Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 2

Bút Nghiên

ButNghien.com
Bài 2
Lãnh đạo giành chính quyền (1930 - 1945)

I. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CAO TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1931

1. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao Xôviết Nghệ - Tĩnh

Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 nổ ra trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa, tàn phá nền kinh tế ở các nước này, đẩy lùi sản xuất về mức cuối thế kỷ XIX. Giai cấp tư sản ở các nước đế quốc trút gánh nặng khủng hoảng lên vai nhân dân trong nước và nhân dân các nước thuộc địa, nửa thuộc địa. Mâu thuẫn giữa công nhân với tư bản, giữa nông dân với địa chủ, giữa các nước thuộc địa, nửa thuộc địa với các nước đế quốc, giữa các nước đế quốc với nhau trở nên gay gắt.
Liên Xô - nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên trái đất, phát triển nhanh chóng về kinh tế, xã hội, văn hoá và quốc phòng. Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa đã cổ vũ các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước tư bản vùng lên đấu tranh.

Ở Đông Dương, thực dân Pháp chống đỡ những tai hoạ của cuộc khủng hoảng bằng cách tăng cường bóc lột nhân dân. Công nhân và nông dân là những nạn nhân trực tiếp và chịu nhiều tai hoạ nhất. Công nhân thất nghiệp ngày càng đông. Nông dân càng bị bần cùng. Nạn đói diễn ra trầm trọng. Hàng vạn người phải rời bỏ làng xã. Thợ thủ công phá sản. Nhà buôn nhỏ đóng cửa. Viên chức bị sa thải hàng loạt. Nhiều nhà tư sản dân tộc và địa chủ nhỏ cũng không tránh khỏi sa sút và phá sản. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp và tay sai rất sâu sắc.

Đảng Cộng sản Việt Nam mới ra đời lãnh trách nhiệm thúc đẩy phong trào quần chúng phát triển thành cao trào cả nước.

Nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và toàn thể đồng bào bị áp bức, bóc lột đứng lên đi theo Đảng làm cách mạng chống đế quốc và tay sai, giành lấy quyền sống. Lời kêu gọi khẳng định: "Sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống, không có cách mạng thì chết".

Phong trào cách mạng mở đầu bằng những cuộc bãi công của 5.000 công nhân đồn điền Phú Riềng (3-2-1930), của 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định (25-3-1930) và của 400 công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ - Vinh (19-4-1930). Kết hợp với các cuộc bãi công, Đảng phát động đấu tranh chống thực dân Pháp khủng bố sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) của Việt Nam quốc dân Đảng. Từ tháng 2 đến tháng 4-1930, có 1.236 cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân ở khắp ba miền, đánh dấu một bước ngoặt trong phong trào đấu tranh cách mạng của công nhân, nông dân và quần chúng lao động trong cả nước.

Từ cuộc đấu tranh ngày 1-5-1930, bãi công của công nhân kết hợp với biểu tình của nông dân và nhân dân lao động nổ ra ở cả ba miền Trung, Nam, Bắc, từ các nhà máy ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Gai, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn... đến các vùng nông thôn Gia Định, Vĩnh Long, Bến Tre, Long Xuyên, Cần Thơ, Trà Vinh, Mỹ Tho, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Thái Bình, Hà Nam... Bãi công của công nhân và biểu tình của nông dân có sự phối hợp với bãi khoá của học sinh và bãi thị của những người buôn bán nhỏ.

Hầu hết các cuộc đấu tranh đã giành được thắng lợi, buộc đế quốc Pháp và tay sai phải thả một số người bị bắt, cải thiện một số điều kiện làm việc cho công nhân, hoãn thuế cho nông dân.

Ngày 1-8-1930, Đảng mở cuộc vận động kỷ niệm ngày "Quốc tế đỏ" đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô.

Tháng 9-1930, từ những cuộc đấu tranh ban đầu đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, quần chúng tiến lên đấu tranh chính trị, nhiều cuộc biểu tình có lực lượng tự vệ vũ trang bảo vệ. Một số cuộc biểu tình đã diễn ra để kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười và Công xã Quảng Châu. Các đảng viên cộng sản đi đầu trong đấu tranh. Đến tháng 3-1931, Đảng đã có 2.100 đảng viên, phần lớn xuất thân từ công nhân, nông dân nghèo. Cao trào cách mạng công nông đã lôi cuốn nhiều trí thức tham gia. Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên cộng sản, Hội phụ nữ giải phóng phát triển.
Cao trào cách mạng công nông nổ ra sôi nổi và quyết liệt nhất ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Trong khi đối đầu với những cuộc khủng bố đẫm máu nhất của thực dân Pháp, quần chúng cách mạng đã giành quyền làm chủ ở một số nơi, sau đó gọi là Xôviết Nghệ - Tĩnh.

Xôviết Nghệ - Tĩnh ra đời ở một vùng hội tụ nhiều điều kiện thuận lợi: có truyền thống cách mạng kiên cường; nhân dân sống trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, lại bị áp bức bóc lột nặng nề; có một đảng bộ vững mạnh, các đoàn thể cách mạng phát triển rộng khắp; khu công nghiệp Bến Thuỷ - Vinh là nơi tập trung công nhân có liên hệ tự nhiên chặt chẽ với nông dân trong vùng tạo điều kiện cho Nghệ Tĩnh sớm xây dựng được khối liên minh công nông vững chắc. Cuộc đấu tranh của công nhân đã phân hoá các tầng lớp trên. Tầng lớp trí thức và một số phú nông, tiểu địa chủ có cảm tình với cách mạng, ủng hộ hoặc tham gia đấu tranh. Xứ uỷ Trung Kỳ cùng với Đảng bộ Nghệ Tĩnh đã trực tiếp chỉ đạo cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ kết hợp với đấu tranh chống khủng bố trắng, nhất là sau các cuộc biểu tình ngày 1-5-1930 và ngày 12-9-1930.

Cuối tháng 8, đầu tháng 9-1930, nhất là sau vụ máy bay Pháp ném bom cuộc biểu tình của nông dân huyện Hưng Nguyên (Nghệ An), hàng vạn nông dân nhiều huyện tổ chức các cuộc biểu tình đến các huyện lỵ, đốt sổ sách, phá nhà lao. Chính quyền thực dân tay sai nhiều nơi bị tê liệt ở cấp huyện và tan rã ở cấp xã. Nhiều cấp uỷ Đảng ở thôn xã đã lãnh đạo Nông hội và quần chúng lập ra chính quyền cách mạng của công nhân, nông dân và quần chúng lao động sau này gọi là chính quyền Xôviết. Từ tháng 9-1930 đến đầu năm 1931, chính quyền Xôviết đã thực hiện quyền làm chủ của quần chúng, điều hành mọi mặt đời sống xã hội.

Về chính trị: Ban bố quyền tự do dân chủ của nhân dân, tổ chức cho quần chúng tham gia các đoàn thể cách mạng, tự do bàn bạc, góp ý kiến giải quyết các vấn đề xã hội; phổ biến sách báo cách mạng; trừng trị bọn phản cách mạng, quản chế bọn hào lý, giữ gìn trật tự trị an.
Về kinh tế: Chia lại công điền, công thổ cho cả nam và nữ, thực hiện giảm tô, xoá nợ, thủ tiêu các thứ thuế vô lý như thuế thân, thuế muối, lấy thóc của địa chủ để cứu đói; tổ chức đào mương, chống hạn, đắp đập, củng cố đê điều, giúp nhau trong sản xuất.

Về văn hoá - xã hội: Mở trường cho trẻ em, mở các lớp dạy chữ quốc ngữ cho người lớn, bài trừ hủ tục, mê tín dị đoan; thực hiện nếp sống lành mạnh trong cưới xin, ma chay; tổ chức cứu tế người nghèo; phát triển thơ ca, cổ vũ tinh thần yêu nước và cách mạng.

Dưới chính quyền Xôviết, làng xóm lúc nào cũng như ngày hội. CuốnNhật ký chìm tàu do Nguyễn Ái Quốc biên soạn, được phổ biến sâu rộng trong nhân dân. Hình ảnh của Liên Xô do nhân dân lao động làm chủ đem lại niềm tin sâu sắc cho quần chúng. Đông đảo quần chúng hiểu rõ chỉ có đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc và tay sai, giành quyền làm chủ mới có thể giải quyết tận gốc những yêu cầu cơ bản về cuộc sống của mình.

Hoảng sợ trước sức mạnh của "Nghệ Tĩnh đỏ", thực dân Pháp điên cuồng khủng bố. Chúng đưa đến Nghệ Tĩnh lực lượng khá lớn sĩ quan và lính Pháp để đàn áp nhân dân, gây tội ác tầy trời, đồng thời lừa bịp xảo quyệt, mở chiến dịch chiêu hàng, phát "thẻ quy thuận" nhằm đánh vào tâm lý mệt mỏi của một bộ phận quần chúng, cô lập đảng viên cộng sản. Phong trào cách mạng chịu những tổn thất về nhiều mặt.

Tháng 9-1930, Trung ương Đảng đã thông tri cho Xứ uỷ Trung Kỳ: bạo động lập Xôviết là chưa đúng với hoàn cảnh cho phép, nhưng cần phải chống khủng bố, chuyển hướng hoạt động và chuyển hướng tổ chức, giữ vững lực lượng và ảnh hưởng của Đảng. Đối với toàn Đảng, Trung ương chỉ thị tránh bạo động riêng lẻ ở một vài địa phương, phải hết sức bênh vực "Nghệ Tĩnh đỏ".

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi ấy đang hoạt động ở nước ngoài, đã ca ngợi cuộc đấu tranh của quần chúng Nghệ Tĩnh và góp ý với Trung ương Đảng về mục tiêu đấu tranh trước mắt là giành quyền lợi hàng ngày, chứ không phải là tiến hành khởi nghĩa. Ngày 29-9-1930, Người gửi thư cho Quốc tế Cộng sản đề nghị kêu gọi các Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới lên án đế quốc Pháp khủng bố trắng ở Đông Dương.

Hưởng ứng chủ trương của Đảng, nhiều địa phương trong cả nước sôi nổi đấu tranh bằng nhiều hình thức, phối hợp với phong trào công nông Nghệ Tĩnh và ủng hộ Xôviết Nghệ - Tĩnh. Chỉ trong tháng 9 và tháng 10-1930, cả nước đã có 362 cuộc đấu tranh (29 cuộc ở miền Bắc, 316 cuộc ở miền Trung, 17 cuộc ở miền Nam). Tuy nhiên, phong trào đấu tranh hưởng ứng "Nghệ Tĩnh đỏ" chưa đủ mạnh, chưa đều khắp. Đế quốc Pháp và tay sai vẫn tập trung được lực lượng khủng bố phong trào công nhân Vinh, đánh phá các làng đỏ vào cuối năm 1930, đầu năm 1931.
Ngày 18-11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị về việc thành lập Hội phản đế đồng minh.

