ĐỊNH NGHĨA VẬT CHẤT CỦA LÊ NIN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ
Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học đã có lịch sử khoảng 2500 năm, ngay từ lúc mới ra đời, xung quanh vật chất đã diễn ra cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Đồng thời giống như mọi phạm trú khác, phạm trù vật chất có quá trình phát sinh và phát triển gắn liền với hoạt động thực tiễn của con người với sự hiểu biết của con người về thế giới tự nhiên.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật thì thực thể của thế giới là vật chất, cái tồn tại một cách vĩnh cữu tạo nên mọi sự vật và hiện tượng cùng với những thuộc tính của chúng. Vào thời cổ đại các Triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó, tức là những vật thể hữu hình, đang tồn tại ở thế giới bên ngoài.
Ở Trung Hoa cổ đại, các nhà duy vật coi khí là thực thể của thế giới, ở Ấn độ cổ đại phái Nyaya coi nguyên tử là thực thể của thế giới, ở Hy lạp cổ đại Talet coi thực thể của thế giới là nước, Anaximen coi thực thể ấy là khí còn Hêraclit coi thực thể ấy là lửa. Phủ nhận quan điểm thực thể thế giới là một chất cụ thể, coi thực thể thế giới là 4 chất Đất, nước, lửa, không khí. Anaximadrơ cho rằng thực thể của thế giới là một bản nguyên không xác định về chất và vô cùng, vô tận về mặt lượng, đó là aperôn. Đỉnh cao của thuyết duy vật cổ đại về vật chất đó là thuyết nguyên tử của Lơxip và Đêmôcrít. Nguyên tử là các phần cực nhỏ, cứng, không thể xâm nhập, không cảm giác được, nguyên tử có thể nhận biết bằng tư duy. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng (Platon) Vật chất là cái không tồn tại, tồn tại là cái phi vật chất, bản nguyên của tinh thần siêu nhiên.
Thời kỳ phục hưng đặc biệt là thời kỳ cận đại thế kỷ thư 17 - 18, vật chất được đồng nhất với vật thể, với nguyên tử hay ête, sự thống trị của quan điểm máy móc, siêu hình về vận động của vật chất. Thời kỳ này trong chủ nghĩa duy tâm đáng kể nhất là Becơli, Hium.., Becơli tuyệt đối hoá vai trò của chủ thể nhận thức tuyên bố "tồn tại nghĩa là được tri giác"
Từ nữa thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 trung tâm Triết học chuyển từ Anh và Pháp sang Đức, tại đây chủ nghĩa duy tâm thống trị. Hêghen - nhà duy tâm điển hình xem toàn bộ thế giới tự nhiên, thực tiễn chỉ là sự biểu hiện, sự triển khai ý niệm hay tinh thần tuyệt đối..
Sự khủng hoảng của thế giới quan trong vật lý cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, sự ra đời của chủ nghĩa duy tâm vật lý học, quan niệm duy tâm - bất khả tri về cái gọi là "vật chất biến mất."
Định nghĩa vật chất của Lênin trong tác phẩm chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. V.I. Lênin đã định nghĩa "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ một thực tại khách quan được đem lại co con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không phụ thuộc vào cảm giác".
Lập luận của Lênin khẳng định vật chất không biến mất, chỉ có quan niệm cũ xưa lỗi thời về vật chất là không còn phù hợp nữa, cần có một cách hiểu mới về phạm trù vật chất trên cơ sở khái quát các thành tựu của khoa học và nhận thức.
Vật chất là một phạm trù Triết học bởi vì đó là sự xác định "góc độ" của việc xem xét để tránh nhầm lẫn giữa quan niệm của Triết học về bản chất của vật chất với các quan niệm của khoa học tự nhiên về cấu trúc và những thuộc tính cụ thể của các đối tượng vật chất khác nhau.
Với tư cách là một phạm trù Triết học, phạm trù vật chất phải thể hiện thế giới khách quan và hướng đến sự giải quyết vấn đề cơ bản của Triết học là mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại.
Vật chất là một phạm trù rộng lớn nhất nên không thể định nghĩa bằng cách thông thường trong logic học, đem quy khái niệm cần định nghĩa về khái niệm rộng hơn. Vật chất chỉ có thể định nghĩa bằng cách đặt nó trong quan hệ đối lập với ý thức, xem cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào.
Vật chất là thực tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức con người. Vật chất là vô cùng vô tận, nó có vô vàn các thuộc tính khác nhau rất đa dạng và phong phú mà khoa học ngày càng phát triển thì càng tìm ra, phát hiện thêm những thuộc tính mới của nó. Trong tất cả các thuộc tính của vật chất thì thuộc tính thực tại khách quan, tức là sự tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức con người là thuộc tính chung, vĩnh hằng với mọi dạng, mọi đối tượng khác nhau của vật chất, chính vì vậy V.I Lênin xem thực tại khách quan là thuộc tính duy nhất của vật chất.
Thuộc tính tồn tại khách quan ở ngoài và độc lập với ý thức chính là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất cái gì không phải là vật chất cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống xã hội. Tất cả những cái gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức của con người đều là những dạng khác nhau của vật chất. Ví dụ: những quan hệ kinh tế - xã hội, quan hệ sản xuất của xã hội... tuy khôngtồn tại dưới dạng vật thể, cũng không mang thuộc tính khối lượng, năng lượng, cũng không có cấu trúc phân tử, nguyên tử những chúng tồn tại khách quan, có trước ý thức và quyết định ý thức, bởi vậy chúng chính là vật chất dưới dạng xã hội. Thuộc tính này cũng là tiêu chuẩn để khẳng định thế giới vật chất có tồn tại thật sự, tồn tại do chính nó hay không. Bởi vậy thuộc tính đó là cơ sở khoa học để đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm.
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại chụp lại, phản ánh nghĩa là vật chất tồn tại khách quan nhưng không phải tồn tại trừu tượng mà là tồn tại hiện thực, cụ thể, cảm tính. Khi vất chất tác động lên các giác quan của con người thì gây ra cảm giác ở con người, đem lại cho con người sự nhận thức về chính nó, như vậy khả năng nhận thức của con người đối với vật chất chính là xuất phát từ thuộc tính tồn tại cảm tính tức là sự tồn tại của bản thân vật chất.
Bởi vậy về nguyên tắc đối với vật chất, thì chỉ có cái con người chưa nhận thức được chứ không thể có cái con người không thể nhận thức được. Đó chính là cơ sở để khoa học đấu tranh chống lại "thuyết không thể biết"
Vật chất được đem lại cho con người trong cảm giác tức lànó là nguồn gốc, nguyên nhân của cảm giác, của ý thức, nó có trước ý thức và tạo nên nội dung của ý thức. Còn cảm giác hay ý thức là sự chép lại chụp lại, phản ánh, nó có sau so với vật chất. Rõ ràng vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai, vật chất quyết định ý thức.
Định nghĩa vật chất của Lênin khắc phục được tính trực quan siêu hình, máy móc trong quan niệm vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ, do đó làm cho chủ nghĩa duy vật phát triển lên một trình độ mới, trở thành chủ nghĩa duy vật biện chứng, tạo cơ sở khoa học cho sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa lịch sử. Định nghĩa này cũng chính cơ sở khoa học và là vũ khí tư tưởng để đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, cả duy tâm khách quan lẫn duy tâm chủ quan và thuyết không thể biết một cách có hiệu quả để đảm bảo sự đứng vững cho chủ nghĩa duy vật trước sự phát triển mới của khoa học tự nhiên.
Định nghĩa vật chất của Lênin cũng trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho các nhà khoa học nghiên cứu thế giới vật chất, động viên cổ vũ họ tin ở khả năng nhận thức của con người, tiếp tục đi sâu, khám phá những thuộc tính mới của vật chất. Do vậy, định nghĩa này đã có tác dụng đưa khoa học tự nhiên và nhất là vật lý học thoát khỏi khủng hoảng vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 để tiếp tục tiến lên. Cho đến nay, mặc dù khoa học đã tiến lên một bước rất dài so với định nghĩa vật chất của Lênin (được viết trong tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được Lênin viết năm 1908 và xuất bản năm 1909) nhưng nó vẫn còn nguyên giá trị . Định nghĩa này vẫn là tiêu chuẩn để phân biệt thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
Câu khác: Phân tích định nghĩa vật chất của Lênin và ý nghĩa khoa học của định nghĩa?
Trả lời: Đối lập với coi ý thức chủ nghĩa duy tâm là cái có trước quyết định vật chất, chủ nghĩa duy vật khẳng định vật chất có trước quyết định ý thức, vật chất là vốn có không do ai sinh ra và tồn tại vĩnh viễn. Nhưng khi trả lời câu hỏi vật chất là gì thì các nhà triết học duy vật trả lời theo nhiều cách khác nhau.
- Triết học Mác ra đời vào giữa thế kỷ thứ XIX đã theo một đường lối khác trong quan nhiệm về phạm trù vật chất. Là chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học mác một mặt thừa nhận vật chất có trước quyết định ý thức, vật chất tự nó tồn tại không do ai sinh ra không bị tiêu diệt, mặt khác triết học Mác cho rằng thế giới vật chất là vô cùng lên cả trong không gian và trong thời gian, thế giới không có khởi đầu và không có kết thúc, tất cả đều vận động biến đổi không ngừng và không gian, thời gian cũng như vận động là những thuộc tính, những hình thức tồn tại của vật chất không thể quy vật chất về một dạng cụ thể nào đó của nó như nguyên tử, hay nước, lửa mà phải coi vật chất là một phạm trù khái quát tất cả các sự vật hiện tượng cụ thể. Trong tác phẩm "Biện chứng tự nhiên" Ănghen viết "thực thể, vật chất không phải là cái gì khác hơn là tổng số những vật thể, tự do người ta rút ra khái niệm ấy bằng con đường hiện tượng hóa. Nhưng Mác và Ănghen phải đưa ra có điều kiện một định nghĩa hoàn chỉnh về vật chất.
* Định nghĩa của Lênin về vật chất: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, phản ánh và tồn tại không là thuộc vào cảm giác.
Định nghĩa của Lênin về vật chất trước hết là sự kế thừa quan điểm của Mác và Ănghen coi vật chất là một phạm trù triết học khái quát thuộc tính của tất cả các sự vật hiện tượng chứ không quy vật chất vào một dạng cụ thể nào như các nhà triết học trước Mác đã làm Lênin đòi hỏi phải phân biệt vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với vật chất trong quan niệm của khoa học tự nhiên. Khoa học tự nhiên nghiên cứu các tính chất, các kết cấu của các đối tượng vật chất cụ thể, có hạn. Còn triết học khái quát những thuộc tính chung nhất, phổ biến của mọi sự vật hiện tượng và phản ánh chúng trong hệ thống phạm trù của mình như vật chất, vận động, không gian, thời gian...
Vậy phạm trù vật chất phản ánh thuộc tính nào của các đối tượng vật chất? Đó là thuộc tính "thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý thức con người và được ý thức con người phản ánh" chính thuộc tính đó cho phép con người phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Như vậy định nghĩa vật chất của Lênin đã giải đáp được cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phân biệt về nguyên tắc với chủ nghĩa duy tâm bất khả tri luận, đồn thời cũng khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu hình trong quan niệm coi nguyên tử là giới hạn cuối cùng của vật chất, củng cố niềm tin cho các nhà khoa học tin tưởng vào giá trị khách quan của các thành tựu khoa học hiện đại, tin tưởng vào khả năng của con người có thể nhận thức đúng về thế giới vật chất.
Các nguồn