông suốt. Thắng lợi của Chiến dịch biên giới mở ra bước ngoặt chuyển cuộc kháng chiến của ta từ hình thái chiến tranh du kích lên chiến tranh chính quy, kết hợp chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích ở trình độ cao hơn, tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn.

IV. ĐẠI HỘI LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG (THÁNG 2-1951)

Tháng 2-1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được triệu tập. Đại hội tiến hành trong những điều kiện lịch sử mới khác với điều kiện của Đại hội I.

Trong gần mười sáu năm kể từ Đại hội lần thứ I của Đảng (cuối tháng 3 năm 1935), tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều biến đổi quan trọng.

Cùng với sự lớn mạnh vượt bậc của Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân châu Âu, châu Á bước vào công cuộc xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Sự ra đời của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa làm thay đổi lực lượng so sánh trên trường quốc tế, có lợi cho hoà bình và cách mạng. Các nước xã hội chủ nghĩa bao gồm hơn 900 triệu người, chiếm 1/3 dân số và 1/4 đất đai trên thế giới, nối liền một dải từ nước Cộng hoà dân chủ Đức đến Việt Nam.

Các nước đế quốc chủ nghĩa lâm vào một cuộc khủng hoảng mới. Mỹ trở thành tên sen đầm quốc tế, khống chế các nước Tây Âu, lập khối quân sự Bắc Đại Tây Dương, dự định lập khối Thái Bình Dương, chuẩn bị chiến tranh thế giới mới, đàn áp các phong trào dân chủ và giải phóng dân tộc. Đế quốc Mỹ tăng cường giúp đỡ Pháp và can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương.

Ở trong nước, sau Cách mạng Tháng Tám, Nhà nước Dân chủ nhân dân Việt Nam thực hiện quyền làm chủ nhân dân do Đảng lãnh đạo; nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi trong cuộc kháng chiến. Uy tín của Đảng và Chính phủ ta được nâng cao trên trường quốc tế.

Điều kiện lịch sử mới đặt ra cho Đảng ta các yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, có những chính sách đưa cuộc kháng chiến thắng lợi; đặc biệt là yêu cầu Đảng phải ra công khai lãnh đạo cách mạng với tư cách là một đảng cầm quyền.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng được tiến hành tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951. Về dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức và 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho 766.349 đảng viên.

Thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Tôn Đức Thắng đọcDiễn văn khai mạc. Đại hội đã nghe và thảo luận Báo cáo chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Luận cương cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình bày,Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng, các báo cáo bổ sung về Mặt trận dân tộc thống nhất, chính quyền, quân đội, kinh tế tài chính và văn nghệ nhân dân; thông qua Chính cương và Điều lệ Đảng.
Báo cáo chính trị tổng kết phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ XX, nêu lên triển vọng tốt đẹp trong nửa sau thế kỷ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân tích, đánh giá những thành tựu và hạn chế, rút ra các bài học kinh nghiệm trong 21 năm (1930-1950) hoạt động của Đảng. Người khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là: tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược và đánh bại bọn can thiệp Mỹ, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn, bảo vệ hoà bình thế giới. Để hoàn thành nhiệm vụ đó Đảng phải đề ra những chính sách và biện pháp tích cực. Cần tăng cường lực lượng vũ trang, củng cố các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh thi đua ái quốc, thi hành chính sách kinh tế thời chiến, thực hiện chính sách ruộng đất, thành lập Mặt trận đoàn kết Việt Nam, Lào, Campuchia, tăng cường đoàn kết quốc tế.

Để bảo đảm thực hiện được những nhiệm vụ nặng nề trên, Đại hội quyết định: do nhu cầu kháng chiến, giai cấp công nhân và nhân dân mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia cần có một đảng riêng. Ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai, lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.

