Kiến thức cơ bản về tác giả, tác phẩm "Thần trụ trời" - sách Chân trời sáng tạo

VnKienThuc

Xã hội học tập
Xu
19
Truyện thần thoại Việt Nam là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản ánh quan niệm của người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người. Thần Trụ Trời là một trong những thần thoại đặc sắc của thần thoại Việt Nam.

I. Tác giả văn bản Thần Trụ Trời

- Tác giả dân gian.
- Theo Nguyễn Đổng Chi trong “Lược Khảo về thần thoại Việt Nam”.

II. Tìm hiểu tác phẩm Thần Trụ Trời

1. Thể loại: Thần thoại suy nguyên
2. Tóm tắt:


Thần Trụ Trời - Tác giả tác phẩm (mới 2022) | Ngữ văn lớp 10 Chân trời sáng tạo

Thần trụ trời là truyện thần thoại được lưu truyền khá sớm trong dân gian Việt Nam giải thích sự hình thành trời đất tự nhiên: biển, hồ, sông, núi,… Thuở ấy, chưa có sự xuất hiện của loài người và muôn vật. Trời và đất chỉ là một vùng hỗn độn, tối tăm chưa được phân chia rõ ràng. dân gian đã ghi công của các vị thần này trong câu hát được lưu truyền từ đời này sang đời khác và còn truyền đến ngày hôm nay.

3. Phương thức biểu đạt: tự sự

4. Bố cục:


- Phần 1 (từ đầu ... sang núi kia): Bối cảnh thần trụ trời xuất hiện
- Phần 2 (tiếp theo ... biển cả mênh mông): Lí giải sự hình thành trời và đất
- Phần 3 (còn lại): Nguồn gốc của di tích núi Thạch Môn

5. Giá trị nội dung: Sự lí giải của con người dựa vào yếu tố tâm linh, thần kì để giải mã các hiện tượng xung quanh cuộc sống.

6. Giá trị nghệ thuật: Sử dụng thành công yếu tố kỳ ảo hoang đường.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Thần Trụ Trời

1. Bối cảnh thần trụ trời xuất hiện


- Trời đất hỗn độn, tăm tối, tự nhiên xuất hiện một ông thần to lớn, “bước một bước từ đỉnh núi này sang đỉnh núi khác”

Vàđã có sự xuất hiện hoang đường, kì ảo, đầy liên tưởng, tưởng tượng phong phú.

2. Lý giải sự xuất hiện giữa trời và đất

- Công cụ:
Dùng đầu đội trời lên, tay đào đất đá, đắp thành một cái cột to để chống trời. “Cột được đắp cao lên chừng nào thì trời tựa như một tấm màn lớn được dâng cao lên chừng nấy.” Trời đất được phân chia làm hai. “Đất phẳng như cái mâm vuông, trời ở trên như cái bát úp, chỗ giáp ranh giữa trời và đất là chân trời.”

- Sự thay đổi: Thần phá cốt đá đi, ném vung đá và đất. Hòn đá văng ra tạo thành một hòn đảo -> Chỗ cao chỗ thấp không bằng phẳng -> Tạo thành biển. Sự lý giải phong phú, giáu tính tưởng tượng

3. Sự hình thành của núi Thạch Môn

Từ những núi đá đó tạo thành núi Thạch Môn và trở thành di tích lịch sử, lưu truyền đến tận ngày nay.


Thần Trụ Trời nói riêng và Thần thoại Việt Nam nói chung đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.
 
Câu 1 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Chỉ ra các chi tiết về không gian, thời gian của câu chuyện.

Trả lời:

Chi tiết về không gianChi tiết về thời gian
Trời và đất
Không cụ thể, mang tính khái quát.
Thủa ấy, từ đó.
Thời gian định tính, không cụ thể.

Câu 2 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Những dấu hiệu nào giúp bạn nhận ra Thần Trụ trời là một truyện thần thoại?

Trả lời:

- Dựa vào những dấu hiệu của thần thoại, không gian, cốt truyện, nhân vật trong Thần Trụ trời để xác định đây là một thần thoại.

+ Truyện kể về vị thần Trụ trời trong quá trình tạo ra thế giới, nguồn gốc của các sự vật và con người.
+ Không gian: trời và đất, vũ trụ đang trong quá trình tạo lập, không xác định nơi chốn cụ thể.
+ Thời gian: “Thủa ấy” cổ sơ, không xác định.
+ Cốt truyện: là chuỗi sự kiện xoay quanh quá trình tạo nên trời đất, các sự vật tự nhiên, là sự xuất hiện hành động của các vị thần.
+ Nhân vật: là các vị thần.
+ Câu chuyện là một tác phẩm thống nhất, toàn vẹn, các bộ phận, yếu tố, chi tiết…đều có ý nghĩa và được gắn kết với nhau một cách chặt chẽ, thể hiện một nội dung chung của bài.

Câu 3: (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Tóm tắt quá trình tạo lập nên trời và đất của nhân vật thần Trụ trời. Từ đó, hãy nhận xét về đặc điểm của nhân vật này.

