Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Bài 3
Xây dựng và bảo vệ Chính quyền Nhân dân (9/1945 – 12/1946)
Xây dựng và bảo vệ Chính quyền Nhân dân (9/1945 – 12/1946)
I. TÌNH THẾ ĐẤT NƯỚC VÀ KHẢ NĂNG GIỮ VỮNG CHÍNH QUYỀN NHÂN DÂN
Sau Cách mạng Tháng Tám, chính quyền nhân dân mới được thành lập đã phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất nghiêm trọng.
Đất nước bị các thế lực đế quốc phản động bao vây và tiến công.
Đầu tháng 9-1945, theo thoả thuận của Đồng minh ở Hội nghị Pốtxđam (Postdam), Chính phủ Trung Hoa dân quốc Tưởng Giới Thạch đưa 200.000 quân vào phía Bắc vĩ tuyến 16 nước ta và Anh đưa quân vào phía Nam. (Kể cả quân Pháp bám theo quân Anh, số quân này có khoảng gần 100.000-TG). để tước vũ khí quân đội Nhật Bản. Từ ngày 23-9-1945 quân Pháp núp sau quân Anh đã trắng trợn đánh chiếm Sài Gòn rồi Nam Bộ hòng đặt trở lại sự thống trị của đế quốc Pháp đối với dân tộc Việt Nam.
Đế quốc Mỹ để cho Pháp trở lại Đông Dương nhằm kéo Pháp, Anh chống Liên Xô đồng thời cài thế hất cẳng Pháp và Anh ở Đông Dương và Đông Nam Á về sau. Đế quốc Anh giúp Pháp đem quân chiếm lại Đông Dương nhằm ngăn chặn âm mưu của Mỹ và giữ các thuộc địa của mình. Các thế lực đế quốc, phản động nước ngoài tuy theo đuổi lợi ích riêng và có những thủ đoạn khác nhau, song đều có một mục tiêu chung là tiêu diệt chính quyền nhân dân, xoá bỏ thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam.
Lúc này chính quyền nhân dân vừa phải chống giặc xâm lược, vừa phải đối phó với nhiều tổ chức phản động như "Việt Nam quốc dân Đảng" (Việt quốc), "Việt Nam cách mạng đồng minh hội" (Việt cách), Đại Việt. Các tổ chức đó dựa vào thế lực bên ngoài để chống lại cách mạng, hòng xoá bỏ chính quyền nhân dân. Chúng núp dưới chiêu bài yêu nước, cách mạng để lừa bịp, lôi kéo nhân dân. Chúng đòi Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bộ trưởng là đảng viên cộng sản phải từ chức. Chúng lập chính quyền phản động ở Vĩnh Yên, Yên Bái, Móng Cái. Chưa bao giờ trên đất nước Việt Nam có mặt nhiều kẻ thù bên ngoài và bên trong như lúc này.
Bên cạnh những thách thức nghiêm trọng về quân sự và chính trị, những khó khăn về kinh tế, xã hội cũng là thách thức nặng nề đối với Đảng ta và chính quyền cách mạng. Nạn đói ở miền Bắc do Nhật, Pháp gây ra chưa được khắc phục, 50% ruộng đất bị bỏ hoang, ở Bắc Bộ 6 tỉnh bị lụt, sau lụt đến hạn hán. Công nghiệp đình đốn, nhiều nhà máy chưa phục hồi được sản xuất. Hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt, ngoại thương đình trệ. Tình hình tài chính rất khó khăn, kho bạc chỉ có 1,2 triệu đồng, trong đó quá nửa là tiền rách, thuế chưa thu được. Ngân hàng Đông Dương còn nằm trong tay tư bản Pháp. Quân Tưởng tung tiền quốc tệ và quan kim ra thị trường gây ra nhiều rối loạn. 95% số dân không biết chữ, các tệ nạn xã hội mà chế độ cũ để lại còn nặng.
Về môi trường quốc tế, nước ta có thuận lợi cơ bản là sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, các phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ và hoà bình trên thế giới sau chiến tranh có tác động cổ vũ cuộc đấu tranh của nhân dân ta bảo vệ nền độc lập mới giành được và kiềm chế các thế lực đế quốc. Liên Xô có uy tín quốc tế cao, có vai trò tham gia giải quyết các vấn đề quốc tế, khôi phục đất nước nhanh chóng, đồng thời giúp đỡ một số nước Đông Âu xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, giúp đỡ các phong trào giải phóng dân tộc. Tuy vậy, trong những năm đầu Cách mạng Tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bị bao vây cách biệt với thế giới bên ngoài, chưa nhận được sự giúp đỡ trực tiếp của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Nước ta lâm vào tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Chính quyền nhân dân có nguy cơ bị lật đổ, nền độc lập mới giành được có thể bị mất.
Trước tình hình đó, Đảng ta tỉnh táo và sáng suốt nhận thấy đất nước không phải chỉ có khó khăn mà còn có những thuận lợi cơ bản, chính quyền nhân dân có khả năng vượt qua khó khăn và trụ vững. Thế mạnh và thuận lợi lớn nhất là nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước.Toàn dân tin tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết xung quanh Đảng, quyết tâm xây dựng, bảo vệ chính quyền và chế độ mới, cuộc sống mới, quyết tâm chống xâm lược, bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc. Nhân dân ta có tinh thần sáng tạo, dùng nhiều hình thức đấu tranh, nhiều giải pháp để giữ vững độc lập, tự do.
Dù còn non trẻ, chính quyền nhân dân đã trở thành hệ thống từ Trung ương tới cơ sở, do Đảng lãnh đạo và được toàn dân ủng hộ. Lực lượng vũ trang nhân dân bao gồm quân đội, dân quân, tự vệ và công an. Mặc dù về tổ chức và trang bị còn non yếu, kinh nghiệm chiến đấu còn ít, nhưng họ đều xuất thân từ nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chăm lo xây dựng và lãnh đạo trực tiếp, có tinh thần yêu nước và tinh thần chiến đấu cao.
Từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền, Đảng có uy tín cao, có lãnh tụ sáng suốt, được toàn dân tin tưởng, có hệ thống tổ chức trong toàn quốc, có đường lối và phương pháp đúng, vững tay chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam.
II. VỪA KHÁNG CHIẾN VỪA KIẾN QUỐC, TẠM HOÀ HOÃN VỚI TƯỞNG ĐỂ CHỐNG PHÁP (9-1945 - 3-1946)
1. Chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc và phong trào cách mạng của quần chúng
Ngày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra sáu việc cấp bách: phát động chiến dịch tăng gia sản xuất để chống đói; mở phong trào chống nạn mù chữ; sớm tổ chức tổng tuyển cử; mở phong trào giáo dục cần kiệm, liêm chính; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò và tuyên bố tự do tín ngưỡng, lương giáo đoàn kết. Sau đó, Người đã nêu ra ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Bộ, một phái đoàn Trung ương do đồng chí Hoàng Quốc Việt, Uỷ viên thường vụ Trung ương Đảng dẫn đầu đã vào Nam để cùng Đảng bộ Nam Bộ chỉ đạo kháng chiến. Đảng bộ Nam Bộ đã có những quyết định quan trọng lãnh đạo nhân dân kháng chiến, nắm chắc lực lượng vũ trang, thành lập Uỷ ban kháng chiến, tăng cường công tác trừ gian, xây dựng lại cơ sở trong các đô thị bị tạm chiếm, phát triển chiến tranh nhân dân, khôi phục chính quyền cách mạng những nơi bị tan rã. Trong thưGửi đồng bào Nam Bộ ngày 26-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết của cả quốc dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc tranh đấu của chúng ta là chính đáng".
Đảng ta phát động phong trào cả nước ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ. Trong một thời gian ngắn, hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ đã có những chi đội (ngang với trung đoàn) Nam tiến, lên đường vào Nam giết giặc.
Ngày 25-11-1945, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thịKháng chiến kiến quốc. Chỉ thị nhậnđịnh những thay đổi căn bản của tình hình thế giới và trong nước sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nêu rõ những thuận lợi cơ bản và những thử thách lớn của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc mà nhân dân ta đang tiến hành. Chỉ thị đánh giá các kẻ thù, chỉ rõ kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược. Về cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Chỉ thị chủ trương tiến hành chiến tranh nhân dân rộng khắp, huy động sức mạnh tại chỗ và sức mạnh của cả nước, vừa kháng chiến vừa kiến quốc để giữ vững nền độc lập và thống nhất.
Chỉ thị Kháng chiến kiến quốc nêu ra nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là củng cố chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân. Chỉ thị đề ra các công tác trên các mặt chính trị, quân sự , kinh tế, văn hoá, ngoại giao, xây dựng Đảng, mở rộng Mặt trận Việt Minh và Mặt trận thống nhất Việt Nam - Lào - Campuchia chống Pháp xâm lược.
Để sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc giành được thắng lợi, nhiệm vụ trung tâm là củng cố chính quyền nhân dân. Trong hoàn cảnh vô cùng phức tạp, cuộc tổng tuyển cử ngày 6-1-1946 đã thành công, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Tổng tuyển cử thắng lợi là một đòn mạnh đánh vào âm mưu chia rẽ, lật đổ, xâm lược của đế quốc và tay sai, xác định quyền làm chủ của nhân dân. Ngày 2-3-1946, Quốc hội khoá I họp kỳ đầu tiên, trao quyền cho Chủ tịch Hồ Chí Minh lập Chính phủ chính thức, thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cùng với việc xây dựng chính quyền nhân dân, Đảng phát động các phong trào tăng gia sản xuất chống đói, chống nạn mù chữ. Theo chủ trương của Đảng, Chính phủ cho mở lại các nhà máy do Nhật Bản bỏ lại, tiến hành khai thác các mỏ; cho tư nhân được góp vốn kinh doanh ở các xí nghiệp, khuyến khích giới công thương lập hợp tác xã và hội cổ phần, tham gia kiến thiết lại nước nhà. Chính sách lao động được ban hành trong đó có chế độ ngày làm 8 giờ. Chính phủ tổ chức khuyến nông, sửa chữa đê điều, tiến hành tịch thu ruộng đất của đế quốc và việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công cho cả nam và nữ, giảm tô 25%, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác. Sản xuất nông nghiệp được khôi phục nhanh chóng. Về tài chính, Chính phủ lập ngân hàng quốc gia, phát hành giấy bạc, tổ chức tuần lễ vàng, lập ngân quỹ toàn quốc, ngân quỹ các xứ và các tỉnh. Các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế, xây dựng đời sống mới đạt được những tiến bộ đáng kể. Một năm sau Cách mạng Tháng Tám đã có 2,5 triệu người biết chữ.
Đảng rất quan tâm lãnh đạo việc xây dựng lực lượng vũ trang. Để trấn áp bọn phản cách mạng, Chính phủ ra sắc lệnh giải tán hai Đảng phản động (Đại Việt quốc gia xã hội Đảng và Đại Việt quốc dân Đảng) và sắc lệnh cho an trí những người nguy hiểm chống chế độ mới, sắc lệnh lập toà án quân sự trừng trị bọn phản động.
Đảng chỉ đạo tích cực phát triển các đoàn thể cứu quốc và thống nhất những tổ chức ấy trong toàn quốc, sửa lại điều lệ các đoàn thể cứu quốc cho thích hợp với hoàn cảnh mới, tổ chức thêm những đoàn thể cứu quốc mới. Đông đảo các tầng lớp trí thức, kể cả một số quan lại trong chế độ cũ, các công thương gia cũng hăng hái tham gia sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.
Đảng chủ trương kiên quyết khắc phục những khuyết điểm trong bộ máy nhà nước theo thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi uỷ ban nhân dân các cấp ngày 17-10-1945. Trong thư, Người chỉ rõ: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật". Người còn nhấn mạnh: nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì. Vì vậy chính quyền các cấp cần phải bỏ ngay cái thói cậy thế, kiêu ngạo, chia rẽ, hủ hoá....
2. Thực hiện sách lược hoà hoãn, nhân nhượng với quân Tưởng
Đánh giá âm mưu thủ đoạn hành động của các kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: quân Tưởng ra sức thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng song kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp xâm lược, phải tập trung ngọn lửa đấu tranh vào chúng.
Muốn tập trung lực lượng chống thực dân Pháp, cần phải nhân nhượng hoà hoãn với quân Tưởng để có thời gian xây dựng lực lượng về mọi mặt và chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến toàn quốc có thể xảy ra.
Ngày 11-11-1945, Đảng ta đã tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút vào hoạt động bí mật để làm mất mục tiêu quấy rối của kẻ thù, dù là bí mật, Đảng vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân.
Đảng đánh giá quân Tưởng tuy đông, nhưng có mâu thuẫn nội bộ và có nhiều khó khăn khác. Trong khi đất nước ta mới giành được chính quyền, nhân dân là người làm chủ và có sức mạnh đoàn kết, cùng với chính sách đối ngoại mềm dẻo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân Tưởng không thể không hợp tác với chính quyền ta. Tuy nhiên chúng vẫn tìm mọi cách gây rối, khiêu khích, đòi đưa tay chân là các đảng phái phản động vào chính quyền của ta.
Trong quan hệ với quân Tưởng, Đảng nắm vững phương châm của Hội nghị toàn quốc Tân Trào là thêm bạn bớt thù, trên cơ sở phát huy thực lực của ta. Chính quyền ta hợp tác tích cực với quân Tưởng trong việc giải giáp quân Nhật và tự kiềm chế trước những hành động khiêu khích của quân Tưởng, tránh để xảy ra xung đột về quân sự. Mặc dù đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế, tài chính, nhân dân còn phải gánh chịu nạn đói, nhưng Chính phủ ta đã cung cấp lương thực, thực phẩm cho 20 vạn quân Tưởng.
Về chính trị, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động mở rộng thành phần Chính phủ lâm thời thành Chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 18 thành viên trong đó có đại biểu của hai Đảng Việt quốc, Việt cách. Ngày 2-3-1946, kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chính thức thông qua Chính phủ liên hiệp và chấp nhận 70 ghế Quốc hội của Việt quốc, Việt cách không qua bầu cử, nâng tổng số đại biểu Quốc hội lên 403.
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có sự mềm dẻo về sách lược, nhưng giữ vững nguyên tắc: nắm chắc vai trò lãnh đạo của Đảng, giữ vững chính quyền cách mạng, giữ vững mục tiêu độc lập, thống nhất đất nước, không để kẻ thù nắm quần chúng; trừng trị nghiêm khắc những tên đầu sỏ phản cách mạng. Sách lược đó đã làm thất bại âm mưu của quân Tưởng muốn tiêu diệt chính quyền nhân dân, đảm bảo cho nhân dân ta tập trung sức kháng chiến chống xâm lược của thực dân Pháp ở miền Nam. Chính quyền nhân dân không những được giữ vững mà còn được củng cố về mọi mặt.
III. TẠM HOÀ HOÃN VỚI THỰC DÂN PHÁP, CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC (3-1946 - 12-1946)
1. Tạm hoà hoãn với Pháp, đẩy nhanh quân Tưởng về nước
Đầu năm 1946, Chính phủ mới ở Pháp đứng trước tình hình kinh tế kiệt quệ và chính trị không ổn định, ngả sang phe hữu, nhận viện trợ của Mỹ. Ở Việt Nam, vấp phải cuộc chiến đấu ngoan cường của nhân dân ta, Chính phủ Pháp mưu tính kế hoạch mua bán quyền lợi với Anh, Mỹ và Tưởng để được thay chân Anh ở miền Nam và đưa quân ra miền Bắc Việt Nam.
Ngày 28-2-1946, Hiệp ước Hoa - Pháp được ký kết ở Trùng Khánh, Pháp nhân nhượng một số quyền lợi kinh tế cho chính quyền Tưởng trên đất Trung Hoa để Pháp được đưa quân ra miền Bắc Việt Nam, Tưởng nhân nhượng với Pháp để rút quân về nước đối phó với Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc.
Trước sự thay đổi của thời cuộc, ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thị Tình hình và chủ trương. Chỉ thị nhận định rằng, trước khi rút về nước, quân Tưởng sẽ tăng sức ép đòi cho bọn tay sai của chúng vào Chính phủ của ta nhằm ba mục đích:
"a) Bắt nhân dân Việt Nam nhắm mắt nuốt chửng Hiệp ước Hoa - Pháp.
b) Yêu sách Pháp thêm ít nhiều quyền lợi nữa.
c) Ngăn ngừa cuộc đàm phán riêng giữa Việt Minh và Pháp ". Được sự ủng hộ của quân Tưởng, trong hai ngày 20, 21 tháng 2-1946, bọn Việt Nam quốc dân Đảng biểu tình ở Hà Nội với khẩu hiệu "Đánh đến cùng", "Không đàm phán với Pháp". Mưu đồ của chúng là nhằm đẩy ta chống lại Hiệp ước Hoa - Pháp, để cho cả ba lực lượng quân Tưởng, Pháp và bọn phản động người Việt có cớ tiến công lực lượng cách mạng, lúc đó quân Tưởng sẽ kiếm cớ ở lại Đông Dương. Thực dân Pháp muốn xúc tiến nhanh việc đàm phán với ta để đưa quân vào miền Bắc Việt Nam.
Từ sự đánh giá trên đây, Trung ương Đảng đề ra chủ trương mới: nhân nhượng hoà hoãn với Pháp, để cho quân Pháp vào miền Bắc nhằm đẩy nhanh quân Tưởng về nước, bớt đi một kẻ thù nguy hiểm, tận dụng khả năng hoà bình để xây dựng lực lượng cách mạng về mọi mặt, chuẩn bị cuộc chiến đấu mới.
Chỉ thị phê phán khuynh hướng không muốn đàm phán, muốn "đánh đến cùng" và chỉ rõ "vấn đề lúc này, không phải là muốn hay không muốn đánh. Vấn đề là biết mình biết người, nhận một cách khách quan những điều kiện lời lãi trong nước và ngoài nước mà chủ trương cho đúng".
Chỉ thị nhấn mạnh lập trường của Đảng ta: Nếu Pháp chỉ thừa nhận quyền tự trị của Việt Nam thì nhất định đánh, nếu Pháp công nhận quyền tự chủ thì có thể hoà.
Theo chủ trương mới, Chính phủ ta đã đàm phán và ký với đại diện Chính phủ Pháp Hiệp định sơ bộ 6-3-1946. Hiệp định quy định : Chính phủ Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do có nghị viện, chính phủ, quân đội và tài chính riêng nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp; Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc thay thế quân Tưởng, sau 5 năm phải rút hết về nước; hai bên đình chỉ xung đột ở miền Nam để mở cuộc đàm phán đi đến ký Hiệp định chính thức.
Ngày 9-3-1946, Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ thịHoà để tiến. Chỉ thị phân tích chủ trương hoà hoãn với Pháp để:
"1. Tránh tình thế bất lợi: phải cô lập chiến đấu cùng một lúc với nhiều lực lượng phản động (thực dân Pháp, Tàu trắng, bọn phản cách mạng trong nước), chúng sẽ đúc thành một khối và được bọn đế quốc Anh, Mỹ giúp sức để đánh ta...
2. Bảo toàn thực lực dành lấy giây phút nghỉ ngơi và củng cố vị trí mới đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào. Tóm lại để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới".
Chỉ thị nhắc nhở cán bộ đảng viên và nhân dân tránh những việc làm nông nổi, vô tổ chức, vô chính phủ dễ bị kẻ thù khiêu khích, nhưng cũng không ngây thơ tin rằng Hiệp định sơ bộ đã làm cho dân tộc ta tránh được mọi khó khăn, cần phải nêu cao cảnh giác, chuẩn bị đối phó với mọi bất trắc, kể cả khi thực dân Pháp bội ước, đồng thời triệt để lợi dụng thời gian hoà hoãn để đẩy mạnh xây dựng Đảng và các tổ chức quần chúng, đào tạo cán bộ, đưa cán bộ vào gây cơ sở trong các thành phố bị chiếm đóng ở miền Nam, củng cố phong trào quần chúng.
Hai bản Chỉ thị Tình hình và chủ trương và Chỉ thị Hoà để tiến là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược hết sức đúng đắn, nhạy bén phù hợp với sự chuyển biến của tình hình đất nước, ứng phó kịp thời và có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn mới của kẻ thù.
2. Tận dụng khả năng hoà hoãn, chuẩn bị lực lượng về mọi mặt cho cuộc kháng chiến toàn quốc
Tình hình đất nước sau Hiệp định sơ bộ còn nhiều phức tạp, đòi hỏi Đảng ta phải lãnh đạo nhân dân thống nhất ý chí, hành động trên hai phương diện: đấu tranh ngoại giao và đấu tranh chính trị đòi thực dân Pháp phải thi hành Hiệp định sơ bộ, đồng thời sẵn sàng đối phó với mọi hành động phản bội của địch, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Cuối tháng 3-1946, Chính phủ Pháp phải thoả thuận: Quốc hội Việt Nam cử một phái đoàn sang Pháp và Pháp cử một phái đoàn sang Việt Nam để chuẩn bị điều kiện cho việc ký Hiệp định chính thức ở Pari.
Ngày 19-4-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt được tiến hành để chuẩn bị cho cuộc đàm phán chính thức tại Pháp. Hội nghị thảo luận ba vấn đề: những mối liên hệ ngoại giao của Việt Nam; chế độ tương lai của Đông Dương; quyền lợi văn hoá của người Pháp ở Việt Nam. Quan điểm của Đảng và nhân dân ta là: nước Việt Nam là một khối thống nhất không thể chia sẻ, ba kỳ phải theo chung một chế độ cộng hoà dân chủ. Nước Việt Nam là một nước tự chủ; có Chính phủ riêng tổ chức theo đúng Hiến pháp của mình, có nghị viện riêng, tổ chức theo lối phổ thông tuyển cử; có quân đội riêng dưới quyền chỉ huy của Bộ Tổng tư lệnh; có tài chính riêng nghĩa là có ngân hàng quốc gia, có quyền phát hành giấy bạc và thuế quan độc lập; có quyền ngoại giao trực tiếp với nước ngoài, gửi đại sứ hoặc lãnh sự đến các nước khác và được gia nhập Liên hợp quốc. Quân đội Pháp ở Đông Dương trên vĩ tuyến 16 hay dưới vĩ tuyến 16 phải có giới hạn về số lượng và sau 5 năm chỉ đóng lại một số rất ít ở một vài hải cảng. Phía Pháp ngoan cố giữ lập trường thực dân nên Hội nghị trù bị Đà Lạt đã bế tắc.
Đoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu đi thăm nước Pháp từ ngày 16-4 đến ngày 16-5-1946. Đoàn đã giải thích cho nhân dân và những người có thiện chí trong chính giới ở Pháp hiểu rõ và đồng tình với mục tiêu giành độc lập hoàn toàn của dân tộc Việt Nam.
Ngày 31-5-1946, theo lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm chính thức nước Pháp.
Cuộc đàm phán Việt - Pháp được mở ra ở Phôngtennơblô ngày 6-7-1946 và đến ngày 10-9-1946 mới chấm dứt, vì thái độ ngoan cố của thực dân Pháp. Chúng vẫn chủ trương thông qua cơ cấu Liên bang Đông Dương để buộc Việt Nam phải lệ thuộc Pháp và vẫn coi Nam Bộ là đất của chúng.
Trong thời gian thăm Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp xúc với hầu hết các đảng phái chính trị, tổ chức quần chúng ở Pháp, đại diện các tổ chức quần chúng quốc tế, nói rõ lập trường hoà bình, hữu nghị của Việt Nam với nước Pháp. Người nhấn mạnh một nguyên tắc: “Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân” nghĩa là điều mà mình không muốn thì đừng làm cho người khác; với sự thành thực và tin cậy lẫn nhau thì có thể san phẳng mọi trở ngại và giải quyết được những vấn đề khó khăn nhất.
Để giành thêm thời gian xây dựng lực lượng chuẩn bị cho cuộc kháng chiến, trước khi rời nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp bản Tạm ước ngày 14-9-1946, thoả thuận một số điều về quan hệ kinh tế, văn hoá giữa hai nước, đình chỉ xung đột quân sự ở miền Nam và sẽ tiếp tục đàm phán vào tháng 1-1947.
Chuyến thăm Pháp của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn đàm phán của Chính phủ ta tuy không đạt được mục đích ký một hiệp định chính thức, nhưng đã làm cho nhân dân Pháp hiểu và ủng hộ nhân dân ta, làm cho dư luận quốc tế chú ý đến Việt Nam và hiểu nguyện vọng hoà bình tha thiết của dân tộc Việt Nam.
Khi qua Ấn Độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố tán thành sáng kiến của Ấn Độ triệu tập một cuộc Hội nghị Liên Á nhằm đoàn kết các dân tộc bị áp bức châu Á chống chủ nghĩa thực dân.
Tận dụng thời gian hoà hoãn, Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và phát triển lực lượng về mọi mặt, chủ động đối phó với khả năng chiến tranh xảy ra trên phạm vi cả nước.
Về kinh tế, các công việc đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lương thực được tiến hành để chuẩn bị hậu phương cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Về quân sự, vũ trang toàn dân, xây dựng dân quân, tự vệ. Theo Sắc lệnh số 71/SL ngày 22-5-1946, Vệ quốc đoàn chuyển thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Đến cuối năm 1946, bộ đội thường trực đã có 80.000 người, dân quân, tự vệ đã có gần 1 triệu người.
Về chính trị, Đảng xúc tiến tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Tháng 5-1946,Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam (gọi tắt Liên Việt) ra đời, nòng cốt là Mặt trận Việt Minh. Trên BáoSự thật ngày 26-7-1946, đồng chí Trường Chinh nêu rõ bốn điều kiện để đoàn kết:một là, đoàn kết chân thành vì dân vì nước chứ không đeo mặt nạ cách mạng yêu nước mà phản nước hại dân;hai là, hành động chung để đạt mục đích chung; ba là, các đảng phái trong mặt trận có quyền giữ nguyên bản sắc chính trị nhưng phải tuân theo một chương trình tối thiểu chung; bốn là, giám thị lẫn nhau và phê bình nhau một cách thân mật.
Cùng với Mặt trận Liên Việt, các đoàn thể quần chúng và đảng phái dân chủ lần lượt ra đời: Tổng Liên đoàn Laođộng Việt Nam (5-1946), Đảng Xã hội Việt Nam (7-1946), Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (10-1946). Cuối tháng 11-1946, Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập. Đầu tháng 12-1946, Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam được tổ chức nhằm đoàn kết các dân tộc trong nước, chống âm mưu chia rẽ dân tộc của thực dân Pháp.
Cuối tháng 10, đầu tháng 11-1946 kỳ họp thứ hai Quốc hội khoá I uỷ nhiệm Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Chính phủ mới và thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đó là Hiến pháp thật sự dân chủ, xác nhận quyền và nghĩa vụ làm chủ của nhân dân. Sau khi thành lập Chính phủ mới (3-11-1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trước Quốc hội quyết tâm của Chính phủ đoàn kết dân tộc và phấn đấu vì độc lập và thống nhất của đất nước. Việc công bố Hiến pháp và thành lập Chính phủ mới đã củng cố thêm chế độ mới, tăng cường niềm tin và sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân.
Qua lãnh đạo đấu tranh, Đảng đã lớn mạnh một bước về cả số lượng và chất lượng. Từ 5.000 đảng viên khi Đảng lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, đến tháng 12-1946, Đảng đã có trên 20.000 đảng viên.
Theo quy định của Hiệp ước Hoa - Pháp, quân đội Tưởng Giới Thạch phải rút khỏi miền Bắc Đông Dương ngày 31-3-1946, nhưng trên thực tế đến cuối tháng 9-1946 chúng mới rút hết. Bọn Việt quốc, Việt cách hoặc tan rã hoặc bỏ chạy sang Trung Quốc. Nhà nước ta được củng cố thêm sau khi quét sạch bọn phản cách mạng tay sai quân Tưởng. Việc đưa ra ánh sáng vụ án Ôn Như Hầu. (Là vụ âm mưu đảo chính của bọn Việt Nam quốc dân Đảng và Đại Việt câu kết với thực dân Pháp, bị chính quyền nhân dân đập tan. Sự việc diễn ra tại một trong những trụ sở của chúng là nhà số 7 phố Ôn Như Hầu, Hà Nội (nay là phố Nguyễn Gia Thiều). Ở số nhà này, ta tìm thấy truyền đơn in sẵn kêu gọi đảo chính, tìm thấy 7 xác chết, 2 người bị bắt để đòi tiền chuộc và các dụng cụ làm giấy bạc giả. Ở phố Đỗ Hữu Vị (nay là phố Cửa Bắc), ta tìm thấy nhiều xác đàn ông, đàn bà và cả xác một số lính Pháp - TG). và làm thất bại âm mưu đảo chính của bọn phản cách mạng tay sai thực dân Pháp tháng 7-1946 đánh dấu sự phá sản của chúng.
Sau ngày ký Tạm ước 14-9, quân Pháp vẫn ráo riết tiến công quân ta và khủng bố nhân dân ta ở Nam Bộ và Trung Bộ, tăng cường khiêu khích và lấn chiếm ở miền Bắc nước ta.
Ngày 5-11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn kiện quan trọngCông việc khẩn cấp bây giờ, nêu rõ những nhiệm vụ cụ thể và cấp thiết của kháng chiến: về quân sự phải làm tốt việc xây dựng bộ đội và tự vệ, dân quân, du kích bao gồm cả việc chỉ huy, chế tạo vũ khí, cung cấp lương thực; về kinh tế, chú trọng tăng gia sản xuất gạo, muối; về chính trị, tuyên truyền, tổ chức, huấn luyện và động viên nhân dân. Người nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, của đảng viên trong bước khó khăn của sự nghiệp cách mạng: Đảng viên "Cần phải kỷ luật, hoạt bát, siêng năng, dũng cảm, có sáng kiến, làm kiểu mẫu... phải ăn ở làm sao cho dân phục, dân yêu, dân nghe"; phải động viên toàn dân "Làm cho dân ta cóTín tâm vàQuyết tâm" Đảng cùng với toàn dân "cố rán sức qua khỏi mùa đông lạnh lẽo, thì ta sẽ gặp mùa xuân".
Ngày 20-11-1946, quân Pháp mở cuộc tấn công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Sự kiện ngày 20-11-1946 là khởi điểm của kế hoạch mở rộng quy mô chiến tranh xâm lược trên toàn bộ đất nước ta và toàn Đông Dương . Khả năng hoà hoãn và giải quyết cuộc chiến tranh bằng phương pháp hoà bình không còn nữa, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng buộc phải cầm súng kháng chiến chống xâm lược.
Lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân, vừa kháng chiến vừa kiến quốc (tháng 9-1945 - tháng 12-1946), Đảng ta đã đưa đất nước vượt qua những thử thách hiểm nghèo, củng cố và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, đặt nền móng cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Những kinh nghiệm mà Đảng ta đã tích luỹ được trong thời gian đó là:
1.Phát huy quyền làm chủ đất nước của nhân dân, vượt qua tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" và giữ vững chính quyền nhân dân
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy cao độ sức mạnh làm chủ của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng. Qua thực tiễn tổng tuyển cử dân chủ bầu ra các cơ quan nhà nước, cứu đói, thực hiện chính sách ruộng đất, xoá nạn mù chữ, xoá bỏ các luật lệ áp bức và bất công của chế độ cũ..., nhân dân đã hiểu rõ chế độ mới là chế độ của mình, chính quyền cách mạng là chính quyền của dân, do dân và vì dân. Chính vì thế, nhân dân đã đem hết tài năng, sức lực, của cải, tính mạng bảo vệ chế độ mới, bảo vệ đất nước do mình làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân đã phát huy sức mạnh của lòng yêu nước, của khối đại đoàn kết dân tộc - sức mạnh vô địch của cách mạng mà kẻ thù không thể nào có được.
2.Triệt để lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, chĩa mũi nhọn cách mạng vào kẻ thù chính, hoà hoãn với kẻ thù có thể hoà hoãn
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những chủ trương rất sáng suốt về lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch và tập trung mũi nhọn đấu tranh vào kẻ thù chủ yếu. Từ việc hoà hoãn với quân Tưởng đến khi tình thế thay đổi lại kịp thời chuyển sang hoà hoãn với thực dân Pháp.
Kẻ thù nào cũng muốn bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ. Song nội bộ chúng có nhiều mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa hai tập đoàn Anh - Pháp và Mỹ - Tưởng, mâu thuẫn giữa các nhóm trong chính quyền và quân đội Tưởng, mâu thuẫn trong nội bộ thực dân Pháp. Lợi dụng những mâu thuẫn đó để phân hoá, làm suy yếu kẻ thù, xây dựng và bảo vệ được chính quyền nhân dân là một khoa học và nghệ thuật cách mạng.
Để phân hoá và hoà hoãn với kẻ thù, Đảng ta đã có những nhân nhượng cần thiết (như cho Việt quốc và Việt cách 70 đại biểu ở Quốc hội, cho Pháp đưa quân ra miền Bắc...). Đó là những nhân nhượng có nguyên tắc: không làm yếu hoặc bỏ rơi vai trò lãnh đạo của Đảng, không làm yếu hoặc để mất quyền làm chủ của nhân dân và chủ quyền dân tộc.
3.Tận dụng khả năng hoà hoãn để xây dựng lực lượng, củng cố chính quyền nhân dân, sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan ra cả nước
Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước ta đứng trước hai khả năng: khả năng chiến tranh và khả năng tạm hoà bình. Đánh giá và dự báo đúng tình hình, Đảng ta đã dùng mọi biện pháp đẩy lùi khả năng thứ nhất, tranh thủ khả năng thứ hai.
Đảng đã thực hiện sách lược hoà hoãn có nguyên tắc với Tưởng và sau đó với thực dân Pháp để có được 16 tháng hoà bình. Trong thời gian quý báu đó, Đảng đã xây dựng lực lượng về mọi mặt, củng cố chính quyền nhân dân, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, cải thiện đời sống, xây dựng lực lượng vũ trang, chuẩn bị tư tưởng cho nhân dân, tranh thủ sự đồng tình quốc tế, làm rõ chính nghĩa của dân tộc Việt Nam. Khi đế quốc Pháp cố tình mở rộng chiến tranh xâm lược thì Đảng và nhân dân cả nước ta kiên quyết kháng chiến để đánh bại chúng.
Lênin cho rằng một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ. Từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với sức mạnh làm chủ đất nước của nhân dân, cách mạng nước ta đã biết tự bảo vệ và tự bảo vệ thành công.
(Nguồn: Báo ĐT ĐCS)