Hai Trieu Kr
Moderator
- Xu
- 28,899
Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của tác giả Nguyễn Công Trứ với âm điệu khẳng định, lối nói đậm tính khẩu ngữ cho người đọc thấy vẻ đẹp nhân cách con người tác giả - một con người tài năng, lí tưởng sống hài hòa giữa cái vì đời và vì mình. Dưới đây là bài tóm lược kiến thức cơ bản Bài ca ngất ngưởng.
(Nguồn ảnh: Internet)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả.
- Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), xuất thân trong một gia đình Nho học, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- 1819 thi đỗ giải nguyên và được bổ nhiệm làm quan.
- Là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực: văn hoá, xã hội, kinh tế, quân sự.
- Con đường làm quan không bằng phẳng.
- Ông sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm. Thể loại ưa thích là Hát nói.
Nguyễn Công Trứ là một người có chí lớn, chí "kinh bang tế thế" ( trị nước giúp đời), tung hoành ngang dọc. Chí làm trai theo ông thì "Đã mang tiếng...núi sông", hay " không công danh thà nát với cỏ cây", nhưng con người sống với lí tưởng cao đẹp ấy luôn đối mặt với "thế thái nhân tình gớm chết thay, lạt nồng trong chiếc túi vơi đầy", vì vậy đôi khi ông thấy: "chen chúc lợi danh đà chán ngắt, cúc tùng phong nguyệt mới vui sao", ông còn là người cả đời vì dân vì nước.
2. Bài thơ
- Thời điểm sáng tác: Sau năm 1848, là năm ông cáo quan về hưu.
- Thể loại: Hát nói - Là một trong những thể điệu của ca trù. ( Ca trù do người con gái hát thì gọi là hát ả đào). Một bài hát nói gồm hai phần: phần mưỡu và hát nói. Phần hát nói đúng thể cách gồm 11 câu, chia làm 3 khổ: khổ đầu 3 câu, khổ cuối 3 câu, khổ giữa có thể khuyết hoặc dôi)
II. Đọc hiểu văn bản
1. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ
- Từ "ngất ngưởng" xuất hiện 5 lần.
- Nghĩa thực của từ "ngất ngưởng" là : Trạng thái của một đồ vật có chiều cao trong tư thế ngả nghiêng, không vững chắc, lúc lắc, chông chênh, gây khó chịu cho mọi người )
- "Ngất ngưởng" chính là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi "khắc kỉ, phục lễ" của nhà nho để hình thành một lối sống thật hơn, dám khẳng định chính mình, khẳng định bản lĩnh cá nhân bắt nguồn từ ý thức về tài năng và nhân cách của bản thân.
=> Đó chính là nội dung xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, làm nổi bật cá tính con người ông.
- Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách cảu bản thân, Nguyễn Công Trứ trong "bài ca ngất ngưởng" đã phô trương, khoe sự ngang tàng, sự phá cách trong lối sống của ông, lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho. Ngất ngưởng chính là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi "khắc kỉ, phục lễ" của nhà nho để hình thành một lối sống, thật hơn, dám là chính mình, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân...
- Ngất ngưởng đối lập với lễ, danh giáo.
2. Những lời tự thuật
a. Quãng đời làm quan
- Trong thời gian làm quan, Nguyễn Công Trứ đã thể hiện thái độ "ngất ngưởng" của mình rất nhiều trong các tp của ông, như: ông cho rằng kẻ làm trai là phải mang lấy cái nợ và phải tung hoành ngang dọc để trả cho trọn cái nợ ấy
" Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể" ( Chí anh hùng )
Tuy nhiên, đối với Nguyễn Công Trứ, công danh không chỉ là vinh mà còn là nợ, là trách nhiệm, vì vậy ông coi đó là sự dấn thân tự nguyện đem tự do, tài hoa nhốt vào vòng trói buộc.
=> phù hợp với tâm trạng của con người đã trải qua bao nhiêu phiền luỵ chốn quan trường.
- Câu 1 "Vũ trụ ...phận sự": Mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải là phận sự của ta.
=> Thái độ tự tin, ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm và tài năng của bản thân.
- Câu 2 "ông Hi văn tài...vào lồng"
=> Ông coi việc nhập thế làm quan như một trói buộc, giam hãm vào lồng.=> phù hợp với nhân cách của ông
- Ông coi việc làm quan là mất tự do vậy mà vẫn ra làm quan : Vì ông coi việc làm quan là một điều kiện, một phương tiện để thể hiện hoài bão vì dân vì nước và tài năng của mình. điều quan trọng là trong một môi trường có nhiều trói buộc, ông vẫn thực hiện được lí tưởng xã hội của mình và vẫn giữ được bản lĩnh, cá tính.