"Đảng Lao động Việt Nam phải là một đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, trong sạch, cách mạng triệt để". Báo cáo chính trị chỉ rõ: Đảng phải tìm cách giáo dục, nâng cao tư tưởng, chính trị cho đảng viên; thực hiện lối làm việc tập thể; củng cố mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng; đề cao tinh thần kỷ luật, tính nguyên tắc, tính đảng của mỗi đảng viên, mở rộng phong trào phê bình và tự phê bình ở trong Đảng, ở các cơ quan đoàn thể, trên các báo chí cho đến nhân dân; tăng cường công tác kiểm tra.
Trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của hơn hai mươi năm vận động cách mạng, Luận cương cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình bày là một văn kiện quan trọng bổ sung và phát triển các cương lĩnh trước đó của Đảng. Luận cương nêu rõ mục tiêu "Hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội". Luận cương phân tích xã hội Việt Nam có ba tính chất: dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến. Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai của chúng và mâu thuẫn giữa nhân dân chủ yếu là nông dân với bọn địa chủ phong kiến là hai mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc xâm lược và bè lũ tay sai của chúng là mâu thuẫn chủ yếu. Kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng là chủ nghĩa đế quốc xâm lược (thực dân Pháp, can thiệp Mỹ) vàbọn bù nhìn việt gian phản quốc đại biểu cho quyền lợi của bọn đại địa chủ phản động và tư sản mại bản. Mâu thuẫn đó đang diễn ra dưới hình thức quyết liệt là chiến tranh.

Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là phản đế và phản phong (chống đế quốc và chống phong kiến). Đế quốc xâm lược và phong kiến phản động câu kết chặt chẽ với nhau.Hai nhiệm vụ phản đế và phản phong khăng khít và không tách rời nhau. Nhiệm vụ phản phong nhất định phải làm đồng thời nhưng có kế hoạch từng bước, không nhất loạt ngang nhau với nhiệm vụ phản đế nhằm tập trung lực lượng hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.

Về sự sắp xếp lực lượng của cách mạng, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp tư sản dân tộc, địa chủ yêu nước và tiến bộ hợp thành lực lượng của cách mạng. Nền tảng của lực lượng cách mạng là công, nông và lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.

Cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân. Dân tộc và dân chủ là tính chất, nhân dân là lực lượng của cách mạng. Cách mạng Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, cho nên con đường tất yếu của nó là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Từ một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến tiến lên xã hội xã hội chủ nghĩa là cả một quá trình lâu dài và phức tạp.

Luận cương cách mạng Việt Nam là một văn kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, đề ra một cách có hệ thống lý luận, phương châm chiến lược và sách lược của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đã nhất trí thông qua Chính cương, Điều lệ của Đảng và Nghị quyết đưa Đảng ra hoạt động công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam. Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam nhấn mạnh: chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng; tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản của Đảng; phê bình, tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu của Đảng.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 29 đồng chí (19 uỷ viên chính thức và 10 uỷ viên dự khuyết). Ban Chấp hành Trung ương đã bầu ra Bộ Chính trị gồm 7 uỷ viên chính thức, 1 uỷ viên dự khuyết và bầu ra Ban Bí thư. Đồng chí Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Trong lịch sử đấu tranh anh dũng và vẻ vang của Đảng ta, Đại hội lần thứ II là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của Đảng về mọi mặt và sự đóng góp quý báu vào kho tàng lý luận cách mạng nước ta. Mặt hạn chế của Đại hội là chưa có điều kiện để nghiên cứu sâu bước chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân sang cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện Nghị quyết của Đại hội, đầu tháng 3-1951 hai mặt trận Việt Minh, Liên Việt đã thống nhất thành Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt). Cũng thời gian này, Hội nghị Liên minh nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia được tiến hành.
 
V. CỦNG CỐ HẬU PHƯƠNG, ĐẨY MẠNH TIẾN CÔNG ĐỊCH, GIỮ VỮNG QUYỀN CHỦ ĐỘNG CHIẾN LƯỢC

Sau thất bại ở biên giới, tháng 12-1950, thực dân Pháp phái Đại tướng Đờlát đờ Tátxinhi (Delattre de Tassigny) - danh tướng số một của nước Pháp, sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy kiêm Cao uỷ hòng xoay chuyển tình thế. Kế hoạch Đờlát ra đời gồm 4 điểm chính:

1. Gấp rút tập trung binh lực, xây dựng lực lượng cơ động chiến lược mạnh và phát triển quân nguỵ.

2. Xây dựng tuyến phòng thủ boong-ke (đồn xi măng cốt sắt) cắt Bắc Bộ từ Hồng Quảng đến Ninh Bình bằng con đường số 18 bao quanh đồng bằng Bắc Bộ và trung du bằng một "vành đai trắng" nhằm ngăn chặn quân ta tiến công vào vùng địch, ngăn chặn nhân lực, vật lực ta đưa ra vùng tự do.

