Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 1

Bút Nghiên

ButNghien.com
Bài 1
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1911-1930)

I. CUỘC KHỦNG HOẢNG VỀ CON ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐẦU THẾ KỶ XX

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả chuẩn bị công phu về tư tưởng, chính trị và tổ chức của đồng chí Nguyễn Ái Quốc và của các chiến sĩ cách mạng tiền bối, đáp ứng nhu cầu lịch sử của đất nước ta đầu thế kỷ XX, phù hợp xu thế phát triển của thời đại.

1. Xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam

Cuối thế kỷ XIX, sau khi cơ bản kết thúc giai đoạn vũ trang xâm lược, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa. Để bóc lột được lợi nhuận thuộc địa tối đa, thực dân Pháp duy trì phương thức sản xuất phong kiến, thiết lập một cách hạn chế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chúng thực hiện chính sách độc quyền kinh tế về các mặt: xuất nhập khẩu, khai thác mỏ, giao thông vận tải, ngân hàng, tài chính, thuốc phiện, muối, rượu, chiếm đất lập đồn điền, lập ra hàng trăm thứ thuế vô lý và vô nhân đạo. Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho dân ta càng nghèo khổ, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng thực hành chính sách chuyên chế vềchính trị, làm cho dân ta không có một chút tự do, dân chủ nào. Để ngăn chặn tình đoàn kết của dân tộc ta, chúng thực hiện chính sách "chia để trị".

Cùng với độc quyền về kinh tế, chuyên chế về chính trị, về văn hoá, thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân, nhằm giam hãm dân tộc ta trong vòng nô lệ.

Những chính sách trên của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam thay đổi, từ một xã hội phong kiến độc lập, Việt Nam trở thành một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.

Về cơ cấu xã hội, bên cạnh giai cấp địa chủ phong kiến và giai cấp nông dân đã tồn tại từ lâu, xuất hiện giai cấp công nhân, giai cấp tiểu tư sản thành thị và giai cấp tư sản.

Nhân dân ta bị bần cùng hoá, công nhân, nông dân nghèo đói, tiểu tư sản phá sản, trí thức thất nghiệp, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ và vừa bị chèn ép.

Chính sách thống trị của Pháp và bọn tay sai đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giữa nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc ta với bọn thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Độc lập dân tộc và người cày có ruộng là hai yêu cầu cơ bản của xã hội Việt Nam thuộc địa, nửa phong kiến, nhưng độc lập dân tộc là yêu cầu chủ yếu trước mắt, phản ánh nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp, giai cấp trong dân tộc.

2. Phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

a) Phong trào yêu nước của nông dân và sĩ phu yêu nước


Ngay từ khi thực dân Pháp đặt chân lên đất nước ta, với tinh thần yêu nước nồng nàn, bất chấp chủ trương đầu hàng của triều đình phong kiến, nhân dân cả nước đã vùng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Chúng đã vấp phải một phong trào đấu tranh vũ trang quyết liệt và kéo dài, hễ phong trào này bị dập tắt, thì phong trào khác tiếp theo, không hề ngưng nghỉ, thật đúng với lời tuyên bố đanh thép của Nguyễn Trung Trực trước giờ xử tử: "Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây".

Ngày 5-7-1885, phái kháng chiến còn sót lại trong triều đình Huế do Tôn Thất Thuyết dẫn đầu đánh đồn Mang Cá và toà khâm sứ Trung Kỳ. Bị thất bại, Tôn Thất Thuyết đưa vua Hàm Nghi ra vùng núi Quảng Trị. Ngày 13-7-1885, nhà vua xuống chiếu "Cần Vương". Phong trào "Cần Vương" nhanh chóng lan ra nhiều địa phương ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ và cả Nam Kỳ. Ngày 1-11-1888, vua Hàm Nghi bị Pháp bắt. Phong trào "Cần Vương" còn kéo dài cho đến khi cuộc khởi nghĩa Phan Đình Phùng thất bại (1896). Trong thời gian đó, các cuộc khởi nghĩa của nông dân chống Pháp không ngừng bùng nổ ở khắp các miền của đất nước. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất tiêu biểu cho ý chí chiến đấu bất khuất, kiên cường, bền bỉ của nông dân Việt Nam là cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo. Thực dân Pháp đã bốn lần dùng lực lượng lớn tiến công Yên Thế, nhưng đều bị nghĩa quân đánh bại. Chỉ sau khi Hoàng Hoa Thám hy sinh (10-3-1913), cuộc khởi nghĩa Yên Thế (kéo dài 30 năm từ 1883-1913) mới kết thúc.

b) Phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng tư sản

Sau khi phong trào "Cần Vương" thất bại, nhiều sĩ phu yêu nước hướng ra nước ngoài tìm con đường cứu nước mới.

Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản qua sách báo của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, gương Duy Tân của Nhật Bản, cuộc vận động hiến pháp của Trung Quốc (1898), cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) đã lôi cuốn nhiều sĩ phu yêu nước, tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.

Là ngọn cờ của phong trào yêu nước chống Pháp hồi đầu thế kỷ, lúc đầu Phan Bội Châu chủ trương lập chế độ quân chủ lập hiến, năm 1904 đã lập Duy Tân hội để khôi phục độc lập dân tộc. Tuy vậy, ông vẫn chưa thấy vai trò chủ lực của nông dân.

Năm 1912, ông cùng một số nhà yêu nước lập raViệt Nam Quang phục hội, từ bỏ lập trường quân chủ lập hiến, chuyển sang lập trường dân chủ tư sản với chủ trương: đánh đuổi giặc Pháp, thành lập Cộng hoà dân quốc Việt Nam. Năm 1924, ông quyết định cải tổ Việt Nam Quang phục hội thành Việt Nam Quốc dân Đảng, vạch đường lối chính trị phỏng theo cương lĩnh Trung Hoa Quốc dân Đảng do Tôn Dật Tiên lãnh đạo. Ông cũng có cảm tình với nước Nga Xôviết, chủ nghĩa xã hội và có ý đặt hy vọng vào Nguyễn Ái Quốc.

Hạn chế lớn của ông là chủ trương dựa vào Nhật để đuổi Pháp. Sau này, trong tác phẩm Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã nhận xét con đường đó chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau".

Con đường cứu nước của Phan Bội Châu đã không thành công. Trong bản hồi ký cuối đời ông viết: "Than ôi! Cuộc đời của tôi là một trăm thất bại mà không một thành công".

Phan Châu Trinh là nhà yêu nước dân chủ nhiệt thành. Ông kịch liệt tố cáo bọn quan lại phong kiến sâu mọt, kết tội tên vua bù nhìn Khải Định và tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Ông chủ trương "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh". Hạn chế lớn của Phan Châu Trinh là đường lối cải lương phản đối bạo động ("bạo động tắc tử") và muốn dựa vào Pháp để chống phong kiến. Dù là cải lương, ông vẫn bị thực dân Pháp bắt giam, đày đi Côn Đảo. Con đường cứu nước của Phan Châu Trinh đã thất bại, đúng như nhận xét của Trần Dân Tiên, vì sai lầm chẳng khác gì "xin giặc rủ lòng thương".

Lòng yêu nước và gương hoạt động của hai cụ Phan đã cổ vũ nhân dân ta qua nhiều thế hệ.

Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh có điểm giống nhau là chưa tiếp cận được xu thế của thời đại mới, do đó không tìm ra con đường cứu nước mới, con đường giành độc lập triệt để do nhân dân lao động làm chủ đất nước, lấy sức ta mà tự giải phóng cho ta.

Thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã nói lên một sự thật: con đường dân chủ tư sản cũng không cứu được nước. Ở nước thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam, giai cấp tư sản dân tộc có vai trò nhất định trong sự nghiệp cứu nước, nhưng họ chỉ có thể phát huy vai trò đó với sự giúp đỡ của Đảng, của giai cấp công nhân.
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), tính chất thời đại thay đổi, đòi hỏi con đường giải quyết mâu thuẫn xã hội phải thay đổi và giai cấp lãnh đạo cách mạng cũng phải thay đổi.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước đã diễn ra sâu sắc, trầm trọng trên đất nước ta. Việc tìm lối ra cho cuộc khủng hoảng là nhu cầu nóng bỏng nhất của dân tộc ta lúc bấy giờ.

II. NGUYỄN ÁI QUỐC TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC

1.Quá trình tìm tòi con đường cứu nước mới của Nguyễn Ái Quốc

Nguyễn Ái Quốc sinh ngày 19-5-1890, quê ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ có tên là Nguyễn Sinh Cung, khi đi học lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Lớn lên giữa lúc nước mất nhà tan, đau xót trước cảnh lầm than của đồng bào, Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc.

Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành rời đất nước ra đi tìm đường cứu nước, xem các nước làm thế nào rồi trở về giúp đồng bào.
Trên lộ trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua những bước ngoặt lớn.

