Trang Dimple

New member
Xu
38
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương



Chương 31: NGƯỜI ANH EM (2)

An không dám nói thêm. Anh còn có thể nói thêm được điều gì trước một người đích thực vừa làm chú vừa làm cha ? Vả chăng, đang tuổi tráng niên, anh cũng muốn lên đường. Những chân trời mới lạ mời mọc anh. Những tiếng ầm ì từ khoảng không xa xôi vẳng lại khiến tâm hồn anh nôn nao. Cuộc chiến tranh sôi động của dân tộc vọng đến tận những rẻo rừng hẻo lánh nhất. Nhiều bạn đồng môn của anh đã lên đường. Nàng Xuân cũng rời bản Xíu ra đi khi tròn mười ba tuổi, gia nhập đội thiếu sinh quân của chiến khu. Mai đây, em gái anh có thể được gửi đi học Liên-xô hay Trung quốc theo chương trình đào tạo của chính phủ cách mạng. Như thế đấy, làm sao anh ngồi yên ?Thung lũng êm đềm quê hương bị quây bọc bốn bề bởi rừng núi. Những giải rừng hiền hoà anh đã thuộc kĩ từng lối mòn. Những rặng núi thân quen anh có thể đếm đủ bao nhiêu dòng nước róc rách trên các khe đá chảy xuống. Con thác Sơn ca reo khúc nhạc bất tận từ thuở anh lẫm chẫm tập đi cho tới lúc anh biết làm tình. Những dấu chân của đàn trâu dẫm trên con đường lầy lội vào bản ngày mưa. Tiếng lục lạc reo dưới cổ chúng vang lên trong các hoàng hôn vắng vẻ. Tất cả quá quen thuộc, quen thuộc đến sờn mòn và bí bức. Anh hiểu rằng anh cần rời bỏ thung lũng thân quen này để biết được thế giới bên ngoài tồn tại ra sao. Anh phải ra đi, tuy anh yêu nàng.
- Anh đi , rồi bao giờ quay về ?..
Nàng hỏi.
- Anh đi đánh giặc. Hết giặc anh sẽ về.
Anh đáp, như hết thảy những người trai thời tao loạn ; nói những lời lẽ đẹp đẽ cổ xưa mà họ đã thuộc lòng.
- Em nhớ anh.
Nàng nói tiếp và bắt đầu khóc.
- Anh cũng nhớ em. Nhưng để làm tròn nghĩa vụ với non sông, anh phải ra đi. Nhớ anh thì hãy chờ anh. Nhất định anh sẽ về.
Anh đáp lại. Cũng những lời lẽ mà các chiến binh ngàn đời đã nói với người vợ trẻ của họ trước khi rời khỏi xóm thôn. Những lời an ủi ấy hẳn dành cho cả kẻ ra đi lẫn người ở lại bởi tuy nói để trấn an người yêu nhưng sống mũi anh cũng bắt đầu cay như ăn nhầm dưa cải muối còn xanh. Nàng gục mặt lên vai anh và nước mắt nàng thấm ướt tấm áo chàm anh đang mặc. Nước mắt nàng ấm nóng. Ấm nóng như là ...
Ý nghĩ ấy khiến An sởn gai ốc. Anh vội nhắm mắt lại. Một hơi gió lạnh thổi tạt từ phía sân khấu vào mặt anh, và cùng lúc ấy, tiếng hát của người đàn bà điên dại mặc váy đỏ, tóc cài hoa đại vang đầy không gian :
― Con gà rừng,
Sao mày ăn lộn với lũ công...
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng ?...„
An thầm nói với chính mình :
― Cuộc sống vốn dối gian như vậy. Tựa như con gà rừng ăn lộn với bầy công. Nước mắt thơ ngây của em làm nóng vai ta đêm năm xưa. Còn đêm nay, vai ta lại ấm nóng bởi máu người. Máu kẻ phản bội trộn lẫn máu người vô tội. Một kiểu như con gà rừng ăn lộn với bầy công. Nhưng đấy chính là con đường của số phận dẫn đưa. Ta không có cách nào thoát khỏi con đường ấy. Ta sẽ còn tiếp tục đi theo con đường ấy để tìm đến nơi em trú ngụ. Em và nàng Nhỏ của chúng ta „
- Hoan hô........
- Hoan hô....Hoan hô....
Mọi người ào ào đứng lên xung quanh An. Anh vội vã đứng lên theo họ. Đêm biểu diễn kết thúc. Tất cả các diễn viên, các nhạc công cùng đổ ra sân khấu một lần để chào binh lính. Ban chỉ huy lên sân khấu tặng hoa. Gọi là hoa nhưng thực sự chỉ là các bó cỏ lau, kẹp ở giữa một bông chuối rừng hoặc một chùm mẫu đơn núi. Nhưng tất thảy đều tràn đầy phấn khích. Đàn phong cầm kéo vang hết cỡ trước máy phóng thanh để cả người diễn lẫn người xem cùng hát lên bài ca chung cuộc trước lúc chia tay. Người đứng bên trên sân khấu vẫy hoa, lính bên dưới vỗ tay theo nhịp trống :
Ta vượt trên triền núi cao Trường sơn
Đá mòn mà đôi gót không mòn
Ta không nề gian lao không nề xông pha
Quân về theo gió đang dâng triều lên...
Tiếng vỗ tay dội vang rừng núi. Rồi sau một vài phút ồn ào, sư đoàn phó bước lên trước micro cảm ơn đoàn văn công, đồng thời chúc các đơn vị một thời kì huấn luyện tốt đẹp...An nhìn rõ vẻ nháo nhác tìm kiếm của ông ta trước khi bước lên sân khấu. Bởi người có sứ mạng nói lời kết thúc đêm nay lẽ ra phải là sư trưởng.Vị lãnh đạo đã biến mất một cách thần bí.
Rồi các đơn vị trong tiểu đoàn 209 bắt đầu kiểm lại quân lính trước khi rút lui. Quân của sư đoàn chia ra các ngả về trại. An nhìn thấy tiểu đoàn trưởng Nhã vẻ như đang tìm kiếm mình. Anh giơ tay lên cao vẫy :
- Tiểu đoàn trưởng, đại đội chúng tôi ở đây.
Phía xa, Nhã cao tiếng gọi :
- Đồng chí cho anh em về nghỉ rồi đến gặp tôi.
An ra lệnh cho các trung đội trưởng :
- Các đồng chí có thể về lán. Chẳng còn gì để làm vào lúc này. Sáng mai, chắc chắn lãnh đạo sư đoàn cho anh em ngủ bù. Tôi đoán vậy.
- Báo cáo đại đội trưởng, cho anh em ngủ bù là hợp lý. Giờ đã là ba giờ kém hai mươi nhăm.
Các cánh quân 209 theo nhau rút lui. Gấp gáp, chen lấn, hối hả không thua gì lúc đến. Từng đợt sấm ì ầm đã vọng bên trên các cánh rừng.
- Mau chân lên mày ! Thằng này hậu đậu hay sao thế ?
- Mau thế chó nào được. Đường hẹp bỏ cha.
- Thế thì mày dẹp sang một bên cho tao vượt lên trước.
- Các cậu cãi nhau ngậu xị làm gì vậy ? Vượt lên hay tụt xuống thì cũng chỉ hơn nhau vài thước, trốn không khỏi mưa. Biết điều thì chuẩn bị sẵn vải nhựa ra.
- Lậy trời đừng mưa vội. Lạy trời chờ chúng con về lán rồi hãy đổ mưa. Mưa có to đến mấy cũng được.
- May ra thì thoát được, sấm đằng đông vừa trông vừa chạy, nhưng đêm nay lại sấm đằng tây.
- Đồ ngốc, sấm đằng tây mưa giây gió giật, tuy có muộn hơn nhưng lại dữ dội gấp muôn phần.
- Rồi xem.
Gió đêm cuồn cuộn chảy trên các vòm cây hùng vĩ. Tiếng lắc rắc của các cành lá nghe như chúng sắp gãy ngay trên đầu ta. An chờ cho lính rút lui hết mới thong thả tiến về phía tiểu đoàn trưởng. Ông đang đứng với sư đoàn phó và đám lãnh đạo các tiểu đoàn. Họ đứng thành hình vòng tròn, khi anh bước tới vòng tròn đó mở ra như một cách chờ đợi và chào đón. An hiểu rằng họ không biết tìm thông tin ở đâu ngoài một mình anh :
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, đồng chí cho gọi tôi ?
Anh dừng lại trước tiểu đoàn trưởng Nhã, cất tiếng hỏi :
- Lại đây ! Lại gần đây !
Nhã vồn vã :
- Không phải để gặp mình tôi mà toàn thể ban lãnh đạo. Chúng tôi đang lo lắng vì không rõ sư trưởng đi đâu. Vào nửa chừng cuộc biểu diễn, đồng chí ấy đã đi theo một cán bộ đại đội bên tiểu đoàn bạn...Đến bây giờ cũng không thấy hai người quay trở lại. Tiểu đoàn 209 báo cáo rằng trước khi vào bãi xem đại đội trưởng người Mèo này đã gặp đồng chí tại cửa rừng. Và sau đó đồng chí đã cùng với anh ta nhập vào đơn vị 209?
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, chính xác là như thế. Tôi ngồi xem với cậu ta cho đến hơn chín giờ. Đột nhiên bị đau bụng nên phải quay về lán lấy thuốc uống. Lúc trở lại trảng tôi tìm về đại đội của mình vì e lính sốt ruột không thấy thủ trưởng đâu.
- Đồng chí là đồng đội cũ với đại đội trưởng người Mèo ?
- Dạ, tôi cùng trung đội với Mã Lỳ từ hồi trên rừng Việt bắc. Nhưng lúc đó cậu ta chỉ là giao liên ngoài phiên chế vì chưa đủ tuổi. Rồi sau ngày giải phóng thủ đô, trên cử người về tuyển lính vượt biên giới làm nhiệm vụ đặc biệt. Một số anh em đã tình nguyện lên đường, trong đó có tôi. Như thế, đã mười lăm năm chúng tôi không gặp nhau.
- Những ngày còn gần gũi cậu ta trên Việt bắc, đồng chí có biết gì về hoàn cảnh riêng tư của cậu ta hay không ?
- Tôi không biết nhiều lắm vì tuổi tác chênh lệch. Cậu ta thân với mấy anh Sán dìu, Sán chỉ vùng Lạng giang Hà bắc hơn tôi. Nhưng thi thoảng nhóm dân tộc chúng tôi gồm sáu chủng loại cũng góp tiền rủ nhau liên hoan. Những dịp ấy, Mã Lỳ thường khoe rằng máu chảy trong người cậu ta không phải thuần tuý máu dân Mèo mà là một thứ hộn huyết . Bà ngoại cậu ta vốn là dân Kinh buôn cá mắm khô gặp thời ly loạn bị cướp hết bạc tiền nên đành ở lại miền núi, lấy ông ngoại cậu ta vốn là tay buôn thuốc phiện có tiếng trong vùng. Hồi nãy, khi chúng tôi mới gặp nhau, Mã Lỳ có nói rằng cậu ta sẽ đi tìm một người bà con trong sư đoàn của chúng ta.
- Sư trưởng ?
Cùng một lúc sư đoàn phó và các tiểu đoàn trưởng bật lên câu hỏi. Không ai trả lời. An hỏi lại họ :
- Các đồng chí nói rằng sư trưởng đã ra đi cùng với Mã Lỳ ?
- Đúng thế. Sau tiết mục hề chèo thứ sáu.
Sư đoàn phó đáp.
- Lúc đó chắc tôi chưa kịp quay lại.
An nói.
Cả đám sĩ quan giương mắt nhìn nhau, người nọ nhìn vào mặt người kia như học trò vỡ lòng nhìn vào tấm bảng đen ghi đầu đề toán cấp một. An chờ đợi vài phút rồi quay sang tiểu đoàn trưởng Nhã :
- Tôi nghĩ họ sang bên kia núi Gấu trúc trước lúc đêm diễn kết thúc. Nếu quả thực sư trưởng là họ hàng của Mã Lỳ, cậu ta sẽ phải gọi đồng chí ấy là cậu. Với người Kinh, họ nhà nội thường coi là gần gụi nhưng với người Mèo, cậu cháu, họ đằng mẹ hay bà ngoại mới thật sự là thân thiết. Ngần ấy năm cách biệt, họ phải có rất nhiều chuyện để nói với nhau.
- Có thể ...
Nhã đáp.
Một tràng sấm ầm ì liên tiếp đuổi nhau từ phương tây vang tới. Vài tia lửa mờ rọi lên vùng trời đêm đen như than. Sư đoàn phó đưa mắt nhìn khắp lượt rồi nói :
- Dù sao chúng ta cũng phải chờ đến sáng mai mới rõ được sự tình. Quả là kì cục. Nếu sư trưởng cần thiết đi đến như vậy, ít nhất đồng chí ấy cũng phải nhắn cho tôi một lời.
Ông móc chiếc đồng hồ trong túi áo ra xem rồi nói tiếp :
- Ba giờ đêm rồi. Chúng ta về hầm thôi. Ngày mai, chín rưỡi sáng ban chỉ huy tập trung. Lính tráng cho ngủ thoả sức.
Quay sang An, ông bảo :
-Cảm ơn đồng chí. Chúc ngủ ngon.
Đám người tản ra theo các lối khác nhau trở về nơi trú ẩn. Tiểu đoàn trưởng Nhã cùng An theo một lối. Trên chặng đường tối đen như mực, bất chợt Nhã buông tiếng thở dài :
- Không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy đêm nay vô cùng ảm đạm. Thật phí hoài cả cuộc vui.
- Vâng.
An đáp.
Một chuỗi sấm nữa lại nổ rền. Hơi gió lạnh thổi ràn rạt qua trảng cỏ làm tê lạnh da mặt họ.
Tiểu đoàn trưởng bảo :
- Chạy đi! Gió đã đổi mùi.
- Vâng.
Hai người cùng cắm đầu chạy . Ánh đèn nhoang nhoáng vẩy trong bóng đêm. Mươi phút sau, họ chui được vào hầm. Cũng chính lúc đó, đêm bừng lên từng đám tia chớp, te tướp loằng nhoằng như những bó gân người bị tước nhỏ. Tiếp đó, những hồi sấm liên tục nổ vang ngay trên đầu họ. Rồi mưa quất xuống những loạt liên thanh. Gió bắt đầu gào hú từng cơn, bổng trầm xen những loạt roi mưa quất ràn rạt. Cây cối vặn mình răng rắc, nghiêng ngả bốn bên. Hai người đứng lại trước của hầm một giây, nhìn ra ngoài trời :
- Khiếp thật. Đúng là cơn đằng tây mưa giây gió giật.
Tiểu đoàn trưởng nói.
- Vâng.
An gật đầu.
- Giờ là lúc chúng ta có thể yên tâm ngủ. Ít nhất cũng được đêm nay.
Nhã nói tiếp.
- Vâng, chiến tranh mà. Sống ngày nào hay ngày ấy.
An hoạ theo.
Rồi hai người vào hầm.
Khi đã chui vào màn, An lắng nghe tiếng mưa tuôn như thác xối ngoài trời, thầm nói :
― Ngày mai, không dấu vết nào còn lại trên bờ suối. Có một trăm thứ kính hiển vi cũng không tìm nổi vân tay kẻ sát nhân. Sư trưởng ơi, chớ thù oán tôi mà tội nghiệp. Ông đã trót là người nắm quyền trong bộ máy này. Quyền càng cao thì nguy hiểm càng sâu. Vinh càng dầy thì nhục càng đậm. Xưa nay sự thế vẫn xảy ra như vậy. Ông hãy ngủ yên nơi chín suối với những người thân thuộc của tôi.„
Anh thở dài. Rồi tức khắc chìm vào giấc ngủ.
***
Giấc ngủ ấy không có ác mộng, cũng chẳng có cơn mơ vàng.
Không một hình bóng quá khứ, cũng chẳng một nét vẽ về tương lai.
Giấc ngủ ấy đen kịt như đêm đông, dầy đặc như sương mù tháng chạp, nặng nề như cỗ xe bò chở gỗ. Giấc ngủ ấy như con thuyền bơi trên một dòng nước mênh mông, lặng lờ không sóng vỗ, chẳng ra sông cũng chẳng ra hồ, không phải đầm nước trong cũng chẳng phải vùng biển đục. Con thuyền ấy chở anh trôi đi, trôi triền miên giữa một vùng đen thăm thẳm...
Đại đội trưởng An ngủ liền một mạch cho đến tận mười giờ sáng hôm sau, khi ban chỉ huy tập trung, tiểu đoàn trưởng Nhã thấy thiếu mặt anh cho lính quay về gọi. An vùng dậy, đi ngay.
Trong hầm chỉ huy, tất cả đã tề tựu, người đứng kẻ ngồi, túm tụm thành từng nhóm. Thấy anh, tiểu đoàn trưởng Nhã tiến ra đón :
- Ngủ kĩ vậy ? Tôi ăn sáng rồi đi luôn không quay lại hầm. Tưởng cậu phải nhớ giờ mà dậy ?
- Thủ trưởng biết tính tôi hay ngủ nướng mà. Khi tôi thức dậy hãy còn tối đất nên đành nằm xuống ngủ thêm giấc nữa. Giấc ngủ lại bao giờ cũng nguy hiểm. Sao ? Các đồng chí đã có tin tức của sư trưởng hay chưa ?
- Không thấy gì hết...nhưng...
- Có chuyện gì vậy ?
- Lính tìm thấy hai chiếc quần của họ, cùng vũ khí và những thứ đồ lặt vặt trên bờ suối. Sư đoàn đang đứng trước sự lựa chọn nan giải : Hoặc là báo cáo lên trên, chờ phán xử. Hoặc phải tìm cho ra lý do
hợp lý hoá việc này. Sư đoàn phó và tất cả chúng tôi hy vọng sự gợi ý của đồng chí. Ở đây, đồng chí là người duy nhất từng quen biết đại đội trưởng dân tộc Mèo, đối tượng tác nhân.
- Xin cảm ơn sự tin cậy của các cấp lãnh đạo. Nhưng khả năng hiểu biết của tôi vô cùng hạn chế. Mã Lỳ là người Mèo. Anh ta ở nhà đất, ăn bánh ngô, trồng thuốc phiện là nghề chính.Tôi là dân Tày. Dân Tày chúng tôi ở nhà sàn, nuôi trâu bò gà lợn và trồng lúa nương, ăn cơm tẻ lẫn xôi nếp. Thông thổ, tập tục khác nhau. Thêm nữa, cũng đã mười lăm năm cách biệt.
- Dẫu sao các đồng chí cũng đã từng là đồng đội. Vả chăng, cùng là dân miền núi.
An cất tiếng cười :
- Bây giờ tất cả chúng ta đây đều là dân miền núi bởi chúng ta sống trong dãy Trường sơn. Gọi dân miền núi chung chung có nghĩa rằng chẳng biết gì về đám dân sơn cước.
- Ồ ....thành thực mà nói...
Nhã lúng túng đáp rồi gỡ kính xuống lau, cử chỉ quen thuộc mỗi khi bối rối. Lúc đó sư đoàn phó đã nhìn thấy An nên ông vội vã tiến đến. Theo sau ông là nhóm cán bộ đứng đầu các tiểu đoàn. Mọi người chào nhau rồi tất thảy xúm quanh An với vẻ chờ đợi. Nhưng anh quay sang tiếp tục nói với tiểu đoàn trưởng Nhã :
- Trước hết, tôi muốn xem người ta tìm thấy những gì trên bờ suối. Bởi, tôi không tin Mã Lỳ rủ sư trưởng xuống suối tắm, nhất là lúc trời đã tối đen và nước đã trở lạnh. Nói thẳng thừng, người Mèo không thích tắm. Họ có thói quen tắm lửa, nhất là những ai đã lâu ngày hút thuốc phiện. Đồng chí biết thuốc phiện đã từng được coi như cơm trắng trong vương quốc người Mèo ?
- Thú thực, lần đầu tôi nghe chuyện ấy. Quê tôi ở ven sông Hồng. Từ ngày vào lính cũng chỉ tiếp xúc với dân Kinh. Đồng chí là người dân tộc đầu tiên tôi quen biết.
- Lãnh thổ của người Mèo nằm trên tam giác vàng, miền trồng cây anh túc và sản xuất thuốc phiện cho nửa phần châu Á. Vua Mèo Hoàng-su-Phì từng thống lĩnh một đội quân đặc biệt tinh nhuệ, có nhiệm vụ bảo vệ những chuyến hàng vượt biên giới, đánh trả lại bất cứ quân lính của quốc gia nào cũng như các toán lục lâm. Dân Mèo vì thế buộc phải trồng thuốc phiện cho nhà vua để đổi lấy gạo, muối, cá mắm khô và dầu hoả. Nhiều đời như thế, họ trở thành nghiện thuốc phiện như người Kinh nghiện ăn cơm trắng. Không hiểu vì lý do nào, những người nghiện thuốc phiện thường rất sợ nước. Họ ít khi tắm suối, tắm khe hoặc đun nước nóng tắm trong nhà. Họ thường cởi quần áo ngồi cạnh đống lửa để hơi nóng làm mồ hôi toát ra khắp các lỗ chân lông, rồi họ lấy tay vê ghét lại thành viên và ném vào đống tro hoặc vun vào một góc rồi đổ ra vườn.
- Trời đất ơi, thật thế à ?
Một cán bộ tiểu đoàn bật lên tiếng kêu kinh ngạc.
An quay sang nhìn ông ta :
- Đồng chí cho là tôi bịa chuyện ? Hoặc là tôi phân biệt sắc tộc nên nói xấu người Mèo ?
- Ồ không...
Sư phó gạt đi :
- Đơn thuần chỉ là sự ngạc nhiên thôi. Đồng chí chớ hiểu lầm. Chính tôi đây cũng chưa từng biết điều đó.
An biết rằng câu chuyện về cách tắm của người Mèo kích động trí tò mò của đám cán bộ sư đoàn nhưng họ cố ghìm nén mà không dám hỏi thêm. Cứ nhìn những ánh mắt thầm lén trao đổi là đủ biết.
Tiểu đoàn trưởng Nhã nói với sư phó :
- Đồng chí An muốn xem hiện trường bởi không tin vào giả thuyết là hai người rủ nhau tắm suối. Tôi hy vọng lính còn giữ nguyên mọi dấu vết ?...
- Yên tâm...Tôi đã ra lệnh bảo vệ hiện trường trong khi chờ đợi kết luận. Đồng chí có thể đưa đồng chí An ra xem.
- Chúng tôi sẽ trở lại ngay sau khi xem xét.
Nhã nói. Rồi tiểu đoàn trưởng ra khỏi hầm chỉ huy trước tiên.
An đi sau ông, nhìn mái tóc hoa râm phủ trên cổ áo đã bạc màu. Ở tuổi năm mươi, trông ông già hơn sư trưởng đến mười năm. Trong cuộc chiến tranh này, rõ ràng là dân miền biển và dân miền núi chịu đựng tốt hơn nhiều đám dân đồng bằng. Những bông hoa nở ven bờ sông Hồng, sông Luộc tàn rất mau vì mưa nắng Trường sơn.
Đồng hồ chỉ mười giờ hai mươi phút nhưng lính tráng đã đứng túm năm tụm ba khắp trảng. Lẽ ra họ có quyền ngủ hoặc ngồi chơi bài trong hầm. Nhưng tin tức rỉ từ tai nọ sang tai kia, nên khi hai người đi đến bờ suối, lính sư đoàn đã đổ ra đông nghịt. Một sợi dây dù chăng giữa ba thân cây, làm ranh giới bảo vệ hiện trường. Tiểu đội trực thuộc văn phòng ban chỉ huy sư đoàn làm nhiệm giữ đám lính tò mò bên ngoài sợi dây dù đó.
An đưa mắt nhìn bờ suối. Dấu vết con lũ còn hằn lên các ngấn cát và những đám sỏi bị nước bào. Những thứ đồ vật chiều qua xếp gọn thành đống giờ tẩu tán khắp nơi. Hai chiếc quần trôi tụt xuống phía dưới chừng dăm thước rồi dạt vào một gốc cây. Một chiếc đèn pin chúc đầu xuống cát chỉ còn nhô lên hai phần ba than đèn, chiếc kia bị nước cuốn trôi tít xuống chừng ba mươi thước rồi mắc vào một đám cành khô. Những thứ lặt vặt như lọ tăm, hộp thuốc lá, bật lửa, bấm móng tay....biến mất tăm không dấu vết. Chỉ hai khẩu súng là còn nguyên vị trí cũ cùng với một chiếc giầy. Tuy nhiên, chúng cũng phủ đầy bùn cát. Ồ, cơn mưa rừng đêm qua quả là trác tuyệt, nó đích thực là một gã phù thuỷ cao tay đã biến đổi hoàn toàn cảnh tượng sau lời thần chú.
- Ồ, cơn đằng tây mưa giây gió giật.
An bất giác thốt lên tiếng kêu :
- Đồng chí nhìn xem ngấn bùn đọng trên chiếc giầy.
- Quả là hung dữ, cơn mưa rừng đêm qua...
Tiểu đoàn trưởng Nhã gật đầu rồi nói tiếp :
- Mùa mưa năm trước, con suối này cuốn đi cả một cặp nai. Lính sư đoàn 89 đóng quân ở mạn dưới nhìn thấy hai con vật còn giãy giụa giữa dòng liền đem súng ra bắn rồi quăng dây kéo vào làm thịt. Kéo được hai con nai vào thì một cậu lại bị rớt xuống và lũ cuốn phăng đi không kịp cất tiếng kêu.
- Sao tôi không nhớ chuyện đó nhỉ ?
- Nhớ làm sao được ? Chuyện đó chỉ phổ biến trong nội bộ lãnh đạo ban sư đoàn. Ai dám chấp nhận sự thật ấy ?
Tiểu đoàn trưởng chép miệng và hạ giọng gần như thì thầm :
- Khổ thay ! Miếng ăn đổi lấy mạng người.
An trầm ngâm nhìn dòng suối và thầm nhủ :
« Đêm qua nếu ta không cột chặt một bên chân vào gốc cây, hẳn ta cũng lãnh được một cái chết như cậu lính vớt nai kia. »
Quay lại, An thấy đám lính đang chằm chằm nhìn anh và Nhã. Họ là những khán giả của một vở tuồng thần bí không có cốt truyện cũng chẳng có phông màn. Nhân vật chính không xuất hiện. Chỉ duy nhất vài mẩu trang phục và dăm thứ đạo cụ ném ngổn ngang. Nhưng vở tuồng này kích động tâm trí biết bao người vì nó liên quan cùng lượt đến cái chết hữu hình và cái chết vô hình. Nếu không hẳn là cái chết tuyệt đối thì cũng là sự thương tổn nghiêm trọng đến danh dự các cấp lãnh đạo. Chưa đầy ba tháng trước, toà án binh vừa xử bắn hai cậu lính hiếp một người đàn bà Vân kiều đốt than trong núi. Cuộc xử tử được thông báo khắp bốn sư đoàn quần thảo nơi chiến trường để làm gương răn đe. Vậy mà giờ đây, sư trưởng sư đoàn danh tiếng nhất, nhiều thành tích chiến đấu nhất khắp miền biến mất tiêu với một gã Mèo, trong đêm khuya, không một lời nhắn nhe, và vào buổi sáng hôm sau người ta tìm thấy hai chiếc quần trôi dạt trên bờ suối. Hẳn không cần thông minh lăm lắm cũng có thể mường tượng được tất thảy những gì xảy ra trong óc não đám lính đang xúm đông xúm đỏ kia.
Có lẽ tiểu đoàn trưởng đã đoán được điều ấy nên sau một lát chờ đợi, ông lên tiếng giục An :
- Chúng ta quay về hầm chỉ huy được chưa ?
- Vâng.... Nhìn thế cũng là đủ.
An đáp. Rồi họ quay gót. Tiếng lào xào bàn tán của đám đông đuổi theo họ. Nhất là khi hai người đi khuất trong rừng, gần như tức thời tất thảy những tiếng nói đều cất cao lên, giọng nào cũng oang oang như ra-đi-ô mở hết cỡ. An hiểu rằng đám lính trẻ chủ tâm để cho họ nghe thấy :
- Tôi đoan chắc là hai ông này rủ nhau ra nơi vắng vẻ chơi trò kê giao. Họ chọn đúng thời cơ đấy chứ ? Lính đang mê mải xem văn công, các ngài ra đây giải quyết nỗi buồn cho củ hành bí bức.
- Kê giao là cái gì nhỉ ?
- Đừng vờ vịt, tiên sư bố khỉ. Mày không biết thì còn ai biết cái trò ấy ?
- Mày muốn gắp lửa bỏ tay người phải không ?
- Lửa với than ! Bữa trước thằng mặt mẹt nào kể với tao là lính Lào chuyên trị chơi trò lắp đít ?
- Thế lắp đít với kê giao là một hay sao ? Giờ tao mới biết...
- Bố sư thằng hề đểu.
- Không đểu thế làm sao chúng mày được mặc sức cười ?
Những tiếng cười náo loạn chen chúc nhau, rú rít, sằng sặc,ha hả....Những tiếng cười bắn liên tục như đạn liên thanh. Những tràng cười rặn ra từng cục như kẻ táo bón trong cơn sổ ruột.
An nhìn thấy Nhã cúi đầu rảo bước thật nhanh, dường như muốn chạy trốn những lời đàm tiếu của đám lính. Chắc tiểu đoàn trưởng khổ tâm lắm. Đó là một con người nho nhã, có đôi phần đơn giản. Mọi tổn thất của cuộc sống tinh thần thường khiến ông hoảng hốt và bị dằn vặt nặng nề hơn những người khác.
An rảo bước tiến sát lưng ông, lên tiếng :
- Chẳng ai sinh ra để làm lính. Chiến tranh là sự chẳng đừng. Thủ trưởng chớ nên nghĩ ngợi nhiều quá.
- Tôi vốn là người không thích đa sự. Nhưng quả tình không muốn nghĩ cũng không được. Đồng chí lý giải ra sao sự việc này ?
- Tôi cũng bất lực. Tôi không thể thông minh hơn các đồng chí.
- Chúng ta sẽ giải thích ra sao trước anh em ?
- Nếu chúng ta không hiểu thì tốt nhất là đừng giải thích.
- Nhưng điều đó là bất khả. Muốn hay không cũng phải giải thích lý do trước tất thảy mọi người. Trong quân đội, mọi cái chết đều phải tuyên bố rõ ràng vì nó còn liên quan đến những người trong gia đình họ. Hoặc là một cái chết nhục nhã của kẻ phản bội, hoặc là sự hy sinh vì nhiệm vụ trước nhân dân và như thế, thân nhân của họ có quyền được hưởng sự đền bù.
- Vâng.
Nhã đáp.
Cùng lúc, trong thâm tâm anh bật lên tiếng cười chua chát :
« Nhưng cuộc đời không đơn giản như thế. Còn có rất nhiều cái chết nằm ở ngoài vùng đất quy hoạch của các vị. Có những cái chết oan uổng, những cái chết nghẹn ngào câm lặng, những cái chết vô ý vô tình, những cái chết bò đến như loài rắn độc, những con rắn độc của định mệnh mà không ai có thể phòng ngừa và chống đỡ. »
Chẳng mấy chốc họ đã trở lại hầm chỉ huy.
Mọi người lặng lẽ uống nước chè hoặc rít thuốc trong khi chờ đợi họ. An biết người ta muốn có một lời giải thích. Nhất thiết phải có một lời giải thích. Vì thế, tốt nhất là anh lên tiếng mà không chờ phải nì nèo.