3. Tập trung lực lượng bình định vùng địch kiểm soát, chủ yếu là vùng đồng bằng Bắc Bộ, củng cố nguỵ quyền và bắt lính.

4. Mở những cuộc tiến công ra vùng tự do của ta hòng giành lại thế chủ động, lấy lại tinh thần binh sĩ, có cớ xin thêm viện trợ Mỹ.

Thực hiện kế hoạch trên, địch củng cố thế phòng ngự, lấy Hà Nội - Hải Phòng làm trung tâm, tập trung quân Âu - Phi xây dựng được 7 binh đoàn cơ động và 4 tiểu đoàn dù đóng ở đồng bằng Bắc Bộ (12-1950), tuyển mộ hàng vạn nguỵ binh. Quân địch đẩy mạnh việc bình định ở vùng chúng kiểm soát, liên tiếp mở 10 trận càn quét lớn từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1951, hòng phá tan cơ sở kháng chiến, triệt phá kinh tế của ta, cướp và đốt thóc lúa, giết trâu bò, phá đê điều, dồn làng tập trung dân. Nguỵ quyền được tô thêm lớp son giả hiệu "độc lập", "dân chủ".

Tình hình đó đã làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp những khó khăn mới, đòi hỏi Đảng phải có phương hướng và biện pháp khắc phục.

Tháng 3-1951, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (khoá II) đề ra phương châm tác chiến là tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ba thứ quân, tăng cường công tác địch vận; tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, bảo đảm vấn đề cung cấp.

Hội nghị Trung ương lần thứ hai (khoá II) tháng 9-1951 đề ra ba nhiệm vụ lớn: ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá tan kế hoạch "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt" của địch; bồi dưỡng sức dân, xây dựng lực lượng, củng cố hậu phương. Hội nghị còn bàn về công tác vùng sau lưng địch.

Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khoá II) tháng 4-1952 quyết định chỉnh Đảng chỉnh quân, coi đó là nhiệm vụ trung tâm về xây dựng Đảng và xây dựng lực lượng vũ trang, nhằm nâng cao năng lực về mọi mặt cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ.

Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khoá II) tháng 1-1953chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến, thông qua cương lĩnh ruộng đất.

Thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong hai năm 1951-1952, nhân dân và quân đội ta đã ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, phục hồi và phát triển cuộc đấu tranh trong vùng sau lưng địch, củng cố hậu phương và mở một số cuộc tiến công về quân sự.

Công tác xây dựng lực lượng vũ trangđã chú ý các trọng tâm là chất lượng, xây dựng về chính trị và xây dựng bộ đội chủ lực. Đến cuối năm 1952, lực lượng vũ trang nhân dân đã có 6 đại đoàn bộ binh chủ lực, một đại đoàn công binh và pháo binh, mỗi Liên khu có 2 trung đoàn chủ lực, Nam Bộ có 4 trung đoàn chủ lực. Cuộc vận động chỉnh quân về chính trị và quân sự được tiến hành vào mùa hè 1952 và trong năm 1953. Kết quả là nâng cao giác ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao sự hiểu biết về đường lối kháng chiến và nhiệm vụ của quân đội, trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho cán bộ và chiến sĩ. Công tác cung cấp của quân đội được tăng cường, lương thực, vũ khí, thuốc men được bổ sung, đường sá được xây dựng thêm. Công tác tổ chức và cán bộ đã được tiến hành theo phương châm tinh binh, tinh cán.

Phong trào đấu tranh ở vùng sau lưng địch hồi phục và phát triển. Ba chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực ở trung du Bắc Bộ (12-1950), đường số 18 (3-1951) và Hà - Nam - Ninh (5-1951) không làm thay đổi được tình thế về quân sự, nhưng đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta ở các vùng sau lưng địch. Công nhân, nông dân, dân quân, du kích, bộ đội địa phương đấu tranh sôi nổi, với các hình thức từ đấu tranh kinh tế và chính trị đòi những quyền dân sinh, dân chủ hàng ngày đến đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế, vừa tiến công địch vừa chống địch càn quét.