Trong cao trào cách mạng 1930-1931, Đảng đã giành được thắng lợi to lớn nhưng một số nơi đã phạm những lệch lạc hữu khuynh, "tả" khuynh. Thông cáo ngày 3-1-1931 phê phán xu hướng hữu khuynh "củng cố đã rồi mới đấu tranh", nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa tổ chức và đấu tranh và việc dựa vào quần chúng lập các đội tự vệ công nông chống khủng bố. Thông cáo ngày 25-1-1931 nhắc nhở đảng viên giữ vững lòng tin, đấu tranh chống âm mưu của thực dân Pháp lừa bịp và buộc nông dân ra đầu thú. Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương cuối tháng 3-1931 ở Sài Gòn phê phán các sai lầm hữu khuynh và "tả" khuynh, nhấn mạnh bản chất giai cấp công nhân của Đảng và tầm quan trọng của công tác thanh niên. Chỉ thị ngày 20-5-1931 của Trung ương Đảng nghiêm khắc phê phán chủ trương của Xứ uỷ Trung Kỳ đưa những đảng viên xuất thân từ trí thức, phú nông, địa chủ, kỳ hào ra khỏi những chức vụ quan trọng ("trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ").

2. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ nhất (10-1930) và Luận cương chính trị của Đảng

Tháng 4-1930, sau thời gian học tập ở Liên Xô, đồng chí Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về nước, bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương. Đồng chí được phân công cùng Ban Thường vụ Trung ương dự thảoLuận cương chính trị của Đảng. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ươnglần thứ nhất họp từ ngày 14 đến ngày 30-10-1930 tại Hương Cảng do đồng chí Trần Phú chủ trì đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng. Dự thảo Luận cương chính trị của Đảng, Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng. Thực hiện chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức và cử đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư.

Luận cương chính trị năm 1930 nêu lên những vấn đề cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ (lúc ấy gọi là cách mạng tư sản dân quyền) ở Đông Dương dogiai cấp công nhân lãnh đạo. Luận cương phân tích: tính chất xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến, thực dân Pháp kết hợp hai lối bóc lột tư bản chủ nghĩa và bóc lột phong kiến để thu được lợi nhuận lớn nhất.

Mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.

Tính chất cách mạng Đông Dương: Lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền, sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Là đánh đổ phong kiến, thực hành cách mạng ruộng đất triệt để và đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp. Hai mặt đó có quan hệ mật thiết, trong đó vấn đề ruộng đất là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền.

Về sắp xếp lực lượng cách mạng : Giai cấp vô sản vừa là động lực chính vừa là giai cấp lãnh đạo dân cày và quần chúng lao khổ. Dân cày là động lực mạnh. Tư bản thương mại đứng một phe với chủ nghĩa đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng. Tư bản công nghệ khi phong trào quần chúng nổi lên thì sẽ theo đế quốc. Thương gia không tán thành cách mạng. Trí thức tiểu tư sản, học sinh trong thời kỳ chống đế quốc hăng hái tham gia, nhưng chỉ lúc đầu. Các phần tử lao khổ ở thành phố như người bán rao, thủ công nghiệp nhỏ do đời sống cực khổ cho nên đều tham gia cách mạng.

Về phương pháp cách mạng: Lúc thường thì phải tuỳ theo tình hình mà đặt khẩu hiệu "phần ít" (tối thiểu) để bênh vực quyền lợi cho quần chúng. Đến lúc sức lực cách mạng lên rất mạnh, giai cấp thống trị đã rung động, giai cấp đứng giữa muốn ngả về phía cách mạng thì Đảng phải lãnh đạo quần chúng để giành chính quyền.

Về quan hệ quốc tế: Cách mạng Đông Dương và cách mạng thế giới có liên hệ chặt chẽ với nhau, giai cấp vô sản Đông Dương phải có quan hệ mật thiết với giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
Về Đảng: Điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chính trị đúng, có kỷ luật tập trung, liên hệ mật thiết với quần chúng và trải qua tranh đấu mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng.

Qua nội dung cơ bản nêu trên, có thể thấyLuận cương chính trị khẳng định lại nhiều vấn đề căn bản thuộc về chiến lược cách mạng màChánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu: Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện độc lập dân tộc và ruộng đất cho nông dân sau đó chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến quan hệ mật thiết với nhau: lực lượng chính của cách mạng là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân trong đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo; phương pháp cách mạng khi chưa có và khi có tình thế cách mạng: cách mạng Việt Nam liên hệ mật thiết với giai cấp vô sản các nước và các dân tộc thuộc địa.

Bên cạnh mặt thống nhất cơ bản đó, giữaLuận cương chính trị với Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt có mặt khác nhau. Luận cương chính trị không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc Pháp, từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu; Luận cương đánh giá không đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản và mặt yêu nước của tư sản dân tộc, một bộ phận địa chủ nhỏ.

Nguyên nhân của mặt khác nhau là ở chỗ:Luận cương chính trị chưa tìm ra và nắm vững đặc điểm của xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam.Lại do hạn chế về nhận thức ấu trĩ, tả khuynh, giáo điều, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 đã không chấp nhận những quan điểm mới, sáng tạo, độc lập tự chủ của đồng chí Nguyễn Ái Quốc nêu trong Đường Cách mệnh, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt. (Những quan điểm mới này của đồng chí Nguyễn Ái Quốc sau được chấp nhận trong thực tiễn của phong trào Mặt trận Dân chủ 1936-1939 và đã biến thành Nghị quyết chính thức của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 và tháng 5-1941).

Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã tạo lập được khối liên minh công nông, lực lượng đông đảo nhất của dân tộc, đạo quân chủ lực quyết định thắng lợi của cách mạng sau này. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 khẳng định đường lối cách mạng do Đảng ta đề ra là đúng đắn. Do kinh nghiệm bản thân, nhân dân thấy được con đường cứu nước và cứu nhà ở Việt Nam không thể có con đường nào khác ngoài con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin do Đảng ta lãnh đạo.
Qua cao trào cách mạng 1930 - 1931, giai cấp công nhân đã thực hiện quyền lãnh đạo đối với cách mạng dân tộc dân chủ thông qua Đảng tiền phong của mình. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 là cuộc tổng diễn tập thứ nhất của Đảng ta và quần chúng cách mạng về khởi nghĩa giành chính quyền.

Đánh giá Xôviết Nghệ - Tĩnh, sau này đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết: "Xôviết Nghệ - Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này". Sau cao trào cách mạng 1930 - 1931, Đảng ta được công nhận là một bộ phận độc lập của Quốc tế Cộng sản.

Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xôviết Nghệ -Tĩnh đã đem lại cho Đảng ta một số kinh nghiệm khi mới ra đời:

- Trong mỗi thời kỳ của cách mạng, phải biết căn cứ vào thực tế tình hình thế giới và trong nước, căn cứ thực tế lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng mà xác định mục tiêu cụ thể, trước mắt của phong trào cách mạng.

- Khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp, phải biết sử dụng những hình thức và phương pháp cách mạng thích hợp để vận động nhân dân đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh, chứ không phải là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền.

- Xây dựng đảng của giai cấp công nhân trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân chỉ chiếm một phần nhỏ trong dân số, bên cạnh việc coi trọng kết nạp vào Đảng những người công nhân ưu tú, vấn đề quan trọng hàng đầu là coi trọng việc làm cho đảng viên thấm nhuần lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân biểu hiện trong học thuyết Mác - Lênin, coi trọng nguyên tắc tổ chức và phương thức làm việc của Đảng Mác - Lênin, coi trọng khắc phục những khuynh hướng "tả", hữu, xa rời lập trường, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và đường lối đúng đắn của Đảng.

Từ thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam và Đông Dương do Đảng Cộng sản lãnh đạo, Hội nghị toàn thể lần thứ 11 Ban Chấp hành quốc tế cộng sản (tháng 4-1931) đã thông qua Nghị quyết công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương"là một bộ phận độc lập của Quốc tế Cộng sản". Nghị quyết đó sau này được Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (7-1935) chính thức thông qua.
 
II. PHỤC HỒI HỆ THỐNG TỔ CHỨC ĐẢNG VÀ LÃNH ĐẠO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH (1932 - 1935)
1. Phục hồi hệ thống tổ chức Đảng


Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang dâng cao, sau khi Xô viết Nghệ Tĩnh ra đời, đế quốc Pháp và tay sai thẳng tay khủng bố hòng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương.

Hàng chục vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước đã bị bắt và giết hại. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và các địa phương lần lượt bị phá vỡ.Toà án của chính quyền thực dân Pháp mở các phiên toà đặc biệt để xét xử những người cách mạng.

Đi đôi với khủng bố, tàn sát, thực dân Pháp tìm cách lừa bịp mị dân: tăng số đại biểu người Việt ở các Viện dân biểu ở miền Bắc và miền Trung, ở Hội đồng quản hạt Nam Kỳ và các hội đồng thành phố, đề ra cải cách giáo dục, cho địa chủ lớn và tư sản mại bản một số quyền lợi.

Sự khủng bố và lừa bịp của thực dân Pháp không làm cho những chiến sĩ cách mạng và quần chúng yêu nước từ bỏ con đường cách mạng, một số cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân vẫn nổ ra.

Các đảng viên cộng sản trong nhà tù Hoả Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), nhà tù Vinh (Nghệ An), Hải Phòng, Côn Đảo, Kon Tum... đã thành lập các chi bộ Đảng để lãnh đạo đấu tranh chống chế độ lao tù hà khắc, đòi cải thiện đời sống và tổ chức học tập, biến nhà tù đế quốc thành trường đấu tranh cách mạng và trường học. Các chi bộ Đảng ở nhà tù còn bí mật ra báo viết tay để giáo dục đảng viên và đấu tranh tư tưởng, phê phán những quan điểm sai lầm về chính trị, tổ chức và phương pháp hoạt động của Việt Nam quốc dân Đảng.

"Biến được cái rủi thành cái may, các đồng chí ta đã lợi dụng những ngày tháng ở tù để hội họp và học tập lý luận. Một lần nữa, việc đó lại chứng tỏ rằng chính sách khủng bố cực kỳ dã man của kẻ thù chẳng những không ngăn trở được bước tiến của cách mạng, mà trái lại nó đã trở nên một thứ lửa thử vàng, nó rèn luyện cho người cách mạng càng thêm cứng rắn. Mà kết quả là cách mạng đã thắng, đế quốc đã thua".

Mặc dầu bị thực dân Pháp khủng bố tàn bạo, một số tổ chức Đảng ở Cao Bằng, Sơn Tây, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hoá, Quảng Trị, Quảng Nam, Quảng Ngãi và nhiều nơi khác ở miền Nam đã bám chắc quần chúng để hoạt động. Các đồng chí vượt tù tích cực tham gia khôi phục các tổ chức của Đảng, lãnh đạo quần chúng đấu tranh.

Năm 1932 theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng Phong và một số cán bộ chủ chốt tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng. Tháng 6-1932, Ban lãnh đạo Trung ương đã thảo ra bản Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương được Quốc tế Cộng sản công nhận.