Một là: Nhận ra hạn chế của các nhà yêu nước đương thời.
Nguyễn Ái Quốc rất khâm phục tinh thần yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hoàng Hoa Thám, nhưng không đồng ý đi theo con đường của một người nào. Trong khi nhiều người còn ngưỡng mộ cách mạng tư sản, Người đã vượt qua sự hạn chế tầm nhìn của họ, đi tìm con đường cứu nước khác.

Hai là: Tìm ra chỗ hạn chế của cách mạng dân chủ tư sản là những cuộc cách mạng không giải phóng được công nông và quần chúng lao động.
Một cuộc khảo sát có một không hai ở Mỹ, Anh và Pháp đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhận ra là ở đâu cũng có hai loại người: người giàu và người nghèo, người áp bức và người bị áp bức. Càng ngày Người càng hiểu sâu sắc bản chất của chủ nghĩa đế quốc.

Ngày 6-7-1911, Nguyễn Tất Thành đến cảng Mácxây, thấy nhiều phụ nữ nghèo khổ, Nguyễn Tất Thành nói với người bạn "Tại sao người Pháp không "khai hóa" đồng bào của họ trước khi đi "khai hóa" chúng ta?".
Làm thuê trên chiếc tàu đi vòng quanh châu Phi, tận mắt trông thấy những cảnh khổ cực, chết chóc của người da đen dưới roi vọt của bọn thực dân, Nguyễn Tất Thành nghĩ: Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa, da vàng hay da đen cũng không đáng một xu.

Giữa tháng 12-1912, Nguyễn Tất Thành tới nước Mỹ, Người dành một phần thời gian để lao động kiếm sống, còn phần lớn thời gian dành cho học tập, nghiên cứu Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776. Khi thăm pho tượng Thần Tự do, Nguyễn Tất Thành không để ý đến ánh hào quang quanh đầu tượng mà xúc động trước cảnh những nô lệ da đen dưới chân tượng.

Cuối năm 1913, Nguyễn Tất Thành từ Mỹ sang Anh và cuối năm 1917 trở lại Pháp.

Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918) giết hại biết bao sinh mạng, phá huỷ vô vàn của cải. Qua đó, Nguyễn Ái Quốc càng hiểu thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản.

Quá trình nghiên cứu, xem xét Cách mạng tư sản Mỹ (1776) và Cách mạng tư sản Pháp (1789) đã giúp Nguyễn Ái Quốc học hỏi được nhiều điều. Tuy vậy, Người vẫn đánh giá những cuộc cách mạng tư sản là "những cuộc cách mạng không đến nơi".

Chiến tranh kết thúc, các nước thắng trận họp
Hội nghị hoà bình ở Vécxây (Pháp) để chia phần. Thay mặtHội những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị bản yêu sách 8 điểm. Trong khi chờ đợi giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết, Người chỉ đề cập những yêu sách "tối thiểu" và "cấp thiết". Tổng thống Mỹ Uynxơn (Wilson), tác giả chương trình 14 điểm với chiêu bài dân tộc tự quyết cũng có mặt ở Hội nghị. Nhưng những yêu sách dù khiêm tốn của Người không được Hội nghị đáp ứng.

Sự kiện này đã giúp Nguyễn Ái Quốc hiểu rõ "chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp bợm lớn...". Những lời tuyên bố tự do của nhà chính trị tư sản trong lúc chiến tranh thực ra chỉ là những lời đường mật để lừa bịp các dân tộc. Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình. Đầu năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một đảng tiến bộ hồi bấy giờ, Người có dịp tiếp xúc, hoạt động với nhiều nhà chính trị nổi tiếng ở Pháp. Nguyễn Ái Quốc tìm hiểu và hoạt động trong phong trào công nhân, liên lạc và cùng hoạt động với nhiều nhà cách mạng ở nhiều thuộc địa Pháp.

Ba là: Đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga, đi theo Quốc tế Cộng sản.

Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thắng lợi là sự kiện chính trị lớn nhất của thế kỷ XX, mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới, thời đại thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười đặt ra sự lựa chọn mới đối với những người cách mạng Việt Nam: Độc lập dân tộc cho một số ít người hay cho đại đa số người? Độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa tư bản hay độc lập dân tộc đi lên chủ nghĩa xã hội?

Khi được biết thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ cuộc cách mạng đó, kính phục Lênin. Người đã tham gia nhiều cuộc vận động ủng hộ nhân dân Nga bảo vệ thành quả cách mạng. Tháng 3-1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) ra đời, có ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới. Năm 1920, cuộc đấu tranh giữa hai con đường diễn ra quyết liệt trong nhiều đảng công nhân và ngay trong Đảng Xã hội Pháp: tiếp tục theo Quốc tế thứ hai tức là tiếp tục con đường cải lương hay đi theo Quốc tế thứ ba, con đường cách mạng.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộcđịa của Lênin. Luận cương đã giải đáp trúng những vấn đề mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở tìm hiểu, giúp Người thấy rõ con đường thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, nhận rõ lập trường của Lênin và Quốc tế thứ ba khác hẳn với những lời tuyên bố suông của Quốc tế thứ hai. Luận cương của Lênin đã có ảnh hưởng quyết định đến lập trường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc: Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tán thành Quốc tế thứ ba, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo cách mạng vô sản, trở thành một trong những nhà sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam.

Qua mười năm sống và làm việc ở những nước tư bản phát triển, Nguyễn Ái Quốc không choáng ngợp trước sự giàu có của giai cấp tư sản mà lại nhận thấy chế độ tư bản có nhiều khuyết tật. Người khẳng định dứt khoát chủ nghĩa tư bản không cứu được nước, không cứu được dân. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giúp Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra chân lý thời đại: Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.

Khác với các nhà yêu nước đương thời, Nguyễn Ái Quốc có một phương pháp nghiên cứu độc lập, tự chủ, sáng tạo, đem lý luận đối chiếu với thực tiễn, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội làm tiêu chuẩn đánh giá các học thuyết, tiếp thu kinh nghiệm cách mạng thế giới có chọn lọc.

Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc đã được thể hiện nổi bật trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin, vạch ra đường lối cứu nước đúng đắn cho dân tộc ta.

2. Truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin và chuẩn bị thành lập Đảng

a) Tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp, liên kết cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản ở các nước đế quốc.

Trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái Quốc bắt tay vào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về nước. Quá trình đó cũng là quá trình Người từng bước vạch đường lối chiến lược cho cách mạng Việt Nam.

Tháng 4-1921, khi còn ở Pháp, trong bài báoĐông Dương, Người phê phán sai lầm của một số đảng cộng sản ở các nước tư bản phát triển "chưa quan tâm đến vấn đề thuộc địa". Tháng 5 năm đó cũng trong bài báo Đông Dương, Người cho rằng "chế độ cộng sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng". Người dự đoán "ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn".

Tháng 7-1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số chiến sĩ cách mạng ở nhiều nước thuộc địa Pháp lập Hội liên hiệp thuộc địa. Tuyên ngôn của Hội do Người khởi thảo đã nêu bật tư tưởng tự lực tự cường: "Công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em".

Hội đã ra tờ báo Người cùng khổ (Le Paria).Trong truyền đơn cổ động mọi người mua báo, Nguyễn Ái Quốc đã phát triển lời kêu gọi đoàn kết quốc tế của Mác và Lênin: "Lao động tất cả các nước đoàn kết lại!". BáoNgười cùng khổ đã tạo "một luồng gió mới thổi đến nhân dân các nước bị áp bức", "đã làm cho nước Pháp chân chính biết rõ những việc xảy ra trong các thuộc địa", "đã thức tỉnh đồng bào chúng ta", "khiến cho đồng bào chúng ta nhận rõ nước Pháp, nước Pháp tự do, bình đẳng, bác ái". Ngoài việc viết bài cho báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc còn viết bài cho các báoNhân đạo, Đời sống công nhân. Người đã dự Đại hội lần thứ nhất và thứ hai của Đảng Cộng sản Pháp. Người tiếp tục chỉ ra sai lầm của Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc địa.

Trong thời gian này, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết tác phẩm nổi tiếngBản án chế độ thực dân Pháp nhằm vạch trần bản chất chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi "Dân bản xứ không cam chịu nhục được mãi, phải vùng lên". Người nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc qua hình ảnh chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi. Muốn giết con vật ấy "người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt lại sẽ mọc ra". Tác phẩmBản án chế độ thực dân Pháp có giá trị lớn về mặt lý luận, thực tiễn, đồng thời có giá trị về văn học.

Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc phê phán vua Khải Định khi ông ta sang Pháp dự hội chợ thuộc địa. Qua truyện ngắnLời than vãn của Bà Trưng Trắc, vở kịch Con rồng tre, Người lên án ông ta là "đớn hèn, bất lực và ngu dốt", cam tâm làm tôi tớ cho thực dân Pháp.