- Báo cáo sư phó và toàn thể ban lãnh đạo...Tôi đã cùng tiểu đoàn trưởng xem xét kĩ những vật còn lại trên bờ suối. Tôi tin chắc sư trưởng và Mã Lỳ không thể rủ nhau tắm bởi dù còn khoẻ mạnh sư trưởng cũng đã ngoại ngũ tuần. Thời điểm đó, nước suối rất lạnh. Thứ hai, chắc chắn Mã Lỳ không dám lội xuống nước. Suốt quãng thời gian ở trên rừng Việt bắc, tôi chỉ chứng kiến cậu ta tắm hai lần, cả hai lần đều vào giữa trưa hè nóng nực và do nhóm bạn Sán dìu, Sán chỉ rủ. Bình thường, Mã Lỳ không bao giờ nhúng mình xuống suối, dù có phải lội qua thì cậu ta cũng mau chóng lau khô người để mặc quần áo. Chúng tôi vẫn gọi các cậu Mèo là lũ mèo nhát nước. Do đó, không có lý do để họ điên khùng bỗng dưng lội xuống tắm trong bóng đêm. Còn những lý do khác, tôi chưa đủ thời gian hoặc kinh nghiệm để phán đoán...
Nói xong, anh ngồi xuống bên tiểu đoàn trưởng. Đám người câm lặng. Ai đó khúc khắc cất tiếng ho. Rồi sư phó nghiêm giọng tuyên bố :
- Tôi buộc phải yêu cầu tất cả các đồng chí cho ý kiến để đi đến quyết định cuối cùng. Muốn hay không tất cả chúng ta cũng có trách nhiệm giải quyết sự việc này. Muốn hay không nó cũng liên quan trực tiếp đến danh dự của mỗi người ngồi đây. Chúng ta phải đương đầu với trên một ngàn lính và sau đó, dư luận sẽ lây lan sang các sư đoàn bạn. Thêm nữa, chúng ta cũng không thể báo cáo lên cấp trên, chờ cấp trên xuống mở cuộc điều tra, lập hồ sơ toà án binh theo thông lệ, bởi điều đó là chuyện không tưởng. Riêng thời gian chuyển công văn đi lại cũng mất nửa tháng là tối thiểu, đó là trường hợp thuận lợi tuyệt đối, giao liên an toàn không gặp thám báo, lũ cuốn hoặc thú dữ...Vả lại, chỉ đêm nay mưa rừng sẽ cuốn trôi sạch nếu chúng ta không gom nhặt những đồ vật còn sót lại trên bờ suối. Những thứ lưu vật đó cần phải được giữ lại cho gia đình những người mất tích. Tôi dùng chữ mất tích ở đây vì chúng ta không rõ số mệnh của sư trưởng và đại đội trưởng người Mèo kia ra sao ?...Chúng ta hy vọng rằng họ có thể còn tồn tại, trong một cách thức nào đó mà chúng ta chưa biết rõ.
- Tôi nghĩ rằng chúng ta nên gạt bỏ giả thiết mất tích. Nó không thuyết phục được ai. Tưởng tượng xem hai người đang còn tồn tại, không mảnh vải trên thân. Liệu ai có thể bắt họ làm điều đó ?
- Năm trước bọn biệt kích chẳng tóm gọn cả tốp lính đang tắm suối là gì ? Nếu tôi không nhầm họ là lính sư 887.
- Ồ, tôi quên khuấy chuyện ấy.
- Trí nhớ ông ngắn thế ? Vừa mới mùa hè năm trước đã quên ?
- Ờ, bốn mươi chín rồi còn gì ? Khôn đâu tuổi trẻ, khoẻ đâu tuổi già ?
- Nói các đồng chí đừng cho là mê tín. Tôi không tin sư trưởng còn sống. Sáu giờ sáng hôm nay thức dậy, tôi nghe tiếng chim kền kền kêu như rít lên trong núi. Từ dạo lính của ông Thắng dính bãi mìn đến giờ đã hơn bốn tháng, có bao giờ nghe kền kền rít lên từng bầy náo loạn như thế đâu ?
- Đúng! Tôi cũng nghe chim kêu rợn cả hồn. Lúc đó mới lờ mờ sáng, vậy mà cả bầy chim đã rít lên như vậy có nghĩa chúng gặp mồi. Tiếng kêu vọng từ mạn Núi Mỏ chim. Mạn đó là nơi con suối đổ vào sông Nậm Khuốt.
Sư đoàn phó quay sang hỏi trợ lý quân sự :
- Đồng chí cho chúng tôi biết từ đây đến đấy hết bao nhiêu thời gian ?
Anh trợ lý đáp :
- Báo cáo đồng chí chỉ hai mươi phút nếu chúng ta có trực thăng. Nhưng đi đường bộ thì năm ngày là tối thiểu. Từ nơi chúng ta đóng quân đến sông Nậm Khuốt không có đường vượt rừng, cũng không có đường qua trảng. Đi dọc suối lại càng bất khả vì ngay khúc suối dưới cách đây chừng non hai trăm thước, núi đá tai mèo đã dựng lên giống hệt Vùng Núi Chết bên kia. Chỉ có cách duy nhất là đi theo lối mòn của người Vân kiều. Lối ấy, không thể dưới năm ngày đường, đó là với tốc độ của một giao liên khoẻ mạnh và thành thục. Tiếng chim kêu mà các đồng chí nghe thấy không vọng lại từ sông Nậm Khuốt mà ngay ở hang núi sau cánh rừng nơi chúng ta trú quân. Bởi từ sông Nậm Khuốt đến đây đường chim bay cũng hơn ba cây số. Không tiếng chim nào có thể vượt qua đoạn đường dài như thế. Nhưng tôi nghĩ rằng loài chim gặp mồi thường có cách liên lạc và truyền tin riêng nên chúng kêu rít lên như vậy. Đó có thể là tiếng kêu để gọi bầy.
- Tôi cũng nghĩ như vậy. Phân tích của trợ lý sư đoàn hoàn toàn có lý.
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật nói theo. Đoạn ông quay sang hỏi sư đoàn phó :
- Liệu chúng ta có thể xin được một chuyến trực thăng hay không ?
Sư đoàn phó lắc đầu :
- Chiến trường chúng ta chưa bao giờ được hưởng ân huệ ấy. Ngay trận Đồi con Công, thương binh nặng nằm la liệt hàng trăm xin trực thăng cũng còn không nổi huống chi trường hợp này ?
- Bộ tham mưu coi chúng ta thuộc loại lính cưng chắc ?
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai vặn lại.
- Không lính cưng thì cũng được nằm sâu trong vùng đất Lào. Đất Lào được hiểu một cách ngầm ẩn là nơi ít hiểm nguy hơn các vùng khác. Đồng chí quên lời thượng tướng Đồng nói bữa trước rồi sao ?
Sư đoàn phó đáp lời.
- A...
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai bật một tiếng kêu lửng lơ rồi ngậm miệng tức khắc. Chẳng ai nói thêm lời nào nữa.
Sau một hồi lâu lặng lẽ, Nhã bỗng nhiên buông tiếng hỏi bâng quơ :
- Liệu chúng ta có nên cử người xuống sông Nậm Khuốt hay không ? Dẫu sao cũng phải hành động ở mức tối đa. Như thế, sau này chúng ta chẳng còn ân hận nữa.
Sư phó đưa mắt bất bình nhìn Nhã :
- Đồng chí nằm mơ hả ?
Nhã còn ngơ ngác chưa kịp trả lời, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Hai đã quay sang đập vào vai ông :
- Khổ quá, đầu óc ông để trên trời hay dưới biển ? Từ giờ đến chiều sẽ chẳng còn một mẩu da sót lại. Ông chưa từng thấy cảnh lính ông Thắng dính bãi mìn, có đúng không ? Mười tám cậu cả thẩy mà chỉ hai ngày chim dọn sạch.
An thấy Nhã rùng mình. Rồi ông cố trấn tĩnh bằng cách thọc hai tay vào túi quần và cúi đầu xuống. Bình thường các cuộc họp ban chỉ huy chỉ dừng lại ở cấp lãnh đạo tiểu đoàn. Sự việc này là trọng đại nên sư đoàn phó mới quyết định mở rộng đến các đại đội trưởng. Lần đầu tiên, An có dịp quan sát người lãnh đạo trực tiếp của mình. Rõ ràng Nhã hiền lành, tốt bụng nhưng có phần kém khôn ngoan hơn lãnh đạo hai tiểu đoàn kia. Vậy mà thành tích chiến đấu của tiểu đoàn Một luôn luôn nổi trội. Có lẽ trời vốn thương kẻ khờ khạo. Hoặc nói cách khác là tất thảy những sĩ quan dưới quyền Nhã đều yêu quý ông nên họ hành động hết mình vì ông. Con người này giống một gã học trò hơn là một sĩ quan quân đội.
Sau một hồi im lặng, sư đoàn phó cất tiếng :
- Tôi đề nghị các đồng chí lần lượt phát biểu. Sự việc này xảy ra vô cùng bất ngờ. Mấy chục năm trong quân ngũ cũng không cho tôi đủ kinh nghiệm để giải quyết. Thế nên, tôi quyết định lấy ý kiến tập thể, và chúng ta chịu trách nhiệm tập thể.
Lại im lặng.
Mọi người đưa mắt nhìn nhau, dường như tra vấn, dường như cầu cứu, dường như tìm một sự thông cảm. Bởi ai cũng hiểu họ đang bước trong ngõ cụt. Sư đoàn phó móc gói thuốc sợi ra lăn một điếu. Những bàn tay khác chìa về hướng ông. Gói thuốc chuyền đi theo kiểu dây chuyền, mỗi người bốc một nhúm thuốc, bóc một mẩu giấy cuốn. Khi nó quay lại chủ nhân thì chỉ còn vẻn vẹn nhúm thuốc cuối cùng vừa đủ điếu thứ hai. Sư đoàn phó đã rít hết điếu thuốc kia nên vớ lấy nhúm thuốc cuốn nốt đoạn vo viên tờ giấy gói, nhét vào túi quần.
Tất cả đều im lặng nhả khói. Căn hầm mù mịt. Trợ lý sư đoàn đứng dậy mở cánh cửa thông sang căn hầm phía sau cho gió lùa khói ra cửa hầm. Ai cũng có cảm tưởng sự việc mịt mù như khói và không biết tìm ngả nào mà ra. Nhưng khi hút tàn điếu thuốc, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba, người lặng câm như hến suốt từ đầu cuộc họp đến giờ bỗng giơ tay :
- Tôi có ý kiến.
― A, cóc mở miệng rồi đây.
An thầm nghĩ. Trong lúc đó tất thảy mọi cặp mắt đều đổ dồn vào ông này và sư đoàn phó hấp tấp bắt lời :
- Chúng tôi nghe đây.
- Tôi nghĩ rằng...
Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn ba vừa nói được hai tiếng đã dừng lại uống nước. Mọi người tuy sốt ruột cũng phải nén bụng chờ vì ông nổi tiếng là chậm rãi, đủng đỉnh và ít lời. Cậu trợ lý của ông kể rằng có lần hai người đi công tác lẻ. Bốn ngày liên tục đi đường rừng mà ông không cậy răng nửa câu, ngoài những mệnh lệnh cụt lủn, kiểu như : ― Chúng ta nghỉ, ăn cơm, hoặc : Đi thôi, đến giờ rồi...Hơn nữa, vẻ mặt ông lầm lì, kín như bưng khiến lính không dám gợi chuyện, kể cả những anh nổi tiếng bẻm mép. Thành ra, cậu nào bị phân công đi thị sát chiến trường hoặc làm công việc gì đó đột xuất với ông cũng tự coi như chịu kỉ luật : Tù mồm.
Giờ cũng vậy. Mặc kệ mọi cặp mắt đang dán vào mình, ông cứ đủng đỉnh nhắp từng ngụm cho hết chén trà rồi cẩn thận đặt xuống khay nước. Xong đó, ông khề khà hắng giọng rồi mới nói tiếp :
- Tôi nghĩ rằng chúng ta bỏ quên một khâu quan trọng : người Mèo rủ sư trưởng cùng đi. Ở đây, riêng đồng chí Hoàng An là có quen biết anh ta, nhưng cũng đã mười lăm năm về trước. Trong mười lăm năm sau đấy, không ai kiểm soát được người Mèo này làm gì, quan hệ với những ai. Thông tin chúng ta có được từ tiểu đoàn 209 rất mỏng. Tiểu đoàn này cũng vừa được gom góp từ hai tiểu đoàn thiếu sau các trận đánh nhiều tổn thất và một phần lính bổ sung vừa cập bến. Đại đội trưởng người Mèo này chính thuộc bộ phận mới từ Bắc chuyển vào. Bây giờ, tôi giả định....
Tới đó, ông ta lim dim mắt lại, dường như đang nhìn vào những cảnh tượng xảy ra trong trí tưởng của mình. Cả phòng họp nín thở chờ đợi. An cũng dán mắt vào đôi mắt khép hờ kia vì anh muốn phỏng đoán những gì xảy ra phía sau chúng. Nhưng tiểu đoàn trưởng đã mở choàng mắt ra, chăm chú nhìn sư đoàn phó :
- Tôi giả định rằng đại đội trưởng này đã từng có quan hệ với vua Mèo Hoàng-su-Phì, một kẻ thù đáng gờm của lực lượng cách mạng trước ngày giải phóng Thủ đô. Tôi giả sử rằng anh ta có mối dây huyết tộc hoặc chịu ơn sâu nặng của Hoàng-su-Phì. Như thế, chắc chắn anh ta sẽ nuôi dưỡng mối oán thù thâm căn cố đế với cách mạng. Như vậy, việc anh ta lợi dụng quan hệ họ hàng về phía ngoại mà hành động trả thù là đương nhiên. Các đồng chí đã quên rằng quân đội của chúng ta từng chịu những tổn thất rất lớn trong cuộc chiến đấu với Vua Mèo trên cao nguyên Đồng văn ở biên giới phía bắc. Chính đồng chí Hoàng An cũng biết đội quân của vua Mèo vô cùng tinh nhuệ. Vốn dĩ là dân miền núi, họ leo núi leo cây thần tình trong khi lính của chúng ta ở đồng bằng không chịu quen khí hậu băng giá và không vượt qua được những đỉnh núi tai mèo nhọn hoắt. Họ được nuôi ăn đầy đủ và tập bắn từ thuở lên mười. Đội quân này nổi tiếng là những thiện xạ bắn trăm phát trúng cả trăm phát. Hoàng-su-Phì vô cùng giàu có nên trang bị cho đội quân của ông ta những thứ vũ khí hiện đại mà lúc đó quân đội chúng ta cũng chưa có được. Với tất thảy những ưu thế như vậy, họ khống chế hầu hết những con đường độc đạo và từ trên núi xả đạn xuống tàn sát quân của chúng ta. Lính ngã xuống không biết bao nhiêu mà kể xiết. Thắng lợi của mặt trận Đồng Văn đã phải trả bằng một giá rất đắt. Tôi nhắc lại một đoạn sử để các đồng chí có thể hình dung được bối cảnh câu chuyện. Giờ, giả định rằng đại đội trưởng Mã Lỳ này là hậu duệ của Hoàng-su-Phì đã thay tên đổi họ để trà trộn vào quân đội chúng ta. Gặp sư trưởng chính là dịp thuận lợi nhất để anh ta trả thù...Anh ta vừa tiêu diệt được một cán bộ quân đội tầm cỡ, vừa bôi nhọ danh dự ông. Chúng ta đã từng sống với sư trưởng nhiều năm. Không ai có thể tin được ông làm chuyện bậy bạ ô nhục, mà trong tình cảnh oái oăm khó hiểu như vậy. Tôi cho rằng người Mèo này đã gợi những chuyện gia đình gia tộc có liên quan tới người bà con sư trưởng rồi bắn lén ông. Sau đó, y lột quần của ông và của y bỏ lại để tạo nên hiện trường giả của sự dâm loạn. Tôi ngờ rằng sư trưởng chết nhưng y còn sống và đã tẩu thoát. Sự việc phải được chuẩn bị kĩ trước khi hành động. Các đồng chí chớ quên rằng chúng ta là người Kinh nên đối với chúng ta rừng núi lẫn bóng đêm là một thế giới xa lạ, đáng sợ. Nhưng với người Mèo, họ vào rừng như cá trở về với nước. Nhất là khi họ đã chuẩn bị áo quần lẫn vũ khí tuỳ thân.
Mọi người ồ lên tán thưởng :
- Đúng rồi!
- Đơn giản thế mà chẳng ai nghĩ ra được ?
- Tất cả chúng tôi đều phải biết ơn đồng chí. Thiên hạ nói không ngoa : Một khi cóc đã mở mồm.
Ai nấy chen nhau ào ào lên tiếng. Tất cả đều thở phào. Mọi gương mặt đều trở lại nhẹ nhõm và mọi ánh mắt đều trở lại linh hoạt. Cuối cùng họ cũng đã tìm ra được lối thoát. Ý kiến của tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn Ba giống như ánh sáng cuối đường hầm. Không ai không tán dương ông. Sư đoàn phó vươn qua mặt bàn, vỗ vai ông và nói :
- Tuyệt vời!
An nhìn mọi người, trong lòng thầm nói :
― Thằng Mèo chó chết kia. Cuối cùng , chính mày mới được liệt kê là kẻ thay tên đổi họ chứ chẳng phải tao. Giờ thì bản án đã tuyên bố : Mày là kẻ sát nhân. Mà sự thật cuối cùng cũng đích xác là như vậy.
Như một sự trớ trêu của định mệnh, bên tai anh lại văng vẳng câu hát Con gà rừng :
« Con gà rừng;
Sao mày ăn lộn với lũ công,
Sao mày gian dối, hỡi con gà rừng ?... »
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương



Chương 32: NGƯỜI ANH EM (3)

Cuộc họp vừa tan, An đã trở lại hầm và tức khắc lăn xuống giường ngủ. Giờ cơm trưa anh cũng không dậy. Đại đội phó đến tận nơi, dựng anh lên :
- Anh ốm hay sao mà bỏ bữa như vậy ?
- Không ốm, nhưng buồn ngủ. Điệu này chắc sắp sốt rét trở lại.
- Dậy ăn cơm. Nhà bếp nói sáng nay anh đã bỏ bữa rồi.
- Tôi đắng lưỡi.
- Tôi mang sẵn thuốc phòng sốt rét cho anh đây. Nhưng phải ăn no mới được uống.
« Thôi mình đành cố ăn vậy. Ốm lúc này cũng quả là bất tiện cho mọi người. »
Anh nghĩ và tung chăn ngồi lên :
- Nào thì đi ăn. Cậu ăn chưa ?
- Tôi chờ anh. Hôm nay cấp dưỡng kiếm được ít rau ngót rừng. Lại có canh mà ngụp lặn.
- Anh em trong đại đội xong bữa rồi chứ ?
An hỏi, đoạn cài khuy áo và bước ra khỏi hầm. Đại đội phó đi sau anh, đáp thủng thẳng :
- Lính ăn xong quay về lán chơi tu-lơ-khơ hoặc ngủ. Chúng nó hết trò xem. Ngoài suối tổ trực nhật đã thu gom các hiện vật đem về sư đoàn.
- Ra thế...
An bật cười vì lối giải thích của đại đội phó, anh hỏi tiếp :
- Ban lãnh đạo đã giải thích sự việc này hay chưa ?...
- Đâu đã đủ thời gian tuyên bố ? Nhưng lính tráng nghe lỏm cũng biết hết rồi. Tin tức truyền đi từ hành lang sư đoàn xuống các tiểu đoàn, rồi từ các tiểu đoàn toả xuống các đại đội nhanh hơn tên bắn.
- Ở rừng mà....Còn chuyện gì kích thích hơn đâu ?
- Vâng. Chờ mấy năm mới được một buổi xem văn công. Chẳng dè xem xong lại có người thiệt mạng.
- Cậu có tin ở số phận hay không ?
- Tôi tin trăm phần trăm. Chẳng dám nói ra nhưng mọi người đều nghĩ như vậy. Ở chiến trường có ai tránh được đạn đâu ? Chính đạn tự chọn đích mà bay đến. ? Nếu không phải số mệnh định đoạt thì tại sao đạn găm vào người này mà tránh người khác trong cùng một tình thế, cùng một thời gian ?
- Số mệnh có mà cũng không. Nếu quả thực được quyền chọn lựa thì người ta không bao giờ tự đem thân ra chiến trường, nơi đầu tên mũi đạn.
- A. Vấn đề này hiểu theo mấy ông thầy chiêm tinh là vận mệnh quốc gia, là số mạng chung của một tập thể. Vận mệnh quốc gia tuỳ thuộc vào người đứng đầu chứ không thuộc bọn lính quèn hay lũ dân đen như chúng ta đây. Thời xưa, nó tuỳ thuộc vào vua. Thời nay, nó tuỳ thuộc vào ông chủ tịch.
- Nói như cậu hẳn chủ tịch của chúng ta phải có một lá số tử vi khốn nạn lắm nên dân mới phải đem thân vào chốn rừng sâu núi thẳm như vầy ?
- Ồ. Tôi không định nói như vậy. Ồ, đồng chí đừng trêu cợt tôi.
Đại đội phó lắp bắp, mặt tái mét. Anh ta nháo nhác đảo mắt nhìn bốn xung quanh. An bảo :
- Đừng sợ. Chính tôi nói những điều ấy chứ không phải cậu. Mà tôi cũng không đủ trí khôn để tự cất lên những lời lẽ như vậy. Tôi nghe được từ ông thầy chiêm tinh người Việt nhưng sống lâu năm trên đất Lào. Tôi chỉ lặp lại những gì ông cụ đã dạy tôi thôi.
- Vâng.
Đại đội phó cất tiếng thở phào đoạn hạ giọng :
- Anh biết không , tôi cũng nghe một người nói hệt như vậy. Nhưng ông ấy không phải là nhà chiêm tinh mà là một sử gia.
- A. Một sử gia cũng cần có bộ óc chứa nhiều hòn sỏi như một nhà chiêm tinh. Nhưng chúng ta sắp đến nhà ăn rồi. Chuyện này riêng cậu với tôi biết thôi.
- Vâng.
Đại đội phó đáp, gần như thì thầm.
Họ ăn xong, đồng hồ đã chỉ một giờ rưỡi. Năm gian nhà gỗ rộng rênh chỉ còn lại hai người. Bên ngoài, nắng tràn lên khắp ngả. Gió hiền hoà chạy dọc các bờ cây làm lung linh trăm ngàn tia phản chiếu của các đám sương còn đọng trên những phễu lá dày. Ven bìa rừng, hoa dại nở chói lọi. Đại đội phó nhìn những cánh hoa mỏng như bươm bướm chen nhau khoe sắc đỏ sắc tím và buột miệng thở dài :
- Tôi nhớ nhà quá ...
An lặng im, chờ đợi.
Quả nhiên, đại đội phó không nén được lòng, nói tiếp :
- Đám hoa này khiến tôi nhớ những vườn cải chạy dọc sông. Mùa xuân, hoa cải nở vàng ươm, bướm ong bay về nườm nượp. Thời con trẻ, tôi chạy theo mẹ ra bãi nhổ cải. Đến tuổi cập kê, chúng bạn rủ đi tầm hội hết cả tháng giêng, đi đâu cũng thấy hoa cải vàng chạy dưới chân đê.
- Đúng rồi, tôi nhớ một câu ca dao của người Kinh :
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai cờ bạc, tháng ba rượu chè.
- Vâng. Ấy là câu ca dao thời xửa thời xưa. Ngày tôi ở nhà, hợp tác vận động bà con đi làm từ mồng năm tết. Nhưng làm thì làm, rồi người ta vẫn tìm được cớ để mở hội mùa xuân. Bởi đó là tập tục.
- Trên tôi cũng vậy, người ta gói bánh, rang bỏng mật rồi ngồi đánh bài suốt cả tháng giêng. Nếu không có hội cũng chẳng làm gì vì trời mưa phùn liên miên không ngớt. Lúc đó lúa đang chờ mà các nương sắn cũng làm cỏ xong rồi.
- Trên miền núi ngày hội có kéo dài như ở dưới xuôi không ?
- Không dài nhưng cũng đủ đường đất rong chơi. Hội Đàn xuân kết thúc, chúng tôi rủ nhau đi xem hội Tung còn của người Thái, rồi hội chơi khèn của người Mèo. Thường chỉ đám trai bản, mạnh chân khoẻ tay và có ngựa tốt là dám đi chơi xa. Đàn bà con gái quanh năm ở lại nhà.
Hai người lặng im hồi lâu, rồi đại đội phó hỏi :
- Bao giờ chiến tranh kết thúc ?
An hỏi lại :
- Bao giờ ?
Chẳng ai có thể đem lại lời giải cho bài toán ấy. Một thời khắc lặng lẽ trôi qua. Đột nhiên, đại đội phó bật lên hỏi :
- Anh có nhớ thằng Toàn híp không ?
- Sao không ? Nó là cây hề của trung đội Một. Giờ liệu xương nó mục chưa nhỉ ? Hơn hai năm rưỡi rồi còn gì ? Mà đất ở đó quanh năm ẩm ướt, sương tụ, mưa núi rả rích, rêu phủ trơn như bôi mỡ từ chân lèn xuống lòng khe. Chẳng xương cốt nào trụ được với thứ thổ ngơi ấy.
An không nghe đại đội phó trả lời. Quay sang, thấy cậu ta mím chặt đôi môi nhưng nước mắt chảy nhoè nhoẹt. Đôi vai xuôi rung từng đợt như đang cơn sốt rét. Anh đưa mắt nhìn quanh nhưng may mắn chẳng còn ai có thể thấy họ lúc này. Tổ anh nuôi thu dọn xong về hầm ngủ. Có lẽ chỉ còn bầy chim thóc mách trong khóm rừng kề cận nhà ăn. Giơ một bàn tay lên, vuốt dọc sống lưng người đồng đội, anh nói :
- Khóc được như thế là tốt lắm. Khóc đi cho nhẹ lòng.
Một tiếng nói thứ hai cất lên trong con tim anh cùng lúc :
― Cậu còn có may mắn là được khóc với tôi. Còn tôi, tôi luôn phải khóc một mình. Tôi sẽ còn phải khóc một mình cho đến ngày cuối cùng của kiếp sống.„
Hai người ngồi ở đó cho đến khi đại đội phó trấn tĩnh lại, lau mặt, rút trong túi cặp kính rẻ tiền mà anh ta đã khổ công mang theo mấy năm chiến tranh để nguỵ trang cặp mắt còn đỏ hoe và sưng mọng. Bên kia trảng cỏ, thấp thoáng đám lính trần truồng. An ngạc nhiên hỏi :
- Họ làm gì bên kia thế ?
Đại đội phó xì mũi và đáp :
- Lính bắt nước khe chảy xuống để tắm.
- Sao chúng nó không ra suối ? Tắm nước khe dễ cảm lắm còn nước suối giờ này đã ấm lên rồi.
- Anh quên rằng sư trưởng vừa chết đuối ? Sáng nay lính đổ ra đông nghịt để ngó nghiêng.
- Nhưng nước chảy không ngừng và cuốn trôi tất thảy. Vả chăng sông cũng như suối chảy qua biết bao miền, làm sao đếm được bao nhiêu kẻ đã chết đuối từ thượng nguồn xuống đến hạ lưu ?
- Vâng...Nhưng sư trưởng lại chết đúng đoạn suối này nên giờ đây lính sợ. Có lẽ anh là dân miền núi nên không biết nỗi sợ của người Kinh...Dân châu thổ sông Hồng cũng như những vùng sông khác đều bị ám ảnh bởi cuộc săn đuổi ráo riết và độc ác của Ma Nam. Theo huyền thoại, Ma Nam chính là oan hồn những người bị chết đuối. Họ tìm cách dìm chết những kẻ khác . Bởi khi dìm chết những kẻ khác, họ sẽ có cơ hội được giải thoát khỏi địa ngục, được đầu thai trở lại kiếp người.
- À, ra thế.
An đáp.
Và một tiếng nói thứ hai lại cất lên trong anh :
« Nếu vậy kẻ đầu tiên bị dìm chết sẽ là ta.
Không chỉ một con ma Nam mà những hai con ma Nam sẽ tìm một kẻ thù chung cần đổi mạng.
Nhưng đã từ lâu ta không còn biết sợ hãi. Sự sợ hãi đã từ lâu rời bỏ ta ; cả óc não lẫn tâm hồn.
Anh đứng lên, nói :
- Tôi muốn tắm quá. Cậu có thích ra suối với tôi không ?
Đại đội phó nhìn anh một cách hãi hùng :
- Tôi ?...Tôi vừa tắm chiều qua.
An cười bảo :
- Đừng sợ, tôi chỉ cần cậu ngồi bên bờ suối xem tôi tắm. Nếu không dẹp bỏ sự kiêng kị này, làm sao giải quyết được chuyện sinh hoạt bình thường của lính ? Trên một ngàn quân đứng tranh nhau mấy dòng nước khe bé tẹo teo như nước bò đái để tắm ắt xảy ra đánh đấm nhau. Trong khi con suối mênh mông bỏ trống. Tôi không tin chuyện ma Nam.
- Vâng.
- Đi theo tôi.
- Vâng.
Đại đội phó đáp như cái máy và rồi bước theo anh cũng như một cái máy. Họ ra bờ suối. Vài tốp lính quẩn quanh trong rừng tò mò đi theo. Ở đó, An cất cao giọng hỏi :
- Cậu nào xuống đây bơi thi với Ma Nam ?
- Báo cáo thủ trưởng, gan chúng em còn bé.
- Chờ đấy.
An nói rồi cởi quần áo lội xuống suối, bơi ra tận giữa dòng nhào lên ngụp xuống như một vận động viên nhà nghề trổ tài trước khán giả. Vừa ngụp lặn, anh vừa đưa mắt nhìn lên con thác Voi gầm trắng xoá :
― Chẳng còn kẻ nào đau khổ hơn ta. Chẳng nỗi tuyệt vọng nào sâu nặng hơn nỗi tuyệt vọng găm trong tim ta. Như thế, chẳng sức mạnh nào có thể quật đổ ta trước khi ta trả được mối thù này.
Đám lính trên bờ vỗ tay. Họ thấy An mỉm cười nên càng vỗ tay hăng hái hơn vì tưởng rằng anh đang cười với họ. Nhưng thực sự, anh đang cười với chính số mệnh cay nghiệt của mình.
* * *
Mùa thu năm Quý Tỵ, lúc đó An đang đóng quân ở Tuyên Quang. Một người bà con trong đoàn dân công tải lương gặp anh vồ vập báo tin:
― Nàng Nhỏ được tiến vua, anh đã biết chưa ? Tổ chức cách mạng tìm cho chủ tịch một người phụ nữ Kinh nhưng chủ tịch lại yêu Nàng Nhỏ của chúng ta nên giờ đây em vợ anh đã thành hoàng hậu. Nàng được đổi tên là Chí thị Xuân. Mười hai gia đình bản Xíu giờ đây cũng đổi sang họ Chí sau khi biết tin ấy.
An đã nhập ngũ được hai năm. Hai năm ròng không mảy may tin tức gia đình. Cuộc gặp gỡ người bà con kia khiến anh vui sướng ròng rã hàng tháng. Niềm vui ấy như một thứ than cháy chậm, âm ỉ giữ ngọn lửa hoài hoài không tắt.
Ngay ngày hôm đó, An gặp tiểu đoàn trưởng :
- Báo cáo ban lãnh đạo, từ giờ tôi không còn là Nông văn Thành nữa mà là Chí văn Thành.
- Tại sao ?
Tiểu đoàn trưởng ngạc nhiên hỏi .
- Vì chú tôi là chủ tịch xã quyết định như thế. Bản tôi chỉ có mười hai nóc nhà nên người cầm đầu đã quyết là dân bản cứ thế mà tuân theo. Người bà con vừa gặp báo cho tôi tin đó.
- Phải chăng người bà con của đồng chí đang ở trong đoàn dân công đóng trước doanh trại chúng ta ?
- Vâng. Chính xác như vậy.
- Tuy nhiên, thay tên đổi họ cũng phải có lý do chứ ? Không dưng, ai làm như vậy ?