Cuối năm 1951, quân Pháp mở chiến dịch đánh chiếm Hoà Bình nhằm kéo bộ đội ta ra để tiêu diệt và giành lại thế chủ động đã mất. Tận dụng thời cơ để tiêu diệt địch, quân ta tiến công ở ven sông Đà và đường số 6, đến cuối tháng 12-1951 cô lập địch ở thị xã Hoà Bình. Một phần bộ đội chủ lực của ta tiến sâu vào vùng sau lưng địch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ để tiến công địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng, phá nguỵ quyền, mở khu du kích, củng cố chính quyền nhân dân. Đến tháng 2-1952 ở mặt trận sau lưng địch ta đã tiêu diệt hơn 15.000 tên, bức rút hàng nghìn đồn giặc, mở rộng căn cứ du kích liên hoàn từ Bắc Giang đến Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Ninh Bình, Hà Đông, giải phóng hai triệu dân. Ở Hoà Bình chúng bị tiêu diệt hơn 6.000 tên.

Ngày 23-2-1952, quân địch rút chạy khỏi Hoà Bình. Kết quả bình định của địch cả năm 1951 ở đồng bằng Bắc Bộ bị phá tan, ý định giành lại thế chủ động ở chiến trường Bắc Bộ bị thất bại. Chiến thắng Hoà Bình đánh dấu bước trưởng thành lớn của quân ta về phối hợp giữa chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích.

Nhằm cứu vãn tình thế, Tổng tư lệnh Pháp Xalăng (Salan) thay tướng Đờlát mở liên tiếp 20 trận càn vào các căn cứ du kích của ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Quân và dân ta đã bẻ gẫy các trận càn, tiêu diệt hơn 10.000 tên địch, đồng thời mở rộng hoạt động ở Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ.

Về củng cố hậu phương của kháng chiến, năm 1952 Đảng phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm nhằm giảm bớt tình hình căng thẳng về kinh tế, tài chính. Kết quả, đã giảm bớt nhiều khó khăn, riêng về sản xuất lương thực chỉ tính từ Liên khu V trở ra đạt hơn 2,7 triệu tấn thóc năm 1953. Năm 1951, sắc lệnh về thuế nông nghiệp và sắc lệnh về một số thuế khác (công thương, xuất nhập khẩu...) được ban hành. Theo đường lối giai cấp của Đảng, thuế nông nghiệp đánh nặng vào địa chủ, phú nông, giảm nhẹ cho bần cố nông, ưu đãi quân nhân, gia đình liệt sĩ. Cộng cả 4 năm (1951-1954) từ Liên khu V trở ra số thuế nông nghiệp thu được gần 1,6 triệu tấn thóc. Tháng 6-1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và sau đó mậu dịch quốc doanh ra đời. Từ năm 1949 đến năm 1954, tính từ Liên khu V trở ra, nông dân đã được tạm cấp gần 180.000 ha ruộng đất của thực dân, địa chủ, ruộng bỏ hoang, ruộng công, ruộng vắng chủ... Công tác văn hoá kháng chiến, giáo dục, xoá nạn mù chữ, bảo vệ sức khoẻ cũng đạt được nhiều kết quả.

Về xây dựng Đảng, cuộc vận động chỉnh Đảng trong hai năm 1952, 1953 giúp cho cán bộ quán triệt thêm đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, khắc phục một bước những lệch lạc "tả" khuynh, hữu khuynh. Kết quả chỉnh Đảng bị hạn chế do những thiếu sót về cách làm không dựa trên cơ sở tổng kết công tác, phê bình thiếu khách quan, toàn diện, thiếu tinh thần xây dựng.

Giữa năm 1952, những thắng lợi của nhân dân ta ở vùng tự do và vùng sau lưng địch đã tạo ra sức mạnh mới cho cuộc kháng chiến. Tháng 9-1952, thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, quân ta mở chiến dịch Tây Bắc nhằm: tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai và xây dựng căn cứ địa ở Tây Bắc.

Sau ba tháng chiến đấu (từ ngày 4-10 đến ngày 30-12-1952) tại mặt trận Tây Bắc quân và dân ta đã tiêu diệt trên 6.000 tên địch, giải phóng đại bộ phận khu Tây Bắc rộng 28.500 km2 với 25 vạn dân; phá tan âm mưu lập "Xứ Thái tự trị" của giặc Pháp, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Địch phải tập trung tàn quân về Nà Sản, xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm lớn với lực lượng 10 tiểu đoàn.