Chương trình hành động đã đánh giá hai năm đấu tranh của quần chúng công nông và khẳng định:Công nông Đông Dương dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản sẽ nổi lên võ trang bạo động thực hiện những nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến và tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.

Chương trình hành động chỉ ra những khả năng tổ chức mặt trận thống nhất các lực lượng phản đế và đề ra 4 yêu cầu chung:

1. Đòi các quyền tự do dân chủ, tự do tổ chức, xuất bản, ngôn luận, hội họp, đi lại trong nước và ra nước ngoài.

2. Bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả lại tự do cho tù chính trị, bỏ ngay chính sách đàn áp, giải tán Hội đồng đề hình.

3. Bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác, đặt thuế luỹ tiến.

4. Bỏ các độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện.

Chương trình hành động còn đề ra những yêu cầu cụ thể riêng cho từng giai cấp và tầng lớp nhân dân; vạch rõ phải ra sức tuyên truyền mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng, củng cố và phát triển các đoàn thể cách mạng, nhất là công hội và nông hội; dẫn dắt quần chúng đấu tranh cho những quyền lợi hàng ngày tiến lên đấu tranh chính trị, chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền khi có điều kiện. Về xây dựng Đảng, phải làm cho Đảng vững mạnh, có kỷ luật nghiêm, giáo dục đảng viên về tư tưởng, chính trị, rèn luyện đảng viên qua đấu tranh cách mạng.

Chương trình hành động của Đảng đã cụ thể hoá cương lĩnh của Đảng trong thời kỳ thoái trào, đề ra những yêu cầu chính trị trước mắt, những biện pháp tổ chức và đấu tranh, góp phần nhanh chóng khôi phục phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức Đảng.

Các Xứ uỷ Bắc Kỳ, Nam Kỳ, Trung Kỳ bị thực dân Pháp phá vỡ nhiều lần, đã được lần lượt lập lại trong hai năm 1931 và 1933. Nhiều tỉnh uỷ, huyện uỷ, chi bộ lần lượt được phục hồi. Ở miền núi phía bắc, một số tổ chức của Đảng được thành lập. Ở Lào, tháng 9-1934 Hội nghị đại biểu các đảng bộ địa phương đã cử ra Ban Chấp hành Đảng bộ Lào. Ở Campuchia một số cơ sở Đảng được xây dựng.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã thoát khỏi nhà tù của đế quốc Anh ở Hồng Công (1-1933) và mùa xuân 1934 sang Liên Xô.

Trong quá trình khôi phục Đảng và phong trào cách mạng, Đảng ta đã được sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, sự giúp đỡ của các Đảng Cộng sản Liên Xô, Pháp và Trung Quốc. Đầu năm 1934, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu. (Khi đồng chí Lê Hồng Phong đi dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản, Ban này do đồng chí Hà Huy Tập phụ trách - TG). Ban có nhiệm vụ tập hợp và phục hồi các cơ sở Đảng thành hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, lãnh đạo thực hiện chương trình hành động của Đảng năm 1932, chuẩn bị triệu tập Đại hội Đảng lần thứ nhất.

2. Đảng lãnh đạo đấu tranh kinh tế, chính trị, tư tưởng và văn hoá

Dựa theo Chương trình hành động của Đảng, các tổ chức cơ sở Đảng đã phát triển các đoàn thể quần chúng cách mạng, sử dụng các hình thức tổ chức hợp pháp như hội cày, hội cấy, hội gặt, hội đá bóng, hội đọc sách,... để tập hợp quần chúng, giáo dục và hướng dẫn quần chúng đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp. Nhờ vậy phong trào đấu tranh thu hút được quần chúng tham gia ngày càng đông. Phong trào đã lan đến nhiều nơi ở miền núi Việt Nam, ở Lào và Campuchia.

Nhiều cuộc bãi công của công nhân đã nổ ra ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Huế, ở Campuchia và Lào. Một số cuộc đấu tranh của nông dân đã nổ ra ở Hóc Môn (Gia Định), Khánh Hoà, Ninh Thuận, Cao Bằng, Lạng Sơn. Ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn... đã có những cuộc bãi chợ, bãi khoá. Phần lớn các cuộc đấu tranh giành thắng lợi hoàn toàn hoặc một phần, quần chúng công nông thêm hăng hái đấu tranh.

Hình thức hoạt động công khai đáng kể là tuyên truyền về Đảng và chọn những người ứng cử của quần chúng lao động, đứng đầu là đảng viên cộng sản ra tranh cử Hội đồng thành phố Sài Gòn năm 1933, và Hội đồng quản hạt Nam Kỳ năm 1935, các ứng cử viên của Đảng đều trúng cử. Các sự kiện chính trị này có tác động cổ vũ tinh thần đấu tranh của nhân dân thành thị, mở rộng ảnh hưởng của Đảng.

Cán bộ của Đảng còn dùng báo chí hợp pháp phê phán một số quan điểm chính trị, triết học, văn học nghệ thuật tư sản, vạch trần tư tưởng nô lệ của một số bồi bút tay sai của thực dân, tuyên truyền quan điểm cách mạng của Đảng. Năm 1933 - 1934 trên báo chí công khai đã diễn ra cuộc tranh luận về duy vật và duy tâm giữa đồng chí Hải Triều (Nguyễn Khoa Văn) và Phan Khôi. Đầu năm 1933 nổ ra cuộc tranh luận công khai xung quanh vấn đề "nghệ thuật vị nghệ thuật" hay "nghệ thuật vị nhân sinh". Các cuộc tranh luận công khai có tiếng vang lớn trong trí thức, thanh niên, học sinh.

Từ ngày 14 đến ngày 26-6-1934, Ban chỉ huy ở ngoài và đại biểu các Đảng bộ ở trong nước đã họp kiểm điểm việc thực hiện Chương trình hành động của Đảng. Hội nghị nhận xét rằng, mặc dù địch khủng bố ác liệt, Đảng vẫn không ngừng đấu tranh, những tổ chức của Đảng đã được phục hồi và phát triển ở nhiều nơi, ảnh hưởng của Đảng được mở rộng. Hội nghị đề ra nhiệm vụ chính của các Đảng bộ là tiếp tục khôi phục các tổ chức của Đảng, xây dựng các cơ sở mới, tiếp tục bônsêvích hoá Đảng, mở rộng phê bình, khắc phục sai sót, giữ vững thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động của Đảng. Hội nghị đề ra những công tác cụ thể cho các tổ chức quần chúng, nhắc nhở các Đảng bộ kết hợp công tác bí mật với công tác công khai.

Hội nghị quyết định lấy Chương trình hành động của Đảng và Nghị quyết của Hội nghị làm tài liệu chính để thảo luận trong các chi bộ nhằm chuẩn bị cho Đại hội lần thứ nhất của Đảng.

III. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẢNG (THÁNG 3-1935)

Đại hội họp từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 tại Ma Cao (Trung Quốc). Dự Đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên thuộc các Đảng bộ trong nước và tổ chức Đảng hoạt động ở nước ngoài. Đồng chí Hà Huy Tập chủ trì Đại hội.

Đại hội đã thừa nhận Luận cương chính trị tháng 10-1930, Chương trình hành động của Đảng tháng 6-1932 và kiểm điểm phong trào cách mạng, công tác tổ chức và lãnh đạo của các cấp bộ Đảng trong thời gian từ năm 1932 đến đầu năm 1935. Đại hội khẳng định cuộc đấu tranh để khôi phục hệ thống tổ chức Đảng và phong trào cách mạng đã giành được thắng lợi, song lực lượng Đảng phát triển chưa mạnh ở các vùng tập trung công nghiệp, công nhân gia nhập Đảng còn ít, hệ thống tổ chức chưa thật thống nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ Đảng chưa được chặt chẽ.

Đại hội đã nêu ra ba nhiệm vụ chủ yếu trước mắt:

Một là, củng cố và phát triển Đảng, tăng cường lực lượng Đảng ở các xí nghiệp, nhà máy, đồn điền, hầm mỏ, đường giao thông quan trọng, đồng thời đưa nông dân lao động và trí thức cách mạng đã qua thử thách vào Đảng. Các Đảng bộ cần thường xuyên phê bình và tự phê bình, đấu tranh trên cả hai mặt trận chống "tả" khuynh và hữu khuynh, giữ vững kỷ luật của Đảng, giữ vững sự thống nhất về tư tưởng và hành động.

Hai là, đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng, chú ý phụ nữ các dân tộc ít người, binh lính; dìu dắt quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, củng cố và phát triển các tổ chức quần chúng, mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong quần chúng.

Ba là, mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô - thành trì của cách mạng thế giới và ủng hộ cách mạng Trung Quốc.

Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, về công tác liên minh phản đế, công tác vận động các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ, về cứu tế đỏ.

Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 uỷ viên (9 chính thức và 4 dự khuyết). Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (Ngày 21-3-1935, Quốc tế Cộng sản đã phê chuẩn đề nghị của Ban chỉ huy ở ngoài cử đồng chí Lê Hồng Phong làm Tổng Bí thư -TG).

Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đánh dấu thắng lợi của cuộc đấu tranh khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức quần chúng cách mạng trong cả nước, chuẩn bị điều kiện cho Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới. Song Đại hội chưa tổng kết được những kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng từ khi thành lập, Đại hội đã không nhạy cảm với thời cuộc trước nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đế quốc, không thấy khả năng mới để đấu tranh chống phát xít và chống thực dân, nên không đề ra được sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và sách lược thích hợp. Sau này, khi đánh giá về Đại hội lần thứ nhất của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, Đại hội đã nhận định tình hình và kiểm điểm công tác đã qua, nhưng "chính sách Đại hội Ma Cao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy giờ".

Ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm bốn năm đấu tranh khôi phục phong trào cách mạng:
Cuộc khủng bố đẫm máu của thực dân Pháp và tay sai không tiêu diệt được Đảng Cộng sản Đông Dương, trái lại Đảng vẫn tồn tại và nhanh chóng được củng cố. Phong trào cách mạng sớm được khôi phục và phát triển. Đội ngũ đảng viên và quần chúng cách mạng được rèn luyện. Mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng càng gắn bó. Đứng vững trong bão táp cách mạng và khủng bố trắng của kẻ thù, mới ra đời được 5 năm, Đảng đã tỏ rõ bản lĩnh của một Đảng Mác - Lênin cách mạng, phát huy truyền thống bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam.

Thắng lợi về khôi phục hệ thống tổ chức và phong trào những năm 1932 - 1935 đã chuẩn bị cơ sở cho cao trào cách mạng 1936 - 1939.

Thực tiễn đấu tranh thời kỳ 1932-1935 để lại cho Đảng ta một số kinh nghiệm:
Trong cuộc đọ sức quyết liệt với đế quốc, thực dân, sự hy sinh, tổn thất, thậm chí có lúc thất bại là không tránh khỏi. Những lúc đó công tác tư tưởng phải rút ra những kinh nghiệm sâu sắc của thời kỳ đã qua, giữ vững lòng tin vào tiền đồ cách mạng, chống tâm lý bi quan, dao động, nêu cao khí tiết người cộng sản trước kẻ thù; giáo dục đảng viên và quần chúng tinh thần cách mạng triệt để, ý thức tổ chức và kỷ luật cao, không sợ hy sinh, gian khổ.