- Báo cáo thủ trưởng, chắc chắn là phải có lý do. Nhưng lý do ấy chỉ chú tôi và mấy ông già thông thái trong bản biết với nhau. Chúng tôi, phận con cháu không được quyền vặn hỏi.
Anh tủm tỉm cười đáp lại.
Thấy thế, tiểu đoàn trưởng liền cười theo và đáp :
- Được thôi. Chúng tôi tôn trọng quyết định của các lãnh đạo địa phương.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 33: NGƯỜI ANH EM (4)
Nói rồi ông nhanh nhảu ra lệnh cho trợ lý. Anh này lục tìm cuốn danh bạ đơn vị, hí hoáy tẩy chữ Nông thay vào đó chữ Chí. Thế là xong. Trên chiến khu, tất thảy mọi người đều tình nguyện đi đánh giặc, nào ai có nhu cầu tìm kiếm lợi lộc gì, thế nên sở thích riêng đều dễ dàng thoả mãn. Huống chi anh lại là người dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số là chỗ dựa vững chắc của cách mạng tháng tám và cuộc kháng chiến trường kì. Bất cứ cán bộ lãnh đạo nào cũng biết nguyên tắc này : Trong mọi hoàn cảnh, cán bộ và chiến sĩ người thiểu số được quyền hưởng sự ưu đãi.
― Nàng Nhỏ của chúng ta giờ đã thành hoàng hậu!
Niềm vui ấy cháy âm ỉ suốt những ngày còn lại của cuộc kháng chiến cùng với cái tên Chí văn Thành. Dường như cái tên mới này cũng đem lại nhiều may mắn cho An dù trong tiểu đoàn, từ lính đến sĩ quan, chẳng ai hiểu nguồn gốc bí ẩn của nó. Anh được thăng vượt cấp vì thành tích chiến đấu. Nhưng cái may lớn nhất là qua bao nhiêu trận mạc anh vẫn bình yên, chưa hề xầy vẩy xướt da. Anh không có cơ hội gặp nàng Nhỏ, tuy biết nàng đã rời bản Xíu về sống ở khu văn phòng chính phủ, cùng chiến khu Việt bắc. Nhưng niềm kiêu hãnh về nàng thắp sáng tâm hồn anh. Với anh, nàng là người em gái, hoặc nàng chính là một đứa con ? Anh cũng không biết nữa. Mối dây liên kết giữa họ chẳng hề giống như những người anh rể và em vợ bình thường. Nàng Đông đã là bạn từ thuở cởi truồng nên khi Nàng Nhỏ ra đời chính anh đã cùng Nàng Đông nuôi dưỡng đứa em nhỏ. Ông Cao vốn đa tài đa phận, rời quê hương giang hồ đất khách đến bốn mươi hai tuổi mới quay về bản cưới vợ, một cô gái mỹ miều kém ông hai mươi ba tuổi chẵn. Khi bà chết, ông đã ngoại năm mươi. Tuổi ấy, chẳng người đàn ông nào còn có thể bồng ẵm hoặc cho trẻ bú mớm. Trong ngôi nhà rộng rênh của ông, xưởng cưa chiếm gian chính giữa, bàn thờ vợ gian ngoài cùng, còn gian trong nơi gầy bếp lửa được ngăn thành ba gian buồng nhỏ vách gỗ chính là nơi hai đứa trẻ lên chín tập sự làm cha làm mẹ nuôi cô em mồ côi đỏ hon hỏn trong nôi. Dạo đó, hai năm tròn An rời nhà sang chiếm một trong ba gian buồng gỗ nhỏ, gian giữa dành đặt nôi đứa bé, còn gian bên kia là của Nàng Đông. Ông Cao ngủ ngay cạnh bếp để giữ lửa. Trước cửa buồng của đứa bé, một đĩa nến cháy suốt đêm. Nếu nó khóc, khi là nàng Đông khi là anh thức dậy thay tã lót và lấy bình sữa cho nó bú. Hoạ hoằn, cả hai chưa kịp dậy ông Cao sẽ rung chiếc chuông đồng đánh thức họ...Thật kì lạ, tiếng chuông rung lanh lảnh trong đêm khuya. Ấn tượng đó anh không quên được. Tiếng chuông giống một thứ âm nhạc thô sơ nhưng sống động vang lên ròn rã trong tuổi thơ của anh. Đôi khi, nó làm cho đứa bé ngừng khóc, giương đôi mắt tròn xoe lên nhìn. Anh cũng nhớ chiếc đĩa sâu lòng bằng gốm đỏ đựng sáp ong, tim nến se bằng sợi thô to hơn chiếc đũa. Ánh lửa lung linh chập chờn hắt bóng họ lên bức vách. Ánh lửa rọi lóng lánh lên quả cầu bằng giấy trang kim treo lủng lẳng giữa tao nôi. Bàn chân đứa bé giơ lên đạp đỏ như hoa mồng gà...Anh cũng còn nhớ như hôm qua cách thức ninh một nồi cháo nửa phần nếp nửa phần đỗ xanh ra sao cho nhừ nhuyễn mà không khô cũng không quá loảng. Anh nhớ cách thức lọc cháo để lấy nước rồi cho vào bình. Anh cũng biết cách vắt sữa trâu, canh sữa trâu cho đặc, rồi cất giữ ra sao cho khỏi lên váng. Bản Xíu không nuôi bò, chỉ thuần trâu. Trẻ nhỏ uống duy nhất thứ sữa đó. An nhớ chiếc chậu gỗ thường tắm cho Nàng Nhỏ, anh một bên và nàng Đông một bên, cùng thò tay vào kì cọ cho đứa bé. Đấy là cuộc đời thật mà lại tưởng như trò chơi. Bởi chính họ cũng đang còn niên thiếu. Cái trò chơi ấy liên kết ba người trong một mối tình kì lạ. Thế nên, anh cưới Nàng Đông từ năm mười bảy cho đến ngày nhập ngũ đã hai mươi bảy tuổi tròn mà chẳng ai thắc mắc chuyện họ không có con...Đành rằng cưới vợ xong rồi anh vẫn tiếp tục xuống huyện đèn sách. Cũng đành rằng thời ấy chuyện hiếm muộn con không quá quan trọng như ngày nay nhưng dẫu sao, vẫn là sự bất thường. Nàng Nhỏ sống chen giữa hai người, một mối tình pha trộn biết bao nhiêu mầu sắc. Cả ba cảm thấy đầy đủ nên Nàng Đông cũng như anh chẳng tìm thầy chữa chạy bệnh vô sinh như láng giềng khuyên.
Cuộc kháng chiến kết thúc đường đột một năm sau ngày anh thay tên đổi họ. Anh chẳng còn cơ hội quay về bản Xíu vì vợ anh đã tìm anh đúng ngày các cánh quân chuẩn bị tiến về giải phóng Thủ đô. Nàng Đông ôm chặt lấy anh, vừa cười vừa khóc. Mai ngày, nàng sẽ sống với Nàng Nhỏ tại thành phố Hà nội. Còn anh ? Số phận mỉm cười với anh lần nữa nên đơn vị anh sẽ đóng tại Hà đông, tỉnh lỵ Hà đông cách Hà nội có mười cây số, đạp xe không quá một giờ. Đối với họ, dường như cánh cửa thiên đường đã mở.
Tuy nhiên, ngày đầu tiên tới thăm hai người, An đã thấy không vui. Anh đi dọc theo cái hành lang dài và tăm tối đó, lòng tự hỏi vì sao người ta có thể xếp Nàng Nhỏ ở một ngôi nhà tầm thường như vậy ? Tuy phía trên là ba gian phòng cao rộng, trang nhã kèm theo bếp và khu phụ riêng. Nhưng dẫu sao, nó vẫn chỉ là một gian gác của dân thường, nơi ăn chốn ở của bất cứ người dân sung túc nào ở thành phố. Nàng Nhỏ của anh là hoàng hậu. Liệu có bà hoàng hậu nào bị xếp một rọ, sống cùng với thứ dân ? Hay vì chúng ta là dân Tày ? Một bà hoàng hậu người Tày không được quyền đòi hỏi như một bà hoàng thuộc dân tộc chính thống ?
Lòng ngổn ngang nhưng anh không nói. Bởi cả hai người đàn bà đều đang tột độ mừng vui. Chiến tranh đã kết thúc, mạng sống cầm chắc trong tay. Sau bao nhiêu ngày cách xa, giờ được đoàn tụ. Chẳng ai cầu mong điều gì hơn thế. Họ lại được cùng ngồi bên nhau,quanh một mâm cơm. Không phải trong ngôi nhà sàn rộng rênh thuở xưa, giữa bốn bề trập trùng rừng núi, mà trong một gian gác lịch sự nhưng nhỏ hẹp, là nơi ăn chốn ở của những người ở đô thành...
Sau bữa cơm, An hỏi Nàng Nhỏ :
- Chủ tịch có bằng lòng cho em ở đây không ?
- Có chứ. Chủ tịch bảo chúng ta phải sống giản dị. Giản dị như những người bình thường.
- Vậy là em hài lòng, đúng không ?...
- Dạ... Em hài lòng. Em yêu chủ tịch.
- Chủ tịch có yêu em không ?
- Có chứ.
Nàng Nhỏ kêu to :
- Chủ tịch rất yêu em....
Và hai má nàng bỗng dưng đỏ tưng bừng :
- Chủ tịch là người chồng rất tốt.
Đêm ấy, trong vòng tay Nàng Đông, anh cất tiếng hỏi :
- Em hãy cho anh biết, Nàng Nhỏ của chúng ta có hạnh phúc thật sự hay không ?
- Có. Anh đừng lo. Nàng Nhỏ của chúng ta vô cùng hạnh phúc. Tuy chủ tịch cao tuổi, nhưng vẫn còn là bạn gối chăn đắc lực.
- Sao em biết ?
- Chúng ta là người miền núi, không có điều chi phải kiêng dè. Em đã hỏi thẳng Nàng Nhỏ của chúng ta về chuyện đó. Nàng đáp rằng với chủ tịch nàng hạnh phúc hơn là với người đàn ông đầu tiên.
- Ra vậy. Giờ anh có thể yên tâm.
Sự yên tâm của anh kéo dài được hai năm, cho dù thi thoảng anh vẫn lượn xe quanh khu nhà các tướng tá lẫn các bậc lương đống triều đình để quan sát họ. Càng nhìn họ, lòng anh càng hậm hực bởi các phu nhân người Kinh được ở biệt thự riêng, có vườn cây bao quanh, có lính gác cổng, có xe Volga đi chợ, cho dù họ mắt híp môi thâm, nếu đứng cạnh nàng Nhỏ của anh thì chẳng xứng mặt con hầu.
Rồi đến ngày đứa cháu gái đầu ra đời, hạnh phúc che mờ mọi nỗi bất bình cũng như các hiềm khích. Mỗi chủ nhật, An đạp xe ra thành phố với tâm trạng của đứa trẻ đi chảy hội hoặc của gã trai mới lớn đến gặp bạn tình. Lần này, anh lại được làm bố. Nàng Đông lại được làm mẹ. Không còn là bản Xíu. Họ không còn phải ninh cháo đậu và vắt sữa trâu. Đời sống đô thị bí bức hơn nhưng cũng thuận tiện nhiều bề vì thế cả hai người đều thấy tâm hồn phơi phới như cánh rừng sang xuân khi đứa bé khóc cười với họ. Trong lúc đó, người mẹ thật sự lười lĩnh ngủ hoài hoặc nhìn họ chăm sóc đứa con với đôi mắt tràn trề mãn nguyện.
An không bao giờ gặp chủ tịch tại ngôi nhà ấy vì anh chỉ có thể ở lại đến sáu giờ rưỡi tối ngày chủ nhật. Sau bữa cơm chiều, phải tính cho đủ thời gian đạp xe quay lại Hà đông trước hiệu kèn đêm. Giờ ngủ quy định là chín rưỡi. Anh biết rằng văn phòng phủ chủ tịch thường cho xe đón Nàng Nhỏ vào dinh nhưng thi thoảng và thường là đột ngột, khi thu xếp được công việc, chủ tịch đến thăm vợ con vào lúc nửa đêm và chính ông đặt tên cho đứa con gái. Một cái tên cổ xưa, đầy tinh thần đạo đức : Nghĩa.
Khi được thông báo về chuyện đó, An tỏ vẻ bực mình :
- Thiếu gì tên hay, sao lại đặt cho cháu tôi cái tên cứng ngắc như vậy ? Trung đội của tôi có đến ba cậu tên là Nghĩa. Trần trung Nghĩa; Đào duy Nghĩa; Ngô thành Nghĩa ...
- Ồ, xin anh đừng giận.
Nàng Nhỏ tươi cười can gián :
- Con của chủ tịch mà.
Và vợ anh cũng tiếp lời :
- Em nó nói đúng đấy. Là bố mới có quyền đặt tên con.
An im lặng.
Nhưng tuần sau, anh bắt đầu gọi con bé bằng cái tên do chính anh tìm :
- Nó đẻ năm con dê nên tôi gọi nó là Mùi. Gọi thế cho dễ nuôi. Nào, Mùi lại đây với dượng.
- Ba ...ba...
Đứa bé đã nói được thành tiếng khi vừa tròn chín tháng. Con bé này lưỡi quá nhọn. Chẳng đứa trẻ nào có thể biết nói sớm như nó. Môi nó đỏ như gấc, mà nụ cười của nó giống hệt nụ cười của người cha.
Năm sau, khi Mùi đầy tuổi, anh mua một chiếc ghế mây, buộc vào dóng khung xe phía trước. Đặt con bé vào đấy, anh đèo nó đi chơi khắp các phố phường. Rất nhiều lần, hai dượng cháu diễu đi diễu lại trên đoạn đường chạy qua phủ chủ tịch. Đứa bé líu lô như sáo còn anh nhìn ngắm toà nhà đó như ngắm nhìn một toà thành bí ẩn hoặc một pháo đài ma. Và anh thầm nói với người đàn ông sống trong đó, phía sau những hàng rào đầy lính canh, sau những bức tường và những khuôn cửa không bao giờ thấy mở. Người đàn ông anh chưa từng gặp mặt, chưa bao giờ đối lời, nhưng vẫn tồn tại trong gia đình họ, tham gia vào mọi cuộc bàn cãi, trò chuyện, mọi kế hoạch cuộc đời của họ. Một sự tồn tại vô danh, vô tướng, vô hình. Không phải là bóng ma, cũng chẳng là con người đích thực:
― Này ông chủ tịch, liệu ông có nhìn thấy con gái ông ngồi trên chiếc xe cởi truồng tồi tàn này không nhỉ ? Dầu ông là người có quyền lực cao nhất nước, ông cũng chỉ là anh em đồng hao với tôi thôi. Và bởi lẽ tôi lấy người chị, còn ông làm chồng cô em nên nếu ngồi vào mâm rượu chính ông sẽ phải rót rượu cho tôi trước.
Như thế đó, luật lệ của chúng tôi, những người Tày.
***
Những năm sung mãn, những mùa sung mãn thường đến với con người một cách bất ngờ, ngoài sự chờ đón của họ.Vì thế, chẳng ai ngờ là khi con bé Mùi được mười một tháng, nàng Nhỏ đã lại mang thai lần thứ hai. Trước hết, Nàng Đông phàn nàn là con bé Mùi đi tướt cả tuần, uống thuốc nào cũng không cầm được. Sau đó, nàng Nhỏ bỗng mắc chứng thèm ngủ, ngủ ngay cả trong bữa ăn. Mọi người chưa kịp hiểu ra sao, bà già hàng xóm đã bảo :
- Thế này có nghĩa là mẹ nghén nên con bú sữa độc ...Trẻ bú sữa độc thì chẳng thứ thuốc nào cầm nổi. Tại sao chẳng ai biết chuyện này ?
- Ồ....Chẳng ai biết thật.
Nàng Đông đáp. Bởi chưa ai từng qua cảnh này để hiểu được sự tình. Vậy là con bé Mùi phải cai sữa tức khắc. Thật may mắn là nó rất ngoan, chỉ qua hai đêm khóc hờn rồi sau đó quay sang ăn bột và bú sữa bình thun thút. Vả chăng, từ thuở mới lọt lòng nó đã ngủ với Nàng Đông, nó quen hơi dì còn hơn hơi mẹ đẻ. Người ta bảo con đầu thường ngơ ngẩn,dại khờ. Nhưng con bé Mùi khôn lạ. Chiều thứ bẩy, cứ lặn mặt trời là nó ra ban công ngong ngóng chờ dượng Thành. Dòng người cuồn cuộn trên phố xá không làm con bé nhầm lẫn. Nhiều khi nó giơ tay vẫy anh khi anh đang còn dừng xe trước đèn hiệu đỏ ở ngã tư. Chiếc xe đạp Vĩnh Cửu đen xì không thanh chắn bùn của anh chính là con ngựa quen thuộc của đứa bé, hứa hẹn biết bao cuộc dạo chơi kì thú. Khi tới nơi, dắt xe lên vỉa hè, ngước lên ban-công anh đã thấy nó cúi xuống mỉm cười nụ cười thiếu nữ, gương mặt rạng rỡ và đôi mắt đen ngời lên ánh sáng. Nhiều khi, An giật mình vì tưởng như đang còn ở bản Xíu. Vào những buổi chiều thời xa xôi ấy, khi anh và nàng Đông đi củi về, Nàng Nhỏ đứng đầu sàn chờ đợi cũng cười nụ cười im lặng và rạng rỡ như con bé giờ đây. Kỉ niệm mới chồng lên kỉ niệm cũ. Dấu vết yêu thương điệp lên nhau, hoà trộn cùng nhau trong trái tim anh. Cứ như thế cuộc sống êm đềm của họ tiếp diễn cho đến ngày Nàng Nhỏ sinh đứa con thứ hai, vào năm Thân. Năm Bính Thân. Vào một chiều thứ bẩy, khi anh vừa bước chân vào nhà, Nàng Đông chạy ùa ra ôm cổ anh và với vẻ mặt vừa hãnh diện vừa ẩn giấu một vẻ long trọng bí ẩn, thầm thì báo tin :
- Một đứa con trai. Nặng ba cân sáu. Dài năm mươi tám phân.
- Ồ, như thế là tốt, có nếp có tẻ.
Anh đáp.
Nàng Đông đứng ngẩn ra nhìn anh trong giây lát rồi bảo :
- Anh nói thật tức cười.
- Sao ? Anh nói điều gì sai trái hay lầm lẫn mà khiến em tức cười ?
- Không sai trái cũng không lầm lẫn.
Vợ anh tủm tỉm nhìn anh:
- Nhưng không phải chỉ là nếp với tẻ. Anh quên rằng một đứa con trai là vô cùng quan trọng với người làm cha.
- À...Anh hiểu.
Anh cũng tủm tỉm cười và đáp lại Nàng Đông :
- Anh hiểu tầm quan trọng của kẻ nối dõi tông đường. Từ giờ trở đi anh nhường cho em nuôi dưỡng thằng bé, nhân vật quan trọng, còn anh sẽ chăm sóc con Mùi, vì con bé ít quan trọng hơn.
- Thế anh có vào viện thăm Nàng Nhỏ không ?
- Không....Ngày mai anh sẽ đi chợ nấu cơm và đưa con Mùi lên bách thảo xem hổ, xem gấu. Vào viện sẽ là việc của em.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 34: NGƯỜI ANH EM (5)
An không hiểu vì sao anh có phản ứng như vậy. Anh còn nhớ đôi mắt tròn xoe kinh ngạc của vợ nhìn mình. Cái nhìn ấy dán vào lưng anh khi anh đi vào gian buồng bên trong. Cái nhìn ấy ám ảnh anh như một câu hỏi câm lặng. Một bài toán không có lời giải đáp...Mãi về sau này anh mới hiểu rằng linh giác đã chỉ dẫn những hành vi của anh...Rằng anh đã cảm thấy bóng đen âm u của loài ác điểu xòe ra trên đầu họ vào thời khắc mà Nàng Đông báo tin cho anh, một cái tin lẽ ra phải đem lại niềm hân hoan tột độ cho tất thảy mọi người...Ngày hôm sau, chủ nhật, anh đèo con Mùi lên vườn Bách thảo. Lúc quay về, con bé đòi đứng lại trước phủ chủ tịch xem...mấy chú lính gác. Anh đành xuống xe, dựa pê-đan lên vỉa hè xi-măng để chiều nó. Nhưng họ vừa đứng được vài phút, lính gác đã ra hỏi giấy tờ. An xuất trình thẻ quân nhân. Người lính xem xét kĩ càng rồi nói :
- Đây là khu vực cần bảo vệ. Đồng chí nên đưa cháu ra nơi khác mà chơi.
- Tôi đâu có muốn làm phiền các đồng chí ? Chỉ do trẻ nó đòi thôi.
Lúc ấy, chính đứa bé cất lời :
- Cháu xem. Cháu xem các chú bộ đội...
Con bé líu lô. Có lẽ vì lời trẻ bi bô làm người lính mềm lòng nên anh ta lui gót. Tuy nhiên, con tim An đã trở nên âm u. Anh nhìn vào toà nhà bên trong những rặng cây xén tỉa :
« Sung sướng gì khi người cha sống trong lâu đài còn đứa con ngồi trên chiếc xe đạp cởi truồng và nhìn vào với đôi mắt thèm khát ? Có ích gì cuộc tình éo le này ? Nếu Nàng Nhỏ của chúng ta chẳng lọt vào mắt vị vua già, nó ắt phải kiếm được tấm chồng xứng đôi vừa lứa. Trên miền quê, chúng ta đâu thiếu cảnh ấm êm ? Ngôi nhà sàn của ta cao rộng gấp ba lần những ngôi nhà chật hẹp nơi phố xá. Chưa kể nhà ông già bố vợ, cả xưởng cưa đặt lọt thỏm vào một gian ? Chúng ta có đất, có trâu đàn, có lợn bầy. Gà hàng trăm con đẻ trứng ăn không kịp. Chúng ta có rừng có suối, có ong dại ong nuôi và thú săn. Đành rằng ở đây cuộc sống tiện lợi và văn minh hơn nhưng đất đai eo hẹp và lòng người cũng eo hẹp. Phải chăng cuộc ra đi của chúng ta là một sai lầm ?»
Dòng suy nghĩ chưa chấm dứt, một người khác từ vọng gác đã tiến lại phía họ. Lần này, hẳn là sĩ quan phụ trách nhóm lính. Anh ta buông từng lời một cách khô khan :
- Đây là khu vực cần nghiêm mật bảo vệ, yêu cầu đồng chí đưa trẻ đi nơi khác.
Không đáp nửa lời, An quay xuống bảo cháu :
- Không đứng được ở đây con ạ. Dượng đưa con ra chợ Ngọc Hà rồi mua cho con quả bóng. Con nghe rõ chưa ?
Rồi anh trèo lên xe, đạp đi luôn. Phía sau lưng , hẳn anh chàng sĩ quan phải đưa mắt nhìn theo một cách bực tức. Trong thâm tâm, An biết rằng thái độ của anh vô lý bởi những gã lính kia cũng như anh, họ phải thi hành một phận sự, một mệnh lệnh giáng xuống từ những kẻ đứng cao hơn. Nhưng dẫu sao, con tim anh cũng không ghìm được cơn phẫn nộ :
« Này ông ? cha đẻ của đứa bé đang ngồi trong lòng tôi đây - Anh thầm nói với người anh em đồng hao chưa từng gặp mặt - Liệu ông có mường tượng ra cảnh này ? Một đứa con đứng trước ngôi nhà của cha đẻ mà không có quyền vào cũng chẳng có quyền ngắm nghía. Một đứa con bị đuổi khỏi cổng ngôi nhà cha nó đang là chủ nhân ? Liệu cảnh trớ trêu này có khiến ông động tâm, ngài chủ tịch ? Giờ đây, con gái ông còn quá nhỏ để hiểu sự tình. Nhưng mai đây, khi khôn lớn, liệu nó có thể coi ông là một người cha tử tế hay chỉ là kẻ vô tâm buông quăng bỏ vãi những hạt máu của chính mình ? Cái dinh thự nguy nga kia liệu không có nổi một gian phòng cho vợ con ông trú ngụ hay vì một cơn cớ thầm kín, đen tối nào đó mà ông chấp thuận cho Nàng Nhỏ của chúng tôi ăn ở chen chúc lẫn lộn giữa đám thứ dân ? Phải chăng vì hoàng hậu là người miền núi nên nàng buộc chịu cảnh ngược đãi của triều đình ? Cái triều đình thường ban bố các loại chiếu chỉ : Ưu đãi người thiểu số ! »
Những ngờ vực, giận dữ đã chôn vùi bấy lâu trong đáy sâu tâm hồn anh bỗng trồi lên. Những lời nguyền rủa cũng vậy, chúng ào ào mọc lên trong óc não anh như rừng măng vầu măng trúc lúc sang xuân. Anh không nhận ra rằng anh đã đạp xe vòng trở lại đường Hoàng Diệu để nhìn ngắm như ghi, như khắc hình ảnh những dinh thự nguy nga, vườn bên phải ,vườn bên trái, sân trước sân sau của các vị rường cột triều đình. Sau đó, anh lại tiếp tục đạp theo đường Phan đình Phùng để nhìn lại những biệt thự khác, mà anh đã thuộc lòng tên chủ nhân của chúng, để nỗi oán hờn căm giận tiếp tục ngoi lên từ con hồ lặng lẽ trong tâm hồn anh.
« Đây là nơi dành cho các phu nhân mắt híp, môi thâm chứ chẳng dành cho Nàng Nhỏ của chúng ta, cho dù nàng muôn ngàn lần xinh đẹp. »
Anh thầm nghĩ với nỗi cay đắng, khi thấy một bà bộ trưởng ngồi trong chiếc Volga vụt qua mặt anh, cổ rụt xuống vì những lăm thịt dâng lên tận cằm và cặp mắt ti hí nhỏ như sợi chỉ nhìn phố phường với vẻ ngạo nghễ. Chiều hôm đó trời rất đẹp nhưng anh chìm đắm trong những suy tưởng u ám mà không có cách nào thoát ra được. Anh thương con bé Mùi ? Anh thương Nàng Nhỏ ? Hay anh cảm thấy sự bất lực của mình trước cuộc cờ số phận ? Mãi đến bữa cơm tối, khi vợ anh từ bệnh viện trở về với vẻ mặt hớn hở của trẻ bắt được quà anh mới tạm quên đi những dằn vặt chua xót.
Nàng Đông bảo :
- Ba hôm nữa chúng ta đón Nàng Nhỏ về nhà. Như thế em không còn phải mang cơm vào viện.
- Sức khoẻ của nó có tốt không ?
- Của ai ? Nàng Nhỏ hay thằng bé ?
- Nàng Nhỏ.
Vợ anh cười :
- Nàng Nhỏ khoẻ và vui. Nhưng em thấy là anh trọng nữ khinh nam. Anh chẳng hỏi han gì thằng bé.
Anh bật cười theo :
- Bởi vì cả xã hội đã trọng nam khinh nữ rồi nên anh đành làm ngược lại. Em không thích như thế hay sao ?
- Em thích.
Vợ anh đáp lại tức khắc. An biết rằng Nàng Đông vô cùng hạnh phúc với anh. Mối tình của họ bắt đầu từ thuở lên năm, nếu nói cho thật đúng là tình con trẻ. Và tình yêu đôi lứa khởi sự ở tuổi trăng rằm. Tình yêu thơ dại kết nối với hơi thở nồng đượm của tuổi ái ân, như một dòng chảy không ngưng cạn. Anh lại là người phóng khoáng, chẳng câu nệ việc của cải, cũng không quá tha thiết với kẻ nối dõi tông đường. Những năm đèn sách ở huyện đã đem lại cho anh lối nhìn cuộc sống khác hẳn những người đàn ông cùng thời đại. Điều đó giống như một thứ quà tặng được ban phát từ bàn tay đấng toàn năng. Nhiều lần, vợ anh nói :
- Ôi, thật may mắn sao là chúng ta ở hai bên một sườn đồi.
Và anh đáp lại rằng :
- May mắn rằng ngày anh ra đời lại có một cô hàng xóm chờ sẵn.
Nàng Đông vặn hỏi :
- Thế nghĩa là anh chê em già hơn anh mười lăm ngày ?
Anh bảo :
- Cho dù em có ra đời trước anh mười lăm năm em vẫn là vợ anh. Số kiếp đã định như thế.
- Chao ôi !...
Vợ anh kêu lên :
- Anh là người nói khoác giỏi nhất trần gian.
Mọi cuộc chuyện trò của họ đều kết thúc bằng tiếng cười. An chưa từng thấy cặp vợ chồng nào gắn bó với nhau theo kiểu ấy. Thời họ còn trẻ, anh chẳng mảy may ngờ vực hạnh phúc của mình. Nhưng sau ngày đứa con trai của Nàng Nhỏ ra đời, một linh cảm âm u thường xuyên lởn vởn trong óc não anh, ngay cả những khoảnh khắc vui vẻ nhất. Anh thường nhớ lại những danh ngôn học được từ ông thầy dạy sử, người anh chịu ơn nhiều nhất trong những năm đèn sách ở huyện Thất Khê.
« Những mỹ nhân cũng giống loài hoa rực rỡ, sớm nở tối tàn ; bởi trời xanh đã ban cho họ một nhan sắc lộng lẫy khiến bao kẻ phải thèm khát, ghen tuông, trời cũng sẽ tước đi của họ một phần đời sống. »
Nhan sắc hai chị em Nàng Đông càng ngày càng trở nên rực rỡ đến chính anh cũng ngạc nhiên. Thời gian không chạm được đến họ, ngược lại , năm tháng khiến cho vẻ đẹp của họ thuần thục hơn, quyến rũ hơn, thần bí hơn. Đã nhiều lần An chứng kiến những kẻ qua đường dừng lại, sửng sốt nhìn hai nàng như nhìn những nữ thần sông, thần núi hiện hình. Ở đất thủ đô này, đốt đuốc giữa ban ngày cũng không thể tìm được một thứ nhan sắc chim sa cá lặn như vậy. An hiểu rằng thứ nhan sắc ấy chỉ có thể được tạo ra trên vùng đất quê anh ; nơi không khí thanh sạch đến độ người ta có thể nhìn mọi vật như nhìn một thứ pha-lê vào những ngày tạnh sương mù hay mưa núi ; nơi những rừng hoa mận nở trắng xoá lúc sang xuân ; nơi những thác hoa kim ngân tuôn chảy triền miên dọc theo các dòng suối mùa hè ; nơi hoa tím điệp vào sắc lèn đá tiết thu muộn ; nơi quanh năm các loài ong rù rì, múa lượn và cho thứ mật màu hổ phách ngào ngạt phấn hoa ; nơi khe, suối trong veo chảy giữa các bờ đá tắm táp không ngừng da thịt con người và tưới nhuần những vùng ruộng bậc thang...Những mỹ nhân của bản Xíu lớn lên trong vùng trời ấy, hít thở bầu không khí ấy, được nuôi dưỡng bởi thứ mật ong rừng hoà trộn hàng trăm loại phấn hoa dại, bởi sữa trâu và các loại gia cầm gia súc đất nhà. Da họ mơn mởn như trái đào, mắt họ trong như pha-lê, cái nhìn của họ thăm thẳm như vực sâu, như hang núi. Chẳng cần son môi họ cũng đỏ chon chót như trái ớt chín và sau màu đỏ rồ dại ấy, chứa chất và hứa hẹn biết bao lạc thú. Dường như An đã yêu Nàng Đông từ thuở lọt lòng. Nơi quê họ, dân bản sống theo kiểu người cùng một đại gia đình, không có chuyện tranh cướp tình ái. Mãi sau này, anh mới biết rằng chắc chắn vợ anh đã gieo rắc vô số những mơ mộng và ham muốn nơi những người đàn ông, dọc đường nàng đi. Và như thế, anh cũng hiểu vì sao vị vua già say đắm Nàng Nhỏ. Khó có người đàn ông nào đứng vững nổi trước những người đàn bà mà cùng một lần, nhan sắc của họ giống như lưỡi gươm bén, nhưng tâm hồn bình dị và thánh thiện của họ hứa hẹn một tổ ấm miên viễn, một đời sống lứa đôi ấm áp không đòi hỏi nhiều hao tổn óc não cũng như tâm cơ. Dù Nàng Đông chẳng mảy may ý thức về điều đó, nhưng An biết anh đang thống lãnh một thành trì. Để bảo vệ thành trì đó, cần có trí thông minh lẫn lòng dũng cảm. Niềm kiêu hãnh trong tâm hồn anh luôn pha trộn sự cảnh giác. Đối với Nàng Nhỏ, liệu vị vua già có cùng suy nghĩ như anh ?Hoặc là ỷ thế làm vua, thay vì trân trọng một mối tình hiếm hoi như thế, ông ta tự cho mình quyền coi mỹ nhân như một thứ sơn hào hải vị ?