Trả lời:

Tóm tắt quá trình tạo lập nên trời và đất của nhân vật thần Trụ trờiNhận xét về đặc điểm của nhân vật
- Tự đào đất, đập đá, đắp thành một cái cột vừa cao, vừa to để chống trời.- Có năng lực phi thường, ý chí.
- Thần hì hục đào, đắp, cột đá cao lên đẩy vòm trời lên mãi mây xanh.- Mạnh mẽ và tài năng.
- Khi trời cao và khô, thần phá cột, lấy đất đá ném tung đi khắp nơi à tạo ra hòn núi, hòn đảo, gò, đống, những dải đồi cao là mặt đất ngày nay thường không bằng phẳng.- Có công tạo ra đất trời.

Câu 4 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Nêu nội dung bao quát của truyện Thần Trụ trời.

Trả lời:

Thần Trụ trời lí giải quá trình tạo lập thế giới, trời đất, các sự vật dưới bàn tay của Thần Trụ trời và các vị thần khác. Đây là một truyện thần thoại lí giải nguồn gốc sự xuất hiện của vũ trụ và các sự vật tự nhiên dưới góc độ dân gian.

Câu 5 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Nhận xét về cách giải thích quá trình tạo lập thế giới của tác giả dân gian. Ngày nay, cách giải thích ấy có còn phù hợp không? Vì sao?

Trả lời:

- Cách giải thích quá trình tạo lập thế giới của tác giả dân gian dựa trên trí tượng tượng, sáng tạo dựa vào sự quan sát tự nhiên chưa có đầy đủ căn cứ, không có minh chứng về độ chính xác, chứa đựng những yếu tố hư cấu.

- Ngày nay, với sự phát triển của khoa học thì cách giải thích ấy không còn phù hợp. Hiện nay nguồn thông tin về sự hình thành vũ trụ tự nhiên đã được khoa học nghiên cứu, có những căn cứ khoa học rõ ràng tin cậy và thuyết phục hơn so với những thần thoại dân gian chứa dựng yếu tố hư cấu.


Câu 6 (trang 14 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Cách hình dung và miêu tả đất, trời trong câu “đất phẳng như cái mâm vuông, trời trùm lên như cái bát úp…” trong truyện Thần Trụ trời gợi cho bạn nhớ đến truyền thuyết nào của người Việt Nam? Hãy tóm tắt truyền thuyết ấy và chỉ ra điểm tương đồng giữa hai tác phẩm.

Trả lời:

- Cách hình dung và miêu tả đất, trời trong câu “đất phẳng như cái mâm vuông, trời trùm lên như cái bát úp,…” trong truyện Thần Trụ trời gợi nhớ đến truyền thuyết “Sự tích bánh chưng, bánh dày” của người Việt Nam.

- Vua Hùng thứ sáu có hai mươi người con trai, cả hai mươi người con, ai cũng đều giỏi giang nên vua không thể lựa chọn được người sẽ nối nghiệp mình. Nhà vua luôn nói với những người con trai của mình rằng, người được lựa chọn không nhất thiết phải là con trưởng, người con nào làm vừa ý nhà vua trong lễ Tiên vương của mình thì sẽ được đức vua truyền ngôi cho.

- Các lang đều đua nhau sắm những lễ vật thật hậu, thật ngon và độc nhất vô nhị, đây đều là những sản vật được các lang cho người đi khắp nơi tìm kiếm chỉ với mong muốn lấy được lòng của nhà vua. Nhưng chỉ duy nhất có người con trai thứ mười tám của đức vua là Lang Liêu, chàng vẫn rất buồn vì chàng rất nghèo, chàng không có đủ tiền để tìm kiếm sản vật như các anh trai của mình được. Do ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời mà chàng không có của để, thứ duy nhất chàng có là lúa. Vì suy nghĩ quá nhiều mà chàng đã thiếp đi, trong giấc mơ, một vị thần đã bảo với chàng cách làm lễ vật. Tỉnh dậy, chàng lấy gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn làm thành hai thứ bánh, một loại bánh tròn tượng trưng cho trời, một loại bánh vuông, tượng trưng cho đất. Bánh tròn chàng đặt tên là bánh giầy, bánh hình vuông là bánh chưng. Nhà vua rất hài lòng về lễ vật của Lang Liêu dâng lên nên ngài đã quyết định nhường ngôi cho chàng.

Cũng bởi vậy mà trong ngày tết cổ truyền của Việt Nam không thể nào thiếu 2 món bánh đơn giản nhưng đầy ý nghĩa trên bàn thờ tổ tiên.

Điểm tương đồng giữa hai tác phẩm:

- Đều đưa ra lí giải sự xuất hiện của một hiện tượng hay truyền thống.
- Xuất hiện hình ảnh vị thần, mang tính hư cấu, tưởng tượng như trời hình tròn, đất hình vuông.
- Thời gian và không gian không xác định.

Sưu tầm và soạn
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top