Ở vùng sau lưng địch thuộc đồng bằng Bắc Bộ, quân chủ lực kết hợp với bộ đội địa phương, dân quân, du kích, phá nhiều đồn bốt giặc, phá tề, mở rộng căn cứ du kích. Ở Phú Thọ, quân ta đập tan cuộc hành quân của địch âm mưu kéo chủ lực ta về để đỡ đòn cho Tây Bắc. Kể cả ba mặt trận Tây Bắc, đồng bằng Bắc Bộ và Phú Thọ, quân và dân ta đã tiêu diệt 13.800 tên địch.

Chiến thắng Tây Bắc đã chứng minh phương hướng chiến lược "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" là hoàn toàn đúng đắn, để lại nhiều kinh nghiệm về tổ chức một chiến dịch chính quy ở một chiến trường xa, khó tiếp tế, vận chuyển.

Thất bại nặng ở Tây Bắc, quân Pháp tăng cường phòng thủ Thượng Lào, xây dựng tập đoàn căn cứ điểm thị xã Sầm Nưa. Tháng 4 - 1953, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội giải phóng Lào mở Chiến dịch Thượng Lào. Sau gần một tháng chiến đấu, liên quân Lào - Việt đã giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ với trên 30 vạn dân, tiêu diệt 2.800 tên địch. Căn cứ kháng chiến Thượng Lào nối liền với vùng Tây Bắc của Việt Nam, tạo thành thế uy hiếp mạnh đối với quân Pháp.

Năm 1953, thắng lợi trong việc thực hiện ba nhiệm vụ chiến lược tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta và phá tan kế hoạch bình định của giặc Pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân, dân ta trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.

VI. CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG – XUÂN 1953-1954. CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ. HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ

Qua 8 năm kháng chiến, lực lượng so sánh giữa ta và địch đã thay đổi lớn. Ở Bắc Bộ, vùng tự do bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi rộng lớn ở Việt Bắc, Tây Bắc và tỉnh Hoà Bình. Vùng địch tạm chiếm bị thu hẹp. Tại Trung Bộ, hai vùng tự do rộng lớn gồm Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh (Liên khu IV) và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Liên khu V) được củng cố. Tại Nam Bộ, các căn cứ địa kháng chiến, căn cứ du kích đứng vững, cơ sở kháng chiến được xây dựng ở cả nông thôn và thành thị. Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng cơ động chiến lược của ta hơn hẳn lực lượng cơ động chiến lược của địch.

Trước những khó khăn gay gắt ở Pháp và ở Đông Dương, Pháp ngày càng lệ thuộc Mỹ. Quân Pháp tăng cường về số lượng (lên tới 465.000 tên năm 1953) nhưng chất lượng kém. Mỹ đã can thiệp sâu vào Đông Dương chờ cơ hội hất cẳng Pháp. Tháng 5-1953, tướng Nava được phái sang Đông Dương làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh và với sự thoả thuận của Mỹ, kế hoạch Nava (Navarre) ra đời nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ Pháp là tìm con đường thoát bằng chính trị, tạo ra những điều kiện quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có danh dự. Kế hoạch Nava có nhiệm vụ tăng gấp ba lần số đơn vị cơ động chiến lược thành 27 binh đoàn và về tác chiến chia làm hai bước:

Bước thứ nhất (Thu - Đông 1953 và Xuân 1954): phòng ngự chiến lược ở Bắc vĩ tuyến 18 và xây dựng lực lượng; tiến công ở Nam vĩ tuyến 18 nhằm bình định miền Nam và miền Trung, xoá bỏ vùng tự do Liên khu V.

Bước thứ hai: sau khi có ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa thu 1954 chuyển toàn bộ lực lượng ra phía Bắc, mở cuộc tiến công quân sự gây sức ép buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện của chúng.

Theo kế hoạch trên đây, tháng 7-1953, quân nhảy dù Pháp tập kích bất ngờ vào thị xã Lạng Sơn, tăng cường hoạt động biệt kích ở Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và càn quét ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên và Nam Bộ. Tháng 8-1953, sau khi rút quân ở Nà Sản về, địch tập trung hơn 90% lực lượng cơ động ở Bắc Bộ.

Cuối tháng 9-1953, tại Định Hoá, Thái Nguyên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953 -1954. Bộ Chính trị chủ trương đưa bộ đội chủ lực lên Tây Bắc để buộc địch phải phân tán lực lượng và ta có thể tiêu diệt sinh lực của chúng, phối hợp các chiến trường, chuẩn bị điều kiện tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.

Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 gồm ba đòn tiến công chiến lược: đánh vào Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc; phối hợp với quân giải phóng Lào giải phóng Phong Xa Lỳ, tiến công ở Trung Lào và Hạ Lào, phối hợp với quân giải phóng Campuchia đánh ở Đông Bắc Campuchia; mở rộng vùng giải phóng tới sau lưng Sài Gòn, giành lấy Tây Nguyên và phá âm mưu bình định của địch ở miền Nam. Phương châm tác chiến: đánh ăn chắc, đánh tiêu diệt, đánh nơi địch sơ hở và tương đối yếu buộc địch phải phân tán; tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt.

Trong lúc ta chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược, giữa tháng 10-1953, quân Pháp đánh vào Tây nam Ninh Bình, bị lực lượng vũ trang của ta phản công ngay từ đầu, nên chúng buộc phải rút lui.

Theo kế hoạch đã định, giữa tháng 11-1953 bộ đội ta tiến lên Lai Châu và sang Trung Lào. Ngày 20-11-1953, Nava vội vã cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ và xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu nối liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ. Từ đầu tháng 12-1953 Pháp tăng thêm quân ở Điện Biên Phủ để xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố, sẵn sàng "nghiền nát" quân chủ lực của ta. Như vậy, ngay từ đầu kế hoạch Nava đã bị đảo lộn.

Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ngày 10-12-1953, bộ đội ta tiến công địch ở Lai Châu, cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 bắt đầu. Sau 10 ngày đêm chiến đấu, quân ta giải phóng Lai Châu trừ Điện Biên Phủ, Nava quyết định điều thêm quân cơ động lên Điện Biên Phủ, đưa lực lượng ở đây lên 12 tiểu đoàn.

Hạ tuần tháng 12-1953, quân tình nguyện Việt Nam và quân giải phóng Lào tiến công giải phóng hầu hết vùng Trung Lào. Nava phải điều quân từ Bắc Bộ sang cùng lực lượng tại chỗ lập tập đoàn cứ điểm ở Xênô (Xavannakhét). Liên quân Lào - Việt tiến xuống Hạ Lào và cuối tháng 1-1954 giải phóng cao nguyên Bôlôven. Một bộ phận quân ta phối hợp với quân giải phóng Campuchia tiến công mở rộng vùng giải phóng Đông Bắc Campuchia nối liền với vùng giải phóng Hạ Lào.

Cuối tháng 1-1954, địch tập trung một lực lượng lớn đánh Phú Yên hòng chiếm Liên khu V. Quân ta đánh chặn địch ở Phú Yên đồng thời tiến công Tây Nguyên, giải phóng thị xã Kon Tum và bắc Tây Nguyên, tập kích Plâycu. Quân Pháp buộc phải ngừng tiến công ở Phú Yên, điều lực lượng lên Tây Nguyên tổ chức hai tập đoàn cứ điểm An Khê và Plâycu.
Cuối tháng 1-1954, bị đánh mạnh ở Thượng Lào và mất tỉnh Phong Xa Lỳ, Nava phải điều quân tới Mường Sài và Luông Phabăng chốt giữ.

Ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ, quân và dân ta hoạt động đều khắp, giam chân và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc địch phải phân tán lực lượng.

Đầu tháng 3-1954, lực lượng địch ở Điện Biên Phủ đã lên tới hơn 20 tiểu đoàn, phần lớn là lính Âu - Phi, bố trí 49 cứ điểm, được sự tiếp tế và hỗ trợ chiến đấu của 80% số máy bay của Pháp ở Đông Dương.

Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", Đảng đã động viên sức người, sức của cho mặt trận Điện Biên Phủ. Hơn 26 vạn dân công với trên 10 triệu ngày công đã tham gia phục vụ chiến dịch. 27.400 tấn gạo được huy động chuyển đến mặt trận, trong đó đồng bào Tây Bắc mới giải phóng góp 7.300 tấn. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh mở mới và sửa chữa hàng nghìn kilômét đường. Các phương tiện vận tải các loại, kể cả xe đạp được huy động tối đa.