Những suy tư ảm đạm ấy, anh không dám thổ lộ cùng ai, anh không muốn làm phiền muộn hai người đàn bà, những người anh yêu quý hơn chính bản thân mình. Anh trở thành kẻ im hơi lặng tiếng trước những cuộc chuyện trò rối rít niềm vui và hy vọng của họ :
- Em sẽ vào dinh chủ tịch ngày mai chứ ?
- Vâng. Văn phòng đã lên lịch vào ngày mai. Lái xe sẽ tới đón em lúc chín giờ.
- Em đã chuẩn bị kĩ những điều cần nói chưa ?
- Em không cần chuẩn bị nhiều. Em chỉ nói một câu đơn giản thôi : Vì đã có đủ con trai lẫn con gái, chúng ta cần được chính thức hoá trước pháp luật.
- Được rồi, ngày mai sẽ là ngày bận rộn. Chị sẽ nấu cơm sớm lên một chút và em nhớ cho thằng bé bú lúc tám giờ.
Ngày hôm sau chính là chủ nhật. An đưa con bé Mùi đi chơi từ mười giờ sáng, dặn hai người đàn bà rằng anh sẽ về muộn. Buổi trưa, anh dắt cháu vào cửa hàng ăn phở rồi đưa nó đi xem xiếc vào ca ba giờ chiều. Tan cuộc, hai dượng cháu ra về khi mặt trời đã tụt xuống phía sau các mái nhà phía tây thành phố. Con bé nằm lăn ra ngủ còn anh ăn cơm vội vàng rồi đạp xe vào doanh trại, không hỏi han một lời về cuộc gặp gỡ quan trọng của Nàng Nhỏ với người cha của những đứa con nàng. An vẫn nhớ cái nhìn dò hỏi của vợ anh trong lúc nàng đang là quần áo cho cô em. Còn Nàng Nhỏ, quá bận bịu về đứa con trai nên không để tâm đến sự im lặng bất thường của anh. Hoặc là, trong tâm trạng tràn trề hạnh phúc và các dự phóng tương lai, nàng chẳng quan tâm đến ngoại cảnh...Trên đường vào Hà Đông, An đã tự trách mình về sự lãnh đạm kì dị đó. Nhưng ngoài mọi lý lẽ, một nỗi buồn vô cớ cắn xé anh. Một nỗi buồn bất khả cưỡng chế và bất khả lý giải. Ngày nối ngày trôi qua nặng nề. Dù ở trong lớp huấn luyện hay ngoài thao trường cùng lính, An cũng có cảm giác là anh đang sống trong mộng, dường như chân anh không bước trên mặt đất mà bập bõm trong mây. Vì sao ? Anh không hiểu. Đôi lúc, trí nhớ gọi anh về bản Xíu, với ánh hồi quang của những ngày hạnh phúc. Đôi lúc, trí nhớ dắt anh về lại thị trấn Thất Khê, trong mái trường mà anh đứng lênh khênh giữa đám học trò như con ngỗng đứng giữa bầy vịt. Hoặc là, anh thấy lại ngôi nhà thơm phức mùi chè của ông thầy dậy sử, bởi vợ ông bán chè mạn nên anh thường đến ngồi đóng gói chè giúp đám con cháu trong nhà, tiện thể nghe ông kể đủ thứ dã sử cũng như chính sử , của triều đình Tàu cũng như triều đình ta, nghe Tam quốc chí và Đông Chu liệt truyện đến thuộc làu làu. Đôi lúc, anh cảm thấy con tim se sắt mà chẳng rõ cơn cớ vì sao, nhưng chắc chắn có một nỗi lo âu mơ hồ nào đó giăng mắc xung quanh như tấm lưới nhện khổng lồ.
Tới thứ bẩy, sau giờ luyện quân, An vồ lấy xe đạp. Nhưng rủi ro là vừa đi được vài trăm mét săm trước nổ tung nên anh đành phải tìm quán vá. Người thợ chìa trước mắt anh cái săm chằng chịt mụn vá, chỗ phồng chỗ tẹt như khúc dồi lợn luộc vụng :
- Xin kiếu đồng chí. Chẳng còn đất vá nữa. Nhất thiết phải thay săm mới thôi.
- Xin bác cố gắng giúp. Chúng tôi chưa đến thời hạn được phân phối săm lốp.
- Tôi xem kĩ rồi. Tôi đã chịu thì chẳng ai dám mó tay vào nữa, bảo đảm là như vậy.
Không có cách nào hơn là dắt xe quay về doanh trại, mượn chiếc xe chở thực phẩm của cấp dưỡng. Ai cũng biết rằng xe cấp dưỡng là thứ xe được ưu tiên hàng đầu nên săm lốp luôn luôn mới. Tổ cấp dưỡng cho anh mượn xe với điều kiện phải trả đúng trưa hôm sau để họ còn kịp đi chợ chiều. Cò kè năn nỉ một hồi, An kéo được giờ mượn xe tới ba rưỡi chiều, như thế anh còn đủ thời gian đèo con bé Mùi đi xem ca múa nhạc ở Cung thiếu nhi thành phố. Hài lòng vì thắng lợi, An hối hả đạp xe về Hà nội. Khi anh đến nơi, phố xá đã lên đèn. Con bé Mùi không đứng trên ban-công chờ đón anh như thường lệ. Chắn chắn vì anh tới muộn. Anh thầm nghĩ rồi dắt xe qua cái hành lang dài dặc và thiếu sáng, chào hỏi ba người lính mặc thường phục mà anh đã quen. Ở trong sân, anh nhận ra con bé Mùi đang ngồi chơi đồ hàng với hai đứa bé khác, cháu ngoại bà già hàng xóm. Thấy anh, con bé chạy ùa ra đu lấy cổ dượng, hôn chi chít lên hai má. An muốn bồng con bé lên nhà, nhưng bà già hàng xóm đã bảo :
- Bác cứ để cháu ngồi chơi ở đây...bác gái dặn tôi như vậy...
Nghe tới đó, An đã thấy tim anh đổi nhịp :
« Có chuyện gì đặc biệt xảy ra mà bắt con bé ngồi đây chơi vào giờ này ?.. »
Nhưng anh không tiện hỏi bà già nên đành để con bé quay lại chơi với bạn rồi lên gác. Hai người đàn bà ngồi chờ anh bên mâm cơm. Nhìn vẻ mặt họ, anh hiểu một nửa phần sự thật. Nhưng anh lại cất tiếng cười :
- Anh để mọi người chờ lâu quá. Sắp lả đi vì đói rồi phải không ? Chờ anh rửa mặt xong ta ăn cơm. Hôm nay phải mượn xe cấp dưỡng vì nổ săm.
- Xe công của quân đội mà cũng không đủ săm dùng hay sao ?
Vợ anh hỏi.
- Xe công nào cũng chịu chỉ định phân phối săm lốp. Mà phân phối thì từ may-ô, quần đùi đến cơm gạo, thực phẩm đều không đủ dùng. Hôm nay, các em cho anh ăn món gì vậy ?
An chuyển chủ đề.
Nàng Đông tiếp lời anh :
- Hôm nay em làm món nộm chuối với thịt luộc chấm mắm tép của người Kinh.
- Bữa sau, anh đề nghị em nấu món phở chua cổ truyền.
- Người ta bảo phở chua Lạng sơn ngon hơn phở chua Thất Khê quê mình vì họ cho thêm vào nước dùng hương liệu. Ngoài hành khô nướng, gừng nướng, chi quế, hoa hồi, còn một vài thứ nữa coi như bí mật nhà nghề. Nếu anh muốn, hôm nào rảnh em ra phố hàng Mắm ăn thử. Ăn dăm ba lần khắc tìm ra công thức.
- Nếu vậy, em thử xem sao. Phở chua Lạng sơn đã từ lâu có tiếng.
Nhờ cuộc đối thoại ấy, họ có thể tạm quên đi mọi chuyện và kết thúc bữa cơm. Nhưng đến tuần trà, anh biết rằng không thể nào tiếp tục vờ vĩnh vui vẻ. Cái lưới nhện khổng lồ vô hình vây quanh họ đang thít lại những mắt lưới hung hiểm của nó. Anh là người đàn ông, bậc gia trưởng, anh phải là người trước tiên đề cập đến sự thật :
- Nào, bây giờ đến chuyện của chúng ta. Anh chờ nghe đây.
Nàng Nhỏ vẫn im lặng nhưng vợ anh lên tiếng :
- Chủ nhật, em nó thưa chuyện với chủ tịch. Chủ tịch đồng ý nhưng còn phải chờ ý kiến tập thể của bộ chính trị. Ngay thứ hai, vấn đề được đưa ra bởi đó chính là ngày có cuộc họp định kì. Nhưng ý kiến của chủ tịch không được chấp thuận. Không có một phiếu chấp thuận.
- Vì lý do gì ?
- Vì họ không muốn chủ tịch có gia đình riêng. Vì họ muốn rằng chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc thôi. Vì....Vì....đấy là nghị quyết của bộ chính trị.
- Họ buộc chủ tịch phải chấp thuận ý kiến của họ ? Hay chính chủ tịch muốn tuân phục họ ?
Tới đấy, Nàng Đông im lặng. Hẳn vợ anh không thể trả lời. Và Nàng Nhỏ cũng thế thôi. Nhưng An vẫn muốn đi đến tận cùng sự việc . Anh hỏi Nàng Nhỏ :
- Em gặp ông cụ vào ngày nào sau cuộc họp đó ?
- Thứ sáu. Khoảng mười một giờ chủ tịch cho xe đến đón em.
- Ông ấy giải thích ra sao ?
- Chủ tịch nói rằng trên nguyên tắc của đảng, thiểu số phải phục tùng đa số. Huống chi trong trường hợp này tất cả bộ chính trị đều quyết định như vậy.
- Ông ấy còn nói gì nữa ?
- Chủ tịch nói rằng chủ tịch biết em chịu rất nhiều thiệt thòi....rằng chúng ta phải kiên trì sống trong bóng tối một thời gian nữa chờ thời cơ thuận tiện để thuyết phục các uỷ viên bộ chính trị.
- Khi nói những lời lẽ ấy, vẻ mặt ông ấy ra sao ?
- Em không nhớ. vì em cúi xuống lau nước mắt.
- Ông ấy cười hay ông ấy khóc ?
- Chủ tịch cũng khóc. Chủ tịch ôm em, nói rằng : Họ thật thiếu tình, họ không thông cảm cho hoàn cảnh của chúng ta.
- Chúng ta ở đây bao gồm những ai ?
Nàng Nhỏ ngước mắt nhìn anh, vẻ như không hiểu điều anh muốn nói. Lúc đó, An bình tĩnh lại và tự trả lời mình :
- Chúng ta ở đây nghĩa là ông ấy với em và hai đứa nhỏ. Nói một cách thông thường bốn nhân mạng trong một gia đình. Nếu là một gia đình bình thường thì đó là một gia đình đầy đủ.
Và trong lúc đó, một câu nói chua chát khác vang lên trong trí não anh :
― Nhưng rủi ro thay còn một thứ ― chúng ta khác. Chúng ta này là cái tập thể tí hon bao gồm anh và vợ anh và em, ba nhân mạng liên quan tới nhau không thể tách rời. Một liên quan sống còn, mật thiết. Mối liên quan này nằm ngoài sự nhận biết cũng như mối quan tâm của chủ tịch. Nhưng điều trớ trêu là mọi quyết định liên quan tới cuộc đời của ông ta sẽ giáng lên đầu chúng ta như những lưỡi gươm của số phận. Chẳng phải vinh hoa phú quý mà chắc chắn sẽ là mất mát khổ đau. Những linh cảm đã không lừa dối ta.
Anh nhìn đôi mắt u buồn của Nàng Nhỏ, tim thắt lại. Anh biết làm gì bây giờ ? Anh biết làm gì để cứu vãn tình thế, để che chắn những người thân yêu của mình trước cơn gió dữ ? Anh, người đàn ông duy nhất trong cái gia đình bé nhỏ này ? Tại sao số phận xô đẩy họ đến đây ? An cảm thấy nghẹt thở, anh vùng đứng dậy đẩy hai cánh cửa sổ mở trông xuống sân, rồi quay lại, cất tiếng :
- Này em. Giờ đây chúng ta phải bình tĩnh suy xét. Anh chưa hiểu rõ ý đồ của tập thể bộ chính trị. Trước đây đọc sử anh vẫn thường thấy các triều đình cảnh tỉnh khi một vị vua quá yêu chiều một quý phi. Nhất là khi vua già còn quý phi lại đang mơn mởn xuân thì. Sự lo lắng của các bậc lương đống quốc gia là dựa trên những kinh nghiệm đồi bại trong lịch sử. Đường minh Hoàng mê đắm Dương quý phi. Trụ Vương mê say Đát Kỉ. Ở nước ta chúa Trịnh Sâm say đắm cung phi Đặng thị Huệ. Nhưng những trường hợp này hoàn toàn khác biệt tình cảnh của chúng ta. Những người đẹp của các vua Tàu sống xa hoa trên lụa là châu báu. Mỗi bước đi của Dương quý Phi đạp lên một đoá sen đúc bằng vàng. Lâu đài của Đát Kỉ phủ đầy gấm vóc và mỗi bữa ăn của nàng ta đáng giá hàng trăm lượng bạc. Đến chiếc xe ngựa của quý phi cũng nạm ngọc dát vàng từ dưới đệm lên mui. Còn cung phi Đặng thị Huệ ở xứ ta đã ỷ thế được chúa yêu, thả sức nhũng lạm vàng bạc, đưa vô số người thân vào phủ chúa và bao che cho đứa em trai hung tàn bạo ngược là Đặng mậu Lân. Mậu Lân đi đến đâu cướp bóc tài sản của lương dân ở đấy. Gặp bất cứ người nào, dù là đàn bà hay con gái, hễ vừa mắt là sai lính quây màn giữa đường giữa chợ hãm hiếp người ta một cách thoả thuê...Kẻ nào trái ý chém chết ngay tức khắc. Sự hung tàn bạo ngược của y khiến cho lê dân cũng như các trung thần trong triều muôn ngàn lần phẫn nộ. Bao nhiêu sớ dâng lên đề nghị vua trừng trị Mậu Lân đều bị Đặng phi sai người xé đốt. Sau cùng, một võ quan đã chém chết y rồi tình nguyện trói thân quay về chịu tội trước Trịnh Sâm. Xét trên cả ba trường hợp đó, chúng ta chẳng liên quan gì đến sự xa hoa cũng như bạo ngược. Chúng ta sống nơi đây như những thứ dân dưới mức trung bình. Anh là người đàn ông duy nhất trong gia đình này, chưa từng cướp bóc hãm hại ai. Những đứa con của em ra đời trong một bệnh viện bình dân nhất, chẳng có lương y triều đình cũng không có thầy thuốc của phủ chủ tịch. Con bé Mùi và em nó lớn lên như mọi đứa trẻ con thuộc các gia đình công nhân hay cán bộ sơ cấp. Chúng ta chưa từng có một chút lợi quyền nào. Chúng ta cũng chưa từng xâm phạm đến tài sản hay quyền lợi quốc gia. Cớ sao họ có thể đối xử với chúng ta như vậy ?
Chẳng ai trả lời anh. Cả hai người đàn bà cúi đầu sùi sụt khóc. An hiểu rằng không ai có thể trả lời anh, trừ phi có một ông Trời và một khi ông Trời này động lòng từ ái trước tình cảnh của họ. Nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy một ông trời. Những thánh thần hoặc vong linh tiền nhân mà họ thờ cúng luôn luôn chỉ là những làn khói phất phơ bay trên bàn thờ ngày lễ tết, và dường như mùi thơm của nhang trầm chính là sự hiện diện gần gũi nhất mà anh có thể cảm nhận. Giờ đây, anh biết tìm trời ở đâu?
- Liệu em có dám hỏi thẳng ông cụ những điều anh vừa nói hay không ?...
An dằn giọng. Nàng Nhỏ khóc to hơn. Những cơn nức nở dồn dập hơn. Vợ anh ngước nhìn anh với cái nhìn van vỉ. Cơn giận dữ tiếp tục trào lên trong anh như một nồi cháo sôi trên ngọn lửa cháy quá đà :
- Nàng Nhỏ, em cần phải hỏi ông cụ cho rõ ràng. Vì cuộc sống của em, và cuộc sống của những đứa con em.
- Em cũng đã hỏi nhưng chủ tịch nói rằng chủ tịch cần phải sống gương mẫu. Rằng nếu em yêu chủ tịch thì phải chấp nhận điều ấy. Rằng khi những đứa trẻ lớn lên tình thế sẽ đổi thay.
- Khi những đứa trẻ lớn lên ?...
Anh hỏi lại và không chờ đợi câu trả lời:
― Chao ôi, giờ ông ta đã hơn sáu mươi tuổi. Liệu chúng ta phải chờ ông ta đủ bát tuần để có thể sống một cách chính thức với thiên hạ hay sao ? Chua chát thay cho Nàng Nhỏ của ta ! Chua chát thay cho thân phận những đứa con của một vị vua già ! Những đứa cháu của ta, những đứa trẻ dù muốn hay không cũng liên đới với ta bởi sợi dây của tình ruột thịt. „
Rồi một câu hỏi khác ập đến mà anh không thể ghìm nén :
- Này em, em có thật sự yêu ông ta không ?
Nàng Nhỏ nhìn anh với cái nhìn ngơ ngác :
- Anh hỏi gì ?
- Anh muốn hỏi rằng em thật sự yêu ông ta hay em yêu ông ta chỉ vì ông ta là chủ tịch nước ?
- Em yêu chủ tịch....Em yêu...
Nàng đáp lại rồi oà lên trong một cơn nức nở dữ dội hơn. Nàng Đông đưa mắt nhìn anh giận dỗi :
- Anh làm sao vậy ? Anh bị con mòng hay con rít cắn phải không ?
- Ồ không.
An đáp lúng búng. Anh chợt nhận ra rằng cơn tức giận đã xô anh đi quá đà. Có lẽ anh mong muốn cho em anh có một số phận khác. Nhưng sợi dây oan nghiệt của định mệnh đã cột trói nàng với vị vua già, vị vua già mà nàng lại trót yêu. Tình yêu cắc cớ trớ trêu đến như vậy. Trước đây anh vẫn hồ nghi, giờ anh hiểu Nàng Nhỏ có thể yêu ông ta thật sự. Không phải vì ông ta quyền cao chức trọng mà trước hết bởi ông ta là người chồng tốt, dù chỉ làm chồng trong những khoảnh khắc bị cắt rời.
― Lão già này hẳn là bẻm mép, giỏi tán gái ? „
Anh nghĩ, nhưng ngay tức khắc anh hiểu rằng ông vua già chẳng phải kẻ bẻm mép mà ông ta thật sự giỏi; rằng ông ta có thể làm Nàng Nhỏ siêu lòng bởi những lời lẽ ngọt ngào đằm thắm mà tất thảy những gã đàn ông trẻ trung hơn không biết nói, rằng ông ta có thể khiến nàng say đắm bởi những cử chỉ âu yếm đường mật mà người bản xứ chẳng biết cách thể hiện, những thứ cung cách văn hoá xa lạ mà ông ta học được ở phương tây. Cái sức mạnh đó không giống sức mạnh của người thợ săn giương súng lên ngắm con mồi, bởi nó không nhằm chiếm đoạt những con mồi mà nó nhằm chiếm đoạt những con tim. Cái sức mạnh đó vô hình vô dạng nhưng anh cảm nhận được một cách rõ ràng tựa hồ anh nhìn thấy ngọn lửa cháy, những hạt sương ban mai hay hoa nở trên các triền núi. Cái sức mạnh ấy, chính anh từng cầm nắm trong tay. Hồi ức dẫn anh quay lại những buổi tối ấm áp nơi bản Xíu, khi anh trở về từ thị trấn Thất Khê. Ngôi nhà sàn thênh thang bập bùng ánh lửa và chen chúc láng giềng. Chú anh chuẩn bị sẵn một hũ rượu lớn, những mâm gỗ sâu lòng chất đầy đồ nhắm mặn lẫn bánh trái và hoa quả. Thím anh rang đầy một thúng hạt hướng dương rồi sắp sẵn trà đường đãi khách. Dân bản, già cũng như trẻ, ngồi vòng quanh bếp lửa như những khán giả đam mê xúm quanh một sân khấu mà diễn viên duy nhất chính là anh. Đứng ở vị trí trung tâm, cậu học sinh phố huyện kể lại các liệt sử, các dã sử, các huyền thoại của người miền xuôi cũng như các vùng núi non khác xứ. Tất thảy kho kiến thức mà ông thầy trường huyện đã truyền thụ cho anh. Chú anh, ngồi ngay bên cạnh, khi đưa mắt nhìn anh với cái nhìn vừa yêu thương vừa thán phục, khi cúi đầu xuống để che giấu vẻ hãnh diện trước xóm giềng. Ông là người thợ săn nổi tiếng khắp vùng, người nấu cao hổ, cao gấu, cao sơn dương thành thục. Những miếng cao được sản xuất từ ngôi nhà sàn của ông là thứ mà những người giàu có sành sỏi khắp nơi phải lặn lội về bản Xíu để tìm kiếm...Chính với tiền bán những lạng cao ấy ông đã nuôi anh đủ bẩy năm đèn sách. Vậy mà khi nghe anh tán tụng tiếng sáo Trương Lương, khi nghe anh bình phẩm cái chết của Quan Vân Trường, khi anh miêu tả trận Bạch Đằng với tiếng hô Sát Thát...ông không tránh khỏi cảm giác thần phục của những người mù chữ trước một kẻ đọc thông viết thạo.Và sự thần phục ấy lia sát đến biên giới của sợ hãi hay mê đắm. Sức mạnh chinh phục của văn hoá là nghiệm sinh quan trọng nhất trong thời niên thiếu của An. Tuy anh chỉ là cậu học sinh trung cấp và chân trời xa nhất của anh dừng lại nơi những dãy phố nhỏ với những mái nhà lợp ngói ống huyện Thất Khê. Để so sánh, An hiểu rằng những gì anh hiểu biết chỉ là một hạt cát cỏn con trước một sa mạc mênh mông của con người lão luyện kia, kẻ đã hai mươi năm giang hồ tứ xứ, kẻ nói được cả tiếng Tàu lẫn các loại tiếng Tây. Kho trí tuệ của ông ta hẳn muôn ngàn lần rộng lớn hơn anh, và như thế, Nàng Nhỏ yêu ông ta cũng không phải việc lạ lùng.
― Nhưng cớ sao ta lại so sánh mình với con người quyền năng ấy ? Đấy là sự rồ dại. „
An thầm nghĩ một cách chua chát. Nhưng tức khắc, một tiếng nói khác dội lại như đáp lời :
― Vâng, ông muôn ngàn lần tài giỏi, quyền uy. Nhưng dẫu sao ông vẫn bước chân vào gia đình này sau tôi, đứng trước bàn thờ tổ tiên của hai nàng, tôi được quyền thắp nhang trước. Còn giờ đây, vợ chồng tôi là những người chăm chút con ông. Nói cho cùng, chính ông phải chịu ơn chúng tôi, hỡi vị vua già .
Buổi tối hôm đó trôi qua một cách nặng nề. Đêm đến, Nàng Đông ôm riết lấy anh. Họ không nói gì nữa. Họ làm tình một cách lặng lẽ. Họ làm tình như lần đầu làm tình ven bờ con suối Sơn ca. Như tuổi mười lăm được triệu hồi với tất cả sự hăm hở điên cuồng và sôi sục. Bởi thế, hôm sau anh ngủ đến tận non trưa. Khi tỉnh giấc, vợ anh đã đi chợ còn Nàng Nhỏ dẫn hai đứa con xuống dưới sân chơi với bà già hàng xóm. An mở rộng khuôn cửa sổ nhìn cảnh ba mẹ con nàng chơi dưới gốc sấu già. Dán mắt và cảnh tượng đó nhưng đầu óc anh hoàn toàn mù mịt khói sương. Hoàn toàn trống rỗng. Không một ý nghĩ nào hiện lên rõ nét. Chẳng một cảm giác nào có thể mô tả thành lời. An cảm thấy anh đã biến thành một thứ tượng gỗ biết đi lại, nói năng nhưng vô cảm. Anh chìm đắm trong trạng thái mụ mị như thế giờ lâu cho đến khi vợ anh quay về. Nàng Đông bỏ làn thức ăn xuống sàn, chăm chú nhìn chồng. Rồi, chừng như cảm nhận được trạng thái tinh thần kì dị của anh, nàng dẫn anh vào phòng. Ở đó, nàng ôm lấy đầu anh một cách dịu dàng, dịu dàng ghì xiết vào bộ ngực nồng nàn của mình. An gục mặt vào lòng vợ. Da thịt ấm nóng thân thuộc của nàng, và nỗi dịu dàng âu yếm của tình yêu khiến anh dần dần trồi lên khỏi làn nước lạnh giá của sự vô cảm. Anh bật khóc. Khóc nức nở như một người đàn bà. Khóc cơ cực như kẻ đói cơm rách áo. Khóc hờn tủi như một đứa trẻ bị lạc trên sân ga.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 35: NGƯỜI ANH EM (6)
Thứ bẩy tuần sau đó, An sẽ không còn thời gian để khóc.
Khi anh đạp xe tới nơi, ba người lính mặc thường phục nhìn anh với những con mắt âm u như mắt loài quỷ dơi chuyên sống trong các hang sâu, trước hết, cái nhìn của Nông Tài, gã người Tày duy nhất trong nhóm cận vệ. Dường như trong cái nhìn của gã, ẩn chứa một tiếng thét hãi hùng câm lặng, một hồi còi báo động, một nỗi sợ hãi bị bóp nghẹn. An đưa mắt nhìn lại Nông Tài, gật đầu chào rồi tiến vào hành lang. Những cái nhìn tối tăm của đám cận vệ đuổi theo anh, như rót xuống lưng anh một thứ chì nung lỏng. Nhưng con tim anh không còn đập dập dồn như lần trước. Một tuần lễ đủ cho anh suy ngẫm và dự phóng mọi tai ương có thể xảy đến với gia đình mình. Kho tàng lịch sử tàng trữ trong trí nhớ giúp anh chuẩn bị. Khi bước vào nhà, An khép chặt hai cánh cửa sau lưng và không ngạc nhiên khi thấy hai người đàn bà ôm nhau khóc. Họ chỉ có thể khóc thôi, họ còn biết làm gì hơn vào lúc này?... Nhưng tiếng khóc của họ không còn dừng ở mức độ phiền não mà là tiếng khóc của sự kinh sợ và căm uất. Không còn là sự buồn thương cho số phận mà tiếng than ai oán của kẻ bị dày xéo, bị hà hiếp, sống trong cơn kinh hãi trước cái chết đang từ từ tiến đến như một cỗ xe tăng sẽ nghiền nát họ nay mai. An bước tới, không chờ những người đàn bà lên tiếng đã nhìn thấy ngay gương mặt sưng tím vết đòn của Nàng Nhỏ. Anh ngồi xuống, cầm lấy hai cánh tay nàng, vén áo lên để xem những vết cào xước, những vết máu tụ xanh và dấu vết các lằn trói chưa đủ thời gian tẩy xoá.
- Kẻ nào đã dùng nhục hình với em ?
- Quốc Tuỳ.
- Bộ trưởng bộ nội vụ. Cái thằng cha đã đón đường em hồi còn ở trên chiến khu Việt Bắc ?
Nàng Nhỏ gật đầu.
An quay sang hỏi vợ :
- Lúc ấy em ở đâu ?
- Em ở dưới sân với lũ nhỏ và bà già hàng xóm...Vừa bước chân vào nhà là ông ta đã đuổi em xuống sân. Em không thể chống lại vì ông ta rút súng ra doạ nếu kêu to ông ta sẽ bắn vỡ sọ.
- Em có kêu , tiếng kêu ấy cũng chỉ có bà già hàng xóm và ba cậu lính gác nghe thấy mà thôi. Không phải vô cớ mà chúng nó bố trí cho các em ở ngôi nhà này. Thằng khốn nạn ấy đến đây hôm nào ?
- Nó đến đây liên tục từ thứ hai cho đến hôm nay, thứ bảy. Lần nào cũng vào khoảng ba giờ chiều. Lần nào cũng bắt lính gác lui ra ngoài phố, chặn đứng ngoài hành lang không cho ai bước chân vào. Lần nào nó cũng đánh và trói em của chúng ta.
Tới đó, vợ anh bật gào lên :
- Tủi nhục quá anh ơi.
An nhếch mép mỉm cười. Nụ cười đối diện với số phận. Anh không có quyền khóc nữa. Chắc là vì dự cảm mà tuần lễ trước con tim anh đã tan ra trong những dòng nước mắt. Anh phải khóc một lần cho cả kiếp sống của anh. Cầm hai cánh tay nõn nà của Nàng Nhỏ, anh hỏi :
- Nó đã nói những gì với em, thằng chó đểu người Kinh này ?
- Nó bảo rằng nó đã để mắt đến em từ hồi trên chiến khu, khi gặp em lội qua suối. Rằng nếu em khôn ngoan thì phải bằng lòng làm vợ nó từ ngày ấy. Rằng nó đã thề rằng trước sau nó cũng phải chiếm được em.
- Rồi sao ?
- Rồi em nói rằng tôi là vợ chủ tịch. Chúng tôi đã có đủ mặt con trai con gái, ông không được hà hiếp tôi. Nó nhe răng cười nói rằng lão già của mày ở xa lắm, mày kêu lão ấy cũng không nghe thấy, mày gọi lão ấy cũng không thể trả lời. Ở đây tao là vua. Tao muốn ai người ấy phải chịu . Tao muốn giết ai kẻ đó phải chết. Giờ đây tao muốn mày nằm dưới bụng tao. Bởi đó là nghị quyết của bộ chính trị. Bộ chính trị đã quyết định mày phải là vợ tao. Hãy khôn ngoan lên một chút, tao trẻ hơn lão già của mày nhiều. Nếu cái dùi cui của nó bằng gỗ thì của tao bằng thép. Nếu nó đưa mày lên tầng trời thứ ba tao sẽ đưa mày lên tầng trời thứ chín. Nếu nó cho mày hai đứa con, tao sẽ cho mày mười hai đứa liền tù tì. Khôn ngoan thì câm họng lại và dạng chân ra.
Người đàn bà kể đến đâu, nước mắt nàng tuôn rơi đến đấy.