Khi tình hình đã thay đổi, nhất là khi kẻ thù khủng bố trắng, lực lượng so sánh không có lợi cho cách mạng, Đảng phải đề ra chủ trương, khẩu hiệu, hình thức tổ chức và đấu tranh thích hợp, giữ vững tổ chức bí mật, giữ vững mối liên hệ với quần chúng, tận dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp, tiếp tục lãnh đạo quần chúng đòi quyền dân sinh, dân chủ để khôi phục phong trào, đồng thời chuẩn bị cho bước phát triển mới của cách mạng.
 
IV. CAO TRÀO VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ, CHỐNG PHẢN ĐỘNG THUỘC ĐỊA, CHỐNG PHÁT XÍT VÀ CHIẾN TRANH, ĐÒI TỰ DO, CƠM ÁO, HOÀ BÌNH (1936-1939)

1. Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng


Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và nguy cơ một cuộc khủng hoảng kinh tế mới làm cho mâu thuẫn xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Các đế quốc Đức, Ý, Nhật thiết lập chế độ phát xít, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và từ năm 1935 tiến hành xâm lược một số nước. Mâu thuẫn giữa phát xít Đức, Ý, Nhật và Anh, Pháp, Mỹ trở nên rất gay gắt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với Liên Xô - lúc này đã trở thành một nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh, cũng rất sâu sắc. Phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh nổi lên ở nhiều nước.

Tháng 7-1935, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản được triệu tập ở Mátxcơva. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự Đại hội. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang học tập và nghiên cứu ở Trường Quốc tế Lênin ở Mátxcơva cũng được mời dự Đại hội.

Đại hội xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít; nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh đánh đổ toàn bộ chủ nghĩa tư bản mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hoà bình, bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, cần thực hiện Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân và thiết lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống. Đại hội VII đã bầu ra Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản do đồng chí G.Đimitrốp làm Tổng Bí thư, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.

Thực hiện sự chuyển hướng về chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản, các Đảng Cộng sản ra sức vận động thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít. Ở Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt đã giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 4-1936, thành lập Chính phủ phái tả gồm những người thuộc Đảng Xã hội và Đảng Cấp tiến do lãnh tụ Đảng Xã hội Lêông Blum làm thủ tướng. Đối với các nước thuộc địa, cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp (khi ấy gọi là Mặt trận bình dân) nêu ra việc thả tù chính trị, cử các phái đoàn điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt là Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách xã hội cho giới lao động.

Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản và Mặt trận nhân dân Pháp có ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào cách mạng ở Đông Dương. Trong thời gian này, do chính sách tăng cường bóc lột, áp bức của thực dân Pháp và do khủng hoảng kinh tế, cuộc sống của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, kể cả tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn. Nguyện vọng bức thiết của nhân dân là đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, căn cứ vào tình hình lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng, tháng 7-1936, Ban lãnh đạo của Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh trong thời kỳ mới (Sau Đại hội lần thứ nhất của Đảng, 8 đồng chí Uỷ viên Trung ương bị địch bắt, công tác của Ban Chấp hành Trung ương do Ban chỉ huy ở ngoài đảm nhiệm. Đồng chí Hà Huy Tập - Trưởng Ban chỉ huy ở ngoài kiêm chức Tổng Bí thư Đảng đến tháng 3-1938 -TG). Nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị được thể hiện trong tài liệu Chung quanh vấn đề chính sách mới, xuất bản ngày 30-10-1936.
Hội nghị khẳng định mục tiêu chiến lược vẫn là chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày; song mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Hội nghị quyết định lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp, đảng phái, dân tộc, đoàn thể chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau, với nòng cốt là liên minh công nông. Hội nghị nêu khẩu hiệu ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp để phối hợp với Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp chống phát xít và phản động thuộc địa, đồng thời nêu khẩu hiệu ủng hộ chính phủ Lêông Blum nhằm đòi thực hiện các yêu cầu dân chủ cho nhân dân Đông Dương.

Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang hình thức tổ chức công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm tập hợp quần chúng rộng rãi, giáo dục và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Để giữ vững sự lãnh đạo đối với các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, hợp pháp, Đảng cần phải củng cố tổ chức bí mật của Đảng.

Hội nghị tháng 7-1936 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới; đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tự do. Nghị quyết Hội nghị đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh, tinh thần độc lập, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào cách mạng mới trong cả nước.

2. Đấu tranh đòi triệu tập Đại hội Đông Dương và đòi các quyền dân chủ, dân sinh

Mở đầu cao trào đấu tranh là phong trào Đại hội Đông Dương. Nhân cơ hội Quốc hội Pháp quyết định cử phái đoàn điều tra sang Đông Dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức nhân dân ở tất cả các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, công sở, trường học, khu phố, làng xã hội họp bàn về các yêu cầu tự do, dân chủ, dân sinh, thảo ra các bản dân nguyện để gửi cho phái đoàn điều tra Pháp; tiến tới tổ chức Đông Dương Đại hội.

Để hướng dẫn các hoạt động của quần chúng, Đảng nêu ra các yêu cầu về tự do, dân chủ chủ yếu như: các quyền tự do về ngôn luận, hội họp, tổ chức và đi lại; trả tự do cho các tù chính trị; thực hành luật lao động ngày làm 8 giờ và định lương tối thiểu, bỏ thuế thân và giảm các thuế khác, bắt buộc học tiếng Việt tại các trường; nam nữ bình đẳng... Đảng kêu gọi thành lập các uỷ ban hành động từ thành thị đến nông thôn để vận động quần chúng bầu cử đại biểu tham dự Đại hội Đông Dương. Tháng 8-1936, Uỷ ban trù bị Đại hội Đông Dương được thành lập.

Để đối phó lại, chính quyền thực dân dùng thủ đoạn cho một số người trong Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, trong hai Viện dân biểu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tổ chức các cuộc họp gồm những đại diện cho tư sản, địa chủ, trí thức để thảo ra các bản "dân nguyện" theo chỉ đạo của chúng hòng hạn chế phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, song thủ đoạn đó đã bị vạch trần và thất bại.

Cuối cùng chính quyền thực dân chuyển sang các hành động đàn áp, ra lệnh giải tán các uỷ ban hành động, cấm tất cả các cuộc họp của nhân dân, cho tay sai và khuyến khích bọn tờrốtkít xuyên tạc chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, vu cáo những người cộng sản. Do sức mạnh đấu tranh của quần chúng, tháng 10-1936, thực dân Pháp phải đưa ra một số quy định về quyền lợi cho công nhân và lao động làm thuê như ngày làm 8 giờ, nghỉ ngày chủ nhật và hàng năm nghỉ 10 ngày có lương; thi hành một phần việc "ân xá" tù chính trị. Đến cuối năm 1936, trên 1.000 tù chính trị được thả và tính đến tháng 10-1937, đã có 1.532 tù chính trị, phần lớn là đảng viên cộng sản ra khỏi nhà tù của đế quốc. Đó là một thắng lợi lớn của Đảng, của cách mạng.

Đại hội Đông Dương bị cấm, song quần chúng lao động đã được thức tỉnh, Đảng có một số kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp cho nên phong trào đấu tranh đòi các quyền dân chủ, cải thiện đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác tiếp tục phát triển. Tiêu biểu là cuộc tổng bãi công của hơn 30.000 công nhân khu mỏ Hồng Gai tháng 11-1936. Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp là Gôđa (Justin Godart) sang điều tra tình hình Đông Dương và tiếp đó là Bơrêviê (Jules Brévié) sang nhận chức toàn quyền, Đảng lại vận động và tổ chức quần chúng biểu dương lực lượng, bằng cách đi đón và đưa yêu sách cho Chính phủ Pháp. Trên đường Gôđa đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, đâu đâu nhân dân cũng biểu tình đưa yêu sách về dân chủ, dân sinh.

3. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh công khai hợp pháp trên báo chí và nghị trường

Tháng 3-1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và nhận định: phong trào dân chủ phát triển mạnh, ảnh hưởng của Đảng lan rộng, tổ chức của Đảng và các hội quần chúng phát triển; song công tác tổ chức của Đảng còn nhiều thiếu sót, cơ sở Đảng còn yếu ở nhiều nơi, nhất là ở nông thôn và ở các nơi tập trung công nhân. Hội nghị tháng 3 cùng với Hội nghị tháng 9-1937 đã tập trung giải quyết những vấn đề về công tác tổ chức của Đảng trong phong trào Mặt trận dân chủ.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh phải có phương pháp tổ chức mới để thực hiện đường lối chính trị, tận dụng các khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tổ chức quần chúng, đoàn kết quần chúng trong một mặt trận thống nhất chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương; Đoàn thanh niên phản đế đổi thành Thanh niên Cộng sản đoàn; Hội cứu tế bình dân đổi thành Cứu tế đỏ; Công hội đỏ, Nông hội đỏ đổi thành Công hội, Nông hội. Các hội quần chúng công khai và nửa công khai được mở rộng như ái hữu, tương tế, thể thao, âm nhạc, hội cấy, hội gặt; uỷ ban vận động binh lính được thành lập.

Về xây dựng Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ phải coi trọng chất lượng hơn số lượng, tập trung xây dựng Đảng ở thành thị, khu công nghiệp, các vùng quan trọng về kinh tế, chính trị, chấm dứt tình trạng tổ chức Đảng bí mật không lãnh đạo được các bộ phận Đảng làm công tác công khai.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng còn chủ trương đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai, tranh cử và hoạt động ở các viện dân biểu.

Phong trào đấu tranh của quần chúng phát triểnmạnh. Trong năm 1937, có gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi, Gia Lâm và một số địa phương ở phía nam. Từ năm 1938, chế độ ngày làm 8 giờ, hàng tuần có ngày nghỉ, hàng năm nghỉ 10 ngày có lương được thực hiện. Có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia lại ruộng công, giảm tô giảm tức, khất thuế. Ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và một số thành phố, thị xã, tiểu thương đã bãi chợ đòi giảm thuế môn bài, thuế hàng hoá, học sinh đòi lập thêm trường học. Các hội hợp pháp, nửa hợp pháp tập hợp được hàng triệu quần chúng.

Đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai phục vụ cho đấu tranh cách mạng là một hoạt động mới và nổi bật của Đảng. Hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận dân chủ và các tổ chức quần chúng đã ra đời, trong đó có một số báo tiếng Pháp. Tờ Tin tức và tờDân chúng phát hành hàng ngày từ 5.000 đến 15.000 bản.

Báo chí của Đảng, của Mặt trận dân chủ mang tính chiến đấu cao, vạch trần chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai, phản ánh những nguyện vọng của phong trào đấu tranh của quần chúng, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chống lại mọi thủ đoạn lừa bịp, chia rẽ của bọn thống trị và bọn tờrốtkít giả danh cách mạng. Ngoài ra, Đảng còn xuất bản các tập sách chính trị để giới thiệu chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Đảng như cuốnChủ nghĩa Các Mác của Hải Triều, cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp).

