Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
"Cứu dân đã quyết lời thề
Văn thần võ tướng ứng kỳ đều ra
Tiêu Tư nghe gió chạy xa
Đông Tây muôn dặm quan hà quét thanh
Vạn Xuân mới đặt quốc danh
Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long Biên"
(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Đại Nam quốc sử diễn ca)
Lý Nam Đế
1. TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC TỪ SAU THẤT BẠI CỦA BÀ TRIỆU ĐẾN GIỮA THẾ KỶ VI
Nhà Ngô đàn áp được lực lượng nghĩa binh của Bà Triệu nhưng cũng ngay sau đó, chính sự của nhà Ngô bắt đầu rối ren. Năm 252 (tức là chỉ mới 4 năm sau khi Bà Triệu qua đời). Ngô Đại đế (182-252) cũng mất (tức Tôn Quyền, ở ngôi vương 8 năm (221-228), ở ngôi hoàng đế 23 năm (229-252), mất năm 252, hưởng thọ 70 tuổi). Con út của Ngô Đại đế là Tôn Lượng (243-260) (tức Ngô Cối Kê, lên ngôi lúc 11 tuổi, ở ngôi vương 6 năm (252-258), bị quyền thần là Thừa tướng Tôn Sâm phế truất, phẫn chí mà tự tử vào năm 260, hưởng dương 17 tuổi) được lên nối ngôi nhưng mới được 6 năm đã bị phế. Tôn Lượng phẫn chí mà tự tử. Thay thế cho Tôn Lượng là Tôn Hưu (235-264) (tức Ngô Cảnh đế, con trai thứ sáu của Tôn Quyền và là anh ruột của Tôn Lượng. Tôn Hưu ở ngôi 6 năm (258-264), mất năm 264, hưởng dương 29 tuổi), nhưng Tôn Hưu cũng chỉ là con bài của bọn quyền thần mà cầm đầu là Thừa tướng Tôn Sâm. Đời trị vì thứ tư (cũng là đời cuối cùng của nhà Ngô) - Ngô Mạt đế - chỉ còn là hư vị. Nhà Ngô vẫn tiếp tục tồn tại cho đến năm 280 nhưng không phải vì nhà Ngô mạnh mà là vì cả 3 nước cùng tham gia cuộc hỗn chiến Tam Quốc quyết liệt đương thời đều đã hoàn toàn kiệt quệ và đã lần lượt bị diệt vong (Nước Ngụy của họ Tào thành lập năm 220, bị diệt vong vào năm 265. Nước Thục của họ Lưu thành lập năm 221, bị diệt vong vào năm 263).
Nền thống nhất Trung Quốc dưới thời nhà Tấn thực ra cũng chỉ rất tạm bợ và mong manh. Nội chiến chẳng những không hễ bị dập tắt mà vẫn còn liên tiếp bùng nổ dữ dội ở khắp mọi nơi, sử sách của Trung Quốc gọi đó là thời Thập lục quốc (thời tồn tại và tranh giành của 16 nước, gồm:
1. Tiền Triệu (304-329); 2. Thành Hán (304-347); 3. Tiền Lương (314-376);
4. Hậu Triệu (319-351); 5. Tiền Yên (337-370); 6. Tiền Tần (350-394);
7. Hậu Tần (384-417); 8. Hậu Yên (384-407); 9. Tây Tần (385-431);
10. Hậu Lương (386-403); 11. Nam Lương (397-414); 12. Nam Yên (398-410);
13. Tây Lương (400-421); 14. Hạ (407-431); 15. Bắc Yên (407-436); 16. Bắc Lương (401-439).
Nói khác hơn, nhà Tấn bất quá chỉ là nước lớn nhất trong số rất nhiều nước của Trung Quốc lúc bấy giờ mà thôi), và thời Thập lục quốc chưa chấm dứt thì một cục diện mới - cục diện Nam-Bắc triều (420-581) - lại diễn ra (Nam triều gồm 4 triều do 4 dòng họ nối nhau trị vì đó là họ Tống (của họ Lưu: 420-479), Tề (của họ Tiêu: 479-502), Lương (cũng của họ Tiêu nhưng khác chi: 502-557) và Trần (của họ Tôn: 557-589). Bắc triều gồm có tất cả 5 triều do 5 dòng họ nối nhau trị vì: Bắc Ngụy (của họ Thát-bạt: 386-534), Đông Ngụy (của họ Nguyên: 534-550), Tây Ngụy (cũng của họ Thát-bạt: 534-557), Bắc Tề (của họ Cao: 550-577) và Bắc Chu (của họ Vũ: 557-581). Thời Nam-Bắc triều, các triều của Nam triều (trừ triều Trần) đã đô hộ nước ta). Trung Quốc lại lâm vào tình cảnh loạn lạc chưa từng thấy. Chính vì sự loạn lạc chưa từng thấy đó, ách đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc ở nước ta có phần được nới lởng hơn. Ở đây, sự nới lỏng bất quá chỉ vì cơ quan đầu não của bọn đô hộ là triều đình trung ương do trải hàng loạt những cuộc xung đột ác liệt triền miên đã không còn đủ tiềm lực để có thể hung hăng như trước nữa.
Để tránh loạn lạc và sự tham tàn của các tập đoàn thống trị đương thời, người Trung Quốc thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau đã tự tìm đường di cư đến nước ta ngày một đông. Qua họ, tin tức về sự bất ổn của Trung Quốc (nhất là thời Thập lục quốc) đã dồn dập truyền đến với bọn quan quân đô hộ và chính điều này đã góp phần quan trọng vào quá trình thúc giục chúng thực hiện kế sách xoa dịu nhằm dễ bễ tiến hành việc xây dựng mưu đồ cát cứ. Một số nhà sử học gọi đây là lực ly tâm chính trị. Các chính quyền đô hộ trước sau tuy có khác nhau, nhưng tất cả đều gặp nhau ở ý định khôn khéo tìm cách tách dần ra khỏi triều đình trung ương để mặc sức tự tung tự tác và thủ lợi cho riêng thân. Nói cách khác, chúng có phần nới tay hơn không phải vì chúng bỗng dưng trở nên nhân đức hơn mà là vì tự xét thấy có những lý do chủ quan khiến chúng chưa cần thiết (và cũng chưa thể) xiết quá chặt. Tuy không phải là tất cả, nhưng một phần cội nguồn của sự lắng dịu tạm thời trong phong trào đấu tranh giành độc lập từ sau thất bại của Bà Triệu (năm 248) cho đến gần giữa thế kỷ VI có lẽ là ở đây. Nhưng quân cướp nước bao giờ cũng là quân cướp nước, trong một số những hoàn cảnh đặc biệt nào đó, chúng có thể tạm thời từ bỏ một số tham vọng nhất định nào đó, ngoại trừ chính sách vơ vét của cải và thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng. Đó chính là lý do chủ yếu và sâu xa nhất dẫn đến sự bột phát của một số phong trào đấu tranh đương thời.
Bấy giờ, ở khắp 3 quận Nhật Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ, các cuộc vùng dậy của nhân dân tuy vẫn tiếp tục nổ ra nhưng nhìn chung thì quy mô không lớn và ảnh hưởng cũng không mạnh mẽ. Đó là chưa nói rằng, đặc trưng của các cuộc chống đối chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ trong giai đoạn lịch sử cụ thể này là rất phong phú và đa dạng, việc nghiên cứu để xác định sao cho thật đúng tính chất của từng phong trào cũng không phải là dễ dàng. Tuy nhiên, lần theo những trang ghi chép của thư tịch cổ, có thể kể tên một số cuộc khởi nghĩa tương đối nổi bật sau đây:
2. ĐÔI DÒNG VỀ TIỂU SỬ CỦA LÝ BÔN TRƯỚC NGÀY KHỞI NGHĨA
Tác phẩm đầu tiên của lịch sử sử học Việt Nam chép về Lý Bôn là Đại Việt sử lược (tức Việt sử lược - tác phẩm khuyết danh. Tham khảo bản dịch của Nguyễn Gia Tường do Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính và viết lời bạt. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1992), nhưng tác phẩm này chỉ chép về Lý Bôn vỏn vẹn có mấy dòng sơ sài và Lý Bôn được chép là Nguyễn Bôn (Do được viết vào thời Trần nên Đại Việt sử lượccũng như nhiều tác phẩm đương thời khác đã tuân theo điển lệ riêng của nhà Trần là đổi tất cả những người họ Lý thành họ Nguyễn). Như một sự cố gắng bù đắp đầy thiện chí và chân tình, các tác giả của bộ Đại Việt sử ký toàn thư đã dành hẳn một kỷ (Tiền Lý kỷ - kỷ nhà Tiền Lý) để chép về Tiền Lý Nam Đế tức Lý Bôn. Về nguồn gốc xuất thân của Lý Bôn, sách này viết:
"Hoàng Đế họ Lý, huý là Bôn, người Long Hưng, tổ tiên là người Bắc, cuối thời Tây Hán vì khổ về nạn đánh dẹp nên mới lánh sang đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam" (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, Tiền Lý kỷ, quyển 4, tờ 14-b. Tác giả Nguyễn Khắc Thuần chú thích thêm 4 vấn đề: (1) Để phân biệt với nhân vật Lý Phật Tử là người đã lợi dụng hôn nhân để lật đổ chính quyền của Triệu Việt Vương (tức Triệu Quang Phục) giành quyền đứng đầu nhà nước Vạn Xuân cuối thế kỷ VI, thư tịch cổ thường gọi Lý Bôn là Tiền Lý Nam Đế và Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế. (2) Trong Hán tự, chữ Bôn cũng đọc là Bí, cho nên Lý Bôn cũng được nhiều người đọc là Lý Bí. (3) Khái niệm người Bắc ở đây dùng để chỉ người Trung Quốc, còn người Nam là người Việt. (4) Thời Tây Hán bắt đầu từ năm 206 TCN và chấm dứt vào năm 08, tồn tại trước sau tổng cộng 214 năm với 13 đời nối nhau trị vì. Theo lời ghi chép này thì Long Hưng là quê hương của Lý Bôn, nhưng Long Hưng nay thuộc vùng nào? Điểm lại những công trình đã được công bố, chúng tôi thấy có 2 cách lý giải rất khác nhau, trong đó, có một cách lý giải hoàn toàn sai. Hai cách khác nhau đó là:
1 - Cách thứ nhất cho rằng, Long Hưng là tên phủ, dựa theo ghi chép của Việt điện u linh (Triệu Việt Vương dữ Lý Nam Đế truyện (Truyện Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế). Tác phẩm này được coi là của Lý Tế Xuyên. Về vấn đề này, xin tham khảo thêm Nguyễn Khắc Thuần.-Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, tập 1.-H.: Giáo dục, 2004). Một số nhà nghiên cứu nói rõ thêm rằng, quê Lý Bôn thuộc huyện Thái Bình, phủ Long Hưng, từ đó suy ra, quê hương của Lý Bôn nay thuộc tỉnh Thái Bình. Những người giải thích theo cách này còn dựa vào một căn cứ khác, đó là 2 làng Tử Các và Các Đông (huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình) (Theo Đại Nam nhất thống chí (Nam Định tỉnh) thì vào thời Nguyễn đó là xã Hậu Tái (huyện Thư Trì) và xã Tử Đường (huyện Thụy Anh).) có lập đền thờ Lý Bôn. Cách giải thích này hoàn toàn sai vì huyện Thái Bình xưa không phải là tỉnh Thái Bình ngày nay. Vả chăng, 2 làng Tử Các và Các Đông là 2 làng mới lập, đất 2 làng này thời Lý Bôn là biển, không thể có dân ở, nên không thể nói là quê của Lý Bôn được.
2 - Cách thứ hai thì căn cứ vào một câu ghi chép trong Giả đạm ký rằng: "Từ An Nam (Tống Bình - Hà Nội) qua Giao Chỉ (Từ Liêm - Hoài Đức), Thái Bình, hơn 100 dặm thì đến Phong Châu", những người chủ xướng đã khẳng định rằng: "Vậy Thái Bình thuộc đất Sơn Tây cũ" (Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch sử Việt Nam, tập 1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983.-Tr.404-405). Về cơ bản, chúng tôi đồng ý với cách lý giải thứ hai, tuy nhiên, xin bổ sung thêm một số tư liệu mà chúng tôi khai thác được. Theo chúng tôi thì trong thời Bắc thuộc, việc dựa vào thư tịch cổ của Trung Quốc để xem xét những vấn đề đại loại như thế này là rất cần thiết, trên tinh thần đó, chúng tôi xin giới thiệu thêm một số tư liệu về địa lý học lịch sử có nguồn gốc từ thư tịch cổ của Trung Quốc và Việt Nam như sau:
- Việt điện u linh viết rằng. Lý Bôn quê ở Thái Bình (Thái Bình nhân) chứ không viết là ở huyện Thái Bình (Thái Bình huyện nhân) như lời lý giải của cả 2 cách nói trên. Trong Tân Đường Thư, Âu Dương Tu và Tống Kỳ (Trung Quốc) có nói đến một bức thành cũ có tên là thành Thái Bình, theo đó thì thành này nằm trong địa phận huyện Phong Khê. Huyện này chỉ mới được thành lập vào đầu Công nguyên, trên cơ sở chia đặt lại huyện Tây Vu (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư (Mã Viện truyện) chép rằng, chính Mã Viện đã tâu xin triều đình Hán Quang Vũ (25-57) chia đất huyện Tây Vu làm 2 huyện mới là Vọng Hải và Phong Khê). Như vậy là thành cũ Thái Bình trong địa phận của huyện Phong Khê (mới tách ra từ huyện Tây Vu) khác hẳn với Thái Bình là tên của một trong số 10 huyện của quận Giao Chỉ thời thuộc Hán (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Sách đã dẫn). Sau khi phân tích thêm ghi chép của một số thư tịch cổ Trung Quốc, chúng tôi cho rằng, đất đai huyện Thái Bình xưa nay chủ yếu thuộc tỉnh Thái Bình, nhưng đó là Thái Bình huyện, không phải Thái Bình nhân là Lý Bôn.
- Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), chính quyền trung ương của họ Ngô bị khủng hoảng nghiêm trọng, các thế lực địa phương nhân đó nổi lên ở khắp nơi, đất nước lâm vào cảnh nội chiến loạn ly chưa từng thấy. Bấy giờ, cả nước có 12 sứ quân (sử gọi là loạn 12 sứ quân) và một trong số 12 sứ quân là Nguyễn Khoan. Sứ quân Nguyễn Khoan xưng là Nguyễn Thái Bình và nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, rất có thể Thái Bình là tên thành cũ Thái Bình như đã nói ở trên. Xưa, việc lấy tên quê làm hiệu cho mình là một hiện tượng rất phổ biến. Nay ở xã Minh Tân, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (Xã này thời Nguyễn thuộc làng Vĩnh Mộ, huyện Vĩnh Lạc, trấn Sơn Tây) vẫn còn đền thờ của Sứ quân Nguyễn Khoan. Ắt hẳn Sứ quân Nguyễn Khoan đúng là một trong những Thái Bình nhân, tức là đồng hương với Lý Bôn. Thực ra, Sứ quân Nguyễn Khoan còn được thờ ở làng Vĩnh Mỗ (nay thuộc xã Cao Xá, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ), nhưng đây là khu căn cứ chủ yếu của Sứ quân Nguyễn Khoan chứ không phải là quê hương của ông.
Nói dòng họ Lý Bôn "được 7 đời thì thành người Nam" vì có đến 3 thực tế rất đáng lưu ý. Một là chưa từng thấy tài liệu nào nói rằng, Lý Bôn nhận mình là người phương Bắc. Hai là các thư tịch cổ của Trung Quốc (Ví dụ: Diêu Tư Liêm. Lương Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán; Diêu Tư Liêm. Trần Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán) đều gọi Lý Bôn là “Giao Châu thổ nhân" (người đất Giao Châu) hoặc là “Giao Châu thổ hào" (hào trưởng đất Giao Châu). Và thứ ba, quan trọng nhất vẫn là ở chỗ Lý Bôn đã cống hiến tất cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cuộc chiến đấu một mất một còn vì nền độc lập và tự chủ của nước Nam. Đầu mùa xuân năm 544, bản thân việc ông xưng là Lý Nam Đế cũng đã tự chứng tỏ rất rõ điều này.
Thời Lý Bôn là thời các tập đoàn phong kiến thống trị Trung Quốc ra sức xâu xé lẫn nhau, cục diện Nam-Bắc triều đang trong giai đoạn quyết liệt nhất. Bấy giờ, chính quyền Nam triều trực tiếp đô hộ nước ta là nhà Lương (502-557). Lương Vũ đế (502-549) (Hoàng đế đầu tiên của nhà Lương, tên thật là Tiêu Diễn, sinh năm 464, mất năm 549, hưởng thọ 85 tuổi) chính là cha đẻ của chế độ sĩ tộc rất khắc nghiệt, theo đó thì dân trong khắp thiên hạ được chia thành 2 tầng lớp có địa vị rất khác biệt nhau. Thứ nhất là danh gia vọng tộc - nghiễm nhiên được xếp vào tầng lớp thượng lưu và được nắm quyền điều khiển vận mệnh xã hội. Thứ hai là hàn môn, gồm tất cả những người, bất kể giàu nghèo, chỉ biết là trong gia tộc của họ không có ai được xếp vào hàng tiên hiền. Chế độ sĩ tộc đã loại bỏ không biết bao nhiêu người thực sự giàu tài năng ra khỏi guồng máy nhà nước đương thời chỉ vì họ không thuộc tầng lớp danh gia vọng tộc. Bản thân Lý Bôn dù xuất thân là một trong những hào trưởng có uy tín và có ảnh hưởng xã hội khá lớn, tổ tiên 7 đời trước đó lại là người Trung Quốc, vẫn bị coi là dân hàn môn nên chỉ được bổ làm Giám quân ở châu Cửu Đức. Bấy giờ, Giám quân là chức rất nhỏ, chỉ trông coi việc cấp phát lương ăn cho quân đội trong một châu. Cửu Đức là vùng Hà Tĩnh ngày nay (Có lẽ vì sinh thời, Lý Bôn (tức Lý Bí) từng giữ chức Giám quân ở đây nên dân Hà Tĩnh đến nay vẫn còn huý chữ Bí, họ thường gọi quả bí là quả bù (tức quả bầu), quả bí đỏ thì gọi là quả bù rợ), châu này vừa xa lại vừa nhỏ, cho nên, chức Giám quân của châu Cửu Đức không thể sánh với chức Giám quân ở các châu khác. Chán nản với sự bất công và căm ghét sự tàn bạo của nhà Lương, Lý Bôn đã từ quan rồi trở vế quê nhà và tại đây ông đã âm thầm chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa lớn.
3. CHIÊU TẬP HÀO KIỆT BỐN PHƯƠNG
Muốn thay đổi được thời vận, trước hết phải có người tài, nói theo cách nói của người xưa là phải quy tụ cho bằng được các bậc anh hùng hào kiệt trong khắp thiên hạ. Nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc về điều này, ngay sau khi từ bỏ chức Giám quân Cửu Đức trở về nguyên quán, Lý Bôn đã ngày đêm bí mật chiêu tập các đấng anh tài và ông đã thành công. Dưới đây là một vài nhân vật tiêu biểu:
Đại tướng Phạm Tu
Có mặt bên cạnh Lý Bôn ngay trong buổi đầu của quá trình chuẩn bị còn có nhiều bậc hào kiệt khác, nhưng, tiêu biểu hơn cả, gắn bó chặt chẽ và lập được nhiều công lao hơn cả vẫn là những gương mặt tiêu biểu vừa kể ở trên. Họ vừa là bạn chiến đấu, vừa là bề tôi trung thành của Lý Bôn. Cuộc đời. và sự nghiệp của họ đã góp phần làm rạng rỡ những trang sử ngoan cường và bất khuất của cả dân tộc ta thời Bắc thuộc.
4. VÙNG LÊN KHUẤY NƯỚC CHỌC TRỜI
Bấy giờ, quan đô hộ cao nhất của nhà Lương ở nước ta (Thứ sử Giao Châu) là Tiêu Tư. Do xuất thân từ hoàng tộc nhà Lương (Thời Nam-Bắc triều, họ Lương là dòng họ lớn nhất và có thế lực nhất. Đại diện đầu tiên của dòng họ Tiêu là Tiêu Đạo Thành (tức là Tề Cao đế: 479-482) đã thành lập ra nhà Tề (479-502) - triều đại thứ hai của Nam triều. Tuy không phải trực hệ nhưng người khai sinh ra nhà Lương (502-557) - triều đại thứ ba của Nam triều - là Tiêu Diễn (tức Lương Vũ đế: 502-549) cũng thuộc họ Tiêu. Nhân vật Tiêu Tư - Thái thú Giao Châu lúc này là bà con cùng họ tộc của Lương Vũ đế), Tiêu Tư luôn cậy thế và ra sức ức hiếp dân lành. Sử cũ ghi rõ: “Thứ sử Giao Châu - Vũ Lâm hầu là Tiêu Tư - vì hà khắc tàn bạo nên để mất hết cả lòng người” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 15-a). Trong Lương Thư và Trần Thư (Súc Ấn Bách Nạp bản. Thương Vụ ấn Thư Quán); Diêu Tư Liêm (Trung Quốc) cũng viết tương tự như vậy). Về khách quan, đó chính là một trong những điều kiện rất thuận lợi, khiến Lý Bôn có thể triệt để tận dụng, nhanh chóng tập hợp lực lượng và thực hiện thành công kế hoạch khởi nghĩa của mình.
Sau một thời gian âm thầm chuẩn bị rất công phu và đặc biệt là sau khi đã được đông đảo các bậc anh hùng hào kiệt bốn phương dốc lòng ủng hộ, tháng chạp năm Tân Dậu (tức là tháng 1/542 dương lịch), từ quê nhà của mình, Lý Bôn đã khảng khái kêu gọi cả nước đồng tâm hiệp lực đâu tranh chống ách đô hộ của nhà Lương. Lời kêu gọi này của Lý Bôn đã nhanh chóng được nhân dân khắp các địa phương trong toàn cõi Giao Châu nhiệt liệt hưởng ứng. Chính sử của Trung Quốc chép rằng: “Lý Bôn liên kết với hào kiệt các châu cùng làm phản" (Diêu Tư Liêm. Lương Thư. Súc Ấn Bách Nạp bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Tất nhiên, qua lăng kính của các sử gia Trung Quốc thì Lý Bôn bị coi là “làm phản", ngược lại, từ sâu thẳm cõi lòng đầy ắp sự ngưỡng mộ của các thế hệ nhân dân yêu nước thì đây thực sự là một cuộc vùng lên khuấy nước chọc trời do Lý Bôn khởi xướng và lãnh đạo.
Chỉ trong vòng 3 tháng (từ tháng 1-3/542), toàn bộ chính.quyền đô hộ của nhà Lương trên khắp Giao Châu đã bị sụp đổ. Thứ sử Giao Châu, tước Vũ Lâm hầu là Tiêu Tư vội vã đem thật nhiều vàng bạc nạp cho Lý Bôn rồi hoảng hốt chạy thục mạng về Việt Châu (phía bắc Hợp Phố, Trung Quốc). Trị sở của chính quyền đô hộ nhà Lương ở Long Biên nhanh chóng thuộc về nghĩa quân Lý Bôn. Sau khi lật nhào chính quyền đô hộ, nghĩa quân Lý Bôn còn tiếp tục anh dũng chiến đấu và đã giành được hai thắng lợi rất làm một ở phía Bắc và một ở phía Nam.
- Thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh.
- Thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng.
Ngoài hai viên thứ sử là Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng nói trên, hai tôn thất khác của nhà Lương là Tiêu Tư (Thứ sử Giao Châu vừa thua trận chạy về) và Tiêu Ánh (Thứ sử Quảng Châu) cũng đã góp phần rất đắc lực vào quá trình chuẩn bị. Nhưng Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng vì sợ oai danh của Lý Bôn, nên cứ dùng dằng mãi chứ không chịu xuất quân. Cuối cùng, do không thể nào chịu đựng nổi sự thúc ép của Tiêu Ánh, nên Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng quyết định sẽ đem đại binh đi đàn áp Lý Bôn vào tháng 1 năm 543.
Giặc chần chờ và lo lắng bao nhiêu thì Lý Bôn và lực lượng nghĩa sĩ của ông lại chủ động và dũng cảm bấy nhiêu. Đầu năm 543, khi giặc chưa kịp ra khỏi lãnh thổ của nhà Lương thì Lý Bôn đã bất ngờ cho quân tràn lên, ồ ạt đánh thẳng vào đại binh của Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng ở Hợp Phố. Ngay trong trận đọ sức đầu tiên này, Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đã bị đại bại, quân sĩ “mười phần chết đến bảy tám phần" (Diêu Tư Liêm. Lương Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng phải đem tàn quân tháo chạy về Quảng Châu. Tiêu Tư nhân đó dâng sớ về triều đình Lương Vũ đế tâu rằng, bọn Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đã “ngầm liên hệ với giặc nên mới dùng dằng không dám tiến quân" (Diêu Tư Liêm. Lương Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Lương Vũ đế xuống chiếu buộc Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng phải chết.
Chủ động cho quân bất ngờ tấn công ồ ạt vào Hợp Phố là một quyết định rất táo bạo của Lý Bôn. Tự thân quyết định này đã phản ánh rất rõ sự nhạy bén của Lý Bôn về khả năng phân tích và đánh giá tình hình cũng như tiềm lực thực sự của đối phương. Cuộc tấn công vào thẳng đất giặc ở Hợp Phố cũng đã chứng tỏ một năng lực quyết đoán rất sắc bén và chính xác, một sự tự tin rất mãnh liệt của Lý Bôn. Từ trong khói lửa và hào quang chiến thắng của cuộc tấn công này, một tiền lệ lịch sử có ý nghĩa thiết thực và rất lớn lao đã hình thành. Hơn 5 thế kỷ sau (cuối năm 1075), trước khi dũng mãnh đem quân Đại Việt tấn công như vũ bão vào Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm (3 căn cứ quân sự lớn nằm sâu trong lãnh thổ của nhà Tống), rồi giành thắng lợi rất vang dội ở đây, hẳn là danh tướng Lý Thường Kiệt cũng đã từng bao phen suy ngẫm về tiền lệ rất tốt đẹp này. Nhờ thắng lợi của cuộc tấn công vào Hợp Phố, biên giới mặt Bắc kể như đã được tạm yên, Lý Bôn có thêm điều kiện thuận lợi để thực hiện tiếp những nhiệm vụ mới.