An nghe những viên sắt nung đỏ lăn trong tim mình. Một đoạn sử quay trở lại văng vẳng bên tai anh :
« ...Nhà Chúa hèn nên Đặng Phi thông dâm với Ngự đầu quân, nương dựa vào viên võ quan này để che chở cho đứa em trai ngạo ngược và dâm đãng là Đặng mậu Lân. »
Anh nghĩ :
« Em ta không tự ý ngủ với Ngự đầu quân mà bị nó hãm hiếp sỉ nhục và tra tấn.Vậy ông vua già này còn mười lần hèn hơn Chúa Trịnh ngày xưa. Cơ đồ không còn cứu vãn được. Nếu ta không cao chạy xa bay toàn bộ gia đình ta sẽ biến thành những con ma không đầu lang thang muôn kiếp trong bóng tối. Nỗi oan khiên đau đớn của em ta sẽ vĩnh viễn bị chôn vùi trong câm lặng. Và lãng quên. Một kiếp hồng nhan dạt qua cõi đời như xác vờ bập bềnh trên sóng nước. Em ta chẳng có tội tình gì. Từ nhỏ tới lớn nó chưa nỡ nói một lời phạm tổn đến ai. Tâm hồn nó trẻ thơ và trong trắng. Lòng tốt của nó đong đầy gấp ba lần đấu của những người xung quanh. Ta phải tồn tại để cứu gỡ danh dự bị tổn thương của nó. Ta phải sống để làm nhân chứng cho tội ác ghê tởm này. »
Ông thầy huyện Thất Khê đã dậy anh rằng nghề viết sử là nghề của những bậc anh hùng, dám đem mạng mình đổi lấy sự thật. Bởi mọi thứ vua chúa đều kinh sợ sự thật và muốn những người viết sử phải uốn ngọn bút lông theo ý mình. Biết bao nhiêu cái đầu sử gia đã rụng xuống dưới lưỡi kiếm của đao phủ triều đình, nhưng lịch sử vẫn tiếp tục viết lên bằng những dòng máu khô đen của họ.
« Vậy ta buộc phải trở thành người viết sử. Không phải người viết sử quốc gia nhưng là kẻ chép lại cuộc đời những người thân thiết của riêng ta. »
Anh ôm chặt cả hai người đàn bà một lúc, nhìn họ một lần cuối như để vĩnh viễn ghi khắc những hình ảnh đó trong con tim lẫn óc não mình. Rồi, anh hỏi vợ :
- Em còn mấy chiếc nhẫn ?
- Em còn đủ năm chiếc.
- Em hãy giữ lấy chiếc nhỏ nhất mà anh đánh cho em hồi mình cưới nhau. Còn lại, đưa cả cho anh. Tiền mặt, chắc không có nhiều, nhưng cũng phải cho anh một món để tiêu dọc đường.
- Không, nhà mình còn khá nhiều tiền mặt tích trữ từ năm ngoái. Để em đưa cả cho anh.
- Bao nhiêu ?
- Khoảng chừng năm mươi vạn.
- Anh chỉ cần một nửa thôi. Em giữ một nửa để đi chợ.
Vợ anh vào buồng. Anh nhìn theo tấm lưng thon thả của nàng và nghĩ :
« Em sẽ chẳng còn dịp đi chợ, chẳng còn dịp nấu phở chua theo kiểu Lạng Sơn, người vợ yêu dấu của anh. Cuộc sống của chúng ta bị cắt ngang như thân cây lúa ngày mùa. Chao ôi, cái ngày Nàng Nhỏ được tiến vua chính là ngày tai hoạ cho gia đình chúng ta lẫn dân bản Xíu. Và cái việc đổi họ Nông sang họ Chí chính là việc ngu xuẩn nhất trên trần gian.»
Nàng Đông quay ra với xấp tiền giấy trên tay. Tay kia, nàng cầm một chiếc túi nhỏ như cái mề gà. Đặt xấp tiền lên bàn, nàng mở túi rút ra một sợi dây dài xâu bốn chiếc nhẫn, loại nhẫn gộc không mặt đá cũng không trang trí mà những người buôn bán đường xa thường mang theo :
- Anh phải cất vàng vào túi quần đùi ; cái túi em máy thêm phía trong cạp.
- Anh hiểu rồi.
- Tiền giấy anh chia ra thành nhiều món xếp trong cả túi quần lẫn túi áo, lỡ mất món nọ còn có món kia.
- Anh hiểu.
- Còn lọ dầu xoa chống cảm lẫn thuốc chống đau bụng viên, anh cũng phải cầm theo. Ngoài ra còn đèn pin, bật lửa, dao đi rừng, túi thuốc lá, cao chống rắn độc. Đủ hết chưa ?
- Có đủ trong túi dết.
- Để em xem lại cái túi dết của anh.
- Không thiếu gì hết.
An đáp và thầm nghĩ :
« Có cái thiếu trầm trọng nhất là thiếu em, và Nàng Nhỏ của chúng ta. Bởi anh không thể đưa các em cùng đi trong cuộc hành trình khốn khổ này. Nhưng chúng ta sẽ gặp nhau ở cõi khác, vùng đất khác, nơi hẹn hò chung cuộc của tất thảy chúng sinh. Rồi chúng ta sẽ gặp lại nhau. Những người yêu dấu của anh. Nhưng trước khi gặp các em, anh phải làm chuyện này cho ra lẽ. »
Lần cuối cùng, anh cúi xuống, ghì xiết hai người đàn bà, ngửi mùi thơm thân thiết từ những mái tóc óng mượt của họ, chà sát mặt anh vào những gương mặt nõn nà ấy, rồi anh đứng lên :
- Các em đừng bước ra cửa. Đừng đi theo anh. Hôn hai đứa bé cho anh.
- Anh !...
Cả hai người bật kêu lên. An hạ giọng :
- Đừng khóc. Hãy coi mọi sự như chưa từng xảy ra, chưa hề xảy ra. Chúng ta không có cách nào hơn...
*
Anh bước xuống cầu thang, không ngoảnh lại một lần nào nữa.
Trong hành lang, An gọi Nông Tài :
- Cậu có sẵn tiền trong túi không ? Cho tôi mượn một vạn ? Tôi đang định mua mấy món đồ gửi người mang về quê, nhưng chưa chuẩn bị đủ tiền.
Nông Tài đưa mắt nhìn anh :
- Bao giờ trả ?...
- Tuần sau. À, quên...Hai tuần nữa mới tới kì lương. Đến kì lương tôi sẽ trả ngay, không chậm một ngày.
- Trong túi tôi chỉ còn đủ tiền mua vài chiếc bánh rán. Tôi cất tiền ở doanh trại.
- Sắp đến giờ đổi gác rồi còn gì ? Nói với các đồng chí thông cảm cho về sớm một giờ được không ?
- Được thôi. Chờ tôi hỏi đã.
Hành lang không quá dài để cuộc trao đổi của họ có thể lọt vào tai hai người cận vệ kia. An hiểu rằng màn kịch chắc chắn sẽ thành công bởi thông thường, người miền núi vốn không biết nói dối. Chừng ba phút sau đã thấy Nông Tài quay lại :
- Đi thôi, hai đồng chí đều đồng ý cho tôi về trước. Chúng ta đến chỗ tôi gửi xe đạp rồi cùng đạp về doanh trại.
- Đồng ý.
Họ cùng đi ra..
Khi Nông Tài lấy được xe đạp, hai người lặng lẽ đạp xe qua ba con phố. Hoàn toàn tin tưởng rằng không ai rõi theo họ, An dừng lại :
- Tạt vào hè đã.
Nông Tài hiểu ý anh tức khắc, xuống xe. Hai người lên vỉa hè, đứng dưới bóng một cây xà cừ. An hỏi :
- Hai cậu kia có biết rằng sớm hay muộn họ cũng sẽ phải chết không ?
- Không ai dám nói với ai nhưng cả ba chúng tôi đều ngầm hiểu như vậy. Chúng tôi gác ca chiều. Sự việc xảy ra toàn vào buổi chiều nên chỉ ba chúng tôi chứng kiến. Tốp kia đổi ca từ mười hai giờ đêm đến trưa hôm sau, họ không hay biết gì.
- Vậy sao các cậu không bàn nhau trốn đi ? Trốn đi đâu bây giờ ? Sáng nào cũng điểm quân trước giờ tập thể dục, chiều nào cũng điểm quân trước lúc lên giường ngủ...Vả chăng, nếu muốn trốn họ cũng không bàn với tôi vì tôi là người Tày. Còn tôi, tôi cũng không thể bàn với họ, vì họ là dân Kinh. Bộ trưởng Quốc Tuỳ là người Kinh như họ. Còn Nàng Xuân là người Tày như tôi.
- Liệu họ có ngờ rằng tôi rủ cậu đi trốn không ?
- Không.
- Vì sao ?
- Vì họ cho rằng chúng ta là dân miền núi, những kẻ cả tin và ngu ngốc không dám hành động liều lĩnh như vậy.
- Tốt. Vì chúng ta là những kẻ ngu ngốc nên có thể chúng ta sẽ thoát chết...Còn họ vì là dân đồng bằng khôn ngoan nên họ sẽ cầm chắc cái chết trong tay. Giờ, không còn thời gian nữa. Chúng ta phải ra ga thôi. Hy vọng rằng chúng ta sẽ không lỡ tàu với tấm chứng minh thư công an nhân dân của cậu...
- Nhưng ...còn quần áo với tiền và đồ đạc của tôi ở doanh trại ?
- Cậu có điên không ? Cởi truồng mà sống còn hơn chết đắp ba bộ quân phục trong hòm. Đi thôi.
Họ đạp thẳng ra sân ga Hàng Cỏ. Ở đấy, hai người gửi xe vào bãi rồi mua vé tầu xuôi Vinh. Đúng như An dự đoán, tấm thẻ công an của Nông Tài được việc. Họ được ưu tiên mua vé tức khắc với lý do « làm nhiệm vụ đặc biệt ». Vừa kịp bước lên toa tầu nhận chỗ, tàu đã hú còi rời ga. An đặt chiếc túi dết ra sau lưng rồi ngồi xuống, đưa mắt nhìn phố phường lướt bên ngoài ô cửa :
« Vĩnh biệt mày, thành phố thù nghịch của tao. Cái thành phố tao từng mơ tưởng bao tháng ngày khi còn ở chiến khu Việt bắc, cái thành phố tao ngỡ là thiên đường nhưng giờ đây lại hoá thành địa ngục. Chính nơi đây sẽ là hầm mộ tăm tối chôn vùi vĩnh viễn những người thân thiết của tao. Vĩnh biệt con quái vật khổng lồ, ghê tởm.»
An nghĩ, khi anh đưa mắt nhìn Hà nội. Lần cuối cùng, chắc chắn sẽ là lần cuối cùng anh còn thấy nó.
- Anh Thành.
Nông Tài chưa kịp ngồi yên chỗ đã chồm qua mặt bàn, ghé tai anh thì thầm hỏi:
- Anh Thành, tôi nghĩ rằng.
- Cậu nghĩ gì ?
- Tôi không hiểu vì sao chúng ta lại đi về phương nam ? Tiến sâu vào đồng bằng miền Trung, ta sẽ giống con chồn sa xuống ruộng nước; như con cá lăng bị hất lên đồi. Tại sao chúng ta không quay về Thất khê ? Ở đó, chúng ta thuộc đường chính cũng như đường tắt, chúng ta biết suối biết rừng. Trốn ở đâu ta cũng có thể đào cây đào củ hay bẫy thú cầm hơi.
- Đồ ngốc, Thất khê sẽ là nơi đầu tiên họ truy tìm. Chúng ta không thể chui lủi trong rừng mãn kiếp. Vả chăng, có thoát được lưới quây vượt sang biên giới cũng sa vào tay lính Tàu. Bọn này sẽ tức khắc dẫn độ chúng ta trả cho cho nhà nước Việt nam.
- Nhưng ở miền Trung, nơi xa lạ ?
- Chỉ có ở nơi xa lạ mới hòng thoát thân. Từ Vinh lên biên giới Việt-Lào ngắn hơn nhiều lần từ huyện nhà lên biên giới phía bắc.
- Sao anh biết được ?
- Tôi phải biết để có thể thoát thân...Bằng mọi giá tôi phải học để hiểu những điều cần thiết trước khi cất bước.
- Nhưng bên kia biên giới là đất của người Lào. Anh đã biết họ hay chưa ?
- Người Lào và người Tầu giống như con nai với con báo, chẳng thể so sánh với nhau.
Cuộc đối thoại thầm thì của họ chìm trong tiếng bánh sắt nghiến trên đường ray. Rồi An bảo :
- Ngủ đi.
- Tôi chưa đến giấc. Vả lại bụng đói khó ngủ.
- Đúng. Không ai ngủ được khi đói bụng. Giờ cậu xuống căng-tin mua bánh mì. Ăn xong chúng ta sẽ uống thật no nước. No bụng, dễ ngủ. Bằng mọi giá phải ngủ để lấy sức cho ngày mai.
Nông Tài đứng dậy đi xuống căng-tin ở toa cuối cùng đoàn tầu mua về hai ổ bánh mì to tướng rắc muối tiêu và hai bi-đông nước. Hai người lặng lẽ ăn, lặng lẽ uống nước rồi khoanh tay trước bụng, ngủ ngồi. Con tầu dồi lắc cái đầu của họ như đùa rỡn một quả bóng. Nhưng dẫu sao, sau một hồi chập chờn họ cũng ngủ được một giấc thật sâu cho đến khi tiếng loa phóng thanh oang oang báo tin:
- Tàu đã đến sân ga Vinh.. Xin đồng bào kiểm tra lại hành lý.
An mở choàng mắt. Tàu chạy chầm chậm trước khi dừng lại hẳn. Ánh đèn lờ mờ đỏ quạch rọi trên đầu một đám đông nhốn nháo, đang chen nhau tìm kiếm hành lý trên các giá chứa đồ. Hai người ngồi im bởi họ chỉ có vẻn vẹn chiếc túi dết một quai trong đó chứa tất cả những vật dụng cần thiết cho một cuộc chạy trốn. Họ xuống sân ga khi trời mù sương. Mới bốn giờ sáng. Những cỗ xe ngựa sắp hàng dài ngoài cửa sân ga còn các chủ xe ngồi uống trà hoặc rượu xuông trong dãy quán bán đồ ăn dọc phố. Ở đây, chính khách phải đi tìm chủ xe để thương lượng giá cả. Người đi lại đông, xe ngựa không đủ chuyên chở. Còn chờ xe ca của nhà nước thì phải xếp hàng ít nhất mười tiếng mới có thể mua được một tấm vé. An bảo :
- Chúng ta phải nhanh chân lên.
Anh dẫn Nông Tài dạo một lượt đoạn nhìn vào một ông chủ xe dáng điệu ngang tàng với hàng râu ghi-đông vểnh :
- Chào bác. Chúng tôi có nhiệm vụ đặc biệt trên biên giới. Liệu bác có thể giúp hai anh em tôi được chăng ?
- Các anh là ai chứ ?
- Chúng tôi là công an nhân dân và sĩ quan quân đội. Đây là chứng minh thư của hai anh em tôi.
- Công an nhân dân cũng như sĩ quan quân đội được ưu tiên đi xe nhà nước. Ba ngày một lượt có chuyến xe lên cửa khẩu. Các đồng chí thuê quán trọ rồi báo công an địa phương sắp xếp. Sáng ngày kia khắc có chuyến.
- Nhiệm vụ của chúng tôi khẩn cấp. Chúng tôi không thể chờ được.
- Nhưng các đồng chí cũng không thể thuê xe ngựa của chúng tôi . Ngựa chạy đường núi giá đắt lắm. Ở đây thông thường chúng tôi chỉ chở khách về các thị trấn quanh Vinh mà thôi.
- Đắt mấy chúng tôi cũng chịu. Rồi cơ quan sẽ thanh toán lại.
Chủ xe đưa mắt nhìn họ ngờ vực :
- Một chuyến xe này thông thường chở tám khách.
An cướp lời :
- Chúng tôi trả đủ tám xuất vé và thêm cả tiền hành lý của tám người. Hy vọng bác ưng thuận.
- Được rồi.... Để tôi xem.
Ông râu vểnh ậm ừ.
An nói tiếp :
- Và chúng tôi trả thêm tiền bồi dưỡng ngựa chạy đường xấu. Nếu cần đổi ngựa dọc đường chúng tôi cũng sẵn sàng bao. Miễn sao tranh thủ được thời gian để hoàn thành trách nhiệm vụ đã được giao phó.
- Được.
Tới đó, người chủ xe đứng lên, với vẻ nhanh nhẹn bất ngờ. Ông ta rút trong túi ra vài đồng xu lẻ trả cô bán nước chè rồi dẫn hai người ra xe. An rút tiền trong túi ra đếm rồi tức khắc đưa hai phần ba tổng số tiền sẽ phải thanh toán cho chủ xe, đoạn nói thêm :
- Còn lại, tôi sẽ trả bác ngay khi nhìn thấy đồn biên phòng hiện lên trước tầm mắt.
- Đồng chí là người rất hào phóng.Vì thế trời đã đưa đường dẫn lối cho đồng chí đến gặp tôi. Nói một cách sòng phẳng, con ngựa của tôi là số một trong đám ngựa chạy xe ở thành phố này. Ngoài nó, chẳng có con nào dám ngược đường lên biên giới... Bởi tôi là người duy nhất cho ngựa ăn ngô trộn mật. Những người khác chỉ cho ngựa ăn cỏ quanh năm.
Ông ta dẫn giải với vẻ đầy kiêu hãnh. Rồi khi đã cẩn thận cho tiền vào túi áo, cẩn thận cài khuy nắp túi, ông ta thượng lên ghế xà-ích, ra roi. Cỗ xe quay chiều ngược đường lên phía tây.
Sau một lát lắng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp nện trên đường phố, An thò cổ ra quan sát :
- Vinh không lớn hơn thị trấn Thất Khê là bao. Nhưng kiểu nhà ở đây hơi khác. Vì sao đâu đâu cũng nhìn thấy những thùng tô-nô sơn đỏ thế kia ?
- Các đồng chí mới lần đầu đặt chân đến đây, đúng không ?
Người xà-ích quay lại hỏi.
Vâng. Quả tình như vậy.
An đáp. Người xà-ích giơ roi chỉ về những giải núi chập trùng nơi chân trời phía trước và nói :
- Phía tây là nơi gió Lào thổi tới. Xứ chúng tôi hứng gió Lào, thứ gió thổi đến đâu cây cối quắt queo tới đấy. Chẳng những cây cối ngoài vườn mà ngay đến đồ đạc như giường tủ bàn ghế hay các thứ vật dụng khác trong nhà cũng đều khô cong khô nỏ và biến thành thứ củi bắt lửa nhanh nhậy. Vì lẽ đó chống hoả hoạn là công việc của toàn dân. Những chiếc thùng tô-nô sơn đỏ kia do chính quyền phân phát cho các nhà để dự trữ nước. Ai lười biếng để thùng vơi nước sẽ bị láng giềng tố cáo và phải chịu cảnh cáo hoặc kỉ luật.
- Đội cứu hoả của thành phố ăn lương nhà nước để làm việc đó. Cớ sao buộc mọi nhà dân ?
- Đội cứu hoả ở đây biên chế nhiều gấp ba lần các thành phố khác. Nhưng cho dù có đông gấp hai mươi lần họ cũng chẳng thể chống nổi hoả hoạn trong cơn gió Lào. Gió Lào, còn gọi là gió lửa, chính nó gây nên các vụ cháy chứ chẳng cần thêm vào sự sơ xuất của con người.
- Vậy sao ! Thật đáng sợ.
An đáp, trong khi những ý nghĩ khác chạy thoăn thoắt trong óc não anh :
― Gió Lào! Hung hiểm thay. Vậy mà chúng ta đang tiến về hang ổ cái lò lửa đó. Chẳng có thứ thiên tai nào hung hiểm hơn thứ tai hoạ gây nên bởi con người. Chẳng có thiên nhiên nào tàn độc hơn thứ tàn độc của con người đối xử với nhau.
Đoạn, anh quay sang bảo Nông Tài :
- Nghe bác xà-ích nói gì chưa ? Từ hôm nay sẽ phải hành quân trong thứ gió Lào bỏng rát đó. Bây giờ ngủ đi mà lấy sức.
- Đường lắc như xóc đĩa, ngủ làm sao ?
- Vậy thì nhắm mắt lại.
Người lái xe quay lại góp lời :
- Đúng đấy, nhắm mắt được phút nào hay phút ấy. Chỉ lát nữa, mặt trời lên, mắt sẽ chói như bị kim đâm. Khách từ phía Bắc vào đây đều kêu trời thứ nắng bỏng của Nghệ An.
- Quê hương chủ tịch họ Chí !
- Đích xác là như vậy.
Ông chủ xe râu vểnh đáp và cất tiếng ngâm : « Đất nghèo sinh bậc anh hùng... »
- Bác ngâm thơ hay thật.
An gật gù tán thưởng khi thâm tâm anh cất tiếng cười khinh bỉ :
« Ồ, ông ta đúng là một bậc anh hùng. Nhưng ông ta cũng lại chính là kẻ hèn nhát nhất trên cõi đất này, một người chồng không bảo vệ nổi vợ, một người cha không che chở nổi những đứa con. »
Bên ngoài, nhà cửa đã thưa vắng. Ngoảnh lại nhìn, thành phố Vinh chỉ còn là một khối hỗn độn với dăm ba ống khói đang nhả lên trời thứ khói đen nhờ bẩn thỉu.
An hỏi người xà-ích :
- Liệu chúng ta có đến được biên giới trước lúc tối trời ?...
- Tuỳ. Tuỳ theo chân ngựa chạy. Tuỳ theo trời nắng hay mưa. Bởi mùa này khí hậu thất thường như trở bàn tay, có khi đang nắng đẹp trời xanh lồng lộng bỗng nhiên mưa giông gió giật ầm ầm kéo đến. Nha khí tượng chưa bao giờ dự đoán chính xác những cơn bão miền Trung. Nhưng nếu chúng ta gặp may, ngựa không giở chứng giữa đường, ta sẽ đến cửa đồn biên phòng khi mặt trời còn đứng cao hơn một con sào trên đỉnh núi.
- Tức là khoảng bốn giờ chiều ? Ý bác muốn nói vậy ?
- Tôi không hay xem giờ. Nghề đánh xe buộc chúng tôi suốt ngày đêm rong ruổi trên đường, sớm hay muộn cũng vậy. Nhưng tôi nhớ là thường thường, khi xe đến đây, mặt trời còn đứng cao hơn ngọn núi phía tây chừng một con sào.
- Sớm chút nào hay chút ấy. Qua biên giới, chúng tôi còn phải đi bộ một thôi đường khá xa.
- Ô....
Người chủ xe cất tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng không ra hứa hẹn. Rồi ông ta thủng thẳng buông tiếng :
- Để rồi xem.
An nhìn những giải đồi cằn cỗi phía trước, nơi bắt buộc họ phải vượt qua trước khi tới miền biên giới : Chúng mênh mông trống vắng, dường như có thể phóng tầm mắt đến hút tận chân trời. Không một cụm rừng, cũng chẳng một ngọn núi. Chỉ triền miên những giải đồi trơ trụi trên đó mọc thuần một loài gai thấp lè tè không quá sải tay và các loại dương xỉ. Nếu bị rượt đuổi ở nơi này, cái chết sẽ cầm chắc.
« Liệu hôm nay các đồn biên phòng Thất Khê đã nhận lệnh truy nã hay chưa ? » .
An thầm nghĩ và hình dung cảnh tượng sẽ diễn ra sau lưng họ. Trước hết đơn vị anh và đơn vị của Nông Tài sẽ báo cáo sự mất tích của hai gã « dân tộc thiểu số ». Phaỉ hai mươi bốn giờ sau mới có thể ra lệnh truy nã theo thông lệ nhưng trường hợp này gã bộ trưởng Quốc Tuỳ ắt phải quyết định sớm hơn. Trên các chuyến tàu ngược Lạng Sơn và Lao cai lính sẽ giăng hàng khám xét để bắt hai kẻ « đào ngũ » Liệu chúng sẽ gán cho họ những tội danh nào để hợp lý hoá việc ban bố lệnh « truy nã tội phạm » ? Nếu không cướp của giết người ắt chỉ còn là tội làm gián điệp cho ngoại bang. Và đó là tội danh tiện lợi nhất để kích động lòng căm thù cũng như sự khinh bỉ của dân chúng :
« Ta tin chắc rằng giờ đây chúng ta đã trở thành những tên gián điệp nguy hiểm, âm mưu lật đổ nhà nước vì nhận tiền viện trợ của ngoại bang. Sẽ không có một cách giải thích nào khác. »
An thầm nghĩ với nỗi buồn chua chát vì nhớ lại bao nhiêu lần từng đứng dưới cờ tuyên thệ trung thành chiến đấu cho tổ quốc, thề tiêu diệt đến kẻ thù cuối cùng dám xâm phạm vào nền chuyên chính vô sản của nhân dân. Giờ đây, anh đã trở thành thứ kẻ thù ấy, chính anh và gã Nông Tài ngồi một bên đang lơ láo đưa mắt nhìn cảnh vật. Cuộc sống quả là trò lường gạt khủng khiếp mà biết bao nhiêu triệu con người chỉ là đám đông khờ khạo bị xỏ mũi dắt đi như một đàn trâu.
« Nhưng còn hai người đàn bà, chúng sẽ làm gì họ ? »
« Chúng sẽ không làm gì hết bởi họ đã là hai tù nhân trong căn gác ấy, và họ không có cách nào chống lại chúng. Nhưng hai gã cận vệ kia ắt sẽ bị gọi lên răn đe phải khâu mồm câm họng.
Hai kẻ khốn khổ đó có đủ liều mạng để trốn đi hay chăng ?...
Không ! Dù có bạo gan họ cũng không còn cơ may để làm điều đó. Sau cuộc bỏ trốn của Nông Tài, họ sẽ thường xuyên sống dưới sự kiểm soát của đồng đội. Họ sẽ phải ngậm đắng nuốt cay giả câm giả điếc, giống như thứ xác chết biết đi hay hình nhân bằng gỗ đứng trong cái hành lang dài dặc và thiếu ánh mặt trời kia.
Gã bộ trưởng dâm đãng sẽ không thay đổi lính gác trong thời gian tới. Một tuần, hai tuần hoặc ba tuần ? Tất cả tuỳ thuộc vào cơn dâm dục của y. Khi đã no nê thú tính, hai người đàn bà cùng hai người cận vệ kia sẽ cùng một lượt xuống mồ. Hai gã lính ấy, chắc chắn cũng như anh đã từng giơ nắm tay hàng ngàn lượt dưới quốc kì thề tiêu diệt kẻ thù của nhân dân và bảo vệ tổ quốc ! »
- Tại sao anh cười ? Anh cười gì vậy ?
Nông Tài bất chợt cất tiếng hỏi khiến An giật bắn mình. Anh vội đáp :
- Nhớ ra một chuyện tiếu lâm.
- Vậy thì kể đi cho đỡ buồn.
- Không kể được. Bậy bạ lắm.
Nông Tài lặng im với vẻ bất mãn.
An chợt nhận ra rằng anh đã có thói cười gằn khi những nỗi đau băm chém con tim. Cái thói quen lạ lùng này vừa mới hình thành đã trở nên thuần thục như vốn nó gắn liền với anh từ muôn thuở.
― Gã trai của bản Xíu năm xưa đã chết hẳn rồi, ta chẳng còn nhìn thấy nó.
Anh thầm nghĩ. Nhưng lát sau, một câu hỏi não lòng lại vang lên bên tai :
― Nhưng còn hai đứa trẻ ? Liệu lũ chó đểu kia sẽ làm gì chúng ?
Anh hình dung đôi mắt đen như hạt nhãn của con bé Mùi, hơi thở thơm tho của nó khi nó thỏ thẻ bên tai anh, cái cảm giác mềm mại khi những sợi tóc của nó cọ vào bên má, một thứ tình ngọt ngào êm ấm dâng lên mỗi khi con bé đặt hai bàn tay bé xíu của nó vào bàn tay rộng lớn của anh. Đôi bàn tay người thợ săn. Nghĩ tới đó, An lại thấy một lưỡi dao quắm bén nhọn đang thọc ngoáy tim mình. Máu chảy ròng ròng từ những vết thương ấy :
― Không!Ta không thể nghĩ đến những điều ấy nữa. Coi như phía sau
lưng ta chỉ là một nấm mồ lặng câm và tăm tối. Không còn ai, không còn bản Xíu, không còn cả chú thím ta và ông bố vợ. Tất cả đều bị xoá đi trên mặt đất này. Ta sẽ là kẻ cuối cùng. Kẻ cuối cùng buộc phải sống để tố cáo lũ đao phủ người Kinh. Ta phải làm được điều đó bằng mọi giá.
Đột nhiên, An cảm thấy mệt mỏi. Anh bảo Nông Tài :
- Nằm xuống đi. Tôi đau lưng lắm. Mỗi băng ghế đủ cho bốn người ngồi nên ta có thể nằm duỗi chân cho thoải mái. Đừng quên rằng qua đồn biên phòng chẳng còn xe ngựa cũng chẳng có xe trâu. Chỉ có hai bàn chân thôi. Đường xa dốc ngược. Chẳng dễ đâu.
- Đồng ý.
Gã trai đáp ngoan ngoãn và chuyển sang bên chiếc ghế băng đối diện. Người xà-ích quay lại bảo :
- Các đồng chí cứ nghỉ ngơi. Đến nơi, tôi khắc gọi.
An nhắc lại :
- Khi nhìn thấy đồn biên phòng tôi sẽ trả nốt tiền cho bác. Nếu ngựa chạy tốt, đến sớm hơn lệ thường chúng tôi sẽ gửi thêm tiền để bác mua ngô mua mật bồi dưỡng cho nó.
- Được thôi.
Người chủ xe vui vẻ đáp đoạn cất tiếng hát một điệu hát cổ mà An chưa từng nghe. Giọng ông ta khá ấm, vang rất to giữa miền đồi hoang. Chắc hẳn thời trai trẻ ông ta phải là một ca sĩ nơi thôn xóm, cũng như những tài tử thổi tiêu thổi sáo thâu đêm trên bản Xíu quê anh. An nằm xuống ghế, lắng nghe câu hát một cách chăm chú. Câu hát xứ này trộn lẫn một cách ngô nghê ý thơ lẫn những câu nói dung tục, tầm thường :
― ...Này, cô nàng ở bên kia sông ,
Cô nàng áo thắm, cô nàng quấn khăn hồng,
Có chồng rồi hay còn chờ đợi người tới gọi,
Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,
Nơi đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy,
Ngại ngần chi, cuộc sống ngắn chẳng tầy gang,
Hãy lội sang đây, cô nàng xinh đẹp,
Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn nóng cháy
Anh như bước đi trên lửa, như đang ngồi trên than....
Bước chạy của con ngựa đường trường gieo một thứ điệp khúc buồn tẻ, hoà cùng tiếng hát rền rĩ tiếc thương của người xà-ích nhiễm đầy đầu óc lẫn con tim An . Dần dà, giấc ngủ đến, cuốn anh vào những làn sóng đen ngòm của nó.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 36: NGƯỜI ANH EM (7)
- Dậy thôi. Đồn biên phòng kia rồi.
Tiếng hô của người chủ xe khiến cả hai người đều bật dậy.
- Ối cha, chói mắt quá....
Nông Tài vừa lật chiếc mũ úp trên mặt đã kêu váng lên.
Không kêu nhưng An phải vội vàng nhắm ngay mắt lại vì thứ ánh sáng chói chang như muôn ngàn chiếc kim đâm làm họ chảy nước mắt tức thì.
Sau một hồi nhắm mắt, úp trở lại chiếc mũ lên mặt cho quen dần với thứ ánh sáng gay gắt này, An mới dám mở mắt ra. Người chủ xe nói :
- Tôi đã nói trước mà. Người nào từ xứ Bắc vào cũng la ó hoảng hồn vì nắng Nghệ An. Đó còn là may mắn vì hôm nay không có gió Lào.
- Nếu có gió Lào nữa thì sao ?
- Các đồng chí sắp sang bên đó. Không cần tò mò ngày mai khắc biết.
- Đồn biên phòng đâu ?
- Nhìn thấy chưa ? Cái đốm đỏ cao nhất, đó là nơi cắm cờ của đồn lính. Thời trước là cờ Pháp. Sau ngày cách mạng là cờ đỏ sao vàng.
An rút tiền đếm rồi đưa cho người chủ xe :
- Bác cầm lấy. Chắc dư tiền mua mật và thóc cho chú ngựa.