Giữa năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Pêtơrôgrát (Liên Xô). Ở đó, Người có điều kiện học tập, nghiên cứu sâu sắc hơn chủ nghĩa Mác - Lênin. Người phát triển thêm những quan điểm chính trị của mình đã hình thành ở Pháp. Người tiếp tục tố cáo tội ác của chủ nghĩa đế quốc. Qua bài Hành hình kiểu Linsơ, Người coi tội ác đó "chiếm vị trí vinh dự trong toàn bộ những tội ác của nền văn minh Mỹ".Người vạch trần"chính sách thực dân trá hình" của đế quốc Anh muốn chiếm cả Trung Quốc, phê phán đế quốc Ý đồng lõa với đế quốc Pháp đàn áp phong trào cách mạng ở Bắc Phi.

Tháng 10-1923, Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội lần thứ nhất Quốc tế Nông dân. Đại hội bầu Người vào Ban Chấp hành Quốc tế Nông dân và Ban Chấp hành cử Người làm uỷ viên Đoàn chủ tịch. Năm 1924, Người dự các Đại hội của Thanh niên, Phụ nữ quốc tế. Công hội đỏ và Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản. Người tiếp tục phê bình thiếu sót của nhiều đảng cộng sản ở Tây Âu về vấn đề thuộc địa và thẳng thắn nêu thiếu sót đó của cả Quốc tế Cộng sản.

Người rất chú ý nghiên cứu chế độ mới ở Liên Xô. Người nhận rõ lúc này dù thiếu thốn, nhân dân Liên Xô đã dành cho trẻ em những "cái gì tốt nhất", nhà nước hết sức chăm lo việc giáo dục và y tế cho nhân dân. Người viết nhiều bài báo nêu cao công lao vĩ đại, đạo đức cao cả của Lênin.

Ngày 11-11-1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) làm nhiệm vụ đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Người cùng với một số nhà cách mạng lậpHội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, do ông Liêu Trọng Khải (Trung Quốc) làm Hội trưởng và Người làm Bí thư.

b) Thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội)

Tháng 6-1925, từ nhóm cách mạng đầu tiên, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước Việt Nam có xu hướng cộng sản chủ nghĩa, chuẩn bị thành lập Đảng. Người mở những lớp huấn luyện cán bộ và ra tờ báoThanh niên. Phần lớn những thanh niên đã được huấn luyện trở về nước hoạt động và số còn lại sang Liên Xô tiếp tục học tập. Hội đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc vào công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân.

Năm 1928, Hội đề ra chủ trương "vô sản hoá", đưa hội viên vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền. Chủ trương này có tác dụng rèn luyện những người trí thức tiểu tư sản về lập trường giai cấp công nhân và bước đầu kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

Hội kết nạp ngày càng nhiều hội viên, năm 1928 có 300 hội viên, năm 1929 có 1.700 hội viên, nếu kể cả hội viên dự bị thì có gần 3.000 người. Từ năm 1926 đến năm 1929, Hội có cơ sở ở nhiều trung tâm kinh tế, chính trị trong cả nước, trở thành lực lượng chính trị yêu nước lớn mạnh nhất đất nước, hoàn thành ý định của người sáng lập hội là chuẩn bị tiền đề cho việc thành lập Đảng Cộng sản.

c) Phác thảo đường lối cứu nước

Nguyễn Ái Quốc phác thảo đường lối cứu nước từ năm 1921 và thể hiện tập trung trong tập bài giảng ở lớp chính trị tại Quảng Châu, năm 1927 được in thành sách lấy tên là Đường Cách mệnh. Nội dung cơ bản của tác phẩm như sau:

Một là: Chỉ có cách mạng vô sản là cách mạng triệt để, vì lợi ích của đại đa số dân chúng.

Nguyễn Ái Quốc giới thiệu những cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, từ Cách mạng tư sản Mỹ năm 1776 đến Cách mạng tư sản Pháp năm 1789, từ Công xã Pari năm 1871 đến Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và sau khi so sánh cách mạng tư sản với cách mạng vô sản, Người khẳng định: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa.Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức".

Người khẳng định: "Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam". Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh: "làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc".Đây là điểm xuất phát và là điểm khác nhau cơ bản giữa con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc với các con đường cứu nước trước kia.

Hai là:Mục tiêu và con đường đi lên của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa xã hội, muốn xoá bỏ chế độ người bóc lột người, muốn có tự do, hạnh phúc, bình đẳng thật sự thì phải qua hai cuộc cách mạng: cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau.

Ba là: Về lực lượng cách mạng, công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. "Ai mà bị áp bức càng nặng, thì lòng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết". Cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc của một hai người.

Bốn là: Về phương pháp cách mạng.

Cùng với việc hoạch định đường lối cách mạng, Nguyễn Ái Quốc phác thảo cả phương pháp cách mạng. Người cho rằng giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, cho nhân loại là công việc "to tát", cho nên phải "dùng hết sức", phải "quyết tâm làm thì chắc được", "thà chết tự do hơn sống làm nô lệ". Nhưng phải "biết cách làm thì mới chóng". "Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ". Tiếp theo tư tưởng khởi nghĩa vũ trang quần chúng giành chính quyền đề ra từ năm 1924, trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc phát triển thêm: "dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi". "Đời này làm chưa xong, đời sau nối theo làm thì phải xong". Về phương pháp cách mạng, quan điểm của Nguyễn Ái Quốc là quan điểm cách mạng bạo lực. Người chỉ ra những thiếu sót của những người đi trước như "xúi dân bạo động mà không bày cách tổ chức", hoặc "làm cho dân quen tính ỷ lại mà quên tính tự cường". Tóm lại là phải có sách lược, mưu chước, kế hoạch, biết lúc nào nên làm, lúc nào chưa nên làm.

Năm là: Đoàn kết quốc tế.

"Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Ai làm cách mạng trên thế giới là đồng chí của Việt Nam". "Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa (như Đệ tam quốc tế)". "An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế".

Trong tác phẩm Đường Cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc nhắc lại khẩu hiệu của Quốc tế thứ ba "Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hợp lại".

Đây là những quan điểm cơ bản về đoàn kết quốc tế mà Nguyễn Ái Quốc đã viết trong nhiều tác phẩm và Người thực hiện ngay từ khi gia nhập phong trào cộng sản quốc tế. Trong quan hệ giữa cách mạng nước ta với bầu bạn thế giới, Nguyễn Ái Quốc chú ý hai điều:

- Muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã.

- Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động giành thắng lợi, không ỷ lại, chờ đợi thắng lợi của cuộc cách mạng vô sản. Đó cũng là bài học đoàn kết quốc tế trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường của cách mạng nước ta từ khi Đảng lãnh đạo.

Sáu là: Cách mạng trước hết phải có Đảng cách mạng.

Ngay từ khi tìm được chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nắm vững quy luật, Đảng có vững cách mệnh mới thành công. Muốn cho Đảng vững phải làm cho trong Đảng ai cũng hiểu, ai cũng theo chủ nghĩa ấy (chủ nghĩa Mác - Lênin). Đảng không có chủ nghĩa như người không có trí khôn.

Sáu điểm trên đây là tư tưởng cốt lõi trong con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc.

Không những Nguyễn Ái Quốc nắm vững thực chất chủ nghĩa Mác - Lênin, mà ngay từ đầu đã biết vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với đặc điểm cách mạng nước mình.

Từ năm 1925 đến năm 1927, đồng thời với phong trào yêu nước theo lập trường vô sản, xuất hiện phong trào yêu nước theo quan điểm dân chủ tư sản:

- Phong trào đấu tranh sôi sục trong cả nước vào cuối năm 1925, đòi trả lại tự do cho Phan Bội Châu.
- Phong trào yêu nước tổ chức đám tang Phan Châu Trinh, tháng 3-1926.
- Năm 1925 thành lập Việt Nam Nghĩa đoàn, năm 1927 đổi tên thành Đảng Tân Việt.
- Đảng Thanh niên thành lập tháng 3-1926.
- Đảng An Nam độc lập do lưu học sinh Việt Nam ở Pháp tổ chức.
- Việt Nam quốc dân Đảng thành lập năm 1927.

Cùng với các tổ chức chính trị nói trên, nhiều tờ báo tiến bộ ra đời: BáoLa cloche félée (Tiếng chuông rè) từ số 53 (29-3-1926) đến số 60 (26-4-1926) lần lượt công bố toàn vănTuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Mác và Ăngghen, Tờ L'Annam bác bỏ thuyết "Pháp Việt đề huề", đăng nhiều bài của báoL'Humanité (Nhân đạo) của Đảng Cộng sản Pháp, TờJeune Annam (xứ An Nam trẻ) đăng một số bài của Nguyễn Ái Quốc. Các tổ chức và những tờ báo trên đã có ảnh hưởng tới thanh niên, học sinh và một số người thuộc tầng lớp trên.

Thời gian này, ở nước ta đã nổ ra cuộc đấu tranh giữa hai đường lối cứu nước và kết cục đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã thắng đường lối cứu nước theo quan điểm tư sản.

Tính khoa học và cách mạng triệt để của đường lối cứu nước do Nguyễn Ái Quốc đề xướng có sức cuốn hút mạnh mẽ nhiều thanh niên yêu nước. Trong hai năm 1929 - 1930, phần lớn đảng viên Đảng Tân Việt và một số đảng viên tiên tiến của Việt Nam quốc dân Đảng đã chuyển sang lập trường của những người cộng sản. Lập trường cách mạng giải phóng dân tộc của công nhân đã thắng lập trường giải phóng của tư sản. Thực tiễn lịch sử chứng minh, con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đã mở đường giải quyết cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta, dẫn đến sự ra đời các tổ chức cộng sản vào nửa cuối năm 1929 và Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930.

III. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Ba tổ chức cộng sản


Đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc trước tiên đã thúc đẩy phong trào công nhân và phong trào nông dân lên cao.

Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, đội ngũ công nhân Việt Nam có khoảng mười vạn người. Các cuộc đấu tranh chống bọn chủ của công nhân Việt Nam được diễn ra dưới nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ phá giao kèo, bỏ việc đến bãi công. Họ biết liên kết công nhân nhiều xí nghiệp cùng đấu tranh và liên hệ với công nhân Pháp và công nhân Trung Quốc.

Tháng 8-1925, cuộc bãi công tiêu biểu của hơn 1.000 công nhân binh xưởng Ba Son (Sài Gòn) do Tôn Đức Thắng lãnh đạo đã giành thắng lợi lớn. Ông đã tổ chức Công hội ở Sài Gòn và gây cơ sở ở nhiều xí nghiệp.
Trong hai năm 1926 - 1927, có 17 cuộc đấu tranh của công nhân trong cả nước. Tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định (7-1926), đồn điền Cam Tiên (12-1926), đồn điền Phú Riềng (tháng 8, 9-1927).

Năm 1928, bãi công đã nổ ra tại mỏ than Mạo Khê, nhà máy nước đá Laruy (Larue) ở Sài Gòn (19-2), các nhà máy xay Chợ Lớn (23-2), sở dầu HảiPhòng (13-3), đồn điền cao su Lộc Ninh (8-4), nhà máy cưa Bến Thuỷ (11-4), nhà máy tơ Nam Định (23-11). Trong năm 1929, bãi công của công nhân nhà máy chai Hải Phòng (23-4), nhà máy xe lửa Tràng Thi ở Vinh (16-5), nhà máy sửa chữa ô tô Aviat ở Hà Nội (28-5), sở dầu Hải Phòng (23-9), nhà máy xi măng Hải Phòng (22-10)...

Các cuộc đấu tranh đã thể hiện rõ rệt tinh thần đoàn kết giai cấp, ý thức tổ chức của công nhân. Báo chí của thực dân Pháp phải thừa nhận: "Từ đây, hành động tập thể của những người lao động đã thay thế cho những vụ âm mưu của các hội kín".

Phong trào nông dân phát triển khá mạnh ở nhiều vùng trong cả nước. Năm 1927, nông dân làng Ninh Thanh Lợi (Rạch Giá) đấu tranh chống bọn thực dân và địa chủ chiếm đất quyết liệt đến đổ máu. Nông dân tại nhiều làng thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Nghệ An, Hà Tĩnh cũng nổi lên đấu tranh chống bọn địa chủ cướp đất, bãi sa bồi, đòi chia ruộng công, chống nhũng lạm của bọn cường hào...

Phong trào công nhân và phong trào nông dân đã có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Nông dân đã quyên tiền ủng hộ công nhân hoặc che chở đùm bọc công nhân khi phải về thôn quê tạm lánh địch khủng bố.

"Đều đặc biệt và quan trọng nhứt trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự tranh đấu của quần chúng công nông có tánh chất độc lập rất rõ rệt, chớ không phải là chịu ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như lúc trước nữa".

Phong trào cách mạng dâng cao đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của đội tiên phong cách mạng có đủ bản lĩnh để lãnh đạo cuộc cách mạng của toàn dân tộc. Đó là Đảng Cộng sản. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản ở nước ta. Trong lúc nhiều người yêu nước khác chưa nhận thức được đòi hỏi bức xúc đó, thì những người tiên tiến trong Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đã sớm nắm bắt được nhu cầu lịch sử này của giai cấp công nhân và của dân tộc.

Sau khi yêu cầu thành lập Đảng Cộng sản bị bác bỏ trong Đại hội Thanh niên ở Hương Cảng (5-1929), ngày 17-6-1929 Đông Dương Cộng sản Đảng thành lập ở Hà Nội và công bố Chính cương, Tuyên ngôn. Tuyên ngôn Đông Dương Cộng sản Đảng nêu rõ: Thời kỳ đầu tiên của cách mạng ở Đông Dương là tư sản dân chủ cách mạng, giai cấp vô sản "thực hành công nông liên hiệp" để đánh đuổi đế quốc Pháp và lật đổ phong kiến địa chủ "thực hành thổ địa cách mệnh".

Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng là sự kiện đột phá chính thức kết thúc vai trò của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, có ảnh hưởng đến sự ra đời của hai tổ chức cộng sản khác. Mùa thu năm 1929, An Nam Cộng sản Đảng thành lập. Ngày 1-1-1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn ra đời từ trong phái "tả" của Đảng Tân Việt. Trong vòng 6 tháng, ba tổ chức cộng sản lần lượt ra đời chứng tỏ những điều kiện thành lập Đảng Cộng sản ở nước ta đã chín muồi.

Những người cộng sản của ba tổ chức này đã đánh giá nhau không đúng và chưa nhận thức được hiện tượng phân tán và chia rẽ về tổ chức của phong trào cộng sản sẽ dẫn đến những nguy cơ gì. Vì vậy, khắc phục sự phân tán và chia rẽ về tổ chức đó là nhiệm vụ cấp bách trước mắt của tất cả những người cộng sản, cũng là đòi hỏi khẩn thiết của cách mạng nước ta lúc bấy giờ.

Trong tài liệu gửi những người cộng sản Đông Dương ngày 27-10-1929 quốc tế cộng sản nêu rõ: "Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông Dương".

2. Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Đáp ứng đòi hỏi của phong trào cách mạng trong nước, Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập các đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng bàn việc hợp nhất.

Mùa xuân năm 1930, từ ngày 6-1 đến ngày 7-2 Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản họp ở bán đảo Cửu Long (Hương Cảng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, với sự tham gia của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng, hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng và hai đại biểu ngoài nước. Hội nghị đã nhất trí thành lập một Đảng lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng, tháng 9-1960, đã quyết định lấy ngày 3-2-1930 là ngày kỷ niệm thành lập Đảng). Tổng số đảng viên của Đảng cho tới hội nghị hợp nhất là 565 đồng chí với 40 chi bộ.

Hội nghị thông quaChánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đó là Cương lĩnh và Điều lệ đầu tiên của Đảng. Nội dung chủ yếu của các văn kiện trên là:

- Cách mạng Việt Nam là "tư sản dân quyền cách mạng"... và "thổ địa cách mạng"... để đi tới xã hội cộng sản.
- Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.
- Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng...) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh.
- Quốc hữu hoá toàn bộ đồn điền và đất đai của bọn đế quốc và địa chủ phản cách mạng Việt Nam chia cho nông dân nghèo.
- Tổ chức quân đội công nông.
- "Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c.m thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c.m (Đảng Lập hiến, v.v.) thì phải đánh đổ... Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thoả hiệp, trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp".

- "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng".

Văn kiện Hội nghị thành lập Đảng đã phát triển thêm một số luận điểm quan trọng của tác phẩm Đường Cách mệnh.

Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24-2-1930 Đông Dương Cộng sản Liên đoàn cũng hợp nhất vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hội nghị hợp nhất đã quy tụ ba tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam theo một đường lối chính trị đúng đắn, dẫn đến sự thống nhất về tư tưởng và hành động của phong trào cách mạng cả nước, tạo nên truyền thống đoàn kết của Đảng và dân tộc từ đó về sau.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, là cơ sở dẫn đến những thắng lợi oanh liệt và những bước nhảy vọt lớn trong lịch sử dân tộc trong những năm sau.

Đánh giá về sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

"Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng".

Quá trình vận động thành lập Đảng cho Đảng ta một số kinh nghiệm: Độc lập tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường, tổng kết thực tiễn, kết hợp tinh hoa của nhân loại với tinh hoa của dân tộc là những yếu tố giúp Nguyễn Ái Quốc tìm được con đường cứu nước đúng đắn, đặt tiền lệ cho truyền thống độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng về sau.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ với phong trào công nhân mà với cả toàn bộ phong trào yêu nước, là sản phẩm của sự thống nhất lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc, phù hợp với đặc điểm xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam.

Sự đoàn kết thống nhất của đội tiên phong cách mạng tức Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định sự đoàn kết thống nhất phong trào cách mạng cả nước. Sự thống nhất cao ở Hội nghị 3-2 là do uy tín và năng lực tổ chức của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, dựa trên cơ sở các tổ chức cộng sản đều nhận thức rõ tầm quan trọng của việc hợp nhất đặt lợi ích chung của cách mạng và của đất nước lên trên hết.

(Nguồn: Báo điện tử ĐCS)
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top