- Lối sống " ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ được ông thể hiện ngay đoạn đời từ khi ra làm quan, đoạn đời đó được ông tóm gọn trong 4 câu: 3, 4, 5, 6.
- Câu 3, 4, 5, 6 Liệt kê tất cả các sự việc lớn nhỏ, các chức phận ông đã trải qua.
=> Ông có tài năng thực sự và tận tâm với sự nghiệp, không hề luồn cúi để vinh thân phì gia.
+ Nghệ thuật: Hệ thống từ Hán Việt uy nghiêm trang trọng, âm điệu nhịp nhàng, nhiều điệp ngữ => khẳng định tài năng lỗi lạc, địa vị xã hội vẻ vang, xứng đáng một con người xuất chúng.
b. Khi cáo quan
- Câu 7, 8 : Năm cáo quan là một sự kiện lạ, phong cách khác người.
+ Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ lúc này như thế nào so với lúc ông đang làm quan tại triều? (đậm nét hơn, vì đã được "tháo củi sổ lòng" thoát khỏi chốn quan trường).
+ Ngày "đô môn giải tổ" của ông rất đặc biệt : Nguyễn Công Trứ làm một việc ngược đời, đối nghịch. Người ta tán lọng, ngựa xe nghiêm trang, còn ông thì ngất ngưởng trên lưng con bò. Đã là một giống vật thấp kém, bò mà lại bò cái, nhưng lại được trang sức bằng đạc ngựa - đồ trang sức quý của loài vật cao cấp ( ngựa). Song ông còn buộc mo cau vào đuôi bò ở cái chỗ cần che nhất với một tuyên ngôn ngạo ngược: để che miệng thế gian =>trêu ngươi khinh thị cả thế gian kinh kì.
- Câu 9 - 12: Cách sống phóng khoáng, thảnh thơi.
+ Dẫn các cô gái trẻ lên chơi chùa, đi hát ả đào và tự đánh giá cao các việc làm ấy.
+ Ông có quyền ngất ngưởng vì ông về hưu trong danh dự, sau khi đã làm được nhiều việc có ích cho dân...
+ " Kìa núi nọ...mây trắng": câu thơ trữ tình gợi một chút bâng khuâng, ý vị chua chát, những làn mây trắng trên đỉnh núi rất trắng, đậm ý nghĩa tượng trưng, gợi liên tưởng.
+ "Tay kiếm cung ...từ bi": cương vị, chức phận, cuộc sống đã thay đổi. Tay kiếm cung - một ông tướng có quyền sinh quyền sát dạng từ bi: dáng vẻ tu hành, trái hẳn với trước.
- Câu 13 - 16: Quan niệm sống:
+ Không quan tâm được mất
+ Không bận lòng khen chê
+ Vui vẻ, không vướng tục
- Câu 13 - 16, ông là người không quan tâm đến chuyện được mất, không bận lòng vì sự khen chê, có những khi hành lạc: uống rượu, cô đầu, con hát, nhưng ông không phải là người của phật, mà vẫn là con người của cuộc đời, duy có điều: không vướng tục
+ Một nhân cách, một bản lĩnh cao, chấp tất cả, không để luỵ và khinh tất cả những gì của thói thường.
- Câu 17, 18: Tổng kết cuộc đời mình, Nguyễn Công Trứ cho rằng hai điều quan trọng nhất đối với kẻ nam nhi là trách nhiệm "kinh bang tế thế" và đạo nghĩa vua tôi. Ông đã giữ được trọn vẹn, đã thực hiện một cách xuất sắc.
- Khi làm quan trong triều, ông cũng không chấp nhận sự khom lưng, uốn gối hay thói quỵ luỵ thường thấy " trong triều ai...như ông"Khẳng định tài năng, phẩm giá, lòng trung nghĩa vua tôi. Tấm lòng và lời thề của tác giả suốt đời vì dân vì nước.
- Câu cuối: vừa hỏi vừa khẳng định: trong triều không có ai sống ngất ngưởng như ông cả.
=> Bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống.
III. Nội dung
1. Giá trị nội dung
- Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Đó là thái độ coi thường danh lợi, vượt lên thói thường để sống cuộc sống tự do tự tại. Giữa cái xã hội mà mọi cá tính đều bị thủ tiêu thì cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân mà còn thể hiện rõ một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại.
2. Giá trị nghệ thuật
- Vận dụng thành công thể hát nói
- Giọng điệu thơ hóm hỉnh, khoa trương, ý vị trào phúng
- Sử dụng điển tích, điển cố
Sưu tầm
(Nguồn ảnh: Internet)
I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả.
- Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), xuất thân trong một gia đình Nho học, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- 1819 thi đỗ giải nguyên và được bổ nhiệm làm quan.
- Là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực: văn hoá, xã hội, kinh tế, quân sự.
- Con đường làm quan không bằng phẳng.
- Ông sáng tác hầu hết bằng chữ Nôm. Thể loại ưa thích là Hát nói.
Nguyễn Công Trứ là một người có chí lớn, chí "kinh bang tế thế" ( trị nước giúp đời), tung hoành ngang dọc. Chí làm trai theo ông thì "Đã mang tiếng...núi sông", hay " không công danh thà nát với cỏ cây", nhưng con người sống với lí tưởng cao đẹp ấy luôn đối mặt với "thế thái nhân tình gớm chết thay, lạt nồng trong chiếc túi vơi đầy", vì vậy đôi khi ông thấy: "chen chúc lợi danh đà chán ngắt, cúc tùng phong nguyệt mới vui sao", ông còn là người cả đời vì dân vì nước.
2. Bài thơ
- Thời điểm sáng tác: Sau năm 1848, là năm ông cáo quan về hưu.
- Thể loại: Hát nói - Là một trong những thể điệu của ca trù. ( Ca trù do người con gái hát thì gọi là hát ả đào). Một bài hát nói gồm hai phần: phần mưỡu và hát nói. Phần hát nói đúng thể cách gồm 11 câu, chia làm 3 khổ: khổ đầu 3 câu, khổ cuối 3 câu, khổ giữa có thể khuyết hoặc dôi)
II. Đọc hiểu văn bản
1. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ
- Từ "ngất ngưởng" xuất hiện 5 lần.
- Nghĩa thực của từ "ngất ngưởng" là : Trạng thái của một đồ vật có chiều cao trong tư thế ngả nghiêng, không vững chắc, lúc lắc, chông chênh, gây khó chịu cho mọi người )
- "Ngất ngưởng" chính là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi "khắc kỉ, phục lễ" của nhà nho để hình thành một lối sống thật hơn, dám khẳng định chính mình, khẳng định bản lĩnh cá nhân bắt nguồn từ ý thức về tài năng và nhân cách của bản thân.
=> Đó chính là nội dung xuyên suốt toàn bộ tác phẩm, làm nổi bật cá tính con người ông.
- Trên cơ sở ý thức về tài năng và nhân cách cảu bản thân, Nguyễn Công Trứ trong "bài ca ngất ngưởng" đã phô trương, khoe sự ngang tàng, sự phá cách trong lối sống của ông, lối sống ít phù hợp với khuôn khổ của đạo Nho. Ngất ngưởng chính là sự ngang tàng, phá cách, phá vỡ khuôn mẫu hành vi "khắc kỉ, phục lễ" của nhà nho để hình thành một lối sống, thật hơn, dám là chính mình, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân...
- Ngất ngưởng đối lập với lễ, danh giáo.
2. Những lời tự thuật
a. Quãng đời làm quan
- Trong thời gian làm quan, Nguyễn Công Trứ đã thể hiện thái độ "ngất ngưởng" của mình rất nhiều trong các tp của ông, như: ông cho rằng kẻ làm trai là phải mang lấy cái nợ và phải tung hoành ngang dọc để trả cho trọn cái nợ ấy
" Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể" ( Chí anh hùng )
Tuy nhiên, đối với Nguyễn Công Trứ, công danh không chỉ là vinh mà còn là nợ, là trách nhiệm, vì vậy ông coi đó là sự dấn thân tự nguyện đem tự do, tài hoa nhốt vào vòng trói buộc.
=> phù hợp với tâm trạng của con người đã trải qua bao nhiêu phiền luỵ chốn quan trường.
- Câu 1 "Vũ trụ ...phận sự": Mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không phải là phận sự của ta.
=> Thái độ tự tin, ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm và tài năng của bản thân.
- Câu 2 "ông Hi văn tài...vào lồng"
=> Ông coi việc nhập thế làm quan như một trói buộc, giam hãm vào lồng.=> phù hợp với nhân cách của ông
- Ông coi việc làm quan là mất tự do vậy mà vẫn ra làm quan : Vì ông coi việc làm quan là một điều kiện, một phương tiện để thể hiện hoài bão vì dân vì nước và tài năng của mình. điều quan trọng là trong một môi trường có nhiều trói buộc, ông vẫn thực hiện được lí tưởng xã hội của mình và vẫn giữ được bản lĩnh, cá tính.