Kế hoạch tác chiến đề ra hai phương châm:một là "đánh nhanh thắng nhanh",hai là "đánh chắc tiến chắc". Khi địch mới nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, quân và dân ta chuẩn bị "đánh nhanh thắng nhanh". Trước ngày quân ta dự định nổ súng tiến công (25-1-1954), tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được tăng cường. Bộ Chính trị chuẩn y đề nghị Đảng uỷ Mặt trận chuyển sang phương châm "đánh chắc tiến chắc" và hoãn ngày mở đầu chiến dịch.

Cùng với những hoạt động về quân sự và chuẩn bị chiến dịch, Đảng ta mở cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất. Ba đợt thí điểm được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 12-1953. Tháng 11-1953, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất (khoá II) của Đảng thông qua Cương lĩnh về vấn đề ruộng đất. Ngày 1-12-1953, Quốc hội khoá I thông qua Luật cải cách ruộng đất. Từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng đã lãnh đạo nông dân tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở một số nơi thuộc vùng tự do. Việc làm đó đã có ảnh hưởng tốt đến nhiều vùng trong nước, tới cả vùng sau lưng địch. Không khí phấn khởi của nông dân đã truyền tới các chiến sĩ ngoài mặt trận, góp phần củng cố quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược.

Ngày 13-3-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ đội ta tiêu diệt gọn hai cứ điểm Him Lam, Độc Lập, tiếp đó uy hiếp sân bay Mường Thanh. Thắng lợi đầu tiên của ta làm cho tinh thần binh sĩ địch dao động, thực dân Pháp ở Hà Nội, Sài Gòn và Chính phủ Pháp bàng hoàng.

Đợt tiến công thứ hai bắt đầu ngày 30-3. Quân ta chiếm được phần lớn cứ điểm quan trọng ở phía Đông, chia cắt, bao vây, khống chế được tiếp viện của địch. Quân Pháp được tăng thêm 4 tiểu đoàn, chống cự quyết liệt. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 179 máy bay và giặc lái, dự định mở chiến dịch "con diều hâu" dùng máy bay ném bom hạng nặng để cứu nguy cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ.

Ngày 19-4, Bộ Chính trị nhận định hai đợt tiến công của ta đã giành được thắng lợi, nhưng thắng lợi còn hạn chế và ta đã phải chịu nhiều tổn thất; trong một số cán bộ đảng viên xuất hiện tư tưởng hữu khuynh, ngại khó, thiếu ý thức trách nhiệm. Bộ Chính trị quyết định tăng cường chi viện cho Điện Biên Phủ, cử nhiều uỷ viên Trung ương Đảng ra mặt trận, chuyển một bộ phận cán bộ của cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất sang phục vụ chiến dịch và mở đợt sinh hoạt chính trị nâng cao tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận.

Ngày 1-5-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ ba nhằm tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Sau ba ngày đêm chiến đấu, bộ đội ta chỉ còn cách sở chỉ huy địch 300 mét. Thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt, địch định phá vòng vây tháo chạy sang Lào nhưng không kịp. 17 giờ 30 ngày 7-5-1954, tướng Đờ Caxtơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống, 12.000 quân địch ra hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã toàn thắng.

Sau 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ và anh dũng, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, diệt và bắt sống 16.200 quân địch, bắn rơi 62 chiếc máy bay, thu nhiều vũ khí. Ngày 8-5-1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc và căn dặn: thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bước đầu.

Chiến thắng Điện Biên Phủ cổ vũ và tạo điều kiện cho cuộc tiến công và nổi dậy (phá tề, trừ gian, chống bắt lính, làm tan rã hàng ngũ địch) của quân và dân ta ở vùng địch chiếm đóng. Ngày 27-5-1954, hơn 20.000 nhân dân thành phố Hải Phòng xuống đường biểu tình chống bắt lính, diễu qua các đường lớn, phá phòng động viên Cầu Đất và đốt phá một số đồn cảnh sát.

Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc thành công. Gần một phần tư tổng lực của địch đã bị tiêu diệt. Quân và dân ta đã đánh bại kế hoạch Nava là cố gắng chiến tranh cao nhất, cuối cùng của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, giáng đòn quyết định, đập tan ý chí xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp.

Lo sợ gặp phải một "Điện Biên Phủ mới", ngày 14-5-1954 Chính phủ Pháp chủ trương rút quân khỏi miền nam đồng bằng Bắc Bộ và xác định mục tiêu chính của Pháp ở Đông Dương là bảo vệ quân đội viễn chinh. Tính đến giữa tháng 7-1954, quân Pháp rút 175 vị trí ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, rút khỏi Việt Trì và hầu hết các tỉnh Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam. Gần 90% đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng.

Thắng lợi của nhân dân ta có sự đóng góp quý báu của nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên thế giới đã ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta kháng chiến chống cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" của đế quốc Pháp.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được kết thúc bằng cuộc đấu tranh về ngoại giao.

Sau khi Quốc hội Pháp biểu quyết ủng hộ Chính phủ Pháp tìm giải pháp thương lượng cho cuộc chiến tranh, ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Etxprétxen (Thuỵ Điển) nói rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ ta về thương lượng: cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp phải thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam.

Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp thảm bại ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương khai mạc ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ). Tham dự Hội nghị có đại diện của 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Pháp, Mỹ, Anh và ba đoàn của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia. Tại Hội nghị, đồng chí Phạm Văn Đồng trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố lập trường về một giải pháp hoàn chỉnh: đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương. Chủ trương của phía Pháp là chỉ giải quyết vấn đề quân sự, tách vấn đề Lào và vấn đề Campuchia khỏi vấn đề Việt Nam. Do lập trường các bên khác nhau, mỗi đế quốc lại có ý đồ riêng nên đến trung tuần tháng 6-1954, Hội nghị hầu như giẫm chân tại chỗ. Một số vấn đề tồn tại là: đường ranh giới tập kết ở Việt Nam; thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Nam; thời hạn rút quân Pháp khỏi miền Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia.

Ngày 21-7-1954, Hội nghị Giơnevơ đi đến giải pháp và ký kết Hiệp định. Hiệp định Giơnevơ quy định: Các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, Pháp rút quân khỏi ba nước Đông Dương, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời; tháng 7-1956, tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.

Trong số 9 đoàn tham dự Hội nghị Giơnevơ, có 8 đoàn tham gia ký vào Hiệp định. Riêng đoàn Mỹ không ký mà chỉ ra một bản tuyên bố ghi nhận. Đây là sự chuẩn bị trước cho việc Mỹ không thực hiện Hiệp định sau này.

Hiệp định Giơnevơ đã góp phần cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương. Miền Bắc nước ta được giải phóng, có điều kiện xây dựng trong hoà bình, làm cơ sở cho sự nghiệp giải phóng miền Nam sau này.

Hiệp định Giơnevơ có mặt hạn chế là không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của quân và dân ta trên chiến trường. Điều đó được thể hiện trong việc chia giới tuyến quân sự tạm thời, thời hạn tổng tuyển cử, giải pháp về Lào và Campuchia. Nguyên nhân của hạn chế đó là do ta không nắm được đầy đủ tình hình và ý đồ các bên, chưa có kinh nghiệm để giữ vững độc lập tự chủ trong một Hội nghị quốc tế.

Từ ngày 23-9-1945 đến ngày 21-7-1954, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua hơn 3.200 ngày đêm kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ nhưng vô cùng anh dũng và tự hào.

Gần nửa triệu quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu; khoảng 3.000 tỷ phơrăng Pháp và 2.600 triệu đôla Mỹ viện trợ tiêu phí vì chiến tranh; 20 lần Chính phủ Pháp bị đổ; 7 lần toàn quyền Pháp bị triệu hồi; 8 tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau thua trận. Thực dân Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia và phải rút quân khỏi ba nước.

Ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương bị đập tan. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân cũ, trước hết là hệ thống thuộc địa của Pháp; cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Những kinh nghiệm và thành tựu mà Đảng và nhân dân ta thu được trong kháng chiến là những đóng góp quý giá vào kho tàng lý luận giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Những lực lượng cách mạng mà Đảng ta đã xây dựng là những vốn liếng bảo đảm cho nhân dân ta tiến lên hoàn thành thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước sau này.
Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:

"Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại cho Đảng ta và nhân dân ta những kinh nghiệm lịch sử quý báu:

1. Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, nhất định thắng lợi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và trong toàn bộ quá trình kháng chiến.

2. Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới.

3. Vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng chiến đấu.

4. Phương thức tiến hành chiến tranh thích hợp.

5. Nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.

Nguồn: Báo ĐT ĐCS
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top