Khái quát về thời đại Phục Hưng và nền văn học Phục Hưng

Áo Dài

Cô gái Việt Nam
Thành viên BQT
Shakespeare ( 1564 – 1616 ) trong 20 năm sáng tác, Shakespeare đã để lại cho đời 37 vở kịch với nhiều thể loại : bi kịch, hài kịch, kịch lịch sử cũng với một nội dung mang tinh thần thời đại. Các tác phẩm ca ngợi về tình yêu, xem tình yêu là chất men của cuộc sống là hạnh phúc tuyệt vời trên cõi thế gian, là nguồn sức mạnh có khả năng chống lại mọi thế lực cản trở. Đó là tác phẩm của nền văn học Phục Hưng. Vậy thì thời kì đã ảnh hưởng tới nền văn học như thế nào ?

Sau đây, để tìm hiểu sâu hơn mời bạn đọc tham khảo bài viết về khái quát về thời đại Phục Hưng và nền văn học Phục Hưng.


1.1.Thời đại phục hưng

1.1.1.Cơ sở lịch sử xã hội của thời đại phục hưng

Sau “đêm trường trung cổ” kéo dài hàng ngàn năm,Châu u bước vào một thời đại mới kéo dài hai thế kỷ , người ta gọi đó là thời đại phục hưng , thời kỳ mà con người muốn làm sống lại cuộc sống của người xưa - cuộc sống của người Hi Lạp - La Mã.

Với những tinh hoa văn hóa ra đời trước đạo Giatô khi chưa xuất hiện thần học, triết học kinh viện cũng như chế độ phong kiến; khi con người còn ngao du ngoài xiềng xích của luân lý đạo đức phong kiến. Thời đại phục hưng đã mở ra một bước ngoặt lịch sử vĩ đại với “những hình thức chói lòa của nó đã dánh tan bóng ma thời trung cổ” [2,118] làm bàn đạp tiến lên một thời kỳ văn minh hơn, tiến bộ hơn. Để có những bước chuyển thần kỳ đó thì tất nhiên trong lòng xã hội đã tích lũy đầy đủ những tiên đề xã hội nhất định. Thực ra mà nói đây chính là buổi giao mùa giữa chế độ phong kiến sang chế độ tư bản, mặc dù sự chuyển đổi này vẫn còn nằm trong khuôn khổ xã hội phong kiến .

Xét về phương diện kinh tế - chính trị - xã hội từ thế kỷ thứ XIV sứ Plorăngx và nước Ý đã có nhiều điều kiện thuận lợi để tạo dựng nên một nền kinh tế phát triển nhất Châu u, tiêu biểu đó là việc làm giàu nhờ buôn bán thực phẩm, len dạ, vũ khí cho các nước có chiến tranh. Từ tiền đề kinh tế đó, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và hình thành nên các trung tâm kinh tế lớn - đó là những thành thị tự do - được xem như những quốc gia độc lập: Plorencia,Venecia, Genoa, Milano… Ở đây quan hệ tư bản chủ nghĩa chiếm dịa vị tuyệt đối, giai cấp tư sản sống tự do theo quan điểm tư tưởng của mình. Các hoạt động văn hóa nghệ thuật mang ý thức hệ tư sản phát triển phong phú.