Thắng lợi ở mặt trận phía Nam có ý nghĩa rất lớn lao. Từ đây, cả hai mặt Bắc và Nam đều đã được tạm ổn. Từ đây, nền độc lập đã được tái lập. Cũng từ đây, Lý Bôn và những người bạn chiến đấu thân thiết của ông đã có đủ những điều kiện thuận lợi căn bản nhất để có thể thành lập một chính quyền riêng.
5. NƯỚC VẠN XUÂN
“Mùa xuân, tháng giêng, (Lý Bôn) nhân thắng được giặc bèn lên ngôi, xưng là Nam Việt Đế, đặt niên hiệu, lập bá quan, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân (ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy). Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội, lấy Triệu Túc làm Thái Phó, bọn Tinh Thiều và Phạm Tu đều làm tướng văn, tướng võ” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 15-b). Câu ghi chép này của sử cũ tuy rất ngắn gọn nhưng lại hàm chứa những ý nghĩa rất lớn lao và những nội dung cũng chưa từng có trong lịch sử. Xin được chú giải thêm về câu ghi chép ngắn ngủi trên như sau:
- “Mùa xuân, tháng giêng” ở đây là mùa xuân tháng giêng năm Giáp Tý, tức năm 544. Nếu tính theo dương lịch thì đó là tháng 2/544.
- “Nam Việt Đế”, nghĩa là Hoàng Đế của Nam Việt. Ở đây, Nam Việt không phải là quốc hiệu mà chỉ là một cách nói hàm ý đối trọng với Bắc đế (là hoàng đế của phương Bắc mà cụ thể lúc này là Lương Vũ đế). Bản thân Đại Việt sử ký toàn thư trước khi viết là Nam Việt Đế như vừa trích dẫn ở trên cũng đã viết rõ rằng Lý Bôn xưng là Lý Nam Đế (quyển 4, tờ 14-b). Với sự kiện này, Lý Bôn là người đầu tiên của lịch sử nước ta xưng Đế. Trong rất nhiều bản dịch cũng như trong cách diễn đạt phổ biến hiện nay, chúng ta thường dùng chữ Vua nhưng thực ra thì không phải lúc nào cũng đều có thể dùng chữ Vua được. Với tất cả những ai xưng Vương (như An Dương Vương chẳng hạn) thì phải dịch là Vua còn những ai xưng Đế thì chúng ta phải dịch là Hoàng Đế. Trong thực tế lịch sử thì Đế hoặc Hoàng Đế có vị trí cao hơn hẳn Vương là Vua. Hoàng Đế có quyền phong cho nhiều người làm Vua, ngược lại Vua thì phải vâng chịu mọi chiếu chỉ của Hoàng Đế chứ không hề có quyền phong cho ai làm Hoàng Đế cả. Lý Nam Đế là danh xưng kết tinh niềm kiêu hãnh và niềm tự tôn mãnh liệt của cả dân tộc ta. Sự phân định rạch ròi về phạm vi quyền lực giữa Bắc đế với Nam Đế là một trong những vấn đề rất hệ trọng của lịch sử. Chẳng phải ngẫu nhiên mà vào tháng 3 năm 1077, giữa lúc diễn biến của trận quyết chiến chiến lược Như Nguyệt đang ở vào thời điểm gay go ác liệt nhất, Lý Thường Kiệt đã khảng khái viết rằng: Nam quốc sơn hà, Nam Đế cư (Sông núi nước Nam, Hoàng Đế nước Nam ở) (Câu này, tất cả các sách giáo khoa và xã hội xưa nay vốn quen sử dụng lời dịch là: “Sông núi nước Nam, vua Nam ở”; chúng tôi xin được dịch lại cho đúng là: “Sông núi nước Nam, Nam Đế ở”).
- Quốc hiệu Vạn Xuân do Lý Nam Đế đặt ra tuy rất giản dị nhưng lại đồng thời chứa đựng được 3 giá trị nhân văn rất sâu sắc. Thứ nhất, đây là quốc hiệu hoàn toàn mới, vừa thể hiện ý chí xoá bỏ dấu ấn khổ đau và tủi nhục của thời nước mất nhà tan, vừa mang nặng quyết tâm mở ra một trang sử mới cho đất nước. Thứ hai, tự thân hai chữ Vạn Xuân đã kết tinh được khát vọng thái bình cháy bỏng của toàn thể nhân dân ta - một khát vọng hết sức chính đáng và do vậy, phải được trân trọng. Thứ ba, hai chữ Vạn Xuân tuy có hàm chứa niềm tự tôn nhưng rất kín đáo và rất tế nhị, không hề xúc phạm tới bất cứ một dân tộc hay một khối cộng đồng nào.
- Cũng ngay sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Lý Nam Đế đã đặt niên hiệu là Thiên Đức (Cũng có tài liệu nói niên hiệu của Lý Nam Đế là Đại Đức chứ không phải là Thiên Đức. Theo chúng tôi, lý do nhầm lẫn rất có thể là vì trong Hán tự, mặt chữ Thiên với mặt chữ Đại khá giống nhau, chữ Thiên chỉ hơn chữ Đại một gạch ngang ở trên). Đây là một chi tiết rất quan trọng bởi vì mỗi thời có một quan niệm riêng về nền độc lập. Xưa hễ nói tới độc lập là nói đến 3 yếu tố căn bản. Một là phải có một khu vực lãnh thổ riêng và mang một tên gọi riêng (tức là đã quốc hiệu) hay chưa. Hai là khu vực lãnh thổ mang tên gọi riêng đó đã có Hoàng Đế hay chưa. Và ba là Hoàng Đế đã có niên hiệu hay chưa. Lúc bấy giờ, quốc hiệu của ta là Vạn Xuân, Hoàng Đế của ta là Lý Nam Đế còn niên hiệu của ta là Thiên Đức. Về niên hiệu, chúng tôi xin được nêu ra một định nghĩa vắn tắt như sau: Niên hiệu là hiệu của năm do Hoàng Đế đặt ra để người ta căn cứ vào đó mà tính thời gian. Mỗi Hoàng Đế có thể đặt từ một đến nhiều niên hiệu khác nhau. Xưa sử bao giờ cũng chép việc theo niên hiệu, tên năm theo âm lịch chỉ có ý nghĩa phụ thêm, do vậy, bất cứ ai muốn tìm hiểu cổ học cũng đều phải nắm vững hệ thống các niên hiệu. Ví dụ: thấy sử chép là năm Hồng Đức thứ bảy thì phải hiểu ngay rằng đó là năm 1476, thấy một quả chuông đúc vào năm Cảnh Hưng thứ mười thì phải hiểu ngay rằng đó là năm 1749... Có niên hiệu riêng nghĩa là ta có hẳn một mạch tính thời gian riêng, biệt lập với phương Bắc.
- Về kinh đô của nước Vạn Xuân, Đại Nam Quốc sử diễn ca khẳng định là Long Biên. Tại đây, Lý Nam Đế đã cho xây 3 công trình lớn, đó là: Đài Vạn Xuân, Điện Vạn Thọ và Chùa Khai Quốc. Đài Vạn Xuân nay tuy không còn nữa nhưng các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn từng có Lời chua rằng: "Theo sách Thái bình Hoàn vũ ký của Nhạc Sử triều Tống thì ở huyện Long Biên có Đài Vạn Xuân. Đài này do Lý Bôn ở Giao Chỉ xây năm Đại Đồng triều Lương. Nay ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì có hồ Vạn Xuân, cũng gọi là đầm Vạn Phúc. Vậy Đài Vạn Xuân có lẽ ở đấy" (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tiền biên, quyển 4, tờ 3. Đại Đồng là niên hiệu của Lương Vũ đế (502-549). Trong thời gian 47 năm ở ngôi, Lương Vũ đế sử dụng tất cả 7 niên hiệu khác nhau mà Đại Đồng là niên hiệu thứ năm, được dùng từ năm 535-546). Tương tự như Đài Vạn Xuân, Điện Vạn Thọ nay không còn nữa, tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng, Điện Vạn Thọ toạ lạc ở khu vực gần cửa sông Tô Lịch (tức cũng thuộc phạm vi thành phố Hà Nội ngày nay). Điện Vạn Thọ là địa điểm làm việc chính của triều đình Lý Nam Đế. Khác với Đài Vạn Xuân và Điện Vạn Thọ, tuy có trải nhiều lần trùng tu, tôn tạo và chuyển dịch, nhưng Chùa Khai Quốc thì ngày nay vẫn còn. Chùa Khai Quốc lúc đầu được xây ở thôn Yên Hoa (nằm dọc theo đường Yên Phụ ngày nay). Dưới thời Lê Thái Tông (1433-1442), Chùa Khai Quốc được đổi tên là chùa An Quốc. Đến thời Lê Kính Tông (1599-1619), Chùa An Quốc lại được đổi tên là Chùa Trấn Quốc. Bấy giờ, Chùa Trấn Quốc toạ lạc ở ngay bên bãi sông Cái, nơi đất luôn bị sạt lở, vì thế mới được dời về gò Kim Ngư bên bờ Hồ Tây, tức là ở vị trí như hiện nay. Gò Kim Ngư là một trong những thắng cảnh của bờ Hồ Tây, có một đầu liền với đường Thanh Niên (quận Ba Đình, Hà Nội). Chùa Khai Quốc xưa (tức Chùa Trấn Quốc hiện nay) toạ lạc trên gò Kim Ngư là một trong những ngôi chùa rất nổi tiếng của cả nước. Việc Lý Nam Đế cho xây Chùa Khai Quốc ngay khi vừa lên ngôi đã tỏ rõ rằng Phật giáo đương thời đã có vị trí rất quan trọng trong đời sống tư tướng của xã hội ta.
Chùa Trấn Quốc (Hà Nội) được xây từ thời Lý Nam Đế
6. NỖI ĐAU THẤT TRẬN Ở ĐIỂN TRIỆT
Tháng 6 năm 545 (tính theo âm lịch), triều đình nhà Lương quyết định huy động đại binh sang đàn áp Lý Nam Đế. Tổng chỉ huy lực lượng của nhà Lương lần này là tướng Dương Phiêu (Chữ Phiêu cũng đọc là Thiêu, vì thế, Dương Phiêu còn được đọc là Dương Thiêu). Trước khi xuất quân, Dương Phiêu đã được triều đình Lương Vũ đế phong làm Thứ sử Giao Châu và điều này có nghĩa là nếu thắng trận, Dương Phiêu sẽ nắm quyền đứng đầu chính quyền đô hộ nước Vạn Xuân. Trong bộ chỉ huy cuộc Nam chinh này, ngoài Dương Phiêu còn có 2 nhân vật cao cấp khác là Tư mã Trần Bá Tiên và Thứ sử Định Châu là Tiêu Bột.
Sau khi Gia Ninh thất thủ, Lý Nam Đế lui binh về Tân Xương (nay là vùng Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), dựa vào núi rừng hiểm trở và sự giúp đỡ của nhân dân vùng này để tìm mọi cách khôi phục lại lực lượng. Chưa đầy 8 tháng sau, Lý Nam Đế chẳng những đã tái lập được các đơn vị bộ binh mà còn xây dựng thêm được cả một đơn vị thuỷ binh khá hùng mạnh. Tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế quyết định rút khỏi căn cứ Tân Xương, đem tất cả 2 vạn quân thuỷ bộ của mình về đóng ở khu vực hồ Điển Triệt.
“Hồ Điển Triệt (tên nôm là Đầm Miêng thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú, nay hồ này thuộc địa phận huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) nằm bên bờ sông Lô, cách Bạch Hạc khoảng 15 km về phía Bắc. Hiện nay, hồ còn rộng khoảng 50 mẫu, dài khoảng 1 km, khúc rộng nhất khoảng 400 m, có 7 ngách lớn và nhiều ngách nhỏ, mùa khô nước vẫn còn sâu 3-4 m. Hồ cách sông Lô 300 m, xưa có một con ngòi thông ra sông này. Ba phía Đông, Nam, Bắc là một dải đồi cao gồm mấy chục quả gò, cộng hơn 300 mẫu; phía Tây có một gân đồi thấp, chỉ cao hơn mặt nước chùng 2-3 m, bị đứt đoạn một khoảng rộng 180 m, làm thành cửa hồ, thông với vùng chiêm trũng, chằm lầy rộng hàng ngàn mẫu. Theo truyền thuyết dân gian, nghĩa quân Lý Nam Đế đã đóng trại trên dải đồi này, thuyền bè thả đầy mặt hồ. Có một quả đồi gọi là Thành Dền, hay Thành Lĩnh, tương truyền là bản doanh của triều đình Vạn Xuân. Một quả đồi cao nhất ở sát bờ hồ, mang tên Đồi Vua ngự, từ đấy có thể nhìn rõ Bạch Hạc, Việt Trì. Tương truyền, Lý Nam Đế hàng ngày lên đó quan sát địch tình ở cửa sông Lô (sông Lu hay sông Lâu, theo sử cũ), phía Bạch Hạc, và đôn đốc quân sĩ đẽo thuyền độc mộc. Quanh hồ có nhiều bến, như bến Chảy, nhân dân lưu truyền là bến vua tắm, nước rất trong, bến Bêu, nơi đậu các thuyền chiến độc mộc... Chỉ có một đường độc đạo từ bờ sông Lô đi vào phía Bắc hồ.
Hiện nay 4 thôn thuộc xã Tứ Yên đều ở trên dải đồi đó, cả 4 thôn đều có đền thờ Lý Nam Đế, Lý Thiên Bảo (anh ruột Lý Nam Đế), và Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Đê) cùng các tướng sĩ khác và hàng năm có tục bơi chải" (Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch sử Việt Nam, tập 1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983.-Tr.412-413).
Như vậy là từ tháng 10 năm 546, hồ Điển Triệt trở thành khu căn cứ mới và rất lợi hại của Lý Nam Đế. Nơi đây, thuỷ binh và bộ binh có thể dễ dàng phối hợp và hỗ trợ cho nhau, tạo nên một thế thủ khá vững chắc. Cũng từ tháng 10 năm 546, sĩ khí của quân đội Lý Nam Đế ngày một cao và điều đó đã khiến cho quân Lượng tỏ ra ngần ngại khi định tổ chức tấn công vào căn cứ hổ Điển Triệt. Tuy nhiên, tướng tiên phong của quân Lương là Trần Bá Tiên - một tên dày dạn kinh nghiệm trận mạc - lại rất quyết đoán:
“Quân Lương lo sợ, cứ dùng dằng đóng lại ở cửa hồ chứ không dám tiến vào. Trần Bá Tiên nói với các tướng rằng:
- Quân ta ở đây đã khá lâu, tướng sĩ đều mỏi mệt, lại đang ở vào thế cô, không có đường tiếp viện. Nay nếu tiến sâu vào đất giặc, đánh mà không thắng thì đừng mong được sống sót, giờ nhân lúc bọn họ vừa thua liền mấy trận, tinh thần chưa vững mà quân Di Lão vốn rất ô hợp, rất dễ đánh giết, chính là lúc ta nên mau ra tay liều chết, cố sức mà đánh lấy. Không cớ gì cứ phải dừng lại để lỡ mất thời cơ.
Các tướng đều im lặng, không ai hưởng ứng. Đêm khuya hôm ấy nước sông lên nhanh, dâng cao đến 7 thước, đổ tràn vào hồ. (Trần) Bá Tiên đem quân bản bộ theo dòng nước chảy xiết mà tiến vào, đánh trống reo hò ẫm ĩ. (Lý Nam) Đế vì không hề phòng bị trước nên quân bị vỡ, phải lui về đóng giữ động Khuất Lão” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 16-b và 17-a). Tác giả Nguyễn Khắc Thuần chú thích thêm hai chi tiết nhỏ: Một là hai chữ Di Lão mà Trần Bá Tiên nói đến ở đây là để chỉ chung tất cả người Việt. Hai là động Khuất Lão (cũng đọc là Khuất Lạo hay Khuất Liệu) nay thuộc địa phận 2 xã Cổ Tiết và Văn Lang, huyện Tam Thanh, tỉnh Phú Thọ).
Sau trận thua này, trước khi rút lui về động Khuất Lão, Lý Nam Đế đã trao hết binh quyền cho Tả tướng Triệu Quang Phục. Ở Khuất Lão, sức khoẻ của Lý Nam Đế bị suy giảm rất nhanh. Tương truyền là ông bị mù hết cả hai mắt (Dân các làng thuộc 2 xã Cổ Tiết và Văn Lang vẫn thường gọi Lý Nam Đế là ông Vua Mù và mỗi khi tế thì phải xướng tên các lễ vật thật rõ ràng) và qua đời tại động Khuất Lão vào năm 548 (Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 4, Triệu Việt Vương kỷ, tờ 18-a)cho biết, Lý Nam Đế mất vào tháng 3 năm Mậu Thìn (548): “Lý Nam Đế ở động Khuất Lão lâu ngày, nhiễm lam chướng, lâm bệnh mà mất”.
Lý Nam Đế là hiện thân của tư tưởng dùng bạo lực để giành lại chính quyền. Cuộc đời của ông đã tỏ rõ khả năng tập hợp và huy động sức mạnh của cả nước vào quá trình đấu tranh giành chính quyền theo con đường bạo lực. Điếu đáng tiếc là Lý Nam Đế tuy đã chuẩn bị rất công phu nhưng lại thiếu ý thức kiên quyết và triệt để trong đấu tranh, thiếu tinh thần chủ động tấn công giặc. Để cho Tiêu Tư và phần lớn lực lượng của viên quan đô hộ khét tiếng tàn bạo này có thể dễ dàng chạy thoát là biểu hiện rõ nhất của sự thiếu ý thức kiên quyết và triệt để trong đấu tranh. Giặc tuy thua trận đầu nhưng vẫn bảo tồn được lực lượng để có thể bình tĩnh tổ chức các trận phản công và Lý Nam Đế đã phải trả giá quá đắt cho sự thiếu triệt để đó.
Diễn biến chung của các trận tại thành Tô Lịch rồi thành Gia Ninh và đặc biệt là ở hồ Điển Triệt cho thấy tư tưởng phòng ngự đã hoàn toàn chi phối tư duy quân sự của Lý Nam Đế. Nắm chắc được nhược điểm này, Trần Bá Tiên đã lập tức tổ chức tấn công. Thời tiết tuy có góp phần tạo thêm điều kiện thuận lợi cho Trần Bá Tiên nhưng cũng không hề gây bất lợi cho thuỷ quân của Lý Nam Đế. Đã bị tư tưởng phòng ngự chi phối lại còn mất cảnh giác ngay khi biết rõ kẻ thù đang đóng dinh trại ở sát bên cạnh mình và đang lăm le tổ chức tấn công mình thì thất bại của Lý Nam Đế là điều không thể nào tránh khỏi. Không ai dám khẳng định rằng, nếu Lý Nam Đế chủ động tấn công thì nhất định sẽ giành được trọn vẹn thắng lợi, nhưng rõ ràng là nếu biết chủ động tấn công thì ít nhất Lý Nam Đế cũng không thể bị đại bại nhanh chóng và bị tổn thất quá nặng nề.
Nỗi đau thất trận ở hồ Điển Triệt là nỗi đau chung. Hậu thế đời đời kính trọng khí phách và tài năng của Lý Bôn trong toàn bộ quá trình phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật nhào ách đô hộ của nhà Lương cũng như trong thời kỳ kiến tạo nhà nước Vạn Xuân độc lập, song lại rất tiếc khi phải nói rằng, từ sau trận Điển Triệt, vai trò của Lý Bôn kể như đã hoàn toàn chấm dứt.
Về thất bại của Lý Nam Đế, Bảng nhãn Lê Văn Hưu (1230-1322) từng có lời bàn rằng: "Binh pháp có câu: 3 vạn quân đều sức thiên hạ không ai địch nổi. Nay Lý Bôn có 5 vạn quân mà không giữ được nước, thế thì (Lý) Bôn kém tài làm tướng chăng? Xem ra, Lý Bôn cũng là bậc tướng trung tài, ra trận vẫn có thể chế ngự địch quân mà giành phần thắng chứ nào phải là không làm được. Nhưng, do bị hai lần thua rồi chết, ấy là bởi không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh vậy”. (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, Triệu Việt Vương kỷ, tờ 18a-b).
Về những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thất bại của Lý Nam Đế, nếu như Bảng nhãn Lê Văn Hưu cho là bởi Trần Bá Tiên giỏi dùng binh thì Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên lại khẳng định rằng, ngoài việc Lý Nam Đế không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ có tài dùng binh thì một nguyên do cũng rất nổi bật khác là... tại trời: “Tiền Lý Nam Đế dấy binh trừ bạo, thế là thuận vớt đạo trời, vậy mà cuối cùng vì sao lại nên nỗi bại vong? Ấy là vì trời chưa muốn cho nước ta được thịnh trị chăng? Than ôi, nào phải chỉ gặp Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh mà còn gặp lúc nước sông đột ngột dâng lên trợ thế cho giặc, đó há chẳng phải là tại trời hay sao” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, Triệu Việt Vương kỷ, tờ 18-b).
Tuy cuối cùng phải chịu thất bại và phải mất trong lặng lẽ ở động Khuất Lão, nhưng với vạn cổ thử giang sơn (muôn đời sông núi này), tên tuổi của Lý Bôn mãi mãi toả sáng. Cùng với Hai Bà Trưng và Bà Triệu, Lý Bôn đã góp phần khơi dậy ngọn lửa chống Bắc thuộc tiếp tục bùng lên dữ dội.
Sự nghiệp của Lý Bôn là một phần đầy kiêu hãnh của lịch sử.
Các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn đã hoàn toàn có lý khi viết Lời phê rằng: “Nam Đế nhà Lý dù không địch nổi quân Lương, việc lớn tuy không thành nhưng đã biết nhân thời cơ mà vùng dậy, tự làm chủ nước mình, đủ để tạo thanh thế và mở đường cho nhà Đinh, nhà Lý sau này. Việc làm của Lý Nam Đế há chẳng phải là hay lắm đó sao!" (Khâm định Việt sử thông giám cương mục,Tiền biên, quyển 4, tờ 7).
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 4 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.
Văn thần võ tướng ứng kỳ đều ra
Tiêu Tư nghe gió chạy xa
Đông Tây muôn dặm quan hà quét thanh
Vạn Xuân mới đặt quốc danh
Cải nguyên Thiên Đức, đô thành Long Biên"
(Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái. Đại Nam quốc sử diễn ca)
Lý Nam Đế
1. TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC TỪ SAU THẤT BẠI CỦA BÀ TRIỆU ĐẾN GIỮA THẾ KỶ VI
Nhà Ngô đàn áp được lực lượng nghĩa binh của Bà Triệu nhưng cũng ngay sau đó, chính sự của nhà Ngô bắt đầu rối ren. Năm 252 (tức là chỉ mới 4 năm sau khi Bà Triệu qua đời). Ngô Đại đế (182-252) cũng mất (tức Tôn Quyền, ở ngôi vương 8 năm (221-228), ở ngôi hoàng đế 23 năm (229-252), mất năm 252, hưởng thọ 70 tuổi). Con út của Ngô Đại đế là Tôn Lượng (243-260) (tức Ngô Cối Kê, lên ngôi lúc 11 tuổi, ở ngôi vương 6 năm (252-258), bị quyền thần là Thừa tướng Tôn Sâm phế truất, phẫn chí mà tự tử vào năm 260, hưởng dương 17 tuổi) được lên nối ngôi nhưng mới được 6 năm đã bị phế. Tôn Lượng phẫn chí mà tự tử. Thay thế cho Tôn Lượng là Tôn Hưu (235-264) (tức Ngô Cảnh đế, con trai thứ sáu của Tôn Quyền và là anh ruột của Tôn Lượng. Tôn Hưu ở ngôi 6 năm (258-264), mất năm 264, hưởng dương 29 tuổi), nhưng Tôn Hưu cũng chỉ là con bài của bọn quyền thần mà cầm đầu là Thừa tướng Tôn Sâm. Đời trị vì thứ tư (cũng là đời cuối cùng của nhà Ngô) - Ngô Mạt đế - chỉ còn là hư vị. Nhà Ngô vẫn tiếp tục tồn tại cho đến năm 280 nhưng không phải vì nhà Ngô mạnh mà là vì cả 3 nước cùng tham gia cuộc hỗn chiến Tam Quốc quyết liệt đương thời đều đã hoàn toàn kiệt quệ và đã lần lượt bị diệt vong (Nước Ngụy của họ Tào thành lập năm 220, bị diệt vong vào năm 265. Nước Thục của họ Lưu thành lập năm 221, bị diệt vong vào năm 263).
Nền thống nhất Trung Quốc dưới thời nhà Tấn thực ra cũng chỉ rất tạm bợ và mong manh. Nội chiến chẳng những không hễ bị dập tắt mà vẫn còn liên tiếp bùng nổ dữ dội ở khắp mọi nơi, sử sách của Trung Quốc gọi đó là thời Thập lục quốc (thời tồn tại và tranh giành của 16 nước, gồm:
1. Tiền Triệu (304-329); 2. Thành Hán (304-347); 3. Tiền Lương (314-376);
4. Hậu Triệu (319-351); 5. Tiền Yên (337-370); 6. Tiền Tần (350-394);
7. Hậu Tần (384-417); 8. Hậu Yên (384-407); 9. Tây Tần (385-431);
10. Hậu Lương (386-403); 11. Nam Lương (397-414); 12. Nam Yên (398-410);
13. Tây Lương (400-421); 14. Hạ (407-431); 15. Bắc Yên (407-436); 16. Bắc Lương (401-439).
Nói khác hơn, nhà Tấn bất quá chỉ là nước lớn nhất trong số rất nhiều nước của Trung Quốc lúc bấy giờ mà thôi), và thời Thập lục quốc chưa chấm dứt thì một cục diện mới - cục diện Nam-Bắc triều (420-581) - lại diễn ra (Nam triều gồm 4 triều do 4 dòng họ nối nhau trị vì đó là họ Tống (của họ Lưu: 420-479), Tề (của họ Tiêu: 479-502), Lương (cũng của họ Tiêu nhưng khác chi: 502-557) và Trần (của họ Tôn: 557-589). Bắc triều gồm có tất cả 5 triều do 5 dòng họ nối nhau trị vì: Bắc Ngụy (của họ Thát-bạt: 386-534), Đông Ngụy (của họ Nguyên: 534-550), Tây Ngụy (cũng của họ Thát-bạt: 534-557), Bắc Tề (của họ Cao: 550-577) và Bắc Chu (của họ Vũ: 557-581). Thời Nam-Bắc triều, các triều của Nam triều (trừ triều Trần) đã đô hộ nước ta). Trung Quốc lại lâm vào tình cảnh loạn lạc chưa từng thấy. Chính vì sự loạn lạc chưa từng thấy đó, ách đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc ở nước ta có phần được nới lởng hơn. Ở đây, sự nới lỏng bất quá chỉ vì cơ quan đầu não của bọn đô hộ là triều đình trung ương do trải hàng loạt những cuộc xung đột ác liệt triền miên đã không còn đủ tiềm lực để có thể hung hăng như trước nữa.
Để tránh loạn lạc và sự tham tàn của các tập đoàn thống trị đương thời, người Trung Quốc thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau đã tự tìm đường di cư đến nước ta ngày một đông. Qua họ, tin tức về sự bất ổn của Trung Quốc (nhất là thời Thập lục quốc) đã dồn dập truyền đến với bọn quan quân đô hộ và chính điều này đã góp phần quan trọng vào quá trình thúc giục chúng thực hiện kế sách xoa dịu nhằm dễ bễ tiến hành việc xây dựng mưu đồ cát cứ. Một số nhà sử học gọi đây là lực ly tâm chính trị. Các chính quyền đô hộ trước sau tuy có khác nhau, nhưng tất cả đều gặp nhau ở ý định khôn khéo tìm cách tách dần ra khỏi triều đình trung ương để mặc sức tự tung tự tác và thủ lợi cho riêng thân. Nói cách khác, chúng có phần nới tay hơn không phải vì chúng bỗng dưng trở nên nhân đức hơn mà là vì tự xét thấy có những lý do chủ quan khiến chúng chưa cần thiết (và cũng chưa thể) xiết quá chặt. Tuy không phải là tất cả, nhưng một phần cội nguồn của sự lắng dịu tạm thời trong phong trào đấu tranh giành độc lập từ sau thất bại của Bà Triệu (năm 248) cho đến gần giữa thế kỷ VI có lẽ là ở đây. Nhưng quân cướp nước bao giờ cũng là quân cướp nước, trong một số những hoàn cảnh đặc biệt nào đó, chúng có thể tạm thời từ bỏ một số tham vọng nhất định nào đó, ngoại trừ chính sách vơ vét của cải và thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng. Đó chính là lý do chủ yếu và sâu xa nhất dẫn đến sự bột phát của một số phong trào đấu tranh đương thời.
Bấy giờ, ở khắp 3 quận Nhật Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ, các cuộc vùng dậy của nhân dân tuy vẫn tiếp tục nổ ra nhưng nhìn chung thì quy mô không lớn và ảnh hưởng cũng không mạnh mẽ. Đó là chưa nói rằng, đặc trưng của các cuộc chống đối chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ trong giai đoạn lịch sử cụ thể này là rất phong phú và đa dạng, việc nghiên cứu để xác định sao cho thật đúng tính chất của từng phong trào cũng không phải là dễ dàng. Tuy nhiên, lần theo những trang ghi chép của thư tịch cổ, có thể kể tên một số cuộc khởi nghĩa tương đối nổi bật sau đây:
- Khởi nghĩa Lữ Hưng năm 262, chống ách đô hộ của nhà Ngô.
- Khởi nghĩa Triệu Chỉ năm 299 chống ách đô hộ của nhà Tấn.
- Cuộc phản kháng của Lương Thạc từ năm 317-323 đối với triều đình nhà Tấn.
- Cuộc tấn công vào chính quyền đô hộ Giao Châu năm 411 dưới sự chỉ huy của Lư Tuần (vốn là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa ở Trung Quốc, thua trận chạy sang Giao Châu) được đông đảo nhân dân Giao Châu ủng hộ.
- Cuộc tấn công vào chính quyền đô hộ Giao Châu năm 412 dưới sự chỉ huy của Lư Kinh Đạo (vốn là thủ lĩnh của một cuộc khởi nghĩa nông dân ở Trung Quốc, thua trận mà chạy sang Giao Châu) được nhân dân Giao Châu ủng hộ mạnh mẽ.
- Cuộc khởi nghĩa năm 468 do chính Thứ sử Giao Châu (người bản địa) là Lý Trường Nhân cầm đầu.
2. ĐÔI DÒNG VỀ TIỂU SỬ CỦA LÝ BÔN TRƯỚC NGÀY KHỞI NGHĨA
Tác phẩm đầu tiên của lịch sử sử học Việt Nam chép về Lý Bôn là Đại Việt sử lược (tức Việt sử lược - tác phẩm khuyết danh. Tham khảo bản dịch của Nguyễn Gia Tường do Nguyễn Khắc Thuần hiệu đính và viết lời bạt. Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh, 1992), nhưng tác phẩm này chỉ chép về Lý Bôn vỏn vẹn có mấy dòng sơ sài và Lý Bôn được chép là Nguyễn Bôn (Do được viết vào thời Trần nên Đại Việt sử lượccũng như nhiều tác phẩm đương thời khác đã tuân theo điển lệ riêng của nhà Trần là đổi tất cả những người họ Lý thành họ Nguyễn). Như một sự cố gắng bù đắp đầy thiện chí và chân tình, các tác giả của bộ Đại Việt sử ký toàn thư đã dành hẳn một kỷ (Tiền Lý kỷ - kỷ nhà Tiền Lý) để chép về Tiền Lý Nam Đế tức Lý Bôn. Về nguồn gốc xuất thân của Lý Bôn, sách này viết:
"Hoàng Đế họ Lý, huý là Bôn, người Long Hưng, tổ tiên là người Bắc, cuối thời Tây Hán vì khổ về nạn đánh dẹp nên mới lánh sang đất phương Nam, được 7 đời thì thành người Nam" (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, Tiền Lý kỷ, quyển 4, tờ 14-b. Tác giả Nguyễn Khắc Thuần chú thích thêm 4 vấn đề: (1) Để phân biệt với nhân vật Lý Phật Tử là người đã lợi dụng hôn nhân để lật đổ chính quyền của Triệu Việt Vương (tức Triệu Quang Phục) giành quyền đứng đầu nhà nước Vạn Xuân cuối thế kỷ VI, thư tịch cổ thường gọi Lý Bôn là Tiền Lý Nam Đế và Lý Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế. (2) Trong Hán tự, chữ Bôn cũng đọc là Bí, cho nên Lý Bôn cũng được nhiều người đọc là Lý Bí. (3) Khái niệm người Bắc ở đây dùng để chỉ người Trung Quốc, còn người Nam là người Việt. (4) Thời Tây Hán bắt đầu từ năm 206 TCN và chấm dứt vào năm 08, tồn tại trước sau tổng cộng 214 năm với 13 đời nối nhau trị vì. Theo lời ghi chép này thì Long Hưng là quê hương của Lý Bôn, nhưng Long Hưng nay thuộc vùng nào? Điểm lại những công trình đã được công bố, chúng tôi thấy có 2 cách lý giải rất khác nhau, trong đó, có một cách lý giải hoàn toàn sai. Hai cách khác nhau đó là:
1 - Cách thứ nhất cho rằng, Long Hưng là tên phủ, dựa theo ghi chép của Việt điện u linh (Triệu Việt Vương dữ Lý Nam Đế truyện (Truyện Triệu Việt Vương và Lý Nam Đế). Tác phẩm này được coi là của Lý Tế Xuyên. Về vấn đề này, xin tham khảo thêm Nguyễn Khắc Thuần.-Đại cương lịch sử văn hóa Việt Nam, tập 1.-H.: Giáo dục, 2004). Một số nhà nghiên cứu nói rõ thêm rằng, quê Lý Bôn thuộc huyện Thái Bình, phủ Long Hưng, từ đó suy ra, quê hương của Lý Bôn nay thuộc tỉnh Thái Bình. Những người giải thích theo cách này còn dựa vào một căn cứ khác, đó là 2 làng Tử Các và Các Đông (huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình) (Theo Đại Nam nhất thống chí (Nam Định tỉnh) thì vào thời Nguyễn đó là xã Hậu Tái (huyện Thư Trì) và xã Tử Đường (huyện Thụy Anh).) có lập đền thờ Lý Bôn. Cách giải thích này hoàn toàn sai vì huyện Thái Bình xưa không phải là tỉnh Thái Bình ngày nay. Vả chăng, 2 làng Tử Các và Các Đông là 2 làng mới lập, đất 2 làng này thời Lý Bôn là biển, không thể có dân ở, nên không thể nói là quê của Lý Bôn được.
2 - Cách thứ hai thì căn cứ vào một câu ghi chép trong Giả đạm ký rằng: "Từ An Nam (Tống Bình - Hà Nội) qua Giao Chỉ (Từ Liêm - Hoài Đức), Thái Bình, hơn 100 dặm thì đến Phong Châu", những người chủ xướng đã khẳng định rằng: "Vậy Thái Bình thuộc đất Sơn Tây cũ" (Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch sử Việt Nam, tập 1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983.-Tr.404-405). Về cơ bản, chúng tôi đồng ý với cách lý giải thứ hai, tuy nhiên, xin bổ sung thêm một số tư liệu mà chúng tôi khai thác được. Theo chúng tôi thì trong thời Bắc thuộc, việc dựa vào thư tịch cổ của Trung Quốc để xem xét những vấn đề đại loại như thế này là rất cần thiết, trên tinh thần đó, chúng tôi xin giới thiệu thêm một số tư liệu về địa lý học lịch sử có nguồn gốc từ thư tịch cổ của Trung Quốc và Việt Nam như sau:
- Việt điện u linh viết rằng. Lý Bôn quê ở Thái Bình (Thái Bình nhân) chứ không viết là ở huyện Thái Bình (Thái Bình huyện nhân) như lời lý giải của cả 2 cách nói trên. Trong Tân Đường Thư, Âu Dương Tu và Tống Kỳ (Trung Quốc) có nói đến một bức thành cũ có tên là thành Thái Bình, theo đó thì thành này nằm trong địa phận huyện Phong Khê. Huyện này chỉ mới được thành lập vào đầu Công nguyên, trên cơ sở chia đặt lại huyện Tây Vu (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư (Mã Viện truyện) chép rằng, chính Mã Viện đã tâu xin triều đình Hán Quang Vũ (25-57) chia đất huyện Tây Vu làm 2 huyện mới là Vọng Hải và Phong Khê). Như vậy là thành cũ Thái Bình trong địa phận của huyện Phong Khê (mới tách ra từ huyện Tây Vu) khác hẳn với Thái Bình là tên của một trong số 10 huyện của quận Giao Chỉ thời thuộc Hán (Phạm Việp (Trung Quốc). Hậu Hán Thư. Sách đã dẫn). Sau khi phân tích thêm ghi chép của một số thư tịch cổ Trung Quốc, chúng tôi cho rằng, đất đai huyện Thái Bình xưa nay chủ yếu thuộc tỉnh Thái Bình, nhưng đó là Thái Bình huyện, không phải Thái Bình nhân là Lý Bôn.
- Sau khi Ngô Quyền mất (năm 944), chính quyền trung ương của họ Ngô bị khủng hoảng nghiêm trọng, các thế lực địa phương nhân đó nổi lên ở khắp nơi, đất nước lâm vào cảnh nội chiến loạn ly chưa từng thấy. Bấy giờ, cả nước có 12 sứ quân (sử gọi là loạn 12 sứ quân) và một trong số 12 sứ quân là Nguyễn Khoan. Sứ quân Nguyễn Khoan xưng là Nguyễn Thái Bình và nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, rất có thể Thái Bình là tên thành cũ Thái Bình như đã nói ở trên. Xưa, việc lấy tên quê làm hiệu cho mình là một hiện tượng rất phổ biến. Nay ở xã Minh Tân, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc (Xã này thời Nguyễn thuộc làng Vĩnh Mộ, huyện Vĩnh Lạc, trấn Sơn Tây) vẫn còn đền thờ của Sứ quân Nguyễn Khoan. Ắt hẳn Sứ quân Nguyễn Khoan đúng là một trong những Thái Bình nhân, tức là đồng hương với Lý Bôn. Thực ra, Sứ quân Nguyễn Khoan còn được thờ ở làng Vĩnh Mỗ (nay thuộc xã Cao Xá, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ), nhưng đây là khu căn cứ chủ yếu của Sứ quân Nguyễn Khoan chứ không phải là quê hương của ông.
Nói dòng họ Lý Bôn "được 7 đời thì thành người Nam" vì có đến 3 thực tế rất đáng lưu ý. Một là chưa từng thấy tài liệu nào nói rằng, Lý Bôn nhận mình là người phương Bắc. Hai là các thư tịch cổ của Trung Quốc (Ví dụ: Diêu Tư Liêm. Lương Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán; Diêu Tư Liêm. Trần Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán) đều gọi Lý Bôn là “Giao Châu thổ nhân" (người đất Giao Châu) hoặc là “Giao Châu thổ hào" (hào trưởng đất Giao Châu). Và thứ ba, quan trọng nhất vẫn là ở chỗ Lý Bôn đã cống hiến tất cả cuộc đời và sự nghiệp của mình cho cuộc chiến đấu một mất một còn vì nền độc lập và tự chủ của nước Nam. Đầu mùa xuân năm 544, bản thân việc ông xưng là Lý Nam Đế cũng đã tự chứng tỏ rất rõ điều này.
Thời Lý Bôn là thời các tập đoàn phong kiến thống trị Trung Quốc ra sức xâu xé lẫn nhau, cục diện Nam-Bắc triều đang trong giai đoạn quyết liệt nhất. Bấy giờ, chính quyền Nam triều trực tiếp đô hộ nước ta là nhà Lương (502-557). Lương Vũ đế (502-549) (Hoàng đế đầu tiên của nhà Lương, tên thật là Tiêu Diễn, sinh năm 464, mất năm 549, hưởng thọ 85 tuổi) chính là cha đẻ của chế độ sĩ tộc rất khắc nghiệt, theo đó thì dân trong khắp thiên hạ được chia thành 2 tầng lớp có địa vị rất khác biệt nhau. Thứ nhất là danh gia vọng tộc - nghiễm nhiên được xếp vào tầng lớp thượng lưu và được nắm quyền điều khiển vận mệnh xã hội. Thứ hai là hàn môn, gồm tất cả những người, bất kể giàu nghèo, chỉ biết là trong gia tộc của họ không có ai được xếp vào hàng tiên hiền. Chế độ sĩ tộc đã loại bỏ không biết bao nhiêu người thực sự giàu tài năng ra khỏi guồng máy nhà nước đương thời chỉ vì họ không thuộc tầng lớp danh gia vọng tộc. Bản thân Lý Bôn dù xuất thân là một trong những hào trưởng có uy tín và có ảnh hưởng xã hội khá lớn, tổ tiên 7 đời trước đó lại là người Trung Quốc, vẫn bị coi là dân hàn môn nên chỉ được bổ làm Giám quân ở châu Cửu Đức. Bấy giờ, Giám quân là chức rất nhỏ, chỉ trông coi việc cấp phát lương ăn cho quân đội trong một châu. Cửu Đức là vùng Hà Tĩnh ngày nay (Có lẽ vì sinh thời, Lý Bôn (tức Lý Bí) từng giữ chức Giám quân ở đây nên dân Hà Tĩnh đến nay vẫn còn huý chữ Bí, họ thường gọi quả bí là quả bù (tức quả bầu), quả bí đỏ thì gọi là quả bù rợ), châu này vừa xa lại vừa nhỏ, cho nên, chức Giám quân của châu Cửu Đức không thể sánh với chức Giám quân ở các châu khác. Chán nản với sự bất công và căm ghét sự tàn bạo của nhà Lương, Lý Bôn đã từ quan rồi trở vế quê nhà và tại đây ông đã âm thầm chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa lớn.
3. CHIÊU TẬP HÀO KIỆT BỐN PHƯƠNG
Muốn thay đổi được thời vận, trước hết phải có người tài, nói theo cách nói của người xưa là phải quy tụ cho bằng được các bậc anh hùng hào kiệt trong khắp thiên hạ. Nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc về điều này, ngay sau khi từ bỏ chức Giám quân Cửu Đức trở về nguyên quán, Lý Bôn đã ngày đêm bí mật chiêu tập các đấng anh tài và ông đã thành công. Dưới đây là một vài nhân vật tiêu biểu:
- Triệu Quang Thành, Triệu Túc và Triệu Quang Phục. Theo các truyền thuyết dân gian vùng Phú Thọ và Vĩnh Phúc thì Triệu Quang Thành là anh của Triệu Túc còn Triệu Túc là thân sinh của Triệu Quang Phục. Sử cũ cho biết rằng: "Triệu Túc là Tù Trưởng ở huyện Chu Diên” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 15-a. Đất Chu Diên từ thời thuộc Lương đến thời thuộc Tuỳ tương ứng với vùng Hải Dương và Hưng Yên hiện nay). Cả 3 người của gia đình họ Triệu đã đồng lòng sát cánh với Lý Bôn dựng cờ xướng nghĩa. Về sau, sự nghiệp của nhân vật Triệu Quang Thành như thế nào thì chưa được rõ, nhưng hai cha con Triệu Túc thì nhờ lập được rất nhiều công lao nên Triệu Túc được Lý Bôn phong làm Thái phó còn Triệu Quang Phục được phong tới chức Tả Tướng quân.
- Tinh Thiều là người đồng hương của Lý Bôn. Sử cũ viết: “Tinh Thiều giỏi từ chương, từng tự mình tìm đến kinh đô (nhà Lương) ứng thí để xin làm quan. Lại bộ Thượng thư của nhà Lương là Sài Tốn cho rằng, họ Tinh trước đó chưa từng có ai hiển đạt, nên chỉ bổ cho Tinh Thiều chức Quảng Dương môn lang (người gác ở cổng Quảng Dương - NKT). Tinh Thiều lấy làm nhục, bèn trở về làng theo Hoàng Đế (chỉ Lý Bôn - NKT) mưu việc dấy binh" (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 15-a). Kinh đô nhà Lương là Kiến Khang, nay thuộc thành phố Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc). Tinh Thiều là một trong những chỗ dựa tin cậy của Lý Bôn, về sau, nhờ lập được nhiều công lao, ông được Lý Bôn phong tới chức Thái Sư.
- Phạm Tu theo thần tích đền Thanh Liệt thì ông người xã Thanh Liệt, huyện Thanh Trì (Hà Nội), sinh năm 481, mất năm 545, hưởng thọ 64 tuổi. Phạm Tu là một trong những võ tướng xuất sắc của Lý Bôn. Khi khởi nghĩa thành công, ông được Lý Bôn phong làm Thái uý và được cùng với Triệu Túc trông coi việc binh.
Đại tướng Phạm Tu
Có mặt bên cạnh Lý Bôn ngay trong buổi đầu của quá trình chuẩn bị còn có nhiều bậc hào kiệt khác, nhưng, tiêu biểu hơn cả, gắn bó chặt chẽ và lập được nhiều công lao hơn cả vẫn là những gương mặt tiêu biểu vừa kể ở trên. Họ vừa là bạn chiến đấu, vừa là bề tôi trung thành của Lý Bôn. Cuộc đời. và sự nghiệp của họ đã góp phần làm rạng rỡ những trang sử ngoan cường và bất khuất của cả dân tộc ta thời Bắc thuộc.
4. VÙNG LÊN KHUẤY NƯỚC CHỌC TRỜI
Bấy giờ, quan đô hộ cao nhất của nhà Lương ở nước ta (Thứ sử Giao Châu) là Tiêu Tư. Do xuất thân từ hoàng tộc nhà Lương (Thời Nam-Bắc triều, họ Lương là dòng họ lớn nhất và có thế lực nhất. Đại diện đầu tiên của dòng họ Tiêu là Tiêu Đạo Thành (tức là Tề Cao đế: 479-482) đã thành lập ra nhà Tề (479-502) - triều đại thứ hai của Nam triều. Tuy không phải trực hệ nhưng người khai sinh ra nhà Lương (502-557) - triều đại thứ ba của Nam triều - là Tiêu Diễn (tức Lương Vũ đế: 502-549) cũng thuộc họ Tiêu. Nhân vật Tiêu Tư - Thái thú Giao Châu lúc này là bà con cùng họ tộc của Lương Vũ đế), Tiêu Tư luôn cậy thế và ra sức ức hiếp dân lành. Sử cũ ghi rõ: “Thứ sử Giao Châu - Vũ Lâm hầu là Tiêu Tư - vì hà khắc tàn bạo nên để mất hết cả lòng người” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 15-a). Trong Lương Thư và Trần Thư (Súc Ấn Bách Nạp bản. Thương Vụ ấn Thư Quán); Diêu Tư Liêm (Trung Quốc) cũng viết tương tự như vậy). Về khách quan, đó chính là một trong những điều kiện rất thuận lợi, khiến Lý Bôn có thể triệt để tận dụng, nhanh chóng tập hợp lực lượng và thực hiện thành công kế hoạch khởi nghĩa của mình.
Sau một thời gian âm thầm chuẩn bị rất công phu và đặc biệt là sau khi đã được đông đảo các bậc anh hùng hào kiệt bốn phương dốc lòng ủng hộ, tháng chạp năm Tân Dậu (tức là tháng 1/542 dương lịch), từ quê nhà của mình, Lý Bôn đã khảng khái kêu gọi cả nước đồng tâm hiệp lực đâu tranh chống ách đô hộ của nhà Lương. Lời kêu gọi này của Lý Bôn đã nhanh chóng được nhân dân khắp các địa phương trong toàn cõi Giao Châu nhiệt liệt hưởng ứng. Chính sử của Trung Quốc chép rằng: “Lý Bôn liên kết với hào kiệt các châu cùng làm phản" (Diêu Tư Liêm. Lương Thư. Súc Ấn Bách Nạp bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Tất nhiên, qua lăng kính của các sử gia Trung Quốc thì Lý Bôn bị coi là “làm phản", ngược lại, từ sâu thẳm cõi lòng đầy ắp sự ngưỡng mộ của các thế hệ nhân dân yêu nước thì đây thực sự là một cuộc vùng lên khuấy nước chọc trời do Lý Bôn khởi xướng và lãnh đạo.
Chỉ trong vòng 3 tháng (từ tháng 1-3/542), toàn bộ chính.quyền đô hộ của nhà Lương trên khắp Giao Châu đã bị sụp đổ. Thứ sử Giao Châu, tước Vũ Lâm hầu là Tiêu Tư vội vã đem thật nhiều vàng bạc nạp cho Lý Bôn rồi hoảng hốt chạy thục mạng về Việt Châu (phía bắc Hợp Phố, Trung Quốc). Trị sở của chính quyền đô hộ nhà Lương ở Long Biên nhanh chóng thuộc về nghĩa quân Lý Bôn. Sau khi lật nhào chính quyền đô hộ, nghĩa quân Lý Bôn còn tiếp tục anh dũng chiến đấu và đã giành được hai thắng lợi rất làm một ở phía Bắc và một ở phía Nam.
- Chủ động đánh vào Hợp Phố, đập tan quân đàn áp của nhà Lương
- Thứ sử Cao Châu là Tôn Quýnh.
- Thứ sử Tân Châu là Lư Tử Hùng.
Ngoài hai viên thứ sử là Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng nói trên, hai tôn thất khác của nhà Lương là Tiêu Tư (Thứ sử Giao Châu vừa thua trận chạy về) và Tiêu Ánh (Thứ sử Quảng Châu) cũng đã góp phần rất đắc lực vào quá trình chuẩn bị. Nhưng Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng vì sợ oai danh của Lý Bôn, nên cứ dùng dằng mãi chứ không chịu xuất quân. Cuối cùng, do không thể nào chịu đựng nổi sự thúc ép của Tiêu Ánh, nên Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng quyết định sẽ đem đại binh đi đàn áp Lý Bôn vào tháng 1 năm 543.
Giặc chần chờ và lo lắng bao nhiêu thì Lý Bôn và lực lượng nghĩa sĩ của ông lại chủ động và dũng cảm bấy nhiêu. Đầu năm 543, khi giặc chưa kịp ra khỏi lãnh thổ của nhà Lương thì Lý Bôn đã bất ngờ cho quân tràn lên, ồ ạt đánh thẳng vào đại binh của Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng ở Hợp Phố. Ngay trong trận đọ sức đầu tiên này, Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đã bị đại bại, quân sĩ “mười phần chết đến bảy tám phần" (Diêu Tư Liêm. Lương Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng phải đem tàn quân tháo chạy về Quảng Châu. Tiêu Tư nhân đó dâng sớ về triều đình Lương Vũ đế tâu rằng, bọn Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đã “ngầm liên hệ với giặc nên mới dùng dằng không dám tiến quân" (Diêu Tư Liêm. Lương Thư. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán). Lương Vũ đế xuống chiếu buộc Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng phải chết.
Chủ động cho quân bất ngờ tấn công ồ ạt vào Hợp Phố là một quyết định rất táo bạo của Lý Bôn. Tự thân quyết định này đã phản ánh rất rõ sự nhạy bén của Lý Bôn về khả năng phân tích và đánh giá tình hình cũng như tiềm lực thực sự của đối phương. Cuộc tấn công vào thẳng đất giặc ở Hợp Phố cũng đã chứng tỏ một năng lực quyết đoán rất sắc bén và chính xác, một sự tự tin rất mãnh liệt của Lý Bôn. Từ trong khói lửa và hào quang chiến thắng của cuộc tấn công này, một tiền lệ lịch sử có ý nghĩa thiết thực và rất lớn lao đã hình thành. Hơn 5 thế kỷ sau (cuối năm 1075), trước khi dũng mãnh đem quân Đại Việt tấn công như vũ bão vào Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm (3 căn cứ quân sự lớn nằm sâu trong lãnh thổ của nhà Tống), rồi giành thắng lợi rất vang dội ở đây, hẳn là danh tướng Lý Thường Kiệt cũng đã từng bao phen suy ngẫm về tiền lệ rất tốt đẹp này. Nhờ thắng lợi của cuộc tấn công vào Hợp Phố, biên giới mặt Bắc kể như đã được tạm yên, Lý Bôn có thêm điều kiện thuận lợi để thực hiện tiếp những nhiệm vụ mới.
- Quét sạch quân Champa xâm lấn ở phía Nam
Thắng lợi ở mặt trận phía Nam có ý nghĩa rất lớn lao. Từ đây, cả hai mặt Bắc và Nam đều đã được tạm ổn. Từ đây, nền độc lập đã được tái lập. Cũng từ đây, Lý Bôn và những người bạn chiến đấu thân thiết của ông đã có đủ những điều kiện thuận lợi căn bản nhất để có thể thành lập một chính quyền riêng.
5. NƯỚC VẠN XUÂN
“Mùa xuân, tháng giêng, (Lý Bôn) nhân thắng được giặc bèn lên ngôi, xưng là Nam Việt Đế, đặt niên hiệu, lập bá quan, lấy quốc hiệu là Vạn Xuân (ý mong cho xã tắc truyền đến muôn đời vậy). Dựng điện Vạn Thọ làm nơi triều hội, lấy Triệu Túc làm Thái Phó, bọn Tinh Thiều và Phạm Tu đều làm tướng văn, tướng võ” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 15-b). Câu ghi chép này của sử cũ tuy rất ngắn gọn nhưng lại hàm chứa những ý nghĩa rất lớn lao và những nội dung cũng chưa từng có trong lịch sử. Xin được chú giải thêm về câu ghi chép ngắn ngủi trên như sau:
- “Mùa xuân, tháng giêng” ở đây là mùa xuân tháng giêng năm Giáp Tý, tức năm 544. Nếu tính theo dương lịch thì đó là tháng 2/544.
- “Nam Việt Đế”, nghĩa là Hoàng Đế của Nam Việt. Ở đây, Nam Việt không phải là quốc hiệu mà chỉ là một cách nói hàm ý đối trọng với Bắc đế (là hoàng đế của phương Bắc mà cụ thể lúc này là Lương Vũ đế). Bản thân Đại Việt sử ký toàn thư trước khi viết là Nam Việt Đế như vừa trích dẫn ở trên cũng đã viết rõ rằng Lý Bôn xưng là Lý Nam Đế (quyển 4, tờ 14-b). Với sự kiện này, Lý Bôn là người đầu tiên của lịch sử nước ta xưng Đế. Trong rất nhiều bản dịch cũng như trong cách diễn đạt phổ biến hiện nay, chúng ta thường dùng chữ Vua nhưng thực ra thì không phải lúc nào cũng đều có thể dùng chữ Vua được. Với tất cả những ai xưng Vương (như An Dương Vương chẳng hạn) thì phải dịch là Vua còn những ai xưng Đế thì chúng ta phải dịch là Hoàng Đế. Trong thực tế lịch sử thì Đế hoặc Hoàng Đế có vị trí cao hơn hẳn Vương là Vua. Hoàng Đế có quyền phong cho nhiều người làm Vua, ngược lại Vua thì phải vâng chịu mọi chiếu chỉ của Hoàng Đế chứ không hề có quyền phong cho ai làm Hoàng Đế cả. Lý Nam Đế là danh xưng kết tinh niềm kiêu hãnh và niềm tự tôn mãnh liệt của cả dân tộc ta. Sự phân định rạch ròi về phạm vi quyền lực giữa Bắc đế với Nam Đế là một trong những vấn đề rất hệ trọng của lịch sử. Chẳng phải ngẫu nhiên mà vào tháng 3 năm 1077, giữa lúc diễn biến của trận quyết chiến chiến lược Như Nguyệt đang ở vào thời điểm gay go ác liệt nhất, Lý Thường Kiệt đã khảng khái viết rằng: Nam quốc sơn hà, Nam Đế cư (Sông núi nước Nam, Hoàng Đế nước Nam ở) (Câu này, tất cả các sách giáo khoa và xã hội xưa nay vốn quen sử dụng lời dịch là: “Sông núi nước Nam, vua Nam ở”; chúng tôi xin được dịch lại cho đúng là: “Sông núi nước Nam, Nam Đế ở”).
- Quốc hiệu Vạn Xuân do Lý Nam Đế đặt ra tuy rất giản dị nhưng lại đồng thời chứa đựng được 3 giá trị nhân văn rất sâu sắc. Thứ nhất, đây là quốc hiệu hoàn toàn mới, vừa thể hiện ý chí xoá bỏ dấu ấn khổ đau và tủi nhục của thời nước mất nhà tan, vừa mang nặng quyết tâm mở ra một trang sử mới cho đất nước. Thứ hai, tự thân hai chữ Vạn Xuân đã kết tinh được khát vọng thái bình cháy bỏng của toàn thể nhân dân ta - một khát vọng hết sức chính đáng và do vậy, phải được trân trọng. Thứ ba, hai chữ Vạn Xuân tuy có hàm chứa niềm tự tôn nhưng rất kín đáo và rất tế nhị, không hề xúc phạm tới bất cứ một dân tộc hay một khối cộng đồng nào.
- Cũng ngay sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Lý Nam Đế đã đặt niên hiệu là Thiên Đức (Cũng có tài liệu nói niên hiệu của Lý Nam Đế là Đại Đức chứ không phải là Thiên Đức. Theo chúng tôi, lý do nhầm lẫn rất có thể là vì trong Hán tự, mặt chữ Thiên với mặt chữ Đại khá giống nhau, chữ Thiên chỉ hơn chữ Đại một gạch ngang ở trên). Đây là một chi tiết rất quan trọng bởi vì mỗi thời có một quan niệm riêng về nền độc lập. Xưa hễ nói tới độc lập là nói đến 3 yếu tố căn bản. Một là phải có một khu vực lãnh thổ riêng và mang một tên gọi riêng (tức là đã quốc hiệu) hay chưa. Hai là khu vực lãnh thổ mang tên gọi riêng đó đã có Hoàng Đế hay chưa. Và ba là Hoàng Đế đã có niên hiệu hay chưa. Lúc bấy giờ, quốc hiệu của ta là Vạn Xuân, Hoàng Đế của ta là Lý Nam Đế còn niên hiệu của ta là Thiên Đức. Về niên hiệu, chúng tôi xin được nêu ra một định nghĩa vắn tắt như sau: Niên hiệu là hiệu của năm do Hoàng Đế đặt ra để người ta căn cứ vào đó mà tính thời gian. Mỗi Hoàng Đế có thể đặt từ một đến nhiều niên hiệu khác nhau. Xưa sử bao giờ cũng chép việc theo niên hiệu, tên năm theo âm lịch chỉ có ý nghĩa phụ thêm, do vậy, bất cứ ai muốn tìm hiểu cổ học cũng đều phải nắm vững hệ thống các niên hiệu. Ví dụ: thấy sử chép là năm Hồng Đức thứ bảy thì phải hiểu ngay rằng đó là năm 1476, thấy một quả chuông đúc vào năm Cảnh Hưng thứ mười thì phải hiểu ngay rằng đó là năm 1749... Có niên hiệu riêng nghĩa là ta có hẳn một mạch tính thời gian riêng, biệt lập với phương Bắc.
- Về kinh đô của nước Vạn Xuân, Đại Nam Quốc sử diễn ca khẳng định là Long Biên. Tại đây, Lý Nam Đế đã cho xây 3 công trình lớn, đó là: Đài Vạn Xuân, Điện Vạn Thọ và Chùa Khai Quốc. Đài Vạn Xuân nay tuy không còn nữa nhưng các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn từng có Lời chua rằng: "Theo sách Thái bình Hoàn vũ ký của Nhạc Sử triều Tống thì ở huyện Long Biên có Đài Vạn Xuân. Đài này do Lý Bôn ở Giao Chỉ xây năm Đại Đồng triều Lương. Nay ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì có hồ Vạn Xuân, cũng gọi là đầm Vạn Phúc. Vậy Đài Vạn Xuân có lẽ ở đấy" (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tiền biên, quyển 4, tờ 3. Đại Đồng là niên hiệu của Lương Vũ đế (502-549). Trong thời gian 47 năm ở ngôi, Lương Vũ đế sử dụng tất cả 7 niên hiệu khác nhau mà Đại Đồng là niên hiệu thứ năm, được dùng từ năm 535-546). Tương tự như Đài Vạn Xuân, Điện Vạn Thọ nay không còn nữa, tuy nhiên, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng, Điện Vạn Thọ toạ lạc ở khu vực gần cửa sông Tô Lịch (tức cũng thuộc phạm vi thành phố Hà Nội ngày nay). Điện Vạn Thọ là địa điểm làm việc chính của triều đình Lý Nam Đế. Khác với Đài Vạn Xuân và Điện Vạn Thọ, tuy có trải nhiều lần trùng tu, tôn tạo và chuyển dịch, nhưng Chùa Khai Quốc thì ngày nay vẫn còn. Chùa Khai Quốc lúc đầu được xây ở thôn Yên Hoa (nằm dọc theo đường Yên Phụ ngày nay). Dưới thời Lê Thái Tông (1433-1442), Chùa Khai Quốc được đổi tên là chùa An Quốc. Đến thời Lê Kính Tông (1599-1619), Chùa An Quốc lại được đổi tên là Chùa Trấn Quốc. Bấy giờ, Chùa Trấn Quốc toạ lạc ở ngay bên bãi sông Cái, nơi đất luôn bị sạt lở, vì thế mới được dời về gò Kim Ngư bên bờ Hồ Tây, tức là ở vị trí như hiện nay. Gò Kim Ngư là một trong những thắng cảnh của bờ Hồ Tây, có một đầu liền với đường Thanh Niên (quận Ba Đình, Hà Nội). Chùa Khai Quốc xưa (tức Chùa Trấn Quốc hiện nay) toạ lạc trên gò Kim Ngư là một trong những ngôi chùa rất nổi tiếng của cả nước. Việc Lý Nam Đế cho xây Chùa Khai Quốc ngay khi vừa lên ngôi đã tỏ rõ rằng Phật giáo đương thời đã có vị trí rất quan trọng trong đời sống tư tướng của xã hội ta.
Chùa Trấn Quốc (Hà Nội) được xây từ thời Lý Nam Đế
6. NỖI ĐAU THẤT TRẬN Ở ĐIỂN TRIỆT
Tháng 6 năm 545 (tính theo âm lịch), triều đình nhà Lương quyết định huy động đại binh sang đàn áp Lý Nam Đế. Tổng chỉ huy lực lượng của nhà Lương lần này là tướng Dương Phiêu (Chữ Phiêu cũng đọc là Thiêu, vì thế, Dương Phiêu còn được đọc là Dương Thiêu). Trước khi xuất quân, Dương Phiêu đã được triều đình Lương Vũ đế phong làm Thứ sử Giao Châu và điều này có nghĩa là nếu thắng trận, Dương Phiêu sẽ nắm quyền đứng đầu chính quyền đô hộ nước Vạn Xuân. Trong bộ chỉ huy cuộc Nam chinh này, ngoài Dương Phiêu còn có 2 nhân vật cao cấp khác là Tư mã Trần Bá Tiên và Thứ sử Định Châu là Tiêu Bột.
- Trần Bá Tiên tuy xuất thân là “hàn môn”, lúc đầu không được tin dùng, nhưng về sau nhờ lập được nhiều công lao đánh dẹp ở Quảng Châu, lại tự gây dựng được một đội quân riêng đông đến trên 3000 người, nên đến đâu cũng được triều đình Lương Vũ Đế chiếu cố. Hắn được phong làm Thái thú Vũ Bình kiêm giữ chức Tư mã ở Giao Châu.
- Tiêu Bột cũng xuất thân từ hoàng tộc của nhà Lương, thích hưởng thụ mà ghét khó nhọc, lại biết quân sĩ dưới quyền mình rất sợ đi đánh xa, nên đã tìm đủ mọi cách để ngăn cản bớt sự hung hăng của Dương Phiêu. Nhưng trái ngược hẳn với Tiêu Bột, Trần Bá Tiên lại ra sức thúc giục Dương Phiêu phải hành quân thật gấp và quyết đàn áp cho bằng được lực lượng của Lý Nam Đế. Hắn nói: “Giao Châu làm phản, nguyên do tội lỗi đều ở người trong tôn thất (chỉ sự bạo ngược của Tiêu Tư - người trong hoàng tộc nhà Lương - NKT), làm cho cả mấy châu đều bị hỗn loạn thế mà vẫn trốn tội được đến mấy năm nay. Giờ đây, Thứ sử Định Châu (là Tiêu Bột) chỉ muốn được tạm yên trước mắt, không nghĩ đến kế lớn dài lâu. Tiết hạ (chỉ Dương Phiêu - NKT) vâng nhận chiếu chỉ đi đánh kẻ có tội, phải nên liều mạng sống, chớ nên dùng dằng. Nếu không chịu tiến quân thì há chẳng phải là đã nuôi dưỡng thế mạnh cho giặc hay sao” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 16-a). Dương Phiêu liền cho Trần Bá Tiên làm tướng tiên phong cầm quân đi trước còn mình thì đem đại binh đi sau.
Sau khi Gia Ninh thất thủ, Lý Nam Đế lui binh về Tân Xương (nay là vùng Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc), dựa vào núi rừng hiểm trở và sự giúp đỡ của nhân dân vùng này để tìm mọi cách khôi phục lại lực lượng. Chưa đầy 8 tháng sau, Lý Nam Đế chẳng những đã tái lập được các đơn vị bộ binh mà còn xây dựng thêm được cả một đơn vị thuỷ binh khá hùng mạnh. Tháng 10 năm 546, Lý Nam Đế quyết định rút khỏi căn cứ Tân Xương, đem tất cả 2 vạn quân thuỷ bộ của mình về đóng ở khu vực hồ Điển Triệt.
“Hồ Điển Triệt (tên nôm là Đầm Miêng thuộc xã Tứ Yên, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phú, nay hồ này thuộc địa phận huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc) nằm bên bờ sông Lô, cách Bạch Hạc khoảng 15 km về phía Bắc. Hiện nay, hồ còn rộng khoảng 50 mẫu, dài khoảng 1 km, khúc rộng nhất khoảng 400 m, có 7 ngách lớn và nhiều ngách nhỏ, mùa khô nước vẫn còn sâu 3-4 m. Hồ cách sông Lô 300 m, xưa có một con ngòi thông ra sông này. Ba phía Đông, Nam, Bắc là một dải đồi cao gồm mấy chục quả gò, cộng hơn 300 mẫu; phía Tây có một gân đồi thấp, chỉ cao hơn mặt nước chùng 2-3 m, bị đứt đoạn một khoảng rộng 180 m, làm thành cửa hồ, thông với vùng chiêm trũng, chằm lầy rộng hàng ngàn mẫu. Theo truyền thuyết dân gian, nghĩa quân Lý Nam Đế đã đóng trại trên dải đồi này, thuyền bè thả đầy mặt hồ. Có một quả đồi gọi là Thành Dền, hay Thành Lĩnh, tương truyền là bản doanh của triều đình Vạn Xuân. Một quả đồi cao nhất ở sát bờ hồ, mang tên Đồi Vua ngự, từ đấy có thể nhìn rõ Bạch Hạc, Việt Trì. Tương truyền, Lý Nam Đế hàng ngày lên đó quan sát địch tình ở cửa sông Lô (sông Lu hay sông Lâu, theo sử cũ), phía Bạch Hạc, và đôn đốc quân sĩ đẽo thuyền độc mộc. Quanh hồ có nhiều bến, như bến Chảy, nhân dân lưu truyền là bến vua tắm, nước rất trong, bến Bêu, nơi đậu các thuyền chiến độc mộc... Chỉ có một đường độc đạo từ bờ sông Lô đi vào phía Bắc hồ.
Hiện nay 4 thôn thuộc xã Tứ Yên đều ở trên dải đồi đó, cả 4 thôn đều có đền thờ Lý Nam Đế, Lý Thiên Bảo (anh ruột Lý Nam Đế), và Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Đê) cùng các tướng sĩ khác và hàng năm có tục bơi chải" (Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh. Lịch sử Việt Nam, tập 1.-H.: Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1983.-Tr.412-413).
Như vậy là từ tháng 10 năm 546, hồ Điển Triệt trở thành khu căn cứ mới và rất lợi hại của Lý Nam Đế. Nơi đây, thuỷ binh và bộ binh có thể dễ dàng phối hợp và hỗ trợ cho nhau, tạo nên một thế thủ khá vững chắc. Cũng từ tháng 10 năm 546, sĩ khí của quân đội Lý Nam Đế ngày một cao và điều đó đã khiến cho quân Lượng tỏ ra ngần ngại khi định tổ chức tấn công vào căn cứ hổ Điển Triệt. Tuy nhiên, tướng tiên phong của quân Lương là Trần Bá Tiên - một tên dày dạn kinh nghiệm trận mạc - lại rất quyết đoán:
“Quân Lương lo sợ, cứ dùng dằng đóng lại ở cửa hồ chứ không dám tiến vào. Trần Bá Tiên nói với các tướng rằng:
- Quân ta ở đây đã khá lâu, tướng sĩ đều mỏi mệt, lại đang ở vào thế cô, không có đường tiếp viện. Nay nếu tiến sâu vào đất giặc, đánh mà không thắng thì đừng mong được sống sót, giờ nhân lúc bọn họ vừa thua liền mấy trận, tinh thần chưa vững mà quân Di Lão vốn rất ô hợp, rất dễ đánh giết, chính là lúc ta nên mau ra tay liều chết, cố sức mà đánh lấy. Không cớ gì cứ phải dừng lại để lỡ mất thời cơ.
Các tướng đều im lặng, không ai hưởng ứng. Đêm khuya hôm ấy nước sông lên nhanh, dâng cao đến 7 thước, đổ tràn vào hồ. (Trần) Bá Tiên đem quân bản bộ theo dòng nước chảy xiết mà tiến vào, đánh trống reo hò ẫm ĩ. (Lý Nam) Đế vì không hề phòng bị trước nên quân bị vỡ, phải lui về đóng giữ động Khuất Lão” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, tờ 16-b và 17-a). Tác giả Nguyễn Khắc Thuần chú thích thêm hai chi tiết nhỏ: Một là hai chữ Di Lão mà Trần Bá Tiên nói đến ở đây là để chỉ chung tất cả người Việt. Hai là động Khuất Lão (cũng đọc là Khuất Lạo hay Khuất Liệu) nay thuộc địa phận 2 xã Cổ Tiết và Văn Lang, huyện Tam Thanh, tỉnh Phú Thọ).
Sau trận thua này, trước khi rút lui về động Khuất Lão, Lý Nam Đế đã trao hết binh quyền cho Tả tướng Triệu Quang Phục. Ở Khuất Lão, sức khoẻ của Lý Nam Đế bị suy giảm rất nhanh. Tương truyền là ông bị mù hết cả hai mắt (Dân các làng thuộc 2 xã Cổ Tiết và Văn Lang vẫn thường gọi Lý Nam Đế là ông Vua Mù và mỗi khi tế thì phải xướng tên các lễ vật thật rõ ràng) và qua đời tại động Khuất Lão vào năm 548 (Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại kỷ, quyển 4, Triệu Việt Vương kỷ, tờ 18-a)cho biết, Lý Nam Đế mất vào tháng 3 năm Mậu Thìn (548): “Lý Nam Đế ở động Khuất Lão lâu ngày, nhiễm lam chướng, lâm bệnh mà mất”.
Lý Nam Đế là hiện thân của tư tưởng dùng bạo lực để giành lại chính quyền. Cuộc đời của ông đã tỏ rõ khả năng tập hợp và huy động sức mạnh của cả nước vào quá trình đấu tranh giành chính quyền theo con đường bạo lực. Điếu đáng tiếc là Lý Nam Đế tuy đã chuẩn bị rất công phu nhưng lại thiếu ý thức kiên quyết và triệt để trong đấu tranh, thiếu tinh thần chủ động tấn công giặc. Để cho Tiêu Tư và phần lớn lực lượng của viên quan đô hộ khét tiếng tàn bạo này có thể dễ dàng chạy thoát là biểu hiện rõ nhất của sự thiếu ý thức kiên quyết và triệt để trong đấu tranh. Giặc tuy thua trận đầu nhưng vẫn bảo tồn được lực lượng để có thể bình tĩnh tổ chức các trận phản công và Lý Nam Đế đã phải trả giá quá đắt cho sự thiếu triệt để đó.
Diễn biến chung của các trận tại thành Tô Lịch rồi thành Gia Ninh và đặc biệt là ở hồ Điển Triệt cho thấy tư tưởng phòng ngự đã hoàn toàn chi phối tư duy quân sự của Lý Nam Đế. Nắm chắc được nhược điểm này, Trần Bá Tiên đã lập tức tổ chức tấn công. Thời tiết tuy có góp phần tạo thêm điều kiện thuận lợi cho Trần Bá Tiên nhưng cũng không hề gây bất lợi cho thuỷ quân của Lý Nam Đế. Đã bị tư tưởng phòng ngự chi phối lại còn mất cảnh giác ngay khi biết rõ kẻ thù đang đóng dinh trại ở sát bên cạnh mình và đang lăm le tổ chức tấn công mình thì thất bại của Lý Nam Đế là điều không thể nào tránh khỏi. Không ai dám khẳng định rằng, nếu Lý Nam Đế chủ động tấn công thì nhất định sẽ giành được trọn vẹn thắng lợi, nhưng rõ ràng là nếu biết chủ động tấn công thì ít nhất Lý Nam Đế cũng không thể bị đại bại nhanh chóng và bị tổn thất quá nặng nề.
Nỗi đau thất trận ở hồ Điển Triệt là nỗi đau chung. Hậu thế đời đời kính trọng khí phách và tài năng của Lý Bôn trong toàn bộ quá trình phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa lật nhào ách đô hộ của nhà Lương cũng như trong thời kỳ kiến tạo nhà nước Vạn Xuân độc lập, song lại rất tiếc khi phải nói rằng, từ sau trận Điển Triệt, vai trò của Lý Bôn kể như đã hoàn toàn chấm dứt.
Về thất bại của Lý Nam Đế, Bảng nhãn Lê Văn Hưu (1230-1322) từng có lời bàn rằng: "Binh pháp có câu: 3 vạn quân đều sức thiên hạ không ai địch nổi. Nay Lý Bôn có 5 vạn quân mà không giữ được nước, thế thì (Lý) Bôn kém tài làm tướng chăng? Xem ra, Lý Bôn cũng là bậc tướng trung tài, ra trận vẫn có thể chế ngự địch quân mà giành phần thắng chứ nào phải là không làm được. Nhưng, do bị hai lần thua rồi chết, ấy là bởi không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh vậy”. (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, Triệu Việt Vương kỷ, tờ 18a-b).
Về những nguyên nhân quan trọng nhất dẫn đến thất bại của Lý Nam Đế, nếu như Bảng nhãn Lê Văn Hưu cho là bởi Trần Bá Tiên giỏi dùng binh thì Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên lại khẳng định rằng, ngoài việc Lý Nam Đế không may gặp phải Trần Bá Tiên là kẻ có tài dùng binh thì một nguyên do cũng rất nổi bật khác là... tại trời: “Tiền Lý Nam Đế dấy binh trừ bạo, thế là thuận vớt đạo trời, vậy mà cuối cùng vì sao lại nên nỗi bại vong? Ấy là vì trời chưa muốn cho nước ta được thịnh trị chăng? Than ôi, nào phải chỉ gặp Trần Bá Tiên là kẻ giỏi dùng binh mà còn gặp lúc nước sông đột ngột dâng lên trợ thế cho giặc, đó há chẳng phải là tại trời hay sao” (Đại Việt sử ký toàn thư, Ngoại kỷ, quyển 4, Triệu Việt Vương kỷ, tờ 18-b).
Tuy cuối cùng phải chịu thất bại và phải mất trong lặng lẽ ở động Khuất Lão, nhưng với vạn cổ thử giang sơn (muôn đời sông núi này), tên tuổi của Lý Bôn mãi mãi toả sáng. Cùng với Hai Bà Trưng và Bà Triệu, Lý Bôn đã góp phần khơi dậy ngọn lửa chống Bắc thuộc tiếp tục bùng lên dữ dội.
Sự nghiệp của Lý Bôn là một phần đầy kiêu hãnh của lịch sử.
Các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn đã hoàn toàn có lý khi viết Lời phê rằng: “Nam Đế nhà Lý dù không địch nổi quân Lương, việc lớn tuy không thành nhưng đã biết nhân thời cơ mà vùng dậy, tự làm chủ nước mình, đủ để tạo thanh thế và mở đường cho nhà Đinh, nhà Lý sau này. Việc làm của Lý Nam Đế há chẳng phải là hay lắm đó sao!" (Khâm định Việt sử thông giám cương mục,Tiền biên, quyển 4, tờ 7).
Nguồn: Danh tướng Việt Nam - Tập 4 / Nguyễn Khắc Thuần.-H.: Giáo dục, 2005.