Người xà-ích bỏ tiền vào túi rồi cúi xuống gầm xe lôi lên hai bó lá chuối khô :
- Đồng chí hào phóng quá, tôi cũng phải biết phận sự của mình. Người ta bảo : có đi có lại mới toại lòng nhau. Đây là hai cân đường phèn hảo hạng. Các đồng chí có thể ngậm khi đi rừng cho đỡ khát. Nếu muốn may mắn vượt qua đồn biên phòng thì có thể tặng lính một nửa. Trên đó họ buồn nên hễ cứ có người là họ tìm đủ cách vặn vẹo giấy tờ để chuyện vãn cho vui.
- Có cái lệ đó hay sao ?
- Chẳng có lệ nào cả nhưng ở đó họ buồn....Thi thoảng lắm mới có một chuyến xe ngựa ngược lên đây. Còn lại là xe quân đội. Xe khách chẳng qua lối này. Nếu đồng chí bị nhốt ở đồn biên phòng ấy quanh năm đồng chí cũng sẽ làm như họ thôi.
- Cảm ơn bác.
An nói và đưa gói đường phèn lên ngửi. Quả là thơm. Anh bảo :
- Cũng phải tặng họ một nửa thôi. Chúng tôi cần phải đi khi còn ánh mặt trời.
- Nếu không có đường phèn ắt hai đồng chí phải ngủ đêm ở đó sáng mai mới lên đường được. Đa phần lính là dân Bắc. Họ phải lục hỏi đủ thứ chuyện ngoài quê hương.
An lặng thinh. Nhưng Nông Tài chăm chú nhìn một hồi rồi quay lại bảo anh, giọng hốt hoảng :
- Anh Thành, họ đứng dàn hàng đón đường chúng ta trên đỉnh đồi.
Anh đưa mắt nhìn lên thấy ngọn cờ đỏ đã hiện rõ. Đúng là lính đứng giăng thành hàng chắn ngang đường. Vẻ như một cuộc vây ráp đã chuẩn bị sẵn. Bất giác An đưa tay rờ khẩu súng bên hông. Cùng một lúc, Nông Tài cũng làm cử chỉ đó. Hai người đưa mắt nhìn nhau. Rồi An trấn tĩnh lại và hạ giọng thản nhiên hỏi người xà-ích :
- Vì cớ gì họ đứng thành hàng như thế kia ?
- Vì buồn.
Ông ta đáp gọn lỏn, tay không ngừng ra roi trên lưng ngựa. Xe đang lên dốc và con ngựa có vẻ như bắt đầu chùng chân.
- Hây ,hây... Dấn lên! Con mẹ mày, sắp tới nơi rồi đừng giở chứng. Cố lên, lát nữa ông sẽ cho ba đấu thóc trộn mật. Cố lên, chỉ còn đoạn này nữa thôi.
Ông ta mắng con vật. Dường như con vật khôn ngoan này hiểu được ý chủ nên nó lại lên vó. Chiếc xe chồm lên rồi tiếp tục chạy bon bon. Lúc ấy, người xà-ích quay lại :
- Tôi đã bảo rằng bất cứ ai ở tình thế của họ cũng sẽ làm thế thôi. Họ ra đây để nhìn xe ngựa. Lát nữa họ sẽ nhìn các đồng chí rồi tranh thủ chuyện vãn. Mong sao họ sẽ để cho các đồng chí đi một cách sớm sủa.
- A...Ra thế.
An cất tiếng, rời tay khỏi vũ khí. Anh trù tính cách thức có thể vượt qua cửa ải này một cách mau lẹ và an toàn.
― May sao chúng ta là dân Tày. Chúng ta chẳng biết gì nhiều mà chuyện vãn với đám lính Kinh. Mà giờ đây , cũng chẳng còn chút cảm tình cỏn con nào để nói những chuyện vớ vẩn.
Nghĩ một lát, anh nói :
- Bác thật là người tốt bụng. Bác có thể đứng chuyện vãn với họ một lát để họ buông chúng tôi đi sớm hay không ? Đường rừng ban đêm không dễ dàng mà ngủ lại thì lỡ nhiệm vụ. Chúng tôi có thể biếu thêm tiền bác.
- Không phải mua tôi bằng tiền.
Người xà-ích đáp cộc lốc :
- Tôi chỉ lấy đầy đủ phần quyền lợi của tôi cũng như của con ngựa thôi. Nếu tôi tham quá ắt trời giáng hoạ. Nhưng tôi hứa là giúp các đồng chí. Tôi sẽ ngồi tán chuyện với họ ở đó chừng nửa giờ. Mặt trời còn đứng trên đỉnh núi một con sào rưỡi.
Chừng mươi phút sau họ lên tới đỉnh đồi. Đám lính không chậm một giây, quây lấy chiếc xe ngựa, mặt anh nào anh nấy tí tởn như bắt được quà :
- Chào các đồng chí.
Người xà- ích cất tiếng oang oang:
Lính tranh nhau đáp :
- Chào bác. Lâu lắm mới thấy xe ngựa leo lên đây.
- Ồ; ngựa lên đây một lần về phải bồi dưỡng cả tháng. Chỉ có những dịp đặc biệt tôi mới ra roi. Hôm nay, tôi chở hai đồng chí quân nhân làm nhiệm vụ đặc biệt.
- Nhiệm vụ nào thì cũng xuống đây chuyện trò cái đã.
An và Nông Tài nhẩy xuống, rút chứng minh thư xuất trình. Nhưng một anh chàng túm cả hai tấm thẻ cho vào túi áo mà chẳng thèm đưa mắt liếc qua. Rồi, anh khác, đeo lon thượng uý bảo :
- Mời các đồng chí vào đồn chơi.
Nói xong, cả bọn kéo nhau đi trước, An và Nông Tài buộc phải lẽo đẽo theo. Chừng như nhìn thấy vẻ lo âu trên mặt họ, người chủ xe lên tiếng :
- Các đồng chí cứ vào nghỉ chân uống nước. Tôi cho ngựa ăn rồi lên ngay. Nhớ đem theo gói đường phèn chưa ?
- Tôi cầm theo đây rồi.
An đáp.
Đồn biên phòng xây trên đỉnh đèo, ba toà nhà hình chữ môn như kiểu nhà người Việt ở đồng bằng với mảnh sân ở giữa lát đá hộc. Cây cột cờ trồng ngay phía trước toà nhà chính, thân gỗ đã mốc từng đám và trắng phếch màu thời gian. Đầu hồi toà nhà chính giáp một lô-cốt nhỏ bằng xi-măng, chắc chắn xây từ thời Pháp thuộc. Kề đó, một trạm kiểm soát bằng gỗ. Phía sau lưng toà nhà bên trái, tụt xuống sườn đồi chừng dăm chục thước là tàu ngựa có chừng hơn chục con đang đứng nhai cỏ. Tầu ngựa này có ba lần rào thép gai bảo vệ vì ở đây, ngựa là phương tiện giao thông chính của lính biên phòng:
― Ngày mai, chính lũ ngựa kia sẽ rượt đuổi chúng ta. Rồi xem ta có thoát nổi hay không. Nhưng trường hợp rủi ro, ít nhất ta cũng phải cho nửa tá bọn bay xuống âm phủ trước khi ta nhắm mắt.
Anh trù liệu trong khi quan sát cảnh vật. Rồi họ bước vào gian nhà chính, rộng thênh thang với chiếc bàn lớn như bàn bóng ping-pông kê giữa, trên đó ngổn ngang nào ấm nước, nào báo chí vừa mới vừa cũ, nào ra-đi-ô, nào bao thuốc, dao găm, dao nhíp, mũ vải, đèn pin...Bốn bức tường xung quanh dán la liệt các tấm ảnh cắt từ hoạ báo ra, thuần là các cô nàng xinh đẹp trong các đoàn văn công và các nhà hát, nào là Thị Mầu lên chùa, nào là Xuý Vân giả dại, nào là đám múa Hoa đăng hay đội múa Hoa thơm bướm lượn...tất cả chen chúc nhau lộn xộn chẳng ra hàng lối chi. Tay thượng uý, ắt hẳn là trưởng đồn, ném một cái lệnh giữa khoảng không :
- Cậu nào đi đun nước pha ấm chè mới.
Một tiếng đáp từ ngoài sân tức khắc vọng lại :
- Báo cáo thủ trưởng, tổ anh nuôi nhen lửa rồi...
― Mình sẽ chết tắc ở đây với bọn chúng....Phải tìm cách thoát thôi...
An thầm nghĩ và lên tiếng :
- Báo cáo đồng chí....
- Được rồi. Uống nước xong báo cáo cũng chưa muộn. Chúng ta đều là lính cả. Đồng chí bộ binh, tôi biên phòng. Cùng dân phải thức dậy khi nghe kèn tò tí te buổi sáng. Mấy khi gặp nhau. Đồng chí có đi bây giờ cũng không kịp. Nhìn mặt trời thế thôi nhưng tối nhanh lắm. Vùng này ban ngày nắng chói mắt ban đêm sương núi dày như bông.
An cảm thấy như gần tắc thở. Thứ ― tình ái lính này quả thật nguy hiểm cho anh. May sao lúc đó, người xà-ích đã quay trở lại. Ông ta vừa thong thả bước vào nhà vừa cất giọng ngâm nga cái bài hát ghẹo gái lẳng lơ hồi nãy :
― ....Dẫu có chồng mà chồng đi vắng thì lội sang với anh,
Ở đây vắng vẻ đìu hiu chẳng ai nhìn thấy ....
Tay thượng uý quay sang người xà-ích, ngoác mồm cười :
- Sao bố già lại rủ vợ người ta sang với mình mà không sợ tội ?
- Tôi có rủ ai đâu ? Bài hát của các cụ từ thời xửa thời xưa đấy chứ ?
- Các cụ ngày xưa cũng bậy bạ ghê nhỉ ?
- Các cụ ấy cũng có cái lưỡi để uốn, hai con mắt liếc gái như chúng ta bây giờ thôi. Nhưng dẫu có muốn phê bình hay kỉ luật thì họ cũng đã ngủ ngon dưới ba thước đất. Chẳng ai có thể túm gáy họ lên mà tra khảo nữa.
Nói rồi ông ta đưa mắt nhìn An, vẻ như bảo anh yên tâm. Thấy thế, An cất tiếng hỏi :
- Bác đã cho ngựa ăn xong rồi hay sao ?
- Xong làm sao được. Nó tha hồ nhẩn nha. Còn đồng chí, đã xuất trình giấy tờ chưa ?
- Tôi đã đưa cả hai tấm thẻ quân nhân rồi nhưng lính của đồng chí thượng uý đây lại cất vào túi áo. Ồ, ra thế.
―....Này cô nàng áo thắm, này cô quấn khăn hồng...
Ông ta hát tiếp một câu rồi quay sang tay thượng uý :
- Hai đồng chí này đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp không thể chờ xe ca quân đội. Thế nên công an thành Vinh mới chỉ đến tôi. Chẳng có lời sức mấy tôi dám cho ngựa lên tận đây ? Hai người này chẳng có thời gian uống chè với chúng ta đâu. Nhưng họ có đường phèn ngon lắm, trên xe họ cho tôi vài miếng ngậm thử, thơm như phấn hoa vậy.
Quay sang An, ông hỏi :
- Đồng chí có thể tặng anh em trong đồn một ít được không ? Chúng tôi sẽ ngồi uống trà cho ngọt giọng.
An đặt gói đường lên mặt bàn, đáp :
- Có đây. Để làm quà cho các đồng chí.
Anh tủm tỉm cười nhìn tay thượng uý:
- Tôi trung uý, kém đồng chí một hàm. Đáng lẽ có thời gian ngồi tâm sự hẳn là vui. Nhưng rủi chúng tôi đang phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.
- Thế hả ?
Thượng uý thò cổ ra khỏi cửa, hỏi vọng đám lính đứng túm tụm ngoài sân :
- Cậu nào lúc nãy cầm chứng minh thư quân nhân của hai đồng chí ?
- Dạ em.
- Xem chưa ?
- Dạ, trung uý Chí văn Thành và thượng sĩ công an nhân dân Nông Tài. Hai đồng chí đều là dân tộc Tày.
- Đem trả cho các đồng chí ấy. Thật đáng tiếc là họ phải làm nhiệm vụ khẩn cấp.
Cậu lính mang hai tấm thẻ trả cho họ.
Thượng uý trưởng đồn nói :
- Thôi, lúc các đồng chí quay về sẽ gặp lại nhau. Tôi có đứa em trai họ lấy vợ người Tày, con bé xinh ơi là xinh, da nó trắng nõn như bông, còn đẹp hơn da mấy bà vợ chuyên gia Liên-xô, Tiệp khắc. Nếu kiếp sau còn có duyên gặp nhau tôi xin làm rể dân Tày. Chấp thuận chứ ?
- Cảm ơn.
An và Nông Tài chào khắp lượt đám lính rồi quay trở lại con lộ. Tiếng hát người xà-ích đuổi theo sau lưng :
―... Giải áo phất phơ của em bay khiến tim anh bồn chồn, nóng cháy,
Anh như đang đi trên lửa như đang ngồi trên than...
An bảo :
- Nếu thoát được, chúng ta phải ngàn lần cảm ơn người chủ xe ngựa này.
- Đồng ý.
Ven đường, con ngựa đã ăn hết chậu thóc trộn mật đang đứng liếm mép một cách thoả mãn, giương mắt nhìn hai vị khách. An bảo :
- Giờ thì co cẳng lên.
Hai người hướng về phía đất Lào, cắm đầu đi như chạy.
Họ đi như thế chừng một giờ liên tục, mồ hôi chảy đầm đìa khắp mặt và thấm đầy lưng áo. Mặt trời đã tụt xuống một con sào, lơ lửng treo như trái cầu sáng chói trên đỉnh núi phía Tây. Nắng vẫn tràn ngập mênh mông nhưng không khí đã nguội bớt. Vừa chậm bước chân một chút, An cảm thấy thấm lạnh hai vai. Phía sau lưng họ, những giải đồi lúp xúp gai và dương xỉ chạy cho tới hút tầm mắt. Trước mặt, khoảng một thôi đường nữa là tới rừng. Đường viền sẫm của nó đã hiện lên dọc theo những con đèo liên tiếp. Nông Tài kêu to :
- Rừng kia rồi. Chúng ta sống rồi.
- Xin quỷ thần hai vai phù trợ cho chúng ta. Nhưng phải đi nhanh lên. Sau lưng là khoảng trống, đường quang. Nếu lũ ngựa biên phòng đuổi theo chắc không thoát.
- Đồng ý.
Nông Tài đáp và cả hai tiếp tục lao đầu cun cút chạy. Vừa chạy, họ vừa nhìn mặt trời, như nhìn thứ đồng hồ báo giờ trong cuộc đua việt dã sinh tử. Cứ như thế, khi đặt chân vào cửa rừng cũng là lúc mặt trời vừa chạm trên đỉnh núi cao nhất và ngự trị ở đó, kiêu hãnh trong sắc vàng lộng lẫy. An thấy thấm mệt, bước chậm lại. Nhưng Nông Tài bảo :
- Chưa chậm chân được đâu. Khoảng rừng này thưa lắm, ngựa chạy tha hồ. Ta phải vào được đến lòng rừng, lối đi vừa lọt bước chân mới mong thoát hiểm.
Nói rồi, cậu ta len lên đi trước anh, chừng như muốn khích lệ bạn đồng hành. Dẫu sao, đi dưới bóng cây, tim họ đã bớt đi cơn phấp phỏng. Hai người vượt qua một cánh rừng dốc xuôi xuống trảng. Một trảng cỏ tí hon, nói cho đúng là một rẻo chân núi phủ đầy thứ cỏ dài lông xám bạc. Qua đó chừng mươi phút, họ tới một cánh rừng bằng phẳng hơn nhưng rậm rịt dây leo, lối đi chỉ vừa lọt một người. Nông Tài vừa thở vừa vuốt mồ hôi mặt :
- Chưa hẳn là lòng rừng nhưng ngựa khó chui vào đường này vì thòng lọng bẫy.
- Ờ. May cho chúng ta thật.
An vừa nói vừa ngước nhìn những đám dây leo đong đưa trên đầu, những cánh tay tua tủa như tay bạch tuộc của các vòi cây, trông xa giống hệt lũ rắn xanh đang ngóc đầu ngoe nguẩy. Dọc lối đi chăng đầy những thứ dây leo lớn nhỏ, dài ngắn khác nhau nhưng đều tạo thành những nút thòng lọng mà bất cứ con ngựa nào rúc vào rừng cũng vướng. Nếu là một đoàn ngựa thì lại càng khó khăn hơn. Ít nhất, cũng phải có một kẻ mở đường dùng dao quắm phạt hết đám dây nhợ ngựa mới hòng nhích vó.
Nông Tài quay lại bảo anh:
- Rừng quê ta ít loại dây leo này.
- Ờ.. Nhưng nhiều cây lớn hơn đây.
- Dây leo ở đây nhiều màu lạ. Xem kìa, búi dây bên trái chúng ta có màu da cam. Còn đám dây quấn ngang thân cổ thụ lại trổ đầy lá tím như cà dái dê vậy.
- Ờ. Đất khác, rừng khác, cây cũng phải khác...
An đáp, tiếp tục ngẩng lên nhìn những tua dây leo phất phới trong các kẽ nắng hiếm hoi của hoàng hôn. Khi ánh nắng lướt qua, lớp lông tơ phủ lên chúng óng ánh như giấy thiếc. Nông Tài không nói gì thêm, lặng lẽ bước. Đột nhiên, An nghe một tiếng ― Roạt, một tiếng động trầm đục nhưng rất nặng , kèm theo mùi hôi khủng khiếp. Mùi hôi khủng khiếp ấy gợi lại màn đêm quen thuộc của những năm xưa trong các cánh rừng bản Xíu. Óc anh vụt lóe lên tiếng kêu : Hổ!
Nhẩy ba bước, An vồ lấy thân cổ thụ gần nhất và leo lên với tất cả sức lực còn lại sau quãng đường chạy bộ. Vượt qua ba đốt chẽ, nơi thân cây chia nhánh, anh leo tới đốt chẽ cuối cùng tiếp giáp với ngọn cây, yên trí hoàn toàn rằng hổ không thể nào nhẩy lên được, An mới dừng lại. Tìm cành ngang lớn nhất, anh ngồi lên hai chân quắp chặt lấy cành, hai tay ôm vòng quanh thân cây. Xong xuôi, anh mới dám cúi đầu nhìn xuống : Con hổ đang đặt Nông Tài phía dưới hai chân trước của nó, ngửa cổ giương mắt nhìn anh. Bốn tia mắt giao nhau ngay tức khắc. An lạnh toát sống lưng. Cặp mắt chúa rừng mở rộng, rọi thẳng vào anh những tia sáng màu thép trộn lẫn màu vàng ốc. Cặp đồng tử co giãn nhè nhẹ, hai hàng ria cũng nhúc nhích rung rinh nhè nhẹ trong cái nhìn chăm chú khó cắt nghĩa. An nghĩ :
― Nó biết còn con mồi thứ hai. Nó sẽ tiếp tục rình cho tới lúc mình tụt xuống. Giờ là lúc phải hết sức bình tĩnh để vượt qua cơn nguy hiểm này.
Trước hết, anh cố trấn tĩnh cơn run rẩy để lục túi-dết lấy ra sợi dây dù vạn năng. Rồi anh tự trói mình vào thân cây, biết đó là cách tốt nhất để bảo vệ mạng sống. Bởi đã từng có tấm gương của tiền nhân để răn dậy kẻ đi sau. Thời chú anh còn trẻ có một số thợ săn hoặc kiếm sĩ sống bắng nghề bảo kê. Hoặc bảo vệ những nhân vật con dòng cháu giống, lắm tiền nhiều của và cũng đầy rẫy kẻ thù. Hoặc bảo vệ những thương gia trên các chặng đường vùng biên giới. Lần ấy, một người thợ săn tháp tùng một tay lái buôn thuốc phiện. Anh ta đi trước, nhưng con hổ lại vồ người đi sau. Người thợ săn trèo lên cây tìm cách thoát thân, trong khi trèo hoảng hốt đánh rơi khẩu súng. Không còn vũ khí, người thợ săn chẳng có cách nào hơn là bám chặt lấy cái cây như kẻ chết đuối bám lấy chiếc bè hộ mạng. Rủi ro là anh ta đã gặp một con hổ thành tinh. Sau khi chén sạch con mồi thứ nhất nó ngủ ngay dưới gốc cây chờ tiếp con mồi thứ hai. Trong trường hợp ấy, nếu đủ lòng can đảm và sự tự tin, nạn nhân có thể lừa lúc con vật ngủ say nhất mà thoát thân. Nhưng người thợ săn này không đủ bản lĩnh bước qua lưng thú dữ. Anh ta mắc cứng trên cây, suốt đêm gà gật trong nỗi hãi hùng và trong giá lạnh của khí núi. Hôm sau, con hổ thức dậy, vươn vai duỗi chân để tìm lại khí thế sau giấc ngủ dài. Rồi nó chuẩn bị tấn công con mồi mới. Lượn quanh gốc cây vài lượt, nó dừng lại giương mắt trừng trừng nhìn con người tội nghiệp kia, đoạn buông tiếng gầm thét. Sau một hồi gầm thét, nó lại lượn vòng quanh gốc cây như một con chó lượn quanh bãi nước đái của chính mình, đoạn nó lại tiếp tục uy hiếp nạn nhân bằng những tiếng gầm thét. Kẻ xấu số không chịu nổi ánh mắt loài độc thú và tiếng gầm của nó, thêm nữa, sau một đêm mỏi nhừ vì sợ hãi, đói khát, anh ta không còn đủ sức bám lấy cành cây nên rơi xuống, làm bữa ăn linh đình của ngày thứ hai cho chúa sơn lâm.
Câu chuyện này phường thợ săn thường kể đi kể lại sau mỗi mùa săn chính, quanh bếp lửa và chảo nấu cao. Từ thuở đi theo phường săn, An đã thuộc lòng. Giờ, nó giúp anh cẩn trọng. Quấn ba vòng dây dù để trói thân mình vào thân cây, An kiểm tra kĩ các nút thắt, rồi cài lại nắp chiếc túi dết, chỉnh lại khẩu súng sau lưng cho thuận tiện khi sử dụng. Đoạn, anh cúi xuống tham dự cuộc thôi miên với con thú. Nhưng, ngược với sự phỏng đoán của anh, con hổ đã cúi xuống con mồi đặt sẵn dưới hai chân. Tội nghiệp Nông Tài, hẳn từ cú vồ đầu tiên của dã thú, chàng trai đã chết, không kịp bật một tiếng kêu. Con hổ này đã quen ăn thịt người. Phải quen vồ người từ lâu lắm, nó mới có thể quật chết họ mau lẹ như vậy....
Chắc chắn nó phải được liệt kê vào loại hổ thành tinh, loại độc thú đã thừa thãi kinh nghiệm để biết con người là thứ mồi hảo hạng. Gặp nó, cửa địa ngục tự động mở ra.
― Từ đầu đến khấu đuôi nó phải dài đến thước tám.
An ước tính. Con hổ này chưa già vì lông còn vàng au và các vằn đen còn sắc nét như vẽ. Cứ nhìn cách nó vần cái đầu của con mồi khắc biết nó khéo léo và nhanh nhẹn đến nhường nào. Một sức mạnh không thể gìm nén khiến An không thể rời mắt nhìn con thú. Có thể là sự sợ hãi. Có thể là nỗi tò mò. Hoặc cả hai thứ nhào trộn lại. Từ năm mười ba anh đã theo ông chú và phường săn bản Xíu lên rừng. Chú anh hạ thủ vô số gấu ngựa, lợn lòi, hươu hoẵng và hơn một tá hổ. Nhưng với anh, sự hiện diện của loài thú này chỉ là hai ngọn lửa xanh lè từ cặp mắt nó phóng ra khi bắt ánh đèn săn. Mùi hôi và gây đặc biệt không thể nhầm lẫn với mùi các loài thú khác. Tiếng sột soạt của các đám lá cọ vào vai họ trong những đêm rừng ẩm lạnh. Và sương giá mịt mùng trong những thời khắc đợi chờ. Người thợ săn không có quyền chậm trễ nửa giây, nếu họ muốn tồn taị. Nhiều khi cuộc chờ đợi kéo dài từ chập tối đến quá nửa đêm, ai nấy gần như hoá đá vì rét lạnh. Nhưng vào thời khắc con thú tiến đến, và khi cặp mắt nó hắt lên những tia phản chiếu sắc lạnh chính là lúc súng phải nổ ngay. Đạn nhằm vào điểm giữa hai con mắt. Rồi sau đó, hoặc là con thú chết tại chỗ vì lượng đạn bắn đủ và trúng các điểm dễ tổn thương, hoặc là phường săn phải theo đuổi con vật cho đến khi nó chết vì vết thương quá trầm trọng, cuộc rình rập này có khi kéo đến ba bốn ngày...Cuối cùng, con vật được chở về bản, xẻ thịt, róc xương, và những chiếc vạc lớn nấu cao được bắc lên bếp lửa.
Như thế đó, là thợ săn nhưng anh chưa từng nhìn thấy hổ sống, lại càng chưa hình dung tường tận cách nó thịt con mồi. Chưa bao giờ.
― Đây chính là đầu tiên tao tận mắt thấy mày, hỡi chúa sơn lâm.
Anh thầm nghĩ.
Con vật đang đặt một chân lên cái đầu của Nông Tài, vần qua vần lại như trẻ con vần quả bóng. Rồi, đột ngột, nó ngoác mồm ra đớp một nhát vào cổ nạn nhân. An nghe tiếng xương ròn răng rắc vụn giữa hai hàm răng thú. Con vật táp rất nhanh miếng thứ hai. Cái đầu đứt lìa khỏi thân người lính. Con thú lấy chân hất nó ra xa như ta ném một viên bi. An nhìn thấy cái đầu đỏ ngòm của người bạn đường lăn mấy vòng trước khi bắn vào bụi cây gần đó. Anh dường như tắc thở, nỗi kinh hoàng khiến anh tê liệt chân tay. Một cơn băng giá từ từ lan toả khắp toàn thân. Anh cảm thấy cơ bắp trở thành co cứng và bất động như gỗ đá.
― Nếu ta không kịp trói thân vào cây, ắt ta rơi xuống mà chết như người thợ săn xấu số ngày xưa mà không cần phải đợi qua một đêm trên cây, cũng không cần bị nó gào thét để uy hiếp.
Ý nghĩ đó thoáng qua óc anh như tia chớp. Đồng thời, một làn nước ấm nóng đâu đó tuôn chảy trên tấm thân đông cứng và tê liệt vì kinh hoàng của anh. Phải một lúc sau, An mới biết rằng nước tiểu đã vọt ra mà anh không hay biết. Nước tiểu chảy dọc theo hai đùi, thấm ướt hai ống quần, tiếp tục bò xuống hai bàn chân. Khi gió thổi nguội đi chúng khiến anh càng lạnh.
Dưới kia, con hổ đã xé tan quần áo Nông Tài, bắt đầu bữa cỗ ngon lành của nó. An không dám mở mắt ra nữa. Nỗi tò mò cũng đã tắt ngấm như ngọn lửa bị tưới nước. Cơn sợ hãi chưa qua nhưng nỗi đau kéo tới. Lúc này anh mới hoàn toàn hiểu rằng người bạn đồng hành trong cuộc chạy trốn định mệnh này đã chết, chết một cách thảm khốc ngay dưới mắt anh:
― Nông Tài ơi, chúng ta chạy trốn một cái chết để rồi cái chết khác lại chờ đón ở nơi đây. Vào lúc cậu ngỡ là bước vào cửa sinh thì lại sa chân vào cửa tử. Hãy tha lỗi cho tôi vì tôi không đủ sức bảo vệ cậu. Hãy tha lỗi cho tôi vì tôi không làm trọn phận sự kẻ đưa đường. Lẽ ra, tôi phải là người đi trước chứ không thể là cậu. Nhưng số phận hay sự rủi ro xui khiến nên cậu phải thiệt thân. Từ nay, cái chết của cậu đè lên vai tôi, cùng với những người ruột thịt. Từ nay, lòng oán hận của tôi dệt thêm một mạng sống giống như sợi dây thắt thêm một nút để ghi nhớ mối thù này.
Anh thầm nói với người xấu số.
Một tình bạn ngắn ngủi kéo dài không quá hai ngày và một đêm. Nhưng vẫn là một tình bạn thật sự vì nó lôi dẫn họ qua biên giới mong manh giữa cõi sinh và cõi tử; nếu đã một lần đi qua bờ vực này, cuộc gắn bó sẽ kéo đến chung thân.
Những tia nắng rọi qua lá rừng không còn màu vàng nữa. Chúng nhạt màu chín của vỏ chanh. Điệu này chẳng mấy chốc mà tối. Anh phải thoát khỏi cánh rừng này trước khi đêm sập xuống. An bắt đầu xoa hai bàn tay thật mạnh cho máu lưu thông. Khi áp hai bàn tay lên má thấy hơi ấm trở lại bình thường anh mới gỡ khẩu súng khỏi lưng, lên đạn. Mục tiêu thật gần nhưng không dễ vì con hổ đang cắm cúi ăn, cần cổ và đầu nó di động liên tục. Chỉ có phần lưng và mông nó là chĩa thẳng về phía anh nhưng đấy lại là chính là những phần không gây nguy hiểm cho con thú.
Chợt một con tính chạy qua óc não anh :
― Tại sao ta lại tiêu diệt nó? Nếu bọn lính biên phòng đuổi theo bắt gặp xác hổ, ắt chúng sẽ truy nã ta sang tận đất Lào. Biên giới Lào-Việt chỉ vẽ trên bản đồ, không tồn tại trong thực tiễn. Đó là những gì ta đã biết từ cuộc kháng chiến năm xưa. Giờ cũng vậy thôi. Thời gian chưa thay đổi tình thế. Tốt hơn cả là ta để con thú thoát thân, và bày trò rằng chính ta cũng đã bị xé xác giữa hai hàm răng hổ. Đó chính là lối thoát chắc chắn nhất trong hoàn cảnh này.
Sự xác quyết đến mau lẹ. An nhắm vào phần mông gần nhất phô ra trước nòng súng, bóp cò. Đường bay của viên đạn vô cùng chính xác.
Con vật gầm lên một tiếng khủng khiếp, quay ngoắt lại phía anh. Cặp mắt nó chiếu thẳng vào anh những tia sáng hung cuồng. Nó buông con mồi quay lại lấy đà nhảy vọt lên. Cú nhảy ấy khiến hơi gió tạt vào mặt anh mùi hôi sặc sụa. Nhưng An dự đoán chính xác, con thú không thể với tới nơi anh ngồi. Nó chỉ khiến tim anh gõ trống và da anh sởn gai ốc. Viên đạn chỉ phá vào phần mềm trên mông con thú, cú nhảy của nó hoàn toàn bình thường. Một cú nhảy dũng mãnh. Ngay trong trí tưởng tượng anh cũng không thể hình dung con vật có thể nhảy cao được đến thế. Và động tác của nó chuẩn xác, nhẹ nhàng, mềm dẻo như động tác của một con mèo đang độ trai tơ. Không vồ được mồi, cặp mắt con thú long lên ánh man dại xen lẫn đau đớn. Nó bước loạng choạng quanh gốc cây vài bước đoạn lùi lại, gào lên tiếng thứ hai rồi vọt lên cú nhảy tiếp. Cây súng trong tay anh rớt xuống mà anh không kịp nhoai theo. Khẩu tiểu liên rớt theo chiều dọc, va đập, tự nổ phát đạn nữa. Con hổ quay ngoắt lại, nhảy bổ vào thứ kẻ thù có hình dạng lạ lùng đó, táp một miếng với tất cả sức lực và sự điên cuồng vốn có. Rồi nó gầm lên một tiếng thê lương, có lẽ bởi thứ thép kia khiến hai hàm răng nó bị tổn thương và cơn đau mới cộng với vết thương nơi mông khiến nó không chịu nổi. Ngẩng đầu lên nhìn cái con mồi nhỏ bé trên cây với cái nhìn kinh ngạc, nó nhảy vọt vào bụi rậm và biến đi. An nhìn theo vết cây lá rùng rùng chuyển động, biết rằng con thú đã đi thẳng. Chờ một lúc lâu để tin chắc con hổ không quay lại nữa anh mới tháo sợi dây dù, nhét vào túi-dết rồi tụt xuống. Một thứ dính dáp làm anh vướng víu dưới mông. Lúc ấy, anh chợt hiểu rằng cơn sợ hãi không chỉ khiến anh vọt nước tiểu mà còn tống cả phân ra ngoài ruột :
― À, người ta nói sợ vãi cứt chính là thế này đây.
Nhưng ý nghĩ đó biến đi nhanh chóng bởi anh không còn thời gian suy ngẫm. An cởi áo xé ra thành nhiều mảnh, thấm vào đám máu bê bết dưới cái đầu lâu của Nông Tài, đoạn bưng chiếc đầu lâu đó thả vào một bụi gai dày rậm mà chắc chắn không con chó săn, sói rừng hoặc lợn lòi nào rúc vào nổi. Rồi anh vứt chiếc áo tả tơi đẫm máu của mình bên cái xác không đầu của người xấu số, giờ đây chỉ còn trơ trọi phần bụng và khung xương. Đoạn, anh ném khẩu súng của mình xuống gần sát khẩu súng của người đồng hành. Nhìn cảnh tượng ghê rợn đó lần cuối, anh quay lưng co cẳng chạy về phía trước, nơi văng vẳng tiếng chảy của một con suối. Đến bờ suối, anh định bước xuống tắm thì một cơn buồn nôn trào thốc lên họng khiến anh không thể nào kìm giữ. Cứ thế, những gì còn lại trong dạ dày anh vọt ra. Vọt ra cho đến những gợn chất lỏng màu xanh chen màu vàng và sau đó là thứ nước đen đắng như mật cá. Anh phải quì gối chống hai tay xuống mặt đất để khỏi ngã gục vì cơn nôn kì lạ. Nôn xong, ruột anh đau quặn từng hồi. Anh có cảm giác ruột anh đang bị cắt đứt bởi những lưỡi dao vô hình. Anh định đứng lên cởi khuy quần nhưng cơn đau rút thân anh co rúm lại như một con tôm bị trụng nước sôi. Anh đành lại quỳ gối xuống, cố gắng nín giữ để có thể lột chiếc quần ra. Những cơn đau nối tiếp khiến anh không còn đủ sức để làm việc đó. Anh đành úp mặt xuống cỏ để lấy điểm tựa rồi buông thân nằm nghiêng. Cũng lúc ấy những luồng phân phọt ra một cách đột ngột như một thứ nước chứa trong chai bất thình lình bị rút nút. Anh hoàn toàn không còn điều khiển được cơ thể của mình. Anh nằm nghiêng như thế, chờ cho cơn bệnh khủng khiếp đó đi qua. Khi không còn gì trong ruột, anh bắt đầu run lên vì rét. Một thứ gía lạnh từ xương tuỷ toả ra, hoà với hơi lạnh của rừng chiều.
― Mình chưa thể tắm ngay. Mình sẽ chết vì cảm. Mình sẽ chết ngay trong dòng nước.
Anh nghĩ. Với tay mở chiếc túi dết, anh kéo ra tấm chăn dù mà Nàng Đông đã kì công khâu từng mũi cho anh từ những tấm dù chiến lợi phẩm trận Điện Biên. Tung tấm chăn ra, anh trùm kín toàn thân. Rồi nhắm mắt thở từng hơi dài, anh chờ cơ thể ấm dần lại. Khoảng thời gian đó thật nặng nề. Anh có linh cảm lũ ngựa biên phòng đang trên đường đuổi theo mình. Không nghe thấy một tiếng động nhỏ, nhưng chỉ là những hình ảnh được mường tượng theo thuần tuý theo linh giác.
― Ta cần phải thoát thân. Ta phải sống bằng mọi giá.
Anh nghĩ. Ý nghĩ đó cứ lặp đi lặp lại không ngơi nghỉ giống như gió thổi liên hồi vào lò than. Cũng như gió lùa vào lò than, nó hun nóng lại dần cơ thể băng giá và lả lướt của anh bằng thứ nghị lực của một kẻ cùng đường, bằng ý chí sống của con thú bị dồn vào bẫy. Chừng hai mươi phút sau, An cảm thấy nhịp đập của con tim trở lại bình thường. Lật tấm chăn, anh ngồi dậy, lội xuống suối tắm rửa, giặt bộ quần áo dơ gói vào tấm áo mưa, nhét cẩn thận vào túi-dết. Đoạn, lội sang bờ suối bên kia anh mặc bộ đồ mới rồi tiếp tục chạy. Rừng bắt đầu sẫm tối. Anh cố gắng chạy thêm chừng mươi phút nữa mới chịu lấy cây đèn pin ra dùng. Từ nay trở đi, cuộc sống của anh chỉ còn cây rừng bảo trợ. Anh phải tiết kiệm từng giọt ánh sáng. Anh cũng phải tiết kiệm từng mảnh bánh khô cho đến khi tìm được nơi ẩn nấp. Một cơn chóng mặt thoáng qua khiến anh phải dừng lại, mở túi-dết, móc ra một cục đường phèn bỏ vào miệng. Vị ngọt thấm vào lưỡi khiến bước chân anh đỡ run rẩy. Rồi lát sau, chất nước đường chảy xuống, làm hồi sinh cái dạ dầy trống rỗng và bị thương tổn của anh, khiến những cơn chòng chành chao đảo mất dần đi và anh cảm thấy các động tác của mình trở nên chính xác. Cứ như thế, An tiến sâu vào con đường tối đen mà anh ngỡ như đã đi được nhiều lắm. Nhưng nửa giờ sau, anh nghe vẳng đến tiếng vó ngựa dập dồn, tiếng nói xen lẫn tiếng la hét. Tất thảy những thứ tiếng động ấy vang xa trong vùng trời đen như mực vùng biên giới.
― Tại sao tiếng vó ngựa nghe gần đến thế ? Hay ta đã lạc đường và quay vòng trở lại ? Hoặc là chính con đường chạy theo hình vòng thúng bởi khi ta vượt qua suối, rừng chẳng còn bằng phẳng mà đổ nghiêng như sườn dốc. Rất có thể là lối mòn này dẫn ta quay lại cánh rừng kề cận nơi Nông Tài đã bị hổ ăn.
Anh tắt đèn pin, chui vào một bụi rậm, hiểu rằng khi không thể xác định lối thoát thân thì tốt nhất là ngồi yên một chỗ trong bóng tối. Như thế còn đỡ nguy hiểm hơn là gây nên tiếng sột soạt và rắc vào đường mòn ánh sáng nhân tạo của cây đèn. Bọn lính biên phòng sẽ dễ dàng phân biệt được thứ ánh sáng này với các loại lân tinh. Quả nhiên, tiếng vó ngựa mỗi lúc mỗi gần hơn và gió đưa đến tai anh tiếng chửi thề của đám lính:
- Từ từ đã. Thúc mẹ nó vào ngựa của tao rồi.
- Tối thế này tránh làm sao được ?
- Đằng nào cũng phải chờ chúng nó vạc đường mới tiến lên được. Mày đừng có thúc ngựa làm gì.
- Tao có thúc đâu. Tự nó chồm lên đấy chứ.
Một giọng can thiệp, chắc chắn của tay thượng uý trưởng đồn :
- Thôi đi các cậu. Chớ có cáu kỉnh với nhau. Lát nữa quay về, anh nuôi khắc có nồi cháo gà bồi dưỡng.
Bọn lính im. Và giọng tay thượng uý lại cất lên :
- Nhanh tay lên một chút. Chớ quên rằng bọn thổ mừ này thạo đường rừng gấp ngàn lần chúng ta. Bọn họ sinh ra với rừng cây mà.
- Báo cáo thủ trưởng bọn em vẫn cố sức ra tay nhưng lắm dây nhợ quá. Đoạn đường này thật là chó đểu.
- Có chó đểu mới cần đến ngọn dao nhà nghề của cậu. Rán sức lên. Tôi cho rằng chúng ta sắp đến nơi. Tài mấy chúng nó cũng không thể chạy nhanh hơn ngựa...
Những tiếng động chen lẫn tiếng hí của đàn ngựa vọng đến rõ mồn một. Lính tiên phong đang phạt dây dọn đường cho ngựa tiến lên. Vậy là chúng đã nhận được lệnh đuổi bắt họ từ lúc tắt mặt trời. Nhưng đám ngựa bị cản lại khi tiến vào rừng. Nếu lối mòn không chằng chịt những đám thòng lọng xanh, hẳn bọn lính đã tóm gọn anh khi anh còn đang nằm trùm chăn bên bờ suối, trong cái tình trạng thê thảm nhục nhã chưa từng có trong đời .
― Dẫu sao giờ đây ta cũng đã lấy lại được tư thế, và nếu có chạm trán nhau ta vẫn có thể tiêu diệt một vài thằng trước khi chịu nhắm mắt xuôi tay. „
An nghĩ. Ý nghĩ đó giống như niềm an ủi. Một con côn trùng nào đó đốt vào gáy đau buốt khiến anh xuýt bật tiếng kêu. Quài tay ra sau gáy, anh tóm được một con kiến độc to bằng hạt đậu đen, bóp chết nó tức khắc nhưng con vật cũng kịp chích nọc vào đầu ngón trỏ của anh khiến ngón tay anh buốt nhói lên. Cũng lúc đó, một tiếng thét vẳng đến :
- Hổ ! Hổ !
Một loạt đạn tới tấp và rối loạn cày lên tức khắc sau tiếng kêu kinh hoàng đó.
Anh cười thầm :
― Chúng mày có quá nhiều đạn để thị uy với chúa sơn lâm „
Khi loạt đạn dứt, anh nghe rõ tiếng tay thượng uý :
- Cậu nhìn thấy nó ở đâu ?
- Không. Báo cáo thủ trưởng tôi nhìn thấy đám xương lồng ngực bị gặm hết thịt ở ngay sát chân ngựa.
- Đâu ?
Chưa có tiếng trả lời, đã nghe tay trưởng đồn hét :
- Xuống ngựa đi. Đem đèn chạy ắc-quy lại gần đây.
Tiếng chân chạy, tiếng hò ngựa, tiếng roi vút đen đét. Rồi sau đó là sự im lặng. Có lẽ đám lính đang dò dẫm xung quanh cái xác không đầu và đám xương của Nông Tài. Rồi giọng tay thượng uý vang lên, không còn oang oang hùng hồn như thường lệ :
- Hai khẩu súng ? Con hổ này chén sạch cả hai thằng ?
- Vâng. Chắc nó phải lớn lắm.
- Chưa nghe ai nói hổ ăn thịt được một lần cả hai người.
- Báo cáo thủ trưởng, hổ chưa từng tạt chết một lần cả hai người vì khi nó vồ được con mồi thì những người khác đã kịp chạy hoặc nổ súng. Nhưng nó cõng cả con bò chạy bay bay. Lần này, có lẽ hai thằng thổ mừ tận số. Hoặc chúng nó ngồi nghỉ. Hoặc chúng nó đi cặp díp nhau. Tuy là dân miền núi nhưng chúng nó chưa lường được những cánh rừng xứ này.
- Không tìm thấy đầu lâu.
- Hổ không bao giờ ăn đầu lâu. Chỉ có sói và lợn lòi. Loài sói không đứng ăn một chỗ mà thường tranh cướp nhau và kéo mồi ra xa. Tôi cho rằng chính lũ sói kéo đi một cái xác và cả hai chiếc đầu lâu. Đàn sói này phải đông lắm.
- Đúng rồi. Chỉ có sói bầy với lợn lòi mới có thể dọn sạch đi nhanh thế. Tôi chắc rằng loạt đạn chúng ta bắn khi vào rừng đã đuổi chúng đi. Nhìn đám xương sườn kia cũng biết chúng phàm ăn đến nhường nào.
Một khoảnh khắc im lặng nữa trôi qua. Rồi tiếng một cậu lính trẻ cất lên :
- Báo cáo thủ trưởng, chúng ta quay về thôi. Ở đây mùi máu tanh quá.
- Sợ hả ?
Tay thượng uý hỏi với giọng vừa thị uy vừa trịch thượng nhưng ngay sau đó anh ta quát :
- Cậu nào thu hai khẩu súng kia lại. Nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành mà không tốn một giọt máu. Những tên phản bội tổ quốc, làm gián điệp cho ngoại bang đã bị thú dữ trừng trị thay vì toà án của nhân dân.
An nghe tiếng ho sặc sụa của một cậu lính, chắc là kẻ không may mắn bị sai đi lượm hai cây súng bê bết máu khô. Sau đó, tiếng giục giã lên ngựa, tiếng roi vút, tiếng xì xào và sau cùng, tiếng vó ngựa dồn dập, nhưng lần này mỗi lúc mỗi nhỏ dần đi.
Chờ cho tiếng ngựa chạy gần như tắt hẳn trong không gian, An mới chui khỏi bụi rậm. Anh quỳ xuống, thầm thì :
- Chúa sơn lâm ơi, mày đã cứu mạng ta.
* * *
Từ năm đó, anh sống trong một bản Vân kiều heo hút, nơi chính người Lào cũng ít khi đặt chân tới. Hai năm đầu trôi qua trong niềm tin đinh ninh rằng anh sẽ không bao giờ còn nhìn lại mảnh đất quê hương. Tổ quốc của anh không còn là Việt nam bởi cái tên đó chỉ còn là niềm oán hận. Anh ngồi viết đi viết lại câu chuyện bi thảm của gia đình mình bằng một mẩu bút chì, trên mặt sau của những tờ truyền đơn mà thi thoảng anh nhặt được dưới chợ, một cái chợ nhỏ xíu trong một thị trấn Lào cũng nhỏ xíu và hẻo lánh, nơi chỉ có những người lái buôn ít vốn liếng và dư thừa lòng can đảm tìm đến để mua các loài xạ hương, chồn trắng, trầm hương hay khỉ vàng nuôi làm cảnh. Đến năm thứ ba, anh bắt đầu hiểu rằng anh phải quay về, anh cần phải quay về mảnh đất thù nghịch đã từng là tổ quốc của anh. Anh phải quay về Hà nội, cái thành phố địa ngục mà anh ngỡ không bao giờ còn nhìn thấy. Bởi lịch sử nào cũng phải chết trong lãng quên và câm lặng. Ở giữa vùng núi non mù mịt này, giữa đám dân nói một thứ tiếng khác sống một nền văn hoá khác, dầu anh có viết cả ngàn trang giấy cũng không ai thèm đọc , chẳng ai thèm biết tới và như thế, cuộc chạy trốn của anh là vô nghĩa. Anh kéo dài cuộc sinh tồn này là để rửa hận nhưng sau cùng chính cuộc sinh tồn ấy dìm anh vào một đời sống tăm tối vô dụng.
Vậy thì, anh ra đi để còn có ngày về. Anh phải về chính mảnh đất đã diễn ra tội ác, nơi linh hồn những người ruột thịt chờ đợi anh...
Trước đây, để sống anh đã ra đi bằng mọi giá. Giờ đây, để trả thù anh cũng phải quay về bằng mọi cách. Quay về ! Quay về ! Quay về !
Quyết định như vậy, nhưng anh phải chờ năm năm sau, An mới tìm được lối thoát. Đó là khi những tốp lính Việt nam đầu tiên vượt Trường sơn để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh hoành tráng mà mục tiêu của nó là giải phóng Sài-gòn và sau đó, kéo dài đường biên giới cho đến tận Xiêm rệp. Năm ấy là năm Quý Mão, mùa xuân năm Quý Mão. Đến mùa thu, máy bay đối phương bắt đầu săn tìm quân tiên phong trên các cánh rừng dọc Trường sơn. Bom bắt đầu dội xuống những khu rừng bị đánh dấu nghi hoặc trên bản đồ là có quân Bắc Việt chui lủi hoạt động. Bởi nước Mỹ là kho vũ khí khổng lồ nên quân đội Sài-gòn có thể ném bom một cách hào phóng, kiểu như các công tử tỉnh Bạc Liêu thời xa xưa ném tiền vào canh bạc. Nhờ cơ may đó, anh tìm gặp được một tốp lính bị bom diệt trọn gói, và trở lại quân đội dưới tấm thẻ quân nhân : Thượng sĩ bộ binh Hoàng An, dân tộc Tày, quê Đồng Mỏ, Lạng sơn.
Anh được sáp nhập vào đội quân gom góp từ tất cả những tiểu đoàn, đại đội, trung đội bị xoá sổ rồi sau đó không lâu, lại sáp nhận vào một cánh quân khác. Trú ẩn dưới cái tên của một người đã chết, anh hiểu rằng cuộc sống của anh giờ đây chỉ còn lại một mục tiêu. Ngày đó, anh thề trước đất trời :
Nông văn Thành đã chết vĩnh viễn.
Chí văn Thành cũng vĩnh viễn chết theo.
Chỉ còn lại trên cõi đời một kẻ tên là Hoàng An mà thôi.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 37: ƯỚC NGUYỆN CUỐI CÙNG
- Keeng keeng keeng keeng....
- Keeeng keeng keeng keeng keeng....
Thanh tà-vẹt treo trên cây sấu đung đưa một cách bạo liệt. Gã trai to lớn, vẻ thô kệch và hung dữ, hẳn là vừa được tuyển từ công trường xẻ đá hay trạm cưa gỗ về đang ra sức gõ cây búa đại lên tấm tà-vẹt để báo hiệu giờ ăn sáng. Cái dụng cụ thô kệch này xem ra hữu dụng bởi tiếng kẻng ngân nga vang dội khắp các khu nhà bệnh viện, có lẽ chỉ thua có tiếng còi xe cứu hoả mà thôi.
Khi tiếng kẻng dứt, cũng là lúc xe chở thức ăn sáng cho bệnh nhân từ phía đầu hành lang tiến đến. Từ các phòng, đám người chăm sóc bệnh nhân lục tục xách cà-mèn hay tô đĩa ra nhận phần ăn sáng cho người thân; Vũ lặng lẽ quan sát họ, cái xã hội thu nhỏ, nơi chiến trường giữa sự sống và cái chết, nơi sợ hãi đau khổ lẫn hy vọng nhào trộn, trở nên nhù nhoà mờ nhạt với tháng năm, nơi đa phần con người sống như sự thực hành đơn giản một thói quen.
― Nhưng đâu chỉ đám người vô danh tá túc trong những dãy nhà ngột ngạt này chấp nhận kiểu sống như vậy ? Ngay cả những kẻ thông minh trác tuyệt, hoặc ít nhất cũng đã từng được coi như kiểu mẫu của sự sáng suốt, của tính chính trực và tinh thần tự trọng cũng nhiều phen chấp nhận cuộc sống tầm thường như đám đàn bà quê mùa đang chen chúc nhau quanh xe thực phẩm kia.
Đương nhiên, họ chẳng cần dán mắt hau háu nhìn vào cái muôi đang khuấy nồi cháo thịt, hoặc đo đếm xem xuất bánh cuốn cô hộ lý chia cho mình có đủ tám chiếc hay chỉ có bảy chiếc thôi. Đương nhiên, họ cũng không đau khổ vì thiếu một chiếc chăn mùa đông hay thiếu vài đồng đưa cho con lên đường ngày nhập ngũ. Nhưng xét một cách thực sự, họ cũng chỉ sống đúng như những cái máy thao tác những động tác đã đưa sẵn vào lộ trình, hoặc đúng hơn, như những con rối múa may theo các tích tuồng viết sẵn.
Vào buổi sáng được tin cô Xuân bị giết, ông đã tới gặp những con người được coi là ― kiểu mẫu lương tâm. Lúc đó, chưa đến giờ làm việc nên ông cho xe phóng thẳng đến nhà riêng của họ. Trước tiên, ông lên gặp thủ tướng Tô. Ông không phải chờ một phút vì chính ông ta cũng đã thức dậy, quần áo chỉnh tề ngồi trong phòng làm việc. Trước mặt là tách cà-phê và cuốn ― Đại Việt sử kí toàn thư, cuốn sách mà lần nào tới cũng thấy đặt trên bàn. Cuốn sách kinh niên ấy đang mở và chủ nhân đang đọc sách một cách chăm chú đến mức mặt cúi gằm xuống gần như sát vào trang giấy. Khi Vũ bước vào, ông ta vội vã đứng lên, nhưng không phải để bắt tay ông theo phép lịch sự mà là để đóng chặt hai cánh cửa phòng. Lúc quay lại, gương mặt ông ta đầm đìa nước mắt.
- Anh...
Vũ vừa cất lời, thủ tướng đã vội xua tay ra hiệu cho ông im tiếng. Rồi ông ta nhắm mắt lại và những dòng nước mắt tuôn chảy không ngừng từ cặp mắt nhắm nghiền ấy. Cầm lòng không đậu, Vũ cũng khóc theo. Cứ như thế, cả hai cùng khóc. Thủ tướng đứng tựa lưng vào cửa còn ông đứng ngay giữa phòng. Hai người đàn ông đối diện nhau, không thốt một lời, không phác một cử chỉ, không làm gì hơn là đầm đầm trút lệ. Họ cùng khóc như những người đàn ông khác cùng uống trà hay cùng nhâm nhi ly rượu. Khóc một cách thầm lén, ghìm giữ nhấn nuốt tiếng nức nở vì sợ lính gác ngoài hành lang nghe thấy. Họ khóc, trong sự tự kiểm soát và trong im lặng. Chính lúc ấy, ông hiểu thế nào là đau khổ và nhục nhã. Những dòng nước mắt lai láng của họ vừa là để tiếc thương cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh vừa là cơn thổ lộ những nhức nhối trong tâm can. Một gã đàn ông bất lực thảm hại hơn mười lần một người đàn bà yếu đuối. Bởi nó sinh ra để làm đàn ông, sinh vật tượng trưng cho sức mạnh và quyền uy. Một bậc nam nhi bất khả hành động, chỉ biết dìm cay đắng hay uất hận trong nước mắt nào khác chi đứa trẻ lên năm ? Có lẽ vì ý thức được điều đó nên ông ngẩng lên trước tiên, lau mặt. Trong khi đó, thủ tướng vẫn tiếp tục khóc, những ngón tay dài và mảnh che khuất gương mặt chữ điền. Vũ chú ý đến những ngón tay ấy bởi người ta thường gọi kiểu tay ấy là tay búp tháp. Những ngón tay ấy run rẩy từ gốc lên ngọn, giống hệt những cọng lau run rẩy trước cơn gió dữ:
― Phải chăng vì bản chất thư sinh nên ông ta bị áp chế và biến thành một thứ búp-bê thông thái trong bộ máy quyền lực này ?...
Vũ nghĩ hoài điều đó trong khi chờ thủ tướng ngớt cơn xúc động. Tô đã khóc rất lâu, từ rất lâu trước khi ông bước vào phòng. Cuốn ― Đại Việt sử kí toàn thư mở ra là để hứng những dòng lệ tuôn như suối. Hai trang sách phồng rộp lên từng đám vì ngấm nước:
― Ông ấy không chỉ khóc cho cô Xuân. Ông ấy khóc cho cả bản thân mình. Chắc chắn là như thế !
Vũ bước đến, đặt tay lên vai thủ tướng thay cho lời chào trước khi quay ra :
« Ta sẽ chẳng kiếm được một chút cỏn con sự trợ giúp nào từ con búp-bê thông thái này, ngoài những dòng lệ sướt mướt. Cái dinh thự nguy nga trước mắt ta chỉ là một toà nhà vô vọng...Nhưng ta cũng chẳng thể buông xuôi tay...Còn nước còn tát ».
Xuống đường, ông bảo lái xe :
- Bây giờ chúng ta tới nhà đồng chí phó bí thư. Giờ này hẳn đồng chí ấy chưa đến phòng làm việc.
- Vâng. Còn một tiếng rưỡi nữa mới tới giờ hành chính.
Người lái xe lượn trở lại đường Hoàng Diệu, con phố nổi tiếng vì là nơi cư trú của các bậc « Lương đống triều đình ». Hai hàng cây bên hè đứng im như hoá đá trong sương lạnh. Vũ bảo người lái xe dừng lại nơi ngã ba cho ông xuống rồi anh ta có thể tự do vào phố tìm quán điểm tâm. Đoạn, ông thả bộ đến nhà phó bí thư Thuận. Ngôi nhà này vốn dĩ đã là biệt thự kiên cố của một quan chức Pháp. Nhưng ban quản trị trung ương đảng lại sửa chữa cho thêm phần an toàn. Họ thay thế hàng rào bằng tường kín, cho xây thêm cổng phụ và chòi canh khiến cho người đứng ngoài nhìn vào, có cảm tưởng đây là nhà tu kín hay kho vũ khí. Vũ dừng lại trước thanh chắn cổng đồ sộ, sơn khúc trắng khúc đỏ như kiểu các thanh chắn nơi bến ga bến tàu. Một ổ khoá to hơn bàn tay treo lủng liểng nơi cổng chính. Chưa đến giờ mở cổng chính nhưng người lính gác đã nhìn thấy ông, vội bước ra chào rồi mở cánh cổng phụ cho ông bước vào. Đoạn anh ta lại chui vào chòi gác, nhìn theo. Vũ cảm thấy cái nhìn đó dính vào lưng ông. Sự xui khiến của linh giác báo cho ông rằng từ nay, bất cứ nơi nào ông đặt chân tới đều bị kiểm soát một cách chặt chẽ bởi những cặp mắt người trần cũng như những ống kính được nguỵ trang :
« Ta không ngờ tình thế đến nỗi này. Nhưng đã muốn chơi thì chấp nhận chơi. Xem chúng bay làm gì được ta ? »
Bản tính Vũ hiền lành nhưng khi bị thách thức ông đột nhiên trở thành lì lợm. Ông bước thẳng đến toà biệt thự. Lúc đó, chủ nhân cất tiếng ông gọi từ khu vườn bên trái :
- Tôi ở đây. Vũ ơi.
- A.
- Tôi ở đây cơ. Cậu không thấy những luống hồng vàng đang nở rộ à ? Lại đây. Đợt hoa này chỉ kéo dài vài tuần lễ thôi mà giống hồng này đặc biệt quý hiếm và khó chăm sóc.
Thuận đang đứng trong vườn, mặc bộ pi-ja-ma xanh da trời sọc trắng. Quả thật trước mặt ông ta là một vườn hồng vàng đang nở rộ. Những cánh hồng mướt mịn như nhung mỏng. Màu vàng của chúng chung chiêng giữa vỏ chanh chín với lòng đỏ trứng gà. Một thứ màu nhẹ nhàng mơ ảo. Một thứ màu phơn phớt như hồ nghi, như có thể bay lên tựa cánh chuồn cánh bướm, như có thể bốc hơi tựa làn sương.
Giá như ở hoàn cảnh bình thường, cảnh tượng thật đáng chiêm ngưỡng. Nhưng lúc ấy, mọi vẻ đẹp đều khiến ông sôi máu :
- Vườn nhà anh đẹp thật. Hoa hồng nhà anh tuyệt thật.
Vũ vừa nói vừa tiến lại phía chủ nhân với nụ cười :
- Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một vườn hồng tươi đẹp nhường này. Thiên thai cũng chỉ đến thế mà thôi. Trên đời này dễ mấy ai được hưởng ?
Thuận im lặng trước câu nói không che đậy vẻ khiêu khích lẫn sự móc máy chua chát. Ông ta tiến đến phía Vũ, chìa tay ra bắt rồi hạ giọng thì thào :
- Tôi đứng ở đây là để chờ cậu. Không cần gây sự với tôi. Chúng ta đi về phía cuối vườn để có thể nói chuyện một cách an toàn.
Họ đi song song hai bên luống hồng và tiến về phía cuối khu vườn, nơi các luống hồng bị ngăn lại bởi một hàng diên vĩ. Dãy cây này viền quanh một vạt đất chạy dọc chân tường lan sang tận khu vườn đối diện tạo thành hình chữ L. Vạt đất ấy trồng cỏ kim. Hai người đứng giữa đám cỏ xuân xanh rờn. Nếu không cất lời, có thể nghe rõ tiếng gió thì thào trong đám cây dâu da nơi góc tường vọng lại.
Đưa mắt nhìn quanh, Thuận gật gù :
- Ở đây, cây sậy thành Ba-tư không mọc được.
Rồi quay sang Vũ, hỏi :
- Ai báo tin cho cậu sáng nay ?
- Một giọng nguỵ trang, vẻ như bịt mũi hay bị ốm. Còn anh ?
- Cũng chính cái giọng ấy báo tin cho tôi, vào lúc chưa đầy năm rưỡi.
- Với tôi, cũng chính vào giờ ấy.
- Theo cậu, ai là kẻ có thể báo tin này cho chúng ta, với cái giọng méo mó một cách cố tình như vậy ? Sao anh lại hỏi tôi ? Anh là uỷ viên bộ chính trị, phó bí thư đảng. Nói theo kiểu ngày xưa, anh là một trong tứ trụ triều đình. Còn tôi ? Tôi chỉ là một gã loèn quèn, đứng dưới anh không biết bao nhiêu cấp ngạch; nếu hiểu một cách thuận lý, chính tôi mới là người được quyền hỏi anh.
Thuận im lặng thở dài, ông ta cúi nhìn thảm cỏ kim dưới chân như muốn tìm trong những lá cỏ li ti kia lời giải đáp. Lát sau, ông ta giãi bầy một cách chậm rãi :
- Tôi biết tôi có lỗi, bởi chính tôi là người cam kết bảo đảm an toàn cho ba mẹ con cô Xuân trong phiên họp quyết định của bộ chính trị về vấn đề này.Tôi không ngờ cơ sự xảy ra.
- Anh không ngờ ? Hay là anh có ngờ nhưng anh buông tay cho kẻ khác hành động ?
Thuận ngước lên nhìn ông :
- Tôi cũng là con nhà có dạy, được học hành tử tế, Vũ ạ. Bởi thế, tôi xin cậu đừng đổ ngờ cho tôi những điều bỉ ổi như vậy. Nếu không vì tôi thì ít nhất hãy vì lòng khoan dung trước vong linh những người sinh trưởng ra tôi. Họ đều là những người tử tế. Tôi không nói dối, trước hết, với một người như cậu.
Giọng ông ta rung động và hai cánh mũi dầy thịt của ông ta bắt đầu hoe hoe đỏ. Vũ biết rằng ông ta nói một cách chân thành và sự thành thực ấy rụi bớt một phần ngọn lửa căm giận đang cháy phừng phừng trong tim ông.
Thuận tiếp tục :
- Lỗi của tôi chính ở chỗ tôi không học được chữ ngờ. Tôi không dò nổi những ngóc ngách tối tăm trong tâm địa con người. Tôi vẫn nghĩ như hồi còn sống trên chiến khu : khi bộ chính trị đã đồng lòng thì mọi việc cứ thế tuần tự như tiến, chẳng cần suy tính. Sự việc này khiến tôi ngã ngửa người. Thế cờ đã đổi, thời cuộc đã thay mà tư duy của tôi vẫn giản đơn như những năm quá khứ.. Giờ, sự đã rồi, tôi biết làm sao ?
Vũ tức khắc ngắt lời :
- Sự đã rồi và giờ đây anh thở than rằng biết làm sao ? Nói nghe đơn giản thật! Này anh Thuận, hãy cố gắng đặt mình vào địa vị của người khác, dù chỉ một lần. Lúc này, anh đang đứng nói chuyện với tôi. Nhưng lát nữa, chỉ cần bước chưa đầy một trăm bước chân là vào đến ngôi nhà lộng lẫy kia, trong đó nào vợ nào con nào cháu nội cháu ngoại....cả một bầu đoàn đông đúc. Trong cái bầu đoàn ấy, chẳng ai phải chịu cảnh cô đơn trơ trọi, cũng chẳng đứa bé nào rồi đây sẽ phải chịu cùng một lúc kiếp mồ côi lẫn kiếp lưu đầy. Những đứa trẻ bị lưu đầy trên chính quê hương mình.
Lảng tránh cái nhìn xoi mói và phẫn nộ của anh, Thuận đưa mắt nhìn cụm dâu da nơi góc tường tiếp giáp cổng chính, hạ giọng :
- Tôi biết rằng tôi có lỗi với ông cụ.
- Anh nghĩ gì về con người đó ? Giờ đây ông cụ sẽ sống ra sao khi chính những kẻ vẫn mệnh danh là anh em đồng chí giết hại người ruột thịt của mình ? Hay các anh, mười hai con người quyền lực nhất nước này cho rằng ông cụ không phải là con người mà chỉ là gỗ đá ? Vì rằng chính anh là người đầu tiên và người can thiệp quyết liệt nhất để bãi bỏ đề nghị công khai hoá quan hệ của anh Cả với cô Xuân. Vì rằng ý kiến của anh có tính chất quyết định, có sức mạnh thuyết phục thậm chí khống chế nhiều người khác. Tôi đã hỏi kĩ anh Tô về cuộc họp ấy.
- Tôi biết rằng cậu đang vô cùng căm giận, chẳng những riêng tôi mà tất cả những ai bãi bỏ mối quan hệ này. Nhưng thực tình, chúng tôi hành động chỉ vì quyền lợi của dân tộc, và cũng vì uy tín của chính ông cụ.
- Tôi đã nghĩ mãi về cái điều mà các anh thường gọi là uy tín của cán bộ lãnh đạo, là thần tượng hay hình ảnh người dẫn đường cho nhân dân. Tôi thấy đó là thứ lý thuyết kì cục và khiên cưỡng. Cuộc đời này đầy rẫy những người đàn ông lớn tuổi yêu đương say đắm những người đàn bà trẻ hơn mình. Không chỉ trong hàng vua chúa mà trong cả đám dân đen. Nếu tôi không nhần ngay ông nội anh cũng có một nàng hầu hai mươi tuổi khi ông cụ đã bảy mươi hai. Điều này là thực hay là bịa ?
- Điều đó là thực, dù ông nội tôi chỉ là chánh tổng. Tôi vẫn nhớ hình ảnh ông cụ ngủ trưa, gối đầu lên đùi người đẹp hai mươi tuổi đó và nàng ta phe phẩy quạt hầu. Tôi cũng nhớ rằng bà nội tôi ăn cơm với hai người trên nhà chính còn gia đình chúng tôi ăn cơm riêng ở nhà ngang. Tôi cũng nhớ rằng nàng hầu này lảy kiều rất hay và khi ông tôi hứng lên thường yêu cầu chị ta hát chầu văn phục vụ khách khứa..Tất cả đều rất thực, Vũ ạ. Nhưng riêng với anh Cả, sự đó không thể chấp nhận vì ông cụ không thể chỉ sống riêng cho bản thân. Ông cụ là kim chỉ nam, là ngọn đuốc soi đường cho cả dân tộc.
- Vì là ngọn đuốc soi đường nên ông cụ buộc phải thiến như đám hoạn quan thời xưa hay buộc phải sống chui lủi như kẻ buôn lậu ? Cái trò này chính các anh đã đặt bầy. Khởi sự từ việc cử cô Minh Thu vác chiếu vác chăn đến ngôi nhà sàn trên chiến khu. Nếu bây giờ, tổ chức đảng yêu cầu anh lấy cô Minh Thu thay vì người đàn bà mà anh đang chăn gối, anh tính ra sao ?
Thuận im lặng. Ông ta lại cúi xuống tiếp tục nhìn chăm chú thảm cỏ dưới chân. Một đám diệp lục mềm mại tựa lông nhung và trông ngon lành như có thể ăn được.
Vũ tiếp tục:
- Tôi không hiểu nổi danh từ đồng chí hay chiến hữu mà các anh nói như hát trên đầu lưỡi. Thực tình, tôi không hiểu. Từ xưa đến nay, loài người liên kết được trước hết là nhờ sự cảm thông. Đám chúng sinh thấp cổ bé họng cũng biết nói câu : ― Ai cũng xương cũng da, dao cắt vào thịt nào cũng chảy máu „. Người theo đạo Phật ắt biết câu nói nổi tiếng của Thích ca :― Máu ai cũng đỏ và nước mắt ai cũng mặn „ Đạo Thiên chúa cũng dậy con người chớ gây cho kẻ khác điều mình không muốn. Dù tôn giáo
phương tây hay phương đông, con người đều được học cách cư xử như vậy. Huống chi các anh, những kẻ tự coi là tinh hoa của dân tộc, là lớp người có đủ thông minh lẫn can đảm, nòng cốt của một đảng bách chiến bách thắng ? Trở lại chuyện gia đình anh Cả, tôi cần nhắc anh nhớ lại một trường hợp tương tự trong lịch sử, đó là chuyện tình giữa Nguyễn công Trứ với người vợ ba của ông. Vị quan lớn đa tình và đa tài này từng nói một câu nổi tiếng : ― Ngũ thập niên tiền...
Thuận gật đầu, đọc tiếp :
- ― Ngũ thập niên tiền, nhị thập niên― Năm mươi năm về trước ta là chàng trai hai mươi tuổi. Đấy là cách diễn đạt hết sức khôn ngoan dí dỏm với bạn tình...Ngay với mối tình lãng mạn ấy, Nguyễn công Trứ vẫn là một gương mặt hiển hách trong lịch sử. Chuyện đó nữa, tôi cũng có nhớ, Vũ ạ, chỉ có điều là ...
- Chỉ có điều là ...sao ?
- Có điều là chính ông cụ cũng chấp nhận sự hy sinh ấy. Chính ông cụ cũng không phản bác.
- Trên nguyên tắc biểu quyết, một mình ông cụ không thể thắng nổi mười hai người. Nói cho thật cặn kẽ chỉ một mình anh Tô muốn ủng hộ ông cụ. Nhưng sau rốt bị đám đông uy hiếp nên anh ta đành đổi hướng theo các anh. Như thế, về lý, ông cụ là tuyệt đối thiểu số. Còn về chữ tình, không nói cũng hiểu rằng ông cụ trông mong ở sự thông cảm của các anh, những người xưa nay vừa là đồng chí vừa là đàn em. Từ ngày khởi đầu cách mạng cho đến lúc này, mọi sự vẫn diễn ra như vậy. Có điều ông cụ không nhận ra rằng tình thế đã đổi thay. Rằng những ngày xưa thân ái đã chết rồi. Và nó đã bắt đầu chết một cách thật sự ngay khi các cánh quân rời bỏ núi rừng để tiến về năm cửa ô thành phố. Rằng giờ đây tất cả anh em đồng chí chỉ còn là đám người buôn chung một món hàng trên một con tầu vượt đại dương mà vì tiền lời của món hàng đó, các anh có thể quẳng xuống biển bất cứ kẻ vô tội nào cho nhẹ gánh. Rằng trước mắt các anh, ông cụ chẳng còn là bậc huynh trưởng thân thiết mà chỉ đơn thuần là con vật hiến tế cho vị thần cách mạng. Cuộc cách mạng này trước hết đem lợi nhuận cho các anh, những kẻ toạ hưởng kì thành. Điều ấy tôi nói sai hay đúng ?
Thuận không trả lời, ông ta đứng như bức tượng, dán mắt vào mũi giầy, loại giầy hở gót đi trong nhà, bằng da bò đột lỗ. Vũ cúi nhìn đôi giầy yểu điệu ấy và không hiểu vì đâu nó khiến cho ngọn lửa trong lòng ông bỗng nhiên bốc cao như được tưới dầu :
- Anh là người nhiều chữ nhất trong số mười hai nhân mạng ở bộ chính trị. Anh thông thạo cả tiếng Tàu lẫn tiếng Pháp, anh thuộc làu kinh điển cổ lẫn kim. Anh thừa biết rằng nếu ông cụ lấy cô Xuân thì cũng chỉ là đàn ông một vợ đàn bà một chồng, chưa đến mức đa thê như quan thượng thư Nguyễn công Trứ. Hãy trả lời cho tôi rõ, tại sao Nguyễn công Trứ có thể mà ông cụ thì không ? Đã bao giờ anh tự đặt câu hỏi này chưa ?
- Chưa bao giờ tôi nghĩ đến điều này.
Thuận thú nhận một cách chậm rãi, dường như vừa nói vừa nhai mỗi lời vừa thốt ra khỏi miệng :
- Thành thực mà nói, đúng là tôi chưa từng nghĩ tới điều này.
- Vậy thành thực mà nói, anh nghĩ tới điều gì ? Cái gì chứa chất trong sọ não của các anh, những kẻ tự xưng là đàn em thân thiết của ông cụ ?
Thuận không đáp.
Vũ cảm thấy một cách vô cùng chân xác dòng thác lửa đang cuồn cuộn chảy. Một dòng thác lửa. Chúng sắp nhấn chìm ông , sắp biến ông thành tro than. Và cùng với ông, những kẻ liên đới. Ý muốn tàn sát thiêu huỷ khởi dậy trong tâm hồn ông. Ông nhìn thấy cơn ham muốn đó nở phình ra như trái bóng bơm căng. Một ham muốn điên cuồng :
« Ta phải chạy khỏi nơi đây. Ta phải đi ngay cho khuất mắt. Ta không thể chịu đựng được cái gã mặc bộ đồ pi-ja-ma sọc và đi giầy hở gót này. Cái gã đàn ông đang nhởn nhơ thở hít vườn hồng ngào ngạt của y. »
Vũ thầm nghĩ. Cố gắng dằn cơn thù hận, ông nói :
- Tôi phải về, vì còn hai đứa con ông cụ. Tôi báo cho anh biết trước nếu anh không tức khắc ngăn chặn, lũ côn đồ sẽ tiếp tục ra tay và sinh mạng hai đứa trẻ phải tiêu vong. Lúc ấy, e rằng chính anh cũng không sống nổi nếu anh vẫn còn có lương tâm, cho dù một mảy lương tâm rơi rớt..
- Này Vũ...
Thuận không tỏ ra một chút bực dọc. Ông ta vẫn cúi xuống, dán mắt vào vườn cỏ như muốn tìm một thứ trợ giúp tinh thần hoặc một niềm an ủi trong những lá cỏ xanh :
- Tôi biết cậu giận tôi lắm. Cậu chưa đến mức căm thù hay manh động đã là may. Bởi ai cũng biết cậu là người gắn bó nhất với ông cụ trong đời sống tình cảm. Rằng hồi ở chiến khu chính cậu đã sang bên thành đoàn để gặp gỡ cô Thanh Tú. Cũng chính cậu can thiệp để cô Minh Thu thôi vác chăn vác chiếu đến ngôi nhà sàn. Rồi cũng chính cậu dẫn cô Xuân đến nơi ấy. Rằng cậu là người duy nhất mà cô Xuân tin cậy và phó thác tổ chức cuộc đời. Rằng cậu cũng là người duy nhất mà ông cụ có thể nói mọi chuyện một cách không kiêng dè, không ý tứ. Chúng tôi chưa quên những cuộc gặp gỡ tay đôi. Chỉ cần nghe tiếng cười của hai người là đủ hiểu mối thâm tình đến đâu. Ngày ấy, chúng tôi thầm cảm ơn trời đất đã giun rủi cho ông cụ gặp người đàn em chung tình hợp ý. Vì chúng tôi ai nấy đều bận bịu gia đình riêng, chỉ có cậu tự nguyện chia xẻ thời gian cho ông cụ mà thôi. Chúng tôi cũng biết rằng chính
vì mối thân tình đó mà cậu phải chịu thua thiệt bởi ông cụ giữ ý, chẳng bao giờ đề nghị một ưu đãi, thậm chí một thăng tiến ngoại lệ. Phần cậu, cậu cũng lại e dè vì mối thân tình ấy nên lặng lẽ chấp nhận mọi thiệt thòi. Sự hy sinh ấy buộc chúng tôi dù muốn hay không cũng phải tôn trọng cậu. Nhưng về phần tôi, tôi cũng đề nghị cậu cảm thông, nếu điều ấy là khả thể. Quả tình, tôi không ngờ sự việc diễn tiến theo chiều hướng xấu xa này. Quả tình, tôi chỉ muốn ông cụ giữ quan hệ riêng trong bóng tối để có thể bảo đảm tuyệt đối hình ảnh vị cha già dân tộc, vị gia trưởng dành toàn bộ tâm tình và nhiệt huyết cho đại gia đình tổ quốc. Tôi tin rằng việc sắp xếp của mình là thuận lý. Chính tôi đề nghị ông cụ khuyên cô Xuân chấp nhận sống ở căn gác hẹp khu phố cổ như một lương dân. Bởi tôi tin rằng tấm gương giản dị ấy khiến cho ông cụ có nhiều uy tín hơn với anh em.
- A ! Chính là anh ? Chính anh là người quyết định việc này ?
Vũ cất tiếng kêu kinh ngạc :
- Vậy mà tôi đã cãi cọ không biết bao nhiêu lần với văn phòng quản trị trung ương đảng. Cũng hẳn là vì lẽ đó mà họ phải nín nhịn trước những lời sát phạt của tôi. Giờ tôi biết anh mới chính là thủ phạm còn họ chỉ là những kẻ đi đổ vỏ ốc.
Ông ngừng lại một khoảnh khắc để chắp vá lại những mảnh hồi ức, rồi hỏi :
- Nhưng nếu để tạo uy tín bằng thứ khổ hạnh chủ nghĩa này tại sao chính anh không thực thi trước ? Tại sao anh không chấp nhận một mái nhà tranh có hàng dậu bìm bìm ở ngoại ô mà anh lại ngự toạ trong biệt thự đồ sộ này ?
- Cậu quên là tôi đang phải điều hành công việc của đất nước.
- Vậy thì ông cụ là hình nộm của các anh ?
- Ông cụ đứng cao hơn chúng tôi một cái đầu. Ông cụ là lãnh tụ tối cao của dân tộc.
- Vì ông cụ là lãnh tụ tối cao nên người đàn bà ngủ cùng giường với ông cụ phải trú ngụ trong căn gác bình dân nơi ngõ hẹp. Còn người đàn bà ngủ với anh được quyền sống thênh thang trong ngôi biệt thự hoành tráng này ? Vì ông cụ là lãnh tụ tối cao, là linh hồn đất nước nên người vợ trẻ của ông cụ bị các anh giết như giết một con thỏ còn những người đàn bà ngủ với các anh, tôi nói rõ ở đây là các anh, trong đó bao gồm cả vợ tôi nữa được quyền cưỡi xe Volga đi chợ và mua áo quần, bánh kẹo lẫn các đồ mỹ phẩm ở cửa hàng quốc tế ? Dựa trên nguyên tắc đạo đức nào mà các anh tự cho phép mình được làm những điều ấy ?
Vũ ngừng lại vì cơn giận khiến ông dường như nghẹn thở. Thuận không đáp, ông ta lấy chân di di một vật nào đó vô hình trên thảm cỏ, không ngửng đầu lên. Một cơn gió xuân lạnh lẽo lướt qua khung trời và những vòm lá dâu da khẽ xạc xào thầm lén. Hồi lâu, Thuận húng hắng cất tiếng ho và buông từng lời rời rạc :
- Tôi xin lỗi. Tôi rất tiếc là cuộc thảo luận của chúng ta đi vào ngõ cụt.
- Đi vào ngõ cụt là bởi các anh từ chối nhìn vào trách nhiệm của mình...Các anh giống lũ trẻ con định ném cái tổ chim nhưng khi viên đá trúng vào ai đó khiến họ vỡ đầu, ngã lăn quay và đổ máu thì các anh bỏ chạy. Sự ví von ấy có chính xác hay không ?
- Tôi chưa có câu trả lời cụ thể của anh Sáu. Sáng nay khi tôi gọi điện, anh ấy vắng nhà. Thư kí thường trực báo rằng anh ấy đang xuống bãi thể thao chạy bộ. Tôi cho rằng đây là sự lộng hành của bộ trưởng bộ nội vụ. Có thể là anh Sáu chỉ đưa ra chỉ thị chung chung. Rồi sau đó, Quốc Tuỳ đã vận hành theo lối suy nghĩ côn đồ của anh ta. Hồi bổ nhiệm anh ta , tôi cũng đã gợi ý anh Sáu về lý lịch tội phạm của tay bộ trưởng này. Nhưng anh Sáu gạt đi, nói rằng chúng ta phải tin tưởng ở khả năng cải biến và hoàn thiện con người của cách mạng.
- Có nghĩa rằng sự việc nằm ngoài lãnh địa của anh. Nói một cách đích xác hơn anh không có trách nhiệm gì.
- Tôi rất tiếc là chuyện xảy ra theo hướng tồi tệ như vậy. Tôi sẽ hết sức cố gắng. Tuy nhiên, cậu cũng cố gắng hiểu cho tình cảnh của chúng tôi.
Nói đoạn , Thuận đưa tay chỉ cho ông hàng diên vĩ lá xoăn viền quanh thảm cỏ như giải đăng-ten viền quanh cổ áo đàn bà :
- Cậu hãy nhìn kia.
Vũ cúi xuống nhưng ông chẳng nhìn thấy gì hết ngoài những chùm lá màu tía. Những chiếc lá bóng nhẫy, no nê nước, được chăm sóc thường xuyên khiến vườn cảnh thật mỹ lệ. Nhưng vẻ đẹp thanh nhàn ấy càng khiến ông điên tiết . Vũ cau có gắt :
- Tôi chẳng thấy gì hết ngoài sự mỹ miều của khu vườn này ; mà sự mỹ miều đó giờ đây giống như cái gai chọc vào mắt của tôi.
Thuận chẳng tỏ vẻ phật ý . Nét mặt có đôi phần ngơ ngác và rầu rĩ, ông ta giơ tay kéo áo Vũ để chỉ cho ông thấy một cái màng nhện lớn chăng giữa hai cành diên vĩ, trên đó một con ruồi mắc lưới đang ra sức dãy dụa :
- Cậu có nhìn rõ con ruồi trên tấm lưới nhện kia không ? Phải chăng nó không gợi cho cậu một liên tưởng nào ? Thủ tướng Tô cũng như tôi rất dễ rơi vào thân phận của con vật khốn khổ đó. Trước đây, tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện này. Chính cái chết của cô Xuân đã mở mắt cho tôi. Tình thế đã đổi thay. Cuộc cờ đã xoay sang nước khác. Cậu hãy nhìn quanh chúng tôi xem : lính gác, cần vụ, người nấu bếp, người làm vườn, lái xe, thậm chí đến đầy tớ lau dọn nhà cửa và công nhân đổ rác khu vực này đều là người của họ. Mới có vài năm mà mọi sự đã đổi thay. Hai năm trước chia nhau bữa cơm gạo đỏ với cá mắm trên rừng, tất thảy đều đồng lòng nhất trí. Giờ nhà cao cửa rộng, mọi sự chẳng như xưa .
Vũ bất giác rùng mình. Ông chợt nhận ra sự hèn mọn của con người, kể cả những kẻ được coi là quyền cao chức trọng, những cái đầu sáng suốt nhất của dân tộc, những bậc lương đống của quốc gia. Nhìn thẳng vào mặt vị phó bí thư, ông cười :
- Điều quan trọng nhất và có tính quyết định nhất chính là sự đổi thay này : Ngày ở trên rừng mọi người đều dấn thân vì nghĩa lớn, sẵn sàng chờ đón mọi sự hy sinh kể cả cái chết. Còn giờ đây vì nhà cao cửa rộng, đầy tớ lẫn lính gác đầy sân nên họ chẳng còn chút khí phách nào của bậc trượng phu. Phú quý vinh hoa biến con người thành đám dê ngựa được thuần hoá.
Mặt vị phó bí thư đỏ lựng lên, hai cánh mũi tròn nung núc thịt của ông ta phập phồng. Ông ta quay mặt đi để lảng tránh cái nhìn của Vũ. Vũ tiếp tục nói :
- Dẫu xảy ra sự gì, tôi cũng phải bảo vệ hai đứa con của ông cụ....Còn anh, tuỳ lương tâm mà hành xử...
Nói xong, ông quay lưng bước đi.
- Chào anh.
- Để tôi tiễn cậu.
Thuận nói và hai người lại đi ngược chiều luống hồng để ra cổng. Vừa đi, vị phó bí thư vừa nói lời cuối :
- Tôi sẽ đưa vấn đề này ra bộ chính trị. Tôi sẽ can thiệp tối đa trong khả năng của mình. Tôi cũng sẽ xin lỗi ông cụ và hy vọng ông cụ thông cảm cho tôi.
- Tuỳ anh.
Vũ đáp một cách lãnh đạm, giơ tay cho ông ta bắt cũng với vẻ lạnh nhạt như thế. Rồi ông bước ra lối cổng chính vì giờ đây thanh chắn đã được nhấc lên, hai cánh cổng sắt nặng trịch đã mở rộng hết cỡ. Chiếc Volga bóng loáng rời ga-ra tiến ra, đậu vào vị trí chờ đợi. Còn mười lăm phút nữa là đến giờ hành chính. Ông nhìn thấy Thuận hối hả bước lên tam cấp để vào nhà. Thời gian vừa đủ cho ông ta thay quần áo.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 38: ƯỚC NGUYỆN (2)
- Cháo của bác đây.
Tiếng một người đàn bà nói sát bên tai khiến ông giật mình.
- Phần cháo sáng của bác đây. Mời bác về phòng ăn cho nóng.
- Cảm ơn cô.
Vũ vồn vã đáp. Cô y tá mang phần ăn sáng cho ông nhoẻn miệng cười rồi lắc cái đuôi tóc kết sam một cách yểu điệu trước khi quay đi. Vũ nhìn vào chiếc bát sắt tráng men : Cháo thịt đại trà ; thứ cháo nấu trong những chiếc nồi đại, cao gần như thùng chứa nhựa đường rồi sau đó được san vào những chiếc xoong nhôm lớn để chia cho hơn một ngàn con người trong viện. Một cơn rung mình bỗng chạy qua toàn thân Vũ. Ông bỗng khiếp sợ cái món ăn tập thể này. Hoặc là những kỉ niệm nặng nề khiến ông chán ăn, hoặc là cái chết của người cùng phòng làm món cháo trở thành thiu vữa. Hoặc là sự cộng hưởng của cả hai thứ.
Vũ đưa mắt tìm mấy người đàn bà chăm sóc người bệnh trong phòng của ông. Trong số đó, ông đặc biệt chú ý đến một bà già xương xẩu, cao lòng khòng nhưng vững trãi như một dàn giáo. Trước những con mắt hoặc là thán phục hoặc khiếp sợ của đám hộ lý cũng như y tá, bà ta thường bế bổng ông chồng lên đem vào phòng tắm như người ta bế bổng một đứa trẻ lên ba. Vậy mà nghe đâu ông chồng này đã bỏ bà ta mười năm dưới làng, để sống vụng với một nữ đồng chí trên chiến khu rồi sau ngày giải phóng thủ đô lại gối chăn với một bà goá đất Hà thành mỡ màng như miếng thịt mông luộc. Giờ, đến lúc gần đất xa trời, hẳn không thể nhờ cậy được ai nên ông ta lại yêu cầu con cái triệu hồi « bà răng đen váy ộp » lên nuôi. Bà già xứ quê không thể quen với xuất ăn bệnh viện. Chắc bà đói dữ nên Vũ thường xuyên thấy bà đi tầm những thứ bánh trái, khoai luộc sắn luộc về ăn thêm. Lúc này bà đang đứng xếp hàng, tay chìa sẵn chiếc đĩa nhôm ra chờ đợi xuất bánh cuốn của đức lang quân. Vũ liền bê bát cháo đến :
- Chào chị, hôm nay tôi nhạt miệng không muốn ăn. Chị có thể gánh vác giùm không ?
- Ồ, quý hoá quá. Em xin bác. Em chờ lấy bánh cuốn rồi đem về phòng một thể.
Bà đáp vui vẻ. Vũ chào bà rồi đi về phía đầu hành lang. Ông tính dạo quanh khu vườn vài vòng, khi nào mệt sẽ tới căng-tin uống cà-phê và ăn bánh rán. Ít ra, nó cũng không kinh sợ như món cháo loãng này. Cúi đầu, Vũ xăm xăm bước xuống cầu thang. Ông không nhìn thấy một người đàn ông đang đuổi theo mình :
- Chú Vũ....Chú Vũ...
- Chú Vũ....Đợi tôi đã....
Người khách gọi ba bốn lời ; Vũ mới sực tỉnh quay lại :
- Anh Bắc !
Ông anh đội mũ lá, quần áo nâu đồng bộ như một nông dân thực thụ, hai tay xách lễ mễ một đống túi lớn túi nhỏ.
- Em xin lỗi, em đang mải đi...
Hai anh em dừng lại giữa cây cầu thang, nhìn nhau. Người anh nói :
- Chẳng ai cho tôi biết tin hết. Mãi hôm qua con gái cô Thảo mới rẽ qua nhà.
Vũ cười :
- Đúng vậy. Vân không thể báo tin cho anh vì chính cô ấy gây ra cơn chấn thương tâm thể khiến em phải vào đây...Còn cơ quan, em yêu cầu họ không được cho anh biết vì không muốn anh lo buồn.
- Chú bậy quá! Tôi với chú là khúc ruột trên khúc ruột dưới, sao lại dấu tôi ?
- Vì anh đã có quá nhiều việc phải lo rồi.
Vũ đáp , đoạn cúi nhìn mớ túi xách lủng củng trong tay ông anh :
- Anh mang gì mà lắm thế ?
- Cam vườn nhà, chuối cũng vườn nhà, mật ong cũng chắt ở đõ ong nhà....Chỉ có mớ tôm biển là tôi mua và tự tay nướng thôi.
- Anh vẫn coi em như trẻ con hay sao ?
- Ô hay. Trẻ con hay người lớn thì chú cũng vẫn là em tôi.
Hai người nhìn nhau. Hai người đàn ông tóc muối tiêu, người em nhiều muối hơn tiêu, còn ông anh tiêu nhiều hơn muối. Một chút im lặng rưng rưng rồi ông anh ngượng nghịu cười :
- Tệ thật. Chú lo nhiều việc nên tóc trắng nhiều hơn tôi. Kiếp dân quê có cái khổ mà cũng có cái sướng. Ngày vài bữa cơm rau. Lặn mặt trời là cất tiếng ngáy, chẳng phải nghĩ ngợi gì.
- Anh mà không nghĩ ngợi được sao ?...
Vũ bật cười nhại lại rồi bảo :
- Thôi, đưa em cất mấy cái túi rồi anh em mình xuống quán trà uống nước...Trong phòng bệnh, mùi mẽ chẳng thơm tho gì. Anh cứ đứng đây chờ em.
Nói đoạn, ông xách mớ túi trở lại phòng. Sau khi xếp gọn gàng các thứ quà vào chiếc tủ nhỏ, Vũ quay lại cầu thang và hai anh em đi tới căng-tin bệnh viện. Ở đó, họ ngồi bên ấm trà im lặng. Cả hai nhẩm tính xem lần cuối cùng gặp nhau đã bao lâu. Rồi, gần như cùng một lúc, họ bật tiếng kêu :
- Thấm thoắt đã hai năm rưỡi.
Ông anh cải chính :
- Hai năm bảy tháng rưỡi rồi.
Cả hai người lại im lặng, như người nọ chờ người kia lên tiếng trước. Hồi lâu, Vũ bật tiếng kêu :
- Em nhớ mẹ quá, anh Bắc ơi.
Ông anh gật đầu :
- Tôi cũng vậy.
Ngừng lại một giây, ông nói thêm :
- Thật lạ lùng, càng về già càng giống trẻ con. Nhớ mẹ cứ như hồi lên năm lên sáu.
- Sáng nay, lúc bệnh viện chia cháo, em nhớ lại món cháo cá mà mẹ vẫn nấu thời xưa. Chỉ nghĩ thôi đã nhỏ dãi vì thèm.
- Ờ, mẹ nấu ăn ngon nức tiếng cả vùng. Chả thế mà cứ ở đâu có tiệc lớn người ta lại đến chèo kéo. Chú có nhớ đêm sang cát cho bà nội, mẹ nấu cháo cá quả đãi mấy chục người trong họ ?...
- Có, em như vẫn ngửi thấy mùi thơm của gừng tươi giã, thìa là hành tăm, hạt tiêu nghiền và ớt tươi dầm nước mắm cốt. Em vẫn nhớ cái ang rộng đặt đầu hồi mẹ thường nhốt cá quả để ăn dần. Lũ cá quẫy tanh tách suốt đêm.
Vũ ngừng lời, dường như nếu tiếp tục nói thì ông sẽ bật khóc. Cái ang cá ấy hai anh em ông thường ra chọc phá, nhiều phen làm lũ cá nhảy vọt ra sân. Có lần, trong cuộc tập trận giả của lũ trẻ toàn huyện, ông được đóng vai tướng Đinh bộ Lĩnh. Vì muốn phóng tay khao lũ trẻ cùng phố để xứng đáng là bậc anh hào, ông về nhà đòi mẹ nấu cháo khao quân. Đương nhiên, bà từ chối vì xưa nay chưa có ai chiều con để làm một việc rồ dại như vậy. Hôm sau, thừa lúc mẹ ông đi chợ, Vũ dốc cả một túi ớt bột hai lạng vào ang khiến lũ cá chết sặc. Trở về nhà, mẹ ông hiểu ngay sự tình. Bà đành đổi giận làm vui, làm thịt gần hai chục con cá lớn, nấu một nồi ba mươi cháo để khao đại quân của Đinh bộ Lĩnh phố huyện. Hơn bốn mươi thực khách tí hon được mời đến thưởng thức cháo cá và các loại bánh kẹo tráng miệng. Ông anh lúc đó phải thay mặt ― tướng quân Vũ „ đứng lên tuyên bố lý do ― Vũ tướng quân thết lính mừng chiến thắng „ Bởi sau khi gây tội ác, Vũ đã chuồn ngay sang nhà bà ngoại. Khi bữa tiệc kết thúc, đám trẻ trong huyện no nê xoa bụng ra về, ông Bắc bị phạt nằm úp mặt xuống chiếc chiếu trải giữa nhà, nhận một loạt mười hai roi tre vút lên mông vì tội a tòng phá hoại. Trong khi đó, Vũ yên trí nhởn nhơ dưới cánh tay che chở của bà ngoại, tuy thiệt mất bữa cháo cá nhưng bù lại được bà cho đi ăn phở và các bánh trái khác. Như thế, ba ngày đêm trôi qua. Tới ngày thứ tư, mẹ ông đến và réo từ ngoài ngõ :
- Vũ, mẹ tha tội cho con. Không phải trốn nữa. Đi về nhà.
Kỉ niệm đó khiến tim ông tràn đầy xao xuyến. Vũ thầm nghĩ :
― Anh ấy luôn luôn phải chịu đòn thay ta. Anh ấy luôn phải giơ vai ra đỡ những gánh nặng...Không chỉ tuổi thơ mà cho đến tận lúc này„
Bất giác, ông cúi xuống nhìn bàn tay người anh đang đặt trên bàn : đó là bàn tay nông dân thực thụ với những ngón tay thô nháp, đen rám vì nắng cháy, các vành móng tay thâm xì nhựa cây.Bàn tay ấy đặt cạnh bàn tay ông như một tương phản vô tình. Bởi từ lâu, ông chỉ làm việc trong văn phòng nên những ngón tay trắng nuột như tay đàn bà đẻ....Đã mười hai năm nay, Bắc phải để lại gia đình trên phố huyện, giao xưởng mộc nổi tiếng của ông cho đứa con rể điều hành để về sống nơi quê ngoại của bà mẹ, với danh nghