Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Bài 2
Lãnh đạo giành chính quyền (1930 - 1945)
Lãnh đạo giành chính quyền (1930 - 1945)
I. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1931
1. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xôviết Nghệ - Tĩnh
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 nổ ra trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, tàn phá nền kinh tế ở các nước này, đẩy lùi sản xuất về mức cuối thế kỷ XIX. Giai cấp tư sản ở các nước đế quốc trút gánh nặng khủng hoảng lên vai nhân dân trong nước và nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa. Mâu thuẫn giữa công nhân với tư bản, giữa nông dân với địa chủ, giữa các nước thuộc địa, nửa thuộc địa với các nước đế quốc, giữa các nước đế quốc với nhau trở nên gay gắt.
Liên Xô - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên trái đất, phát triển nhanh chóng về kinh tế, xã hội, văn hoá và quốc phòng. Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước tư bản vùng lên đấu tranh.
Ở Đông Dương, thực dân Pháp chống đỡ những tai hoạ của cuộc khủng hoảng bằng cách tăng cường bóc lột nhân dân. Công nhân và nông dân là những nạn nhân trực tiếp và chịu nhiều tai hoạ nhất. Công nhân thất nghiệp ngày càng đông. Nông dân càng bị bần cùng. Nạn đói diễn ra trầm trọng. Hàng vạn người phải rời bỏ làng xã. Thợ thủ công phá sản. Nhà buôn nhỏ đóng cửa. Viên chức bị sa thải hàng loạt. Nhiều nhà tư sản dân tộc và địa chủ nhỏ cũng không tránh khỏi sa sút và phá sản. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp và tay sai rất sâu sắc.
Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời lãnh trách nhiệm thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển thành cao trào cả nước.
Nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và toàn thể đồng bào bị áp bức, bóc lột đứng lên đi theo Đảng làm cách mạng chống đế quốc và tay sai, giành lấy quyền sống. Lời kêu gọi khẳng định: "Sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết".
Phong trào cách mạng mở đầu bằng những cuộc bãi công của 5.000 công nhân đồn điền Phú Riềng (3-2-1930), của 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định (25-3-1930) và của 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ - Vinh (19-4-1930). Kết hợp với các cuộc bãi công, Đảng phát động đấu tranh chống thực dân Pháp khủng bố sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) của Việt Nam quốc dân Đảng. Từ tháng 2 đến tháng 4-1930, có 1.236 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân ở khắp ba miền, đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và quần chúng lao động trong cả nước.
Từ cuộc đấu tranh ngày 1-5-1930, bãi công của công nhân kết hợp với biểu tình của nông dân và nhân dân lao động nổ ra ở cả ba miền Trung, Nam, Bắc, từ các nhà máy ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Gai, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn... đến các vùng nông thôn Gia Định, Vĩnh Long, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Vinh, Mỹ Tho, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Thái Bình, Hà Nam... Bãi công của công nhân và biểu tình của nông dân có sự phối hợp với bãi khoá của học sinh và bãi thị của những người buôn bán nhỏ.
Hầu hết các cuộc đấu tranh đã giành được thắng lợi, buộc đế quốc Pháp và tay sai phải thả một số người bị bắt, cải thiện một số điều kiện làm việc cho công nhân, hoãn thuế cho nông dân.
Ngày 1-8-1930, Đảng mở cuộc vận động kỷ niệm ngày "Quốc tế đỏ" đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô.
Tháng 9-1930, từ những cuộc đấu tranh ban đầu đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, quần chúng tiến lên đấu tranh chính trị, nhiều cuộc biểu tình có lực lượng tự vệ vũ trang bảo vệ. Một số cuộc biểu tình đã diễn ra để kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười và Công xã Quảng Châu. Các đảng viên cộng sản đi đầu trong đấu tranh. Đến tháng 3-1931, Đảng đã có 2.100 đảng viên, phần lớn xuất thân từ công nhân, nông dân nghèo. Cao trào cách mạng công nông đã lôi cuốn nhiều trí thức tham gia. Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ giải phóng phát triển.
Cao trào cách mạng công nông nổ ra sôi nổi và quyết liệt nhất ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong khi đối đầu với những cuộc khủng bố đẫm máu nhất của thực dân Pháp, quần chúng cách mạng đã giành quyền làm chủ ở một số nơi, sau đó gọi là Xôviết Nghệ - Tĩnh.
Xôviết Nghệ - Tĩnh ra đời ở một vùng hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi: có truyền thống cách mạng kiên cường; nhân dân sống trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, lại bị áp bức bóc lột nặng nề; có một đảng bộ vững mạnh, các đoàn thể cách mạng phát triển rộng khắp; khu công nghiệp Bến Thuỷ - Vinh là nơi tập trung công nhân có liên hệ tự nhiên chặt chẽ với nông dân trong vùng tạo điều kiện cho Nghệ Tĩnh sớm xây dựng được khối liên minh công nông vững chắc. Cuộc đấu tranh của công nhân đã phân hoá các tầng lớp trên. Tầng lớp trí thức và một số phú nông, tiểu địa chủ có cảm tình với cách mạng, ủng hộ hoặc tham gia đấu tranh. Xứ uỷ Trung Kỳ cùng với Đảng bộ Nghệ Tĩnh đã trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ kết hợp với đấu tranh chống khủng bố trắng, nhất là sau các cuộc biểu tình ngày 1-5-1930 và ngày 12-9-1930.
Cuối tháng 8, đầu tháng 9-1930, nhất là sau vụ máy bay Pháp ném bom cuộc biểu tình của nông dân huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), hàng vạn nông dân nhiều huyện tổ chức các cuộc biểu tình đến các huyện lỵ, đốt sổ sách, phá nhà lao. Chính quyền thực dân tay sai nhiều nơi bị tê liệt ở cấp huyện và tan rã ở cấp xã. Nhiều cấp uỷ Đảng ở thôn xã đã lãnh đạo Nông hội và quần chúng lập ra chính quyền cách mạng của công nhân, nông dân và quần chúng lao động sau này gọi là chính quyền Xôviết. Từ tháng 9-1930 đến đầu năm 1931, chính quyền Xôviết đã thực hiện quyền làm chủ của quần chúng, điều hành mọi mặt đời sống xã hội.
Về chính trị: Ban bố quyền tự do dân chủ của nhân dân, tổ chức cho quần chúng tham gia các đoàn thể cách mạng, tự do bàn bạc, góp ý kiến giải quyết các vấn đề xã hội; phổ biến sách báo cách mạng; trừng trị bọn phản cách mạng, quản chế bọn hào lý, giữ gìn trật tự trị an.
Về kinh tế: Chia lại công điền, công thổ cho cả nam và nữ, thực hiện giảm tô, xoá nợ, thủ tiêu các thứ thuế vô lý như thuế thân, thuế muối, lấy thóc của địa chủ để cứu đói; tổ chức đào mương, chống hạn, đắp đập, củng cố đê điều, giúp nhau trong sản xuất.
Về văn hoá - xã hội: Mở trường cho trẻ em, mở các lớp dạy chữ quốc ngữ cho người lớn, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan; thực hiện nếp sống lành mạnh trong cưới xin, ma chay; tổ chức cứu tế người nghèo; phát triển thơ ca, cổ vũ tinh thần yêu nước và cách mạng.
Dưới chính quyền Xôviết, làng xóm lúc nào cũng như ngày hội. CuốnNhật ký chìm tàu do Nguyễn Ái Quốc biên soạn, được phổ biến sâu rộng trong nhân dân. Hình ảnh của Liên Xô do nhân dân lao động làm chủ đem lại niềm tin sâu sắc cho quần chúng. Đông đảo quần chúng hiểu rõ chỉ có đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và tay sai, giành quyền làm chủ mới có thể giải quyết tận gốc những yêu cầu cơ bản về cuộc sống của mình.
Hoảng sợ trước sức mạnh của "Nghệ Tĩnh đỏ", thực dân Pháp điên cuồng khủng bố. Chúng đưa đến Nghệ Tĩnh lực lượng khá lớn sĩ quan và lính Pháp để đàn áp nhân dân, gây tội ác tầy trời, đồng thời lừa bịp xảo quyệt, mở chiến dịch chiêu hàng, phát "thẻ quy thuận" nhằm đánh vào tâm lý mệt mỏi của một bộ phận quần chúng, cô lập đảng viên cộng sản. Phong trào cách mạng chịu những tổn thất về nhiều mặt.
Tháng 9-1930, Trung ương Đảng đã thông tri cho Xứ uỷ Trung Kỳ: bạo động lập Xôviết là chưa đúng với hoàn cảnh cho phép, nhưng cần phải chống khủng bố, chuyển hướng hoạt động và chuyển hướng tổ chức, giữ vững lực lượng và ảnh hưởng của Đảng. Đối với toàn Đảng, Trung ương chỉ thị tránh bạo động riêng lẻ ở một vài địa phương, phải hết sức bênh vực "Nghệ Tĩnh đỏ".
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi ấy đang hoạt động ở nước ngoài, đã ca ngợi cuộc đấu tranh của quần chúng Nghệ Tĩnh và góp ý với Trung ương Đảng về mục tiêu đấu tranh trước mắt là giành quyền lợi hàng ngày, chứ không phải là tiến hành khởi nghĩa. Ngày 29-9-1930, Người gửi thư cho Quốc tế Cộng sản đề nghị kêu gọi các Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới lên án đế quốc Pháp khủng bố trắng ở Đông Dương.
Hưởng ứng chủ trương của Đảng, nhiều địa phương trong cả nước sôi nổi đấu tranh bằng nhiều hình thức, phối hợp với phong trào công nông Nghệ Tĩnh và ủng hộ Xôviết Nghệ - Tĩnh. Chỉ trong tháng 9 và tháng 10-1930, cả nước đã có 362 cuộc đấu tranh (29 cuộc ở miền Bắc, 316 cuộc ở miền Trung, 17 cuộc ở miền Nam). Tuy nhiên, phong trào đấu tranh hưởng ứng "Nghệ Tĩnh đỏ" chưa đủ mạnh, chưa đều khắp. Đế quốc Pháp và tay sai vẫn tập trung được lực lượng khủng bố phong trào công nhân Vinh, đánh phá các làng đỏ vào cuối năm 1930, đầu năm 1931.
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc thành lập Hội phản đế đồng minh.
Trong cao trào cách mạng 1930-1931, Đảng đã giành được thắng lợi to lớn nhưng một số nơi đã phạm những lệch lạc hữu khuynh, "tả" khuynh. Thông cáo ngày 3-1-1931 phê phán xu hướng hữu khuynh "củng cố đã rồi mới đấu tranh", nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa tổ chức và đấu tranh và việc dựa vào quần chúng lập các đội tự vệ công nông chống khủng bố. Thông cáo ngày 25-1-1931 nhắc nhở đảng viên giữ vững lòng tin, đấu tranh chống âm mưu của thực dân Pháp lừa bịp và buộc nông dân ra đầu thú. Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương cuối tháng 3-1931 ở Sài Gòn phê phán các sai lầm hữu khuynh và "tả" khuynh, nhấn mạnh bản chất giai cấp công nhân của Đảng và tầm quan trọng của công tác thanh niên. Chỉ thị ngày 20-5-1931 của Trung ương Đảng nghiêm khắc phê phán chủ trương của Xứ uỷ Trung Kỳ đưa những đảng viên xuất thân từ trí thức, phú nông, địa chủ, kỳ hào ra khỏi những chức vụ quan trọng ("trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ").
2. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (10-1930) và Luận cương chính trị của Đảng
Tháng 4-1930, sau thời gian học tập ở Liên Xô, đồng chí Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về nước, bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương. Đồng chí được phân công cùng Ban Thường vụ Trung ương dự thảoLuận cương chính trị của Đảng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ươnglần thứ nhất họp từ ngày 14 đến ngày 30-10-1930 tại Hương Cảng do đồng chí Trần Phú chủ trì đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng. Dự thảo Luận cương chính trị của Đảng, Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức và cử đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư.
Luận cương chính trị năm 1930 nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ (lúc ấy gọi là cách mạng tư sản dân quyền) ở Đông Dương dogiai cấp công nhân lãnh đạo. Luận cương phân tích: tính chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, thực dân Pháp kết hợp hai lối bóc lột tư bản chủ nghĩa và bóc lột phong kiến để thu được lợi nhuận lớn nhất.
Mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
Tính chất cách mạng Đông Dương: Lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Là đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp. Hai mặt đó có quan hệ mật thiết, trong đó vấn đề ruộng đất là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền.
Về sắp xếp lực lượng cách mạng : Giai cấp vô sản vừa là động lực chính vừa là giai cấp lãnh đạo dân cày và quần chúng lao khổ. Dân cày là động lực mạnh. Tư bản thương mại đứng một phe với chủ nghĩa đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng. Tư bản công nghệ khi phong trào quần chúng nổi lên thì sẽ theo đế quốc. Thương gia không tán thành cách mạng. Trí thức tiểu tư sản, học sinh trong thời kỳ chống đế quốc hăng hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu. Các phần tử lao khổ ở thành phố như người bán rao, thủ công nghiệp nhỏ do đời sống cực khổ cho nên đều tham gia cách mạng.
Về phương pháp cách mạng: Lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu "phần ít" (tối thiểu) để bênh vực quyền lợi cho quần chúng. Đến lúc sức lực cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, giai cấp đứng giữa muốn ngả về phía cách mạng thì Đảng phải lãnh đạo quần chúng để giành chính quyền.
Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới có liên hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp vô sản Đông Dương phải có quan hệ mật thiết với giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Về Đảng: Điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng và trải qua tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng.
Qua nội dung cơ bản nêu trên, có thể thấyLuận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng màChánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân sau đó chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến quan hệ mật thiết với nhau: lực lượng chính của cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo; phương pháp cách mạng khi chưa có và khi có tình thế cách mạng: cách mạng Việt Nam liên hệ mật thiết với giai cấp vô sản các nước và các dân tộc thuộc địa.
Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản đó, giữaLuận cương chính trị với Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt có mặt khác nhau. Luận cương chính trị không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu; Luận cương đánh giá không đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản và mặt yêu nước của tư sản dân tộc, một bộ phận địa chủ nhỏ.
Nguyên nhân của mặt khác nhau là ở chỗ:Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững đặc điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam.Lại do hạn chế về nhận thức ấu trĩ, tả khuynh, giáo điều, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nêu trong Đường Cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt. (Những quan điểm mới này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc sau được chấp nhận trong thực tiễn của phong trào Mặt trận Dân chủ 1936-1939 và đã biến thành Nghị quyết chính thức của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 và tháng 5-1941).
Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã tạo lập được khối liên minh công nông, lực lượng đông đảo nhất của dân tộc, đạo quân chủ lực quyết định thắng lợi của cách mạng sau này. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 khẳng định đường lối cách mạng do Đảng ta đề ra là đúng đắn. Do kinh nghiệm bản thân, nhân dân thấy được con đường cứu nước và cứu nhà ở Việt Nam không thể có con đường nào khác ngoài con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin do Đảng ta lãnh đạo.
Qua cao trào cách mạng 1930 - 1931, giai cấp công nhân đã thực hiện quyền lãnh đạo đối với cách mạng dân tộc dân chủ thông qua Đảng tiền phong của mình. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 là cuộc tổng diễn tập thứ nhất của Đảng ta và quần chúng cách mạng về khởi nghĩa giành chính quyền.
Đánh giá Xôviết Nghệ - Tĩnh, sau này đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết: "Xôviết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này". Sau cao trào cách mạng 1930 - 1931, Đảng ta được công nhận là một bộ phận độc lập của Quốc tế Cộng sản.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xôviết Nghệ -Tĩnh đã đem lại cho Đảng ta một số kinh nghiệm khi mới ra đời:
- Trong mỗi thời kỳ của cách mạng, phải biết căn cứ vào thực tế tình hình thế giới và trong nước, căn cứ thực tế lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng mà xác định mục tiêu cụ thể, trước mắt của phong trào cách mạng.
- Khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp, phải biết sử dụng những hình thức và phương pháp cách mạng thích hợp để vận động nhân dân đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh, chứ không phải là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền.
- Xây dựng đảng của giai cấp công nhân trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân chỉ chiếm một phần nhỏ trong dân số, bên cạnh việc coi trọng kết nạp vào Đảng những người công nhân ưu tú, vấn đề quan trọng hàng đầu là coi trọng việc làm cho đảng viên thấm nhuần lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân biểu hiện trong học thuyết Mác - Lênin, coi trọng nguyên tắc tổ chức và phương thức làm việc của Đảng Mác - Lênin, coi trọng khắc phục những khuynh hướng "tả", hữu, xa rời lập trường, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và đường lối đúng đắn của Đảng.
Từ thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam và Đông Dương do Đảng Cộng sản lãnh đạo, Hội nghị toàn thể lần thứ 11 Ban Chấp hành quốc tế cộng sản (tháng 4-1931) đã thông qua Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương"là một bộ phận độc lập của Quốc tế Cộng sản". Nghị quyết đó sau này được Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (7-1935) chính thức thông qua.