Mặt khác Italia còn là quê hương của nền văn minh cổ đại La Mã, nơi còn lưu giữ nhiều di sản về kiến trúc, điêu khắc, triết học, văn học… giúp các nghệ sĩ phục hưng dễ dàng học tập, nghiên cứu. Hơn nữa việc học tập, nghiên cứu, phục hồi nền văn hóa cổ đại La Mã đối với các chiến sĩ phục hưng Italia còn có ý nghĩa đề cao tinh thần dân tộc. Và trên những điều kiện đó, cơ sở đó, nước Italia trở thành nơi khởi phát cho phong trào văn hóa phục hưng. Năm 1453 một sự kiện lịch sử trọng đại diễn ra góp phần đưa nền công nghiệp Châu u bước thêm một bước tiến mới. Sự kiện Thổ Nhĩ Kỳ tấn công và chiếm đóng thành công thành Côngxăngtinốp làm cho con đường thông thương giữa Châu u và Phương Đông bị gián đoạn. Việc buôn bán trở nên khó khăn vì thiếu thị trường, do đó nhu cầu tìm kiếm thị trường mới của các quốc gia tăng lên. Từ đó việc tìm kiếm thị trường mới lần lượt được thực hiện để phục vụ cho nhu cầu buôn bán, người mở đầu những cuộc phát kiến ở Tây Ban Nha là Chirstopher Colombus (1451- 1506) người Italia đã khám phá ra mảnh đất gần Ấn Độ nên đặt tên gọi là Tây Ấn. Amerigo Vespucci tìm ra Châu Mỹ, ngoài ra còn có hàng loạt các cuộc tìm kiếm của Magellan và lần đầu tiên ông đã hoàn thành chuyến đi vòng quanh trái đất. Sự biến động đó là yếu tố cách mạng tạo đà cho quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản chủ nghĩa.

Bên cạnh đó thời kỳ này còn có hàng loạt các phát minh khoa học đã đạt được những thành tựu quan trọng như: nấu thép, nghề in, các kiến thức về thiên văn học, địa lý… Tiêu biểu như Nikolaj Kopernik (1473- 1543) nhà bác học và triết học Ba Lan, ông đã chứng minh trái đất xung quanh mặt trời và quay xung quanh trục của nó. Học thuyết của Kopernik đã lật đổ những giáo lý của nhà thờ cho quả đất là trung tâm của thế giới. Ông còn phát triển quan điểm duy vật về vũ trụ, cho vũ trụ là vật chất vô tận, tự chuyển động theo quy luật riêng của nó. Còn Giordano Bruno (1548- 1600) người Italia đã bảo vệ quan niệm khoa học của Kopernik, cho rằng vũ trụ là vô tận, mặt trời là trung tâm của thái dương hệ. Ông còn khẳng định vật chất vận động biến đổi không ngừng và tồn tại mãi mãi. Gallileo Gallilei (1564- 1642) người Italia thì có nhiều phát minh về cơ học và thiên văn học. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng để quan sát bầu trời, giải thích được cấu tạo của sao chổi, phát hiện ra định luật rơi thẳng đứng và dao động của các vật thể. Về triết học duy vật cũng có nhiều bước phát triển mới, người mở đầu cho trường phái triết học thời phục hưng là Francis Bacon (1561- 1626) người Anh, ông đã đề cao triết học duy vật Hy Lạp cổ đại, phê phán chủ nghĩa duy tâm và triết học kinh viện. Những phát hiện đó đã làm đảo lộn những quan niệm phản khoa học của giáo hội. Chủ nghĩa dân tộc cũng được hình thành và thai nghén bằng những cuộc cách mạng tư sản có ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần đấu tranh của quần chúng nhân dân.

Giai cấp tư sản ra đời đóng góp một vai trò quan trọng trong việc đấu tranh để xóa bỏ chế độ phong kiến. Những giáo lý khắt khe và những luật pháp hà khắc đã trở thành trở lực lớn, giai cấp tư sản thấy cần xóa bỏ những ràng buộc và tạo cho mình một hệ tư tưởng, một nền văn hóa riêng. Họ đi tìm cho mình trong thành tựu văn hóa cổ đại những yếu tố có lợi để đấu tranh chống lại ý thức hệ tư tưởng của nền văn hóa Trung cổ. Đó chính là cội nguồn cho phong trào cải cách tôn giáo - một chủ đề tiêu biểu trong thời đại phục hưng.

Hơn nữa những biến động về kinh tế xã hội vào đầu thế kỷ XIV- XV tạo nên những tiền đề để làm sống lại và phát triển những thành tựu văn hóa cổ đại. Sự xuất hiện các “mạnh tường quân” trong tầng lớp giàu có, sự bảo trợ của những người đứng đầu nhà nước đã có tác dụng khuyến khích và giúp đỡ các nghệ sĩ có điều kiện tập trung trí tuệ và tài năng vào công việc lao động sáng tạo nghệ thuật góp phần tạo nên nền nghệ thuật độc đáo thời phục hưng.

Tiếp theo sau Italia sang thế kỷ thứ XV- XVI quan hệ tư bản chủ nghĩa cũng hình thành ở các nước Tây Âu và Trung Âu khác như: Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Đức… nên phong trào phục hưng có điều kiện phát triển rộng rãi khắp Châu Âu.

Với những tiền đề nhất định đó phong trào phục hưng ở Châu Âu đã tạo ra một trang sử mới, một bước ngoặt lịch sử như Ănghen đã đánh giá “đó là bước ngoặt tiến bộ nhất, vĩ đại nhất từ trước đến bây giờ loài người chưa từng thấy”.

1.1.2. Tư tưởng của nền văn hóa phục hưng.

Những biến động lịch sử to lớn trên đã đưa lịch sử Châu u bước vào thời kỳ mới. Phong trào phục hưng tuy có tiếp thu những yếu tố trong nền văn hóa Hy La nhưng không phải là một phong trào phục cổ đơn thuần mà nó còn là bước tiến gắn liền với yêu cầu mới của thời cận đại. Có nghĩa là phong trào văn hóa phục hưng không chỉ tiếp thu nhưng tinh hoa văn hóa thời cổ đại mà còn là một trào lưu văn hóa mới được phát triển trên bình diện mới dựa trên nền tảng kinh tế xã hội và hệ tư tưởng của giai cấp tư sản đang lên.
Trong lòng xã hội lúc này xuất hiện nhiều luồng tư tưởng, nhiều học thuyết về các vấn đề của xã hội. Tiêu biểu là học thuyết do nhà lý luận Môngtenhơ đề xướng về chủ nghĩa hoài nghi với câu hỏi “không biết tôi biết cái gì?”, cùng cuốn sách “không tưởng” của Tomat Môrơ “tôi tin một cách sắt đá rằng chỉ có thể có sự phân phối bình đẳng và đúng về các tư liệu cũng như chỉ có thể có hạnh phúc trên bước tiến của con người là khi nào quyền tư hữu đã hoàn toàn được xóa bỏ” . Tác phẩm “thành phố mặt trời” của nhà xã hội học người Ý mơ ước đến một xã hội mà trong đó của cải được phân phối bình đẳng, mỗi người chỉ làm việc 4 giờ một ngày. Các học thuyết và các luồng tư tưởng trên đã chi phối sâu sắc đời sống tinh thần và văn hóa của thời đại. Nhưng cơ bản nhất, nổi bật nhất, tiến bộ nhất là trào lưu tư tưởng chủ nghĩa nhân văn, một trào lưu tư tưởng đã góp phần tạo nên giá trị rực rỡ của nền văn hóa phục hưng.

Chủ nghĩa nhân văn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của trào lưu văn hóa mới , một trào lưu tư tưởng được, phát sinh từ Italia và tỏa sáng ở khắp Châu u. Các nhà nhân văn chủ nghĩa thời phục hưng đề cao con người và cuộc sống trần gian với những thú vui tự nhiên của nó. Ta cũng từng bắt gặp tư tưởng tiến bộ này trong văn học thời cổ đại . Nhà viết kịch Sophocle đã từng quan niệm con người là điều kỳ diệu nhất trong vũ trụ và khẳng định bản thân là một con người nên không có gì thuộc về con người mà xa lạ. Vì vậy, ông miêu tả nhân vật của mình theo quan điểm “tôi miêu tả những con người cần phải được như vậy”. Bên cạnh việc tán dương vẻ đẹp và đề cao tài năng, các nhà nhân văn còn chú trọng đến quyền tự do của con người, đòi hỏi con người phải được hưởng mọi lạc thú ở “thiên đường trần gian”. Chủ nghĩa nhân văn còn là toàn bộ những quan điểm về đạo đức và chính trị: coi con người không phải là cái gì siêu nhiên, kì ảo hay những nguyên lý ngoài đời sống nhân loại mà coi con người là tồn tại thực tế trên mẹ đất. Con người với những khả năng trần thế và hiện thực của nó, những nhu cầu, những khả năng ấy đòi hỏi cần phải được thỏa mãn. Shakespeare ca ngợi: “kỳ diệu thay là con người! Con người cao quý làm sao về lý trí, vô tận làm sao về năng khiếu… thật là vẻ đẹp của trần gian, kiểu mẫu của muôn loài!”

Chủ nghĩa nhân văn đòi hỏi giải phóng con người cá nhân ra khỏi thiết chế phong kiến và nhà thờ kìm hãm con người như : chủ nghĩa thần bí, chủ nghĩa quyền uy, chủ nghĩa khổ hạnh, chủ nghĩa diệt dục để họ được tự do phát triển những khả năng vô tận . Trả họ về với trần thế để được tận hưởng những khát vọng sống khổng lồ về cả tinh thần lẫn vật chất. Đó là nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa nhân văn thời phục hưng, xuyên suốt ảnh hưởng đến đề tài, cảm hứng sáng tác của các nhà văn.,

Chủ nghĩa nhân văn còn mang tính chất chiến đấu rõ rệt : chống lại nhà thờ, giáo hội và quý tộc phong kiến bằng cách lên án đả kích, châm biếm sự tàn bạo dốt nát, lối sống giả nhân giả nghĩa của giáo sĩ và quý tộc. Chủ trương đưa văn hóa thoát khỏi tôn giáo, thoát khỏi thần học, chủ nghĩa nhân văn phê phán xã hội phong kiến và nhà thờ là hai thế lực ngăn cản sự phát triển của đời sống con người một cách quyết liệt. Chế độ phong kiến cho rằng con người cao quý hay thấp hèn là do dòng máu và đẳng cấp quyết định còn chủ nghĩa nhân văn coi con người tự bản thân nó trở thành cao quý do sự vĩ đại của nó. Cụ thể qua lời phát biểu của Đônkihôtê “ nghèo hèn mà có đạo đức còn hơn quý tộc mà gian ác… dòng máu quý tộc là cha truyền con nối, còn đạo đức là do chính mình tạo ra. Đạo đức có giá trị gấp bao nhiêu lần dòng máu ” thể hiện quan niệm mới về vị thế cá nhân trong xã hội.

Nhà thờ cho con người là thực thể mang tội lỗi nguyên thủy trái lại chủ nghĩa nhân văn coi con người “ là châu báu của vũ trụ ”, vẻ đẹp của con người là vẽ đẹp trần gian,là kiểu mẫu của muôn loài. Hay như đạo cơ đốc quan niệm con người là “ sản phẩm của chúa ”phủ định lại quan niệm đó chủ nghĩa nhân văn coi con người là “ sản phẩm của tự nhiên ”, có những nhu cầu tự nhiên về cả vật chất lẫn tinh thần. Chống lại những gì phản tự nhiên, đấu tranh do con người, đòi hỏi trả họ về với trần gian, được quyền hưởng thụ cuộc sống chính đáng : như ăn mặc, đi lại, vui chơi, giải trí…được phát triển về trí tuệ và tài năng, chủ nghĩa nhân văn trở thành hệ tư tưởng lớn tiến bộ của thời đại.

Bên cạnh đó chủ nghĩa nhân văn còn đề cao trình độ học vấn của con người dưới hình thức phủ định triết học kinh viện, nhà trường phong kiến với chế độ giáo dục “ ngu để trị ” không thể đem lại cho con người sự phát triển toàn diện.

Tình yêu tổ quốc, tinh thần dân tộc cũng nằm trong quan niệm của chủ nghĩa nhân văn. Các nhà nhân văn tin tưởng vào tương lai của đất nước mình, yêu tiếng nói và chữ viết mẹ đẻ, yêu thương quần chúng, đứng về phía quần chúng trong việc đấu tranh chống lại sự bóc lột. Phê phán cả những quan điểm phản khoa học và duy tâm, bất chấp tòa án và giàn thiêu của giáo hội,các nhà khoa học đứng về phía chân lý, bảo vệ sự thực, giáng những đòn quyết định vào thần học và triết học kinh viện, làm lung lay uy quyền của giáo hội. Tinh thần đó, góp phần làm quần chúng tỉnh ngộ trước “ liều thuốc phiện tôn giáo ”( chữ dùng của Ănghen ).

Chủ nghĩa nhân văn có một ý nghĩa lịch sử to lớn, tuy nhiên do một số hạn chế nhất định, chủ nghĩa nhân văn còn có một vài nhận định lệch lạc. Ca ngợi con người của tự nhiên nhưng không thấy được con người là sản phẩm của xã hội. Sự miêu tả con người gần với chủ nghĩa tự nhiên : quá chú trọng và quá say xưa đề cao mặt sinh vật của con người vô hình chung lại hạ thấp con người. Đấu tranh giải phóng cho con người nhưng chưa xác định được đối tượng nào cần được giải phóng trước tiên. Quá đề cao phương diện tinh thần chưa thấy được cần phải giải phóng tầng lớp nhân dân lao động khỏi gánh nặng cơm áo , một nhu cầu bức thiết của xã hội. Điều này làm cho tính chiến đấu dừng lại ở cấp độ thỏa mãn nhu cầu của giai cấp tư sản đang lên và thiếu tính đấu tranh triệt để.

Tuy có những hạn chế nhưng chủ nghĩa nhân văn trong phong trào văn hóa phục hưng vẫn là một trào lưu tư tưởng có tầm cao lịch sử, có cống hiến lớn đối với lịch sử tư tưởng con người. Nó đóng một vai trò quan trọng đối với việc phát triển văn hóa, văn minh cho xã hội loài người. Vậy chủ nghĩa nhân văn với phương châm yêu thương con người đồi quyền sống cho cá nhân là một hệ tư tưởng hoàn toàn chính đáng. Trên cơ sở đó hệ tư tuởng này được xem là hạt nhân, là xuất phát điểm đồng thời là điểm quy tụ của toàn bộ văn học phục hưng ,đem đến sức sống mới cho nền văn học khiến cho loài người khi tiếp xúc với nó cảm thấy như được sống lại, tái sinh lại.
 
1.2 Văn học theo tinh thần phục hưng.
1.2.1 Điểm mới về nội dung :

Nghệ thuật không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, đơn độc, mà là một hiện tượng xã hội nẩy sinh tồn tại một cách có quy luật trong mối liên hệ qua lại với những hiện tượng khác trong đời sống xã hội. Đã đi qua biết bao thời đại, điều kiện kinh tế xã hội của một nền nghệ thuật nào đó có thể không còn nhưng nhiều tác phẩm thời đó vẫn tồn tại và phát huy giá trị của mình trong thời đại tiếp theo. Điều đó bắt nguồn từ chổ : những tác phẩm đó mang ý nghĩa như những bằng chứng sinh động của một thời đại lịch sử. Văn học phục hưng là sản phẩm hồn nhiên của một thời đại sục sôi ý chí đấu tranh. Con người hiện đại đến với văn học phục hưng như đến với một khoảnh khắc hào hùng, một hơi thở mới sau một thời đại hầu như bị chìm trong bóng đêm dày đặc. Văn hóa phục hưng diễn ra ở Châu Âu vào thế kỷ XV- XVI, phong trào khởi đầu bởi việc tìm kiếm những di tích còn lưu lại của nền văn hóa la mã cổ đại. Ngạc nhiên trước sự hưng thịnh của nền văn minh xa xưa qua những thành tựu về văn hóa, khoa học giúp loài người nhận thấy rõ bản chất của xã hội phong kiến trung cổ chà đạp lên quyền sống và quyền tự do của con người. Nền văn hóa Hy Lạp sở dĩ có được một xã hội dân chủ là nhờ không có sự kìm hãm của nhà thờ, giáo hội và những luật lệ hà khắc của phong kiến. Nhận thức ấy thúc đẩy con người thời đại phục hưng tiến lên tự giải phóng bản thân mình, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn dựa trên cơ sở học tập truyền thống cổ xưa kết hợp với cái tiến bộ mới phù hợp với thời cận đại. Nội dung văn học thời kỳ này chính là mảnh đất hiện thực được tái hiện lên trang sách qua cái nhìn mang tinh nhân văn của giới văn nghệ sĩ. Thành công của dòng văn học được được thể hiện cụ thể trên các thể loại :


Thơ ca, ta có Đantê ( 1265-1324 ) người đi tiên phong trong phong trào phục hưng của Italia. Xuất thân trong một gia đình kỵ sĩ suy tàn ở Plorencia, ông căm ghét giáo hội và cổ vũ cho sự thống nhất của đất nước Italia. Tác phẩm lớn nhất của Đantê là tập thơ “ thần khúc” . Qua tác phẩm ta thấy dù đây là đề tài vốn được thời trung cổ khích lệ nhưng điểm đáng chú ý là những mầm non chồi biếc đã bắt đầu nhú lên báo hiệu một mùa xuân mới. Đó là niềm tin vào con người, vào trí thông minh, lòng dũng cảm; là tấm lòng thiết tha với quyền sống và căm phẩn những thế lực đen tối chống lại con người, tàn phá quê hương tổ quốc – với niềm tự hào về một quá khứ oai hùng và truyền thống tốt đẹp. Tác phẩm còn có cả niềm tin vào một đất nước Italia thống nhất và giàu mạnh, niềm tự hào về ngôn ngữ dân tộc. Đến với Pettracque ( 1304-1374 ) nhà thơ trữ tình của chủ nghĩa nhân văn ta thấy ông thật sự là ngọn cờ đầu của trào lưu nhân văn chủ nghĩa cũng như nền văn học phục hưng. Thơ ông là những khúc ca về tình yêu lý tưởng, về sắc đẹp, về sự đấu tranh giành độc lập tự do thống nhất đất nước. Lời thơ như những lời hiệu triệu thiết tha, thôi thúc, giục giã quần chúng xông lên. Bên cạnh đó ông còn đòi tự do trong sáng tác chống lại sự gò bó của chủ nghĩa kinh điển.


Ở thể loại tiểu thuyết với sự ra đời của tác phẩm “ mười ngày ”, Bôccaciô đã vạch trần sự giả dối của nhà thờ và giới tu hành : chế giễu sâu sắc giáo hoàng và tăng lữ; lên án giới quý tộc. Tác phẩm phê phán những đức tính : tham lam, keo kiệt, dâm ô, đạo đức giả….. Bên cạnh đó, tập truyện còn cổ vũ cho một cuộc sống vui vẻ, tận hưởng mọi lạc thú ở đời. Francois Rabelais ( 1494 – 1553 ) người Pháp tinh thông cả khoa học tự nhiên, văn học, triết học, pháp luật… thì đem đến cho người đọc một kiệt tác mang đậm dấu ấn thời phục hưng là “Gacgiăngchuya và Pantagruyen”. Tác phẩm được viết theo lối trào phúng giễu cợt thế giới trung cổ phong kiến, nhà thờ bằng những tiếng cười ngạo nghễ. Ca ngợi cuộc sống mới tự do vui vẻ nhưng không phải là một cuộc sống buông tuồng. Miguel De Cervantes ( 1547 – 1616 ) nhà văn Tây Ban Nha với tác phẩm nổi tiếng Đônquyjote với hình ảnh nhân vật chính cùng tên đã chỉ ra cái lỗi thời của giai cấp quý tộc Tây Ban Nha và quan niệm danh dự cổ hư. Đó là điển hình một nước quân chủ nghiên ngữa trong vũng lầy phong kiến và tôn giáo phản động. Có thể nó đây là thể loại phản ánh rõ nét tinh thần của thời đại và đưa nền văn học bước vào một giai đoạn mới – giai đoạn mà giai cấp tư sản bước vào vũ đài chính trị, khẳng định hệ tư tưởng mới tiến bộ của mình.


Khởi điểm của phong tào phục hưng là Italia sau đó lan rộng ra các nước Phương Tây khác. Nước Anh là nước bước vào thời đại phục hưng muộn hơn các quốc gia khác nhưng cũng bùng lên một nền văn hóa phát triển nhanh và mạnh. Mảng văn học từ lâu đã có truyền thống về kịch nay lại thêm phát triển với nhiều tên tuổi như : Lyly ( 1554 – 1606 ); Greene ( 1558 – 1592 ); Kyd ( 1558 – 1594 ); Malowe ( 1564 – 1593 ) và đặc biệt là thiên tài bất hủ Shakespeare ( 1564 – 1616 ) trong 20 năm sáng tác, Shakespeare đã để lại cho đời 37 vở kịch với nhiều thể loại : bi kịch, hài kịch, kịch lịch sử cũng với một nội dung mang tinh thần thời đại. Các tác phẩm ca ngợi về tình yêu, xem tình yêu là chất men của cuộc sống là hạnh phúc tuyệt vời trên cõi thế gian, là nguồn sức mạnh có khả năng chống lại mọi thế lực cản trở. Đặc biệt qua hình tượng nhân vật Hamlet, tác giả đã dựng lên được một con người tiêu biểu cho chủ nghĩa nhân văn, phản ánh được bản chất xã hội thối tha tựa như một “ ngục thất ghê tởm ”, một “ thời đại đảo điên ” qua cái nhìn và nổi khổ của nhân vật Hamlet. Chàng là lý tưởng đẹp vì đã bộc lộ được sứ mệnh xây dựng thời đại nhưng lại bị gục ngã và thủ tiêu.

Nhìn chung văn học phục hưng là một ngày hội mới sau một thời gian dài đắm chìm trong sự khống chế của phong kiến và thần học. Nếu văn học trung cổ chủ yếu ca ngợi tình yêu lãng mạn, những hiệp sĩ với tinh thần thượng võ, trọng danh dự, trung thành với lãnh chúa hào hiệp và ngoan đạo, hoặc có phê phán đả kích giai cấp phong kiến thì cũng chỉ mang tính chất hài hước, nhẹ nhàng. Giờ đây văn học khởi sắc với một “mùa hoa trái tưng bừng ”, tiếng cười bừng lên rộn rã len lỏi vào cuộc sống trần thế và ca ngợi con người, phản đối những gì trái tự nhiên, kìm hãm niềm vui sống của con người. Văn học mang tính chiến đấu cao vì lợi ích của con người, đặc biệt là người phụ nữ - những con người đau khổ sống gò bó, chật hẹp trong khuôn khổ cứng nhắc, lạc hậu, lỗi thời. Họ sống ngoài lề xã hội và chịu sự quản lý của nam giới. Giờ đây các nhà văn đứng lên nói hộ những khát vọng sống, bày tỏ nổi niềm, bản lĩnh tự chinh phục hạnh phúc cho bản thân.


Văn học phục hưng vừa phong phú về nội dung vừa khẳng định được giá trị nghệ thuật cao.


1.2.2 Cách tân về nghệ thuật :


Một tác phẩm văn học nghệ thuật đích thực luôn thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức như nhà lý luận Lêônôp đã từng nhận xét “ tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhất là tác phẩm ngôn từ, bao giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung ”. Chính vì vậy mà khi nội dung văn học phục hưng phát triển phong phú, mang tính chiến đấu cao thì hình thức nghệ thuật cũng có những biến đổi nhất định để tạo nên sự thống nhất biện chứng cho tác phẩm.


Sự thay đổi đầu tiên mà ta cần nhắc đến là thể loại tác phẩm. Nếu văn học Hy Lạp là sản phẩm của thời ấu trĩ, đến với nền văn học là đến với những kỷ niệm đẹp đẽ về thời thơ ấu của mình. Các tác phẩm chủ yếu được viết theo các thể loại : thần thoại, thơ trữ tình, bi kịch v..v.. để diễn tả một thế giới vừa hư vừa thực, đã đưa nền văn học phát triển cao với nhiều tác phẩm được xem là mẫu mực. Đến thời kỳ trung cổ - thời kỳ đen tối – người ta lại liên tưởng đến những gì xấu xa nhất, phản động nhất. Xã hội lúc này chịu sự chi phối mạnh mẽ của tôn giáo và phong kiến. Thời kỳ này nổi lên các thể loại như bài ca anh hùng, kịch và tiểu tuyết hiệp sĩ cung đình.


Đến thời đại phục hưng các thể loại trên đã có sự phát triển hoàn chỉnh và thời đại này còn là khoảng thời gian “ phôi thai ”chuẩn bị cho sự ra đời của các thể loại mới. Bên cạnh tiểu thuyết hiệp sĩ xuất hiện thêm thể loại tiểu thuyết trào phúng phù hợp với nội dung chế nhạo, chỉ trích tố cáo, phản kháng, bằng những tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại , khoa trương, hài hước mà ta có thể gặp qua các tác phẩm của Bôccaciô, Rabelais….


Thời kỳ này còn xuất hiện thêm thể loại truyện ngắn hiện thực mà Bôccaciô được xem là người có công mở đầu. Kịch thời này cũng đạt được sự phát triển hoàn thiện với nhiều loại hình mới : bi hài kịch, kịch lịch sử, nổi bật là thể loại kịch lịch sử - loại kịch xoay quanh các đề tài chống phong kiến để xây dựng nền quân chủ lập hiến. Nói chung, thể loại thời kỳ này có một bước phát triển mới, đa dạng, phong phú hơn phù hợp với yêu cầu biểu hiện một nội dung mang tầm cở thời đại.

Về phương pháp sáng tác cũng có nhiều cách tân cơ bản. Phương pháp sáng tác là linh hồn của nội dung hoạt động sáng tạo nghệ thuật và mỗi một trào lưu văn học có một phương pháp sáng tác riêng thể hiện thế giới quan của nhà văn. Bước vào ngày hội mới nền văn học có sự biến đổi về phương thức sáng tác. Bút pháp hiện thực bắt đầu xuất hiện và thắng thế, được các nhà văn sử dụng để sáng tạo nghệ thuật. Thế giới tả thực hiện lên sinh động qua từng trang sách đó là đời sống kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo, văn hóa … với đầy đủ từng lớp xã hội từ nông dân cho đến thợ thủ công, tăng lữ, quý tộc…


Văn học là một hình thức nghệ thuật ngôn từ, nên chất liệu cơ bản tạo nên tác phẩm văn học chính là ngôn ngữ. Văn học giai đoạn trước chủ yếu được viết theo tiếng la tinh thì giờ đây hưởng ứng tinh thần mới ,ngôn ngữ dân tộc trong văn học được đề cao. Bởi đó là phương thức đề cao tinh thần dân tộc, ca ngợi quê hương tổ quốc nên các nhà văn đã sử dụng một cách nhuần nhuyễn ngôn ngữ của dân tộc mình vào việc sáng tạo tác phẩm. Những tác phẩm được viết bằng tiếng mẹ đẻ góp phần đưa ngôn ngữ dân tộc tiến thêm một bước mới dài hơn, xa hơn, đủ sức miêu tả những tư tưởng tình cảm phức tạp. Ngôn ngữ dân tộc trở thành niềm tự hào của các nghệ sĩ sáng tác.


Đến lúc này nền văn học Châu Âu thực sự bước vào một trang sử mới với một sức sống mới khiến cho con người như thấy mình được tái sinh lại.


1.3 Kết luận :


Ở đây chúng ta đã có cái nhìn tương đối khái quát về thời đại phục hưng, nền văn học phục hưng cũng như những đặc điểm tính chất của hệ tư tưởng chủ nghĩa nhân văn có nhận thấy rằng việc nghiên cứu tìm hiểu các tập truyện kể theo tinh thần cơ bản của thời đại là một nhu cầu cần thiết giúp người đọc nhìn nhận đánh gái giá trị tác phẩm, tác giả một cách đầy đủ và sâu sắc hơn

Nguồn : Sưu tầm, tổng hợp

Hi vọng với bài viết trên sẽ giúp bạn có thêm kiến thức về thời đại Phục Hưng và nền văn học Phục Hưng. Bạn có thể tìm đọc những tác phẩm của nền văn học thời đại này. Tôi tin chắc đó là một trải nghiệm thú vị đối với bạn.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top