- Lối sống " ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ được ông thể hiện ngay đoạn đời từ khi ra làm quan, đoạn đời đó được ông tóm gọn trong 4 câu: 3, 4, 5, 6.
- Câu 3, 4, 5, 6 Liệt kê tất cả các sự việc lớn nhỏ, các chức phận ông đã trải qua.
=> Ông có tài năng thực sự và tận tâm với sự nghiệp, không hề luồn cúi để vinh thân phì gia.
+ Nghệ thuật: Hệ thống từ Hán Việt uy nghiêm trang trọng, âm điệu nhịp nhàng, nhiều điệp ngữ => khẳng định tài năng lỗi lạc, địa vị xã hội vẻ vang, xứng đáng một con người xuất chúng.
b. Khi cáo quan
- Câu 7, 8 : Năm cáo quan là một sự kiện lạ, phong cách khác người.
+ Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ lúc này như thế nào so với lúc ông đang làm quan tại triều? (đậm nét hơn, vì đã được "tháo củi sổ lòng" thoát khỏi chốn quan trường).
+ Ngày "đô môn giải tổ" của ông rất đặc biệt : Nguyễn Công Trứ làm một việc ngược đời, đối nghịch. Người ta tán lọng, ngựa xe nghiêm trang, còn ông thì ngất ngưởng trên lưng con bò. Đã là một giống vật thấp kém, bò mà lại bò cái, nhưng lại được trang sức bằng đạc ngựa - đồ trang sức quý của loài vật cao cấp ( ngựa). Song ông còn buộc mo cau vào đuôi bò ở cái chỗ cần che nhất với một tuyên ngôn ngạo ngược: để che miệng thế gian =>trêu ngươi khinh thị cả thế gian kinh kì.
- Câu 9 - 12: Cách sống phóng khoáng, thảnh thơi.
+ Dẫn các cô gái trẻ lên chơi chùa, đi hát ả đào và tự đánh giá cao các việc làm ấy.
+ Ông có quyền ngất ngưởng vì ông về hưu trong danh dự, sau khi đã làm được nhiều việc có ích cho dân...
+ " Kìa núi nọ...mây trắng": câu thơ trữ tình gợi một chút bâng khuâng, ý vị chua chát, những làn mây trắng trên đỉnh núi rất trắng, đậm ý nghĩa tượng trưng, gợi liên tưởng.
+ "Tay kiếm cung ...từ bi": cương vị, chức phận, cuộc sống đã thay đổi. Tay kiếm cung - một ông tướng có quyền sinh quyền sát dạng từ bi: dáng vẻ tu hành, trái hẳn với trước.
- Câu 13 - 16: Quan niệm sống:
+ Không quan tâm được mất
+ Không bận lòng khen chê
+ Vui vẻ, không vướng tục
- Câu 13 - 16, ông là người không quan tâm đến chuyện được mất, không bận lòng vì sự khen chê, có những khi hành lạc: uống rượu, cô đầu, con hát, nhưng ông không phải là người của phật, mà vẫn là con người của cuộc đời, duy có điều: không vướng tục
+ Một nhân cách, một bản lĩnh cao, chấp tất cả, không để luỵ và khinh tất cả những gì của thói thường.
- Câu 17, 18: Tổng kết cuộc đời mình, Nguyễn Công Trứ cho rằng hai điều quan trọng nhất đối với kẻ nam nhi là trách nhiệm "kinh bang tế thế" và đạo nghĩa vua tôi. Ông đã giữ được trọn vẹn, đã thực hiện một cách xuất sắc.
- Khi làm quan trong triều, ông cũng không chấp nhận sự khom lưng, uốn gối hay thói quỵ luỵ thường thấy " trong triều ai...như ông"Khẳng định tài năng, phẩm giá, lòng trung nghĩa vua tôi. Tấm lòng và lời thề của tác giả suốt đời vì dân vì nước.
- Câu cuối: vừa hỏi vừa khẳng định: trong triều không có ai sống ngất ngưởng như ông cả.
=> Bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống.
III. Nội dung
1. Giá trị nội dung
- Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Đó là thái độ coi thường danh lợi, vượt lên thói thường để sống cuộc sống tự do tự tại. Giữa cái xã hội mà mọi cá tính đều bị thủ tiêu thì cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân mà còn thể hiện rõ một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại.
2. Giá trị nghệ thuật
- Vận dụng thành công thể hát nói
- Giọng điệu thơ hóm hỉnh, khoa trương, ý vị trào phúng
- Sử dụng điển tích, điển cố
Sưu tầm