Mạng lưới phát hành sách báo của Mặt trận được tổ chức trong cả nước. Toà soạn và cơ quan phát hành sách báo là đầu mối liên lạc giữa Đảng với quần chúng, liên lạc giữa bộ phận công khai và bộ phận bí mật của tổ chức Đảng.

Một hoạt động công khai có ý nghĩa trong việc tập hợp quần chúng nữa là phong trào truyền bá quốc ngữ từ cuối năm 1937.

Đảng lợi dụng khả năng hợp pháp để tham gia các cuộc tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ nhằm mở rộng lực lượng của Mặt trận dân chủ, kết hợp đấu tranh của quần chúng ở bên ngoài với đấu tranh tại nghị trường chống chính sách thuộc địa phản động của Pháp, bênh vực quyền lợi của quần chúng. Mở đầu là cuộc tranh cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ năm 1937 đã thắng lợi, hầu hết số người ứng cử là trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ tiến bộ do Đảng vận động đã trúng cử.

Năm 1938, nguy cơ Chiến tranh thế giới thứ hai đang đến gần, phát xít Nhật chuẩn bị nhảy vào Đông Dương. Chính phủ Pháp ngả dần về phía hữu và bọn phản động thuộc địa ra sức đàn áp phong trào cách mạng ở Đông Dương. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 3-1938 xác định nhiệm vụ trung tâm là thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, đề ra những chủ trương cụ thể về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ. Hội nghị nhắc nhở đấu tranh chống khuynh hướng "tả" đưa ra khẩu hiệu quá cao, tư tưởng hẹp hòi đối với trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ và chống khuynh hướng hữu coi thường phong trào đấu tranh của công nông, thiếu kiên quyết chống bọn tờrốtkít.

Hội nghị quyết định phải củng cố cơ sở Đảng đã có, phát triển cơ sở mới, đặc biệt chú trọng các cơ sở ở thành phố, các vùng công nghiệp tập trung và đồn điền, củng cố các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương; giữ vững nguyên tắc quan hệ giữa bộ phận hoạt động bí mật và bộ phận hoạt động công khai của Đảng (Theo báo cáo của Ban chấp hành Trung ương gửi Quốc tế Cộng sản, đến tháng 3-1938, toàn Đảng có 1.597 đảng viên, trong đó Nam Kỳ có 655, Trung Kỳ có 740 và Bắc Kỳ có 202 đảng viên, ở cả ba kỳ đều có xứ uỷ).

Hội nghị ra một nghị quyết riêng về phòng thủ Đông Dương và chống bắt lính, phát động quần chúng cảnh giác với âm mưu xâm lược của Nhật, đấu tranh đòi bọn cầm quyền Pháp phải vũ trang cho nhân dân và mở rộng cải cách dân chủ, dân sinh để nhân dân có khả năng tham gia phòng thủ.

Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư thay đồng chí Hà Huy Tập.
Năm 1938 và đầu năm 1939, phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục phát triển. Được sự ủng hộ của nông dân, người buôn bán nhỏ, các cuộc đấu tranh của công nhân các ngành, các nơi có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Năm 1938, ngày Quốc tế lao động (1-5) lần đầu được tổ chức công khai, rầm rộ khắp nước, đặc biệt là cuộc míttinh ở khu Đấu Xảo, Hà Nội với số lượng 25.000 người tham gia. Về đấu tranh nghị trường, Mặt trận dân chủ giành được thắng lợi trong bầu cử Viện dân biểu ở Bắc Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương bác bỏ dự án tăng thuế ở Viện dân biểu Trung Kỳ.

Cuối năm 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô trở lại Trung Quốc làm nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản phân công. Người rất quan tâm truyền đạt cho Đảng ta những ý kiến về đường lối, chủ trương của cách mạng. Người chỉ rõ: "Lúc này, Đảng không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, nghị viện v.v.). Như thế sẽ rơi vào cạm bẫy của phát xít Nhật.

Chỉ nên đòi các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, đòi ân xá toàn thể chính trị phạm, đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp". Người nêu ra việc Mặt trận dân chủ phải thu hút cả người Pháp tiến bộ ở Đông Dương, cả giai cấp tư sản dân tộc. Người nhấn mạnh Đảng "phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất... khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo... Đảng phải đấu tranh không nhân nhượng chống tư tưởng bè phái, và phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn hoá và chính trị cho đảng viên... Phải duy trì quan hệ chặt chẽ với Đảng Cộng sản Pháp".

Từ đầu năm 1939, phong trào Mặt trận nhân dân Pháptan rã, Chính phủ Pháp chuyển sang hữu. Bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương tăng cường bóc lột và đàn áp nhân dân. Các cuộc đấu tranh chống phát xít, đòi phòng thủ Đông Dương, cải thiện đời sống... đều bị đàn áp dữ dội. Trong tháng 3 và 4 - 1939, Đảng kêu gọi đấu tranh chống khủng bố, đòi tự do, dân chủ..., đề phòng hoạ phát xít đang đến gần. BáoDân chúng bị đình bản. Cuộc tranh cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ của những người ứng cử thuộc Mặt trận dân chủ bị thất bại do không có sự nhất trí trong hành động.

Tháng 7-1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩmTự chỉ trích. Tác phẩm khẳng định đường lối chính trị của Đảng là đúng đắn, phân tích những khuyết điểm và rút ra kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo Mặt trận dân chủ.

Phân tích nguyên nhân thất bại của cuộc tranh cử vào Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu rõ: một phần là do thủ đoạn đàn áp của kẻ thù, thái độ lừng chừng của các phần tử cải lương. Nhưng phần quan trọng là do ta có khuyết điểm, nhược điểm: Mặt trận dân chủ chưa đủ mạnh; công tác vận động của ta có sai sót; ta coi thường nguy cơ của bọn tờrốtkít.
Tổng kết hoạt động của Mặt trận dân chủ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu lên mấy bài học: Mặt trận dân chủ là sự liên hiệp các giai cấp, các đảng phải tán thành cải cách, nhưng không thể liên hiệp với các đảng phái phản động; vừa liên minh bên trên, vừa liên minh bên dưới; phân biệt kẻ thù nguy hiểm nhiều với kẻ thù nguy hiểm ít; cô lập bọn phản động, tranh thủ người tiến bộ và lừng chừng, tranh thủ đông đảo quần chúng trong các đảng phái cải lương; liên minh với giai cấp tư sản, phải vừa đoàn kết vừa đấu tranh, Mặt trận dân chủ phải đoàn kết được đông đảo quần chúng; đòi những quyền tự do tư sản, chống phát xít nhưng không phải để duy trì mãi chế độ tự do tư sản mà để tiến lên chế độ tự do cao hơn. Phê phán thái độ phê bình, tự phê bình sai trái của một số đồng chí đặt cá nhân mình lên trên Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, gây chia rẽ, bè phái trong Đảng, gieo mối hoài nghi trong quần chúng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nhắc lại, nguyên tắc tự chỉ trích bônsêvích là tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao uy tín của Đảng, giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng, đưa phong trào tiến lên.

Tác phẩm Tự chỉ trích là một mẫu mực về tổng kết kinh nghiệm, đấu tranh nội bộ tự phê bình, phê bình, góp phần xây dựng kho tàng lý luận về xây dựng Đảng, xây dựng Mặt trận thống nhất của cách mạng nước ta.

Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương ráo riết đàn áp các lực lượng cách mạng. Thời kỳ vận động dân chủ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp chấm dứt.

Cao trào cách mạng do Đảng lãnh đạo trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939 ngay sau khi khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng là một thắng lợi lớn của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Qua lãnh đạo cuộc đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp rộng lớn kết hợp với hoạt động bí mật, không hợp pháp, Đảng được rèn luyện, trưởng thành, lực lượng quần chúng cách mạng mở rộng và được thử thách. Cao trào cách mạng 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Đánh giá ưu điểm và khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1936-1939, sau này Hồ Chí Minh đã viết trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951):

"Hồi đó, Mặt trận Bình dân ở Pháp cầm chính quyền, Đảng bèn mở cuộc vận động dân chủ và lập Mặt trận dân chủ Đông Dương.

Phong trào Mặt trận dân chủ lúc đó khá mạnh mẽ, rộng khắp; nhân dân đấu tranh công khai. Đó là ưu điểm. Nhưng khuyết điểm là: Đảng lãnh đạo không thật sát, cho nên nhiều nơi cán bộ phạm phải bệnh hẹp hòi, bệnh công khai, say sưa vì thắng lợi bộ phận mà xao lãng việc củng cố tổ chức bí mật của Đảng. Đảng không giải thích rõ lập trường của mình về vấn đề độc lập dân tộc. Một số đồng chí hợp tác vô nguyên tắc với bọn tờrốtkít. Đến khi Mặt trận Bình dân bên Pháp thất bại, Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, thì phong trào Mặt trậndân chủ ở nước ta cũng bị thực dân đàn áp, và Đảng cũng bối rối một hồi".

Qua lãnh đạo cao trào cách mạng 1936-1939, Đảng có thêm những kinh nghiệm:

- Xác định rõ kẻ thù chủ yếu và xác định mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng là tập hợp đội quân chính trị quần chúng - bước đi tất yếu chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền sau này.

- Chủ trương xây dựng Mặt trận dân chủ hết sức rộng rãi là hình thức thích hợp bảo đảm thực hiện mục tiêu trước mắt đã đề ra, đưa đến một cao trào cách mạng mới.

- Để lãnh đạo được mặt trận rộng rãi, Đảng phải giữ vững tính độc lập về chính trị và tổ chức, dựa chắc vào lực lượng công nông làm nền tảng.

- Giải quyết đúng các mối quan hệ mật thiết giữa mục tiêu đấu tranh với hình thức và tổ chức đấu tranh; giữa các hình thức tổ chức và hoạt động công khai, hợp pháp với các hình thức tổ chức và hoạt động bí mật, không hợp pháp; vừa tập hợp được đông đảo quần chúng vừa chuẩn bị đề phòng khi kẻ thù đàn áp, phải rút vào bí mật.
 
V. CAO TRÀO CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM (1939-1945)

1. Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và chủ trương giải phóng dân tộc của Đảng


Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Quân Đức tiến công sang phía Tây trước và từ tháng 4-1940 đến đầu năm 1941 đã chiếm và đặt ách thống trị lên hầu hết các nước Tây Âu và Đông Âu tư bản chủ nghĩa. Nhật Bản mở rộng chiếm đóng Trung Quốc, tiến xuống Đông Nam Á. Ngày 22-6-1941, 190 sư đoàn phát xít Đức tấn công Liên Xô. Ngày 8-12-1941, Nhật bất ngờ tiến công Cảng Trân Châu ở quần đảo Haoai (Mỹ), chiến tranh lan sang châu Á - Thái Bình Dương. Quy luật lợi nhuận tối đa và sự phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ nghĩa tư bản đã dẫn đến cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn đế quốc: phát xít Đức - Ý - Nhật và Anh - Pháp - Mỹ nhằm giành giật thị trường, nguồn nguyên liệu và chia lại thế giới. Từ khi phát xít Đức xâm lược Liên Xô, tính chất chiến tranh đế quốc chuyển thành chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng phát xít do Đức cầm đầu.

Chiến tranh thế giới thứ hai đã ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến nước ta. Chính phủ phản động Pháp thực hiện chính sách đàn áp các lực lượng cộng sản và tiến bộ ở trong nước và ở các thuộc địa. Ở Đông Dương thực dân Pháp điên cuồng tiến công Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể quần chúng do Đảng lãnh đạo. Một số quyền tự do, dân chủ giành được trong thời kỳ 1936 -1939 bị thủ tiêu. Đồng chí Lê Hồng Phong bị bắt cuối tháng 9-1939. Nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt giam, tù đày. Hàng vạn thanh niên bị bắt lính đưa sang Pháp. Thực dân Pháp tăng thuế, trưng thu, trưng dụng các xí nghiệp tư nhân cho quốc phòng, kiểm soát trực tiếp, gắt gao sản xuất và phân phối, xuất khẩu và nhập khẩu. Trừ bọn tay sai của Pháp, địa chủ lớn và tư sản mại bản, tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều bị ảnh hưởng tai hại bởi chính sách phản động của đế quốc Pháp.

Do sớm dự báo được chiến tranh thế giới thứ hai sẽ nổ ra, nên Đảng ta không bị bất ngờ về cuộc chiến tranh này. Trong thời kỳ 1936- 1939 Đảng đã có một số chủ trương, hoạt động thích hợp khi chiến tranh bùng nổ. (Thông báo khẩn cấp ngày10-3-1938, Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương ngày 29-3-1938 và Tuyên ngôn Đảng Cộng sản Đông Dương với thời cuộc ngày 29-3-1938 đã nói rõ chiến tranh sẽ nổ ra, cần tập trung mũi nhọn chống bọn phát xít gây chiến.)

Một tháng sau khi chiến tranh thế giới nổ ra, ngày 29-9-1939 Trung ương Đảng gửi Thông cáo cho các cấp bộ Đảng, vạch rõ cách mạng Đông Dương sẽ tiến đến mục tiêu giải phóng dân tộc, chỉ thị cho toàn Đảng kịp thời rút vào bí mật và chuyển hướng hoạt động.

Đầu tháng 11-1939, Ban Chấp hành Trung ương đã họp tại Bà Điểm, Gia Định, có các đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu... tham dự. Hội nghị nhận định chế độ cai trị ở Đông Dương đã trở thành chế độ phát xít quân phiệt tàn bạo, mâu thuẫn chủ yếu gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa đế quốc và các dân tộc Đông Dương; dự báo Nhật sẽ vào Đông Dương và Pháp sẽ đầu hàng Nhật. Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập; tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, chỉ chủ trương tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản động, chống tố cáo, chống lãi nặng; thay khẩu hiệu lập chính quyền Xôviết công nông binh bằng khẩu hiệu lập Chính phủ cộng hoà dân chủ. Hội nghị quyết định thành lậpMặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương bao gồm lực lượng chính là công nhân, nông dân, đoàn kết với tiểu tư sản thành thị và nông thôn, đồng minh hoặc trung lập tạm thời với giai cấp tư sản bản xứ, trung và tiểu địa chủ. Về phương pháp cách mạng, Hội nghị nêu ra một số chuyển hướng về tổ chức, xây dựng các đoàn thể quần chúng bí mật, hướng các cuộc đấu tranh của quần chúng vào đế quốc và tay sai, "dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc". Hội nghị cũng quyết định các chủ trương và biện pháp nhằm củng cố Đảng về mọi mặt, thực hiện sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng.

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã phát huy tinh thần sáng tạo, kịp thời nêu ra mục tiêu chiến lược tập trung mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc và tay sai, chuẩn bị điều kiện giành chính quyền, đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ.

Sau Hội nghị, phong trào đấu tranh chuyển theo phương hướng mới, Đảng vượt qua thử thách của đợt khủng bố tháng 9-1939 và được củng cố. Các cuộc đấu tranh của quần chúng diễn ra theo khẩu hiệu chống chính sách phản động của chính quyền thực dân, chống chiến tranh đế quốc. Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương được xây dựng. Đầu năm 1940, một số đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng bị bắt, Ban Chấp hành Trung ương Đảng chưa lập lại được.

Lợi dụng lúc Pháp thua Đức, ngày 22-9-1940 quân đội Nhật Bản tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ vào Hải Phòng. Ngày 23-9-1940, tại Hà Nội, Pháp ký hiệp định đầu hàng Nhật. Từ đó nhân dân ta bị một cổ hai tròng.

Khi Nhật tiến vào Lạng Sơn, quân Pháp rút chạy qua đường Bắc Sơn về Thái Nguyên. Chính quyền địch ở những vùng này tan rã. Đêm 27-9-1940, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân Bắc Sơn đã nổi dậy chiếm đồn Mỏ Nhài, làm chủ châu lỵ và các vùng trong châu. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập. Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn đã giành được thắng lợi nhanh chóng nhưng ngay sau đó lại bị đàn áp. Mặc dù khởi nghĩa Bắc Sơn chỉ diễn ra trong một tháng và chỉ ở một huyện nhưng đã có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn. Đó là tín hiệu mở đầu cao trào giải phóng của các dân tộc Đông Dương, mở đầu thời kỳ cách mạng nước ta kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đánh đổ chính quyền đế quốc, phong kiến, giành độc lập, tự do; nó đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân cả nước và có ảnh hưởng đến việc chuẩn bị khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kỳ.

Từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940 Hội nghị Trung ương Đảng họp tại Đình Bảng (Bắc Ninh) có các đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt tham dự. Hội nghị khẳng định sự đúng đắn của chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939; xác định kẻ thù chính của cách mạng lúc này là phát xít Pháp và Nhật. Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, phân công đồng chí Trường Chinh làm quyền Bí thư Trung ương Đảng, quyết định chắp nối liên lạc với Quốc tế Cộng sản và bộ phận của Đảng ở ngoài nước. Hội nghị quyết định hai vấn đề cấp bách:

Một là, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích, khi cần thiết thì chiến đấu chống khủng bố, bảo vệ tính mạng, tài sản nhân dân, phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới lập căn cứ địa du kích, lấy Bắc Sơn - Võ Nhai làm trung tâm.

Hai là, chỉ thị cho Xứ uỷ Nam Kỳ hoãn ngay cuộc khởi nghĩa vì chưa đủ điều kiện bảo đảm cho khởi nghĩa thắng lợi.

Quyết định chưa được truyền đạt tới Xứ uỷ Nam Kỳ thì ngày 23-11-1940 cuộckhởi nghĩa Nam Kỳ đã nổ ra. Ở hầu khắp các tỉnh miền Nam, quần chúng nổi dậy đấu tranh dũng cảm, tiêu biểu là ở Mỹ Tho. Chính quyền của địch ở một số xã, quận tan rã. Chính quyền cách mạng được thành lập, thực hiện một số cải cách dân chủ, dân sinh, bảo vệ trị an, xét xử bọn phản động. Lần đầu tiên, cờ đỏ sao vàng xuất hiện tại một số vùng ở Mỹ Tho và Vĩnh Long. Cuộc khởi nghĩa bị thực dân Pháp đàn áp rất dã man. Gần 6.000 người bị bắt và bị giết. Nhiều làng mạc bị ném bom và đốt phá. Một số đồng chí lãnh đạo của Đảng bị bắt và bị xử bắn trước cuộc khởi nghĩa.

Ngày 13-1-1941, binh lính yêu nước dưới sự chỉ huy của Nguyễn Văn Cung (tức Đội Cung) đã nổi dậy đánh chiếm đồn Chợ Rạng (Thanh Chương), kéo về Đô Lương, rồi tiến về Vinh. Cuộc khởi nghĩa nhanh chóng bị đế quốc dập tắt.

Trong vòng ba tháng, ba cuộc khởi nghĩa diễn ra ở cả ba miền Bắc, Nam, Trung, đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của nhân dân cả nước và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu về khởi nghĩa vũ trang. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 5-1941) nhận định: đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương. Kinh nghiệm lớn nhất của các cuộc khởi nghĩa trên là muốn khởi nghĩa thành công phải có đủ các điều kiện khách quan và chủ quan chín muồi, trên cơ sở cuộc khủng hoảng chính trị, kinh tế diễn ra trong bộ máy thống trị của chủ nghĩa đế quốc và dựa vào cao trào cách mạng đã dâng lên trong cả nước.

Đầu năm 1940, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc với Đảng và chuẩn bị về nước. Ngày 28-1-1941 Người trở về Tổ quốc và ngày 8-2-1941, Người tới Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng).

Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp tại Pác Bó do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Từ sự phân tích diễn biến của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước, Hội nghị khẳng địnhnhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc.

Hội nghị khẳng định tính chất đúng đắn của chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất của Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, tập trung mũi nhọn chống đế quốc và tay sai giành độc lập dân tộc, đồng thời nêu khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày có ruộng. Hội nghị chỉ rõ, sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp - Nhật, sẽ thành lậpChính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; Hội nghị quyết định thay tên các Hội phản đế thành Hội cứu quốc, thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt Minh thay cho Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào, Campuchia.
Hội nghị xác định hình thái của khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận:chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân.

Hội nghị đưa ra dự báo: Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần trước đã đẻ ra Liên Xô - một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này sẽ đẻ ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước mới thành công.

Hội nghị đặc biệt nhấn mạnh công tácxây dựng Đảng nhằm làm cho Đảng có đủ năng lực lãnh đạo cuộc cách mạng Đông Dương đi đến toàn thắng, chủ trương gấp rút đào tạo cán bộ, chú trọng cán bộ lãnh đạo, cán bộ công vận, nông vận, binh vận, quân sự; tăng thành phần vô sản trong Đảng. Hội nghị đề ra nhiệm vụ giúp đỡ các Đảng bộ Campuchia, Lào và cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư.

Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5-1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy. Cùng với Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

2. Xây dựng lực lượng chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền

Ngày 6-6-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi toàn dân đoàn kết đánh đuổi Nhật - Pháp, chỉ ra điều kiện quan trọng để giành chính quyền "Hiện thời muốn đánh Pháp, Nhật, ta chỉ cần một điều:Toàn dân đoàn kết".

Cuối tháng 10-1941, Việt Nam độc lập đồng minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình và Điều lệ. Từ cuối năm 1941 đến năm 1942, các hội Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Tự vệ cứu quốc... đã được thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung và ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng. Ở Cao Bằng xuất hiện những xã, tổng toàn dân tham gia Việt Minh ("xã hoàn toàn", "tổng hoàn toàn"). Ở Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Việt Minh phát triển mạnh mẽ tại nhiều vùng nông thôn và thị xã.

Đảng rất chú trọng xây dựng các khu an toàn và căn cứ địa, lập các đội tự vệ vũ trang. Trung đội Cứu quốc quân hình thành từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, hoạt động tại Võ Nhai đã bám sát quần chúng, tiến hành cuộc chiến đấu gian khổ trong 8 tháng, phá được cuộc càn quét quy mô lớn của địch (từ giữa năm 1941).

Đảng thường xuyên quan tâm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao cảnh giác, ngăn ngừa bọn A. B chui vào phá Đảng từ bên trong. (A. B: là viết tắt hai chữ Pháp Anti Bolchévique- có nghĩa là chống Đảng cộng sản). Công tác đào tạo cán bộ được tiến hành qua các lớp huấn luyện ngắn ngày, các lớp bồi dưỡng công tác ở tất cả các cấp.

Thông qua Mặt trận Việt Minh, Đảng mở rộng các tổ chức quần chúng và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân, học sinh, tiểu thương ở ngay các trung tâm kinh tế, chính trị.

Thực dân Pháp làm tay sai cho Nhật khủng bố điên cuồng phong trào cách mạng. Từ cuối năm 1941 nhiều cán bộ của Đảng bị bắt và giết hại. Tháng 8-1942, trên đường đi công tác ở Trung Quốc, đồng chí Nguyễn Ái Quốc (lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh) bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam đến tháng 9-1943.

Trong thời gian bị giam giữ ở các nhà tù Quảng Tây, đồng chí Hồ Chí Minh đã viết tập thơ Nhật ký trong tù nổi tiếng, một lần nữa nêu cao tấm gương về ý chí bất khuất, tinh thần lạc quan cách mạng.

Vừa ra khỏi nhà tù Liễu Châu, Người đã bắt liên lạc ngay với Hội giải phóng Việt Nam. Do sự đóng góp tích cực của Người, tháng 9-1943, Hội nghị đại biểu các đảng phái, các đoàn thể yêu nước của người Việt Nam ở Trung Quốc được triệu tập do Việt Minh và Hội giải phóng Việt Nam đóng vai trò nòng cốt.

Vì sự bất lực của các tổ chức tay sai, chính quyền Tưởng Giới Thạch buộc phải bắt tay với Việt Minh. Đồng chí Hồ Chí Minh và những cán bộ của Đảng đã khéo lợi dụng tình hình trên để hoạt động có lợi cho cách mạng, vạch trần âm mưu của Tưởng Giới Thạch và bọn giả danh cách mạng.

Để đẩy tới công việc chuẩn bị khởi nghĩa, cuối tháng 2-1943 Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên). Hội nghị chủ trương mở rộng Mặt trận Việt Minh, liên minh với tất cả các đảng phái, các nhóm yêu nước ở trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt Minh; đẩy mạnh công tác vận động thanh niên, phụ nữ, dân tộc thiểu số và binh lính, chú ý vận động tư sản, địa chủ yêu nước; lập Hội Văn hoá cứu quốc.

Hội nghị vạch ra kế hoạch cụ thể về chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, phổ biến kinh nghiệm khởi nghĩa và chiến thuật du kích, tổ chức và huấn luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, công tác vận động công nhân tham gia khởi nghĩa.

Hội nghị nêu rõ, để làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới, phải làm cho Đảng mạnh mẽ và "bônsêvích hoá" vì chính sách lập mặt trận của Đảng càng rộng rãi thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng phải vững chắc.

Trong hai năm 1943-1944, phong trào cách mạng ở hai miền Bắc, Trung có bước phát triển mới, ở miền Nam được phục hồi. Tổ chức Việt Minh mở rộng ở các thành thị và nông thôn. Trên cơ sở cao trào cách mạng của quần chúng, từ hai căn cứ địa trung tâm Cao Bằng và Bắc Sơn - Võ Nhai nhiều căn cứ địa liên hoàn đã hình thành nối liền Cao Bằng với Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn, Hà Giang, Bắc Giang, Vĩnh Yên. Nhiều đội du kích thoát ly ra đời.

Trên mặt trận văn hoá và tư tưởng, Đảng ta cũng thu được nhiều thành tựu. Nhiều sách báo của Đảng và Mặt trận Việt Minh được xuất bản. Năm 1943, Đảng đưa ra Đề cương văn hoá Việt Nam, vũ trang cho toàn Đảng và những người hoạt động văn hoá yêu nước phương hướng chống lại văn hoá phát xít và phong kiến, xây dựng nền văn hoá dân tộc, khoa học, đại chúng. Hội văn hoá cứu quốc (thành viên của Mặt trận Việt Minh) ra đời. Tháng 6-1944,Đảng dân chủ Việt Nam, tập hợp trí thức yêu nước và tư sản tiến bộ được thành lập và gia nhập Mặt trận Việt Minh.

Đầu tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị "Sửa soạn khởi nghĩa". Cuối năm 1944 phong trào cách mạng sôi sục ở nhiều địa phương. Ở các căn cứ địa cách mạng, quần chúng đã sẵn sàng nổi dậy.

Tháng 10-1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét ở vùng Võ Nhai (Thái Nguyên), đáng lẽ cấp uỷ địa phương phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống khủng bố nhưng lại phát động khởi nghĩa vì vậy bị nhiều thiệt hại.

Tháng 7 -1944, Liên tỉnh uỷ Cao - Bắc - Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong liên tỉnh. Tháng 10-1944, từ Trung Quốc về tới Pác Bó, đồng chí Hồ Chí Minh đã quyết định hoãn chủ trương của Liên tỉnh uỷ vì điều kiện chưa chín muồi. Ngay sau đó, Người đề ra chủ trương thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tăng cường hoạt động vũ trang tuyên truyền, đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng chính trị, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, do đồng chí Võ Nguyên Giáp lãnh đạo được thành lập. Vài ngày sau, Đội đã đánh thắng hai trận đầu ở Phai Khắt, Nà Ngần (Cao Bằng), cổ vũ mạnh mẽ phong trào đánh Nhật, đuổi Pháp.

Để tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của nhân dân ta, Đảng ta đã tranh thủ sự giúp đỡ của các lực lượng chống Nhật ở Trung Quốc và vận động Việt kiều ở Trung Quốc tham gia phong trào giải phóng dân tộc; tiếp xúc với đại diện lực lượng Mỹ tại Côn Minh để tranh thủ sự đồng tình đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống phát xít Nhật.

3. Cao trào chống Nhật, cứu nước

Đầu năm 1945, phát xít Đức đang ở bên bờ diệt vong, phát xít Nhật ở tình thế khốn quẫn. Đúng như dự báo của Đảng, năm 1944 mâu thuẫn Nhật - Pháp ở Đông Dương đã lên tới đỉnh cao giống như "cái nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ". 8 giờ tối ngày 9-3-1945, Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp. Thực dân Pháp đầu hàng. Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương để phục vụ cho chúng, chỉ quét thêm một lớp sơn độc lập giả hiệu cho bọn bù nhìn Trần Trọng Kim.

Ngay trong đêm 9-3, Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì đã nhận định rằng, sau cuộc đảo chính, phát xít Nhật là kẻ thù chính, cụ thể trước mắt của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu Đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp trước đây được thay bằng khẩu hiệuĐánh đuổi phát xít Nhật. Hội nghị chủ trương phát động một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa. Các hình thức tuyên truyền, cổ động, tổ chức và đấu tranh cần phải thay đổi cho thích hợp với thời kỳ tiền khởi nghĩa: tuyên truyền xung phong, biểu tình tuần hành, bãi công chính trị, biểu tình phá kho thóc của Nhật; tổ chức các đội tự vệ cứu quốc, thành lập căn cứ địa mới, thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam giải phóng quân; thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng ở những vùng quân du kích hoạt động; sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện. Nội dung của Hội nghị được trình bày trong Chỉ thịNhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12-3-1945).

Cao trào kháng Nhật, cứu nước được phát động. Phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần đã diễn ra sôi nổi ở thượng du, trung du miền Bắc. Ở Việt Bắc, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân đã phối hợp với nhân dân nổi dậy giải phóng hàng loạt châu, huyện, xã thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang. Ở Bắc Giang, nhân dân nổi dậy thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng, ở nhiều làng, thành lập đội du kích. Ở Quảng Ngãi, số đảng viên đang bị giam trong trại an trí Ba Tơ đã khởi nghĩa, chiếm đồn, thành lập đội du kích Ba Tơ.

Hàng nghìn cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò, Buôn Mê Thuột... đấu tranh buộc địch phải trả lại tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động, tham gia lãnh đạo phong trào kháng Nhật, cứu nước.
Giữa lúc phong trào đang phát triển mạnh, do chính sách bóc lột, vơ vét của Nhật - Pháp, nạn đói xảy ra nghiêm trọng ở các tỉnh phía bắc. Hai triệu người Việt Nam bị chết đói. Đảng đã kịp thời đề ra khẩu hiệu "phá kho thóc, giải quyết nạn đói" và coi đó là khẩu hiệu chính để phát động phong trào chống Nhật, cứu nước. Cuộc đấu tranh phá kho thóc diễn ra ở khắp các tỉnh miền Bắc, đưa hàng triệu quần chúng đi từ đấu tranh cho quyền lợi kinh tế hàng ngày đến giác ngộ chính trị khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 15-4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ, do Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập đã họp ở Hiệp Hoà (Bắc Giang), quyết định đặt nhiệm vụ quân sự lên hàng đầu, gấp rút chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa. Hội nghị thống nhất sáp nhập Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân, lấy tên là Việt Nam giải phóng quân; quyết định xây dựng 7 chiến khu trong cả nước. Đó là các chiến khu Lê Lợi, Hoàng Hoa Thám, Quang Trung, Trần Hưng Đạo (miền Bắc); Trưng Trắc, Phan Đình Phùng (miền Trung), và Nguyễn Tri Phương (miền Nam).

Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị tổ chứcUỷ ban dân tộc giải phóng các cấp, chuẩn bị thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam, tức Chính phủ cách mạng lâm thời. Đầu tháng 5-1945 đồng chí Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tuyên Quang, chọn Tân Trào làm căn cứ để chỉ đạo cách mạng cả nước và chuẩn bị Đại hội quốc dân. Theo chỉ thị của Người, đầu tháng 6-1945 Khu giải phóng Việt Bắc thành lập.

Trong hai tháng 5 và 6-1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và nhiều chiến khu được thành lập ở cả ba miền theo Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ. Ở Khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với chính quyền tay sai của phát xít Nhật.

Để đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị tổng khởi nghĩa, Đảng đặc biệt coi trọng việc tăng cường sự nhất trí về đường lối cách mạng của Đảng; đấu tranh chống lại ảnh hưởng của Nhật, phê phán tư tưởng sợ Nhật, thân Nhật hoặc lợi dụng Nhật; nghiêm khắc phê bình quan điểm lệch lạc hy vọng giành độc lập bằng con đường hoà bình thương lượng với Nhật, lợi dụng và cải tổ Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.

Cao trào chống Nhật, cứu nước đã phát triển tới đỉnh cao sau khi phát xít Đức ký văn bản đầu hàng Liên Xô và Đồng minh đầu tháng 5-1945 và phát xít Nhật đầu hàng giữa tháng 8-1945.

4. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945

Từ ngày 13-8 đến ngày 15-8,Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào. Hội nghị nhận định điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi, Đảng chủ trương lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương. Hội nghị cử ra Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh phụ trách; đề ra đường lối đối nội và đối ngoại trong tình hình mới và kiện toàn Ban Chấp hành Trung ương. Đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh tổng khởi nghĩa.

Ngày 16-8-1945 cũng tại Tân Trào, Đại hội quốc dân họp, nhiệt liệt tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh: quyết định thành lậpUỷ ban giải phóng dân tộcViệt Nam tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.

Ngay sau Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhândân ta đã nhất tề vùng dậy giành chính quyền. Từ ngày 14-8, các đơn vị giải phóng quân đã liên tiếp hạ nhiều đồn Nhật thuộc các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái. Ngày 18-8, nhân dân các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Phúc Yên, Thái Bình, Thanh Hoá, Hà Tĩnh, Quảng Nam và Khánh Hoà giành chính quyền ở tỉnh lỵ.

Ngày 17-8, đông đảo nhân dân thành phố Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Mặt trận Việt Minh, đã biến cuộc mít tinh của chính quyền bù nhìn ở Nhà hát lớn thành cuộc mít tinh và diễu hành của nhân dân ta, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền.

Theo chủ trương "sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện" của Trung ương, căn cứ thực tế diễn biến ngày 17-8, đêm 17-8, Xứ uỷ Bắc Kỳ cùng với Thành uỷ Hà Nội quyết định tổng khởi nghĩa ở Hà Nội vào ngày 19-8-1945. Sáng 19-8, hàng chục vạn quần chúng nội thành và ngoại thành Hà Nội tiến về Quảng trường Nhà hát thành phố dự cuộc míttinh do Việt Minh tổ chức, hô vang các khẩu hiệu:

- Đả đảo chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim!

- Thành lập Chính phủ Cộng hoà nhân dân Việt Nam!

- Anh em binh lính hãy mang súng gia nhập hàng ngũ chiến đấu bên cạnh Việt Minh!

- Việt Nam hoàn toàn độc lập!

Sau cuộc mít tinh, quần chúng xuống đường biểu tình vũ trang, tiến về các ngả đường đánh chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn, trước hết là Phủ Khâm sai, Toà thị chính, Trại lính bảo an, Sở cảnh sát. Bạo lực cách mạng và khí thế sục sôi khởi nghĩa của quần chúng đã buộc nguỵ quyền đầu hàng và buộc quân Nhật phải để cho nhân dân giành quyền làm chủ toàn bộ thành phố.

Thắng lợi của Tổng khởi nghĩa ngày 19-8 ở Hà Nội có ý nghĩa quyết định đối với cả nước, làm cho chính quyền tay sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ và thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác nổi dậy giành chính quyền, nhất là Huế và Sài Gòn.

Ngày 23-8, dưới sự lãnh đạo của Xứ uỷ Trung Kỳ và Tỉnh uỷ Thừa Thiên, 150.000 nhân dân thành phố Huế và các huyện ở Thừa Thiên đã nổi dậy chiếm các công sở của nguỵ quyền Triều đình Huế và buộc vua Bảo Đại phải đầu hàng bằng hình thức thoái vị. Chiều 30-8 trước cửa Ngọ Môn, trước cuộc míttinh hàng vạn người tham gia, vua Bảo Đại đọc lời thoái vị và nộp ấn kiếm cho cách mạng. Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.

Khi được tin tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế thắng lợi, Đảng bộ miền Nam quyết định chọn ngày 25-8 làm ngày khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh còn lại. Ngày 25-8, hơn 1.000.000 nhân dân thành phố Sài Gòn và các tỉnh chung quanh biểu tình tuần hành thị uy, hô vang các khẩu hiệu:

- Đả đảo bù nhìn Nguyễn Văn Sâm!

- Việt Nam hoàn toàn độc lập!

- Tất cả chính quyền về tay Việt Minh!

- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm!

(Khi ấy Nguyễn Văn Sâm là Khâm sai Nam bộ của Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim- TG).
Nhân dân khởi nghĩa chiếm sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện, các bốt, các quận, sở mật thám Catina...
Ở Côn Đảo, Đảng bộ nhà tù đã lãnh đạo 10.000 chiến sĩ cách mạng bị giam cầm nổi dậy giành quyền làm chủ trên đảo.

Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã thành công trên cả nước trong vòng nửa tháng.

Ngày 2-9-1945, trong cuộc míttinh lớn của gần 1.000.000 người tại vườn hoa Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, tuyên bố với nhân dân ta và thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà độc lập, tự do và khẳng định quyết tâm sắt đá "toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Kể từ đó, ngày 2-9 trở thành ngày Quốc khánh của nước ta.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, Cách mạng Tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất, là một trong những bước ngoặt vĩ đại nhất. Cách mạng Tháng Tám đập tan ách phát xítNhật trong 5 năm, đập tan ách thống trị của thực dân Pháp trong 87 năm, lật đổ chế độ phong kiến mấy nghìn năm, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập tự do do nhân dân làm chủ đất nước. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân ta từ người nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Đảng ta từ một đảng hoạt động không hợp pháp trở thành một đảng lãnh đạo chính quyền trong cả nước. Đây là cuộc đổi đời của nhân dân ta trong lịch sử.

Cách mạng Tháng Tám đã sáng tạo ra những kinh nghiệm quý báu đóng góp vào kho tàng lý luận cách mạng dân tộc, dân chủ, ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, tạo ra thế và lực mới cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ sau này.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám chứng tỏ rằng, trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của một Đảng Mác - Lênin, có đường lối đúng đắn có thể giành thắng lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá ý nghĩa của Cách mạng Tháng Tám: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảngmới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc".

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là kết quả tổng hợp của những nhân tố bên trong (lực lượng toàn dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo) và nhân tố bên ngoài (thắng lợi của Liên Xô và Đồng minh đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức, sau đó đập tan một triệu quân Quan Đông của Nhật, buộc Nhật đầu hàng không điều kiện); là kết quả của ba cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939; 1939-1945.

Từ Cách mạng Tháng Tám có thể rút ra một sốkinh nghiệm:

Một là: Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc và Cương lĩnh của Đảng đã xác định cách mạng nước ta trải qua hai giai đoạn, trước hết là cách mạng dân tộc dân chủ, sau đó chuyển lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của đường lối gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.

Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta đã xác định nhiệm vụ chống đế quốc và nhiệm vụ chống phong kiến không thể tách rời nhau. Trải qua ba cao trào cách mạng, Đảng ta nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó và xác định: tuy hai nhiệm vụ không tách rời nhau nhưng nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu nhất, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc và phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu cụ thể như: giảm tô, giảm tức, chia ruộng đất công, chia ruộng đất của bọn phản động cho nông dân nghèo, tiến tới cải cách ruộng đất. Phân tích mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, Đảng chủ trương chĩa mũi nhọn của cách mạng vào đế quốc phátxít Nhật - Pháp và bè lũ tay sai nhằm tập trung giải quyết yêu cầu chủ yếu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc. Thắng lợi Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của sự kết hợp đúng đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.

Hai là: Toàn dân nổi dậy trên nền tảng khối liên minh công - nông

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi là nhờ cuộc đấu tranh yêu nước anh hùng của hơn 20 triệu người Việt Nam. Nhưng cuộc nổi dậy của toàn dân chỉ có thể thực hiện được khi có đạo quân chủ lực là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đạo quân chủ lực này được xây dựng, củng cố qua ba cao trào cách mạng và lớn mạnh vượt bậc trong tổng khởi nghĩa. Dựa trên đạo quân chủ lực làm nền tảng, Đảng xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, động viên toàn dân tổng khởi nghĩa thắng lợi.

Ba là: Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù

Đảng ta đã lợi dụng được mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa đế quốc phátxít, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và một bộ phận thế lực địa chủ phong kiến, mâu thuẫn trong hàng ngũ nguỵ quyền tay sai củaPháp và của Nhật, cô lập cao độ kẻ thù chính là bọn đế quốc phátxít và bọn tay sai phản động; tranh thủ hoặc trung lập những phần tử lừng chừng. Nhờ vậy, Cách mạng Tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu.

Bốn là: Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân
Trong Cách mạng Tháng Tám, bạo lực của cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị với lực lượng vũ trang; kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, trong đó vai trò quyết định là các cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự kết hợp tất cả các hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị, hợp pháp và không hợp pháp của quần chúng, từ thấp đến cao, từ ở vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị, lập ra bộ máy nhà nước của nhân dân.

Năm là: Nắm vững nghệ thuật khởi nghĩa, nghệ thuật chọn đúng thời cơ

Đảng ta coi khởi nghĩa là một nghệ thuật, vừa vận dụng nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm của cách mạng thế giới, vừa tổng kết những kinh nghiệm các cuộc khởi nghĩa ở nước ta. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng từ năm 1939 đến nửa đầu năm 1945, Đảng đã vạch ra những điều kiện làm thời cơ cho tổng khởi nghĩa thắng lợi.

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi chứng tỏ Đảng đã chọn đúng thời cơ. Đó là lúc bọn cầm quyền phát xít ở Đông Dương hoang mang đến cực độ sau khi Nhật đầu hàng; nhân dân ta không thể sống nghèo khổ như trước được nữa (khi hai triệu người đã bị chết đói...). Đảng đã chuẩn bị sẵn sàng các mặt chủ trương, lực lượng và cao trào chống Nhật, cứu nước làm điều kiện chủ quan cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.

Sáu là: Xây dựng một Đảng Mác - Lênin đủ sức lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền

Đảng ta ngay từ đầu đã xác định đúng đường lối chiến lược và sách lược cách mạng, không ngừng bổ sung và phát triển đường lối chiến lược và sách lược đó. Điều đó đòi hỏi Đảng phải biết vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, kịp thời tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng.

Đảng ta rất coi trọng việc quán triệt đường lối chiến lược và sách lược, chủ trương của Đảng trong đảng viên và quần chúng cách mạng, không ngừng đấu tranh khắc phục những khuynh hướng lệch lạc. Đảng chăm lo công tác tổ chức, cán bộ, giáo dục rèn luyện cán bộ, đảng viên về ý chí bất khuất, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, xây dựng Đảng vững mạnh và trong sạch. Đảng biết phát huy triệt để vai trò của Mặt trận Việt Minh với hàng triệu hội viên và thông qua Mặt trận để lãnh đạo nhân dân đấu tranh.

Với những yếu tố như trên và được tôi luyện qua 15 năm đấu tranh mặc dù chỉ có 5.000 đảng viên, Đảng đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công.

Nguồn: Báo Điện tử Đảng Cộng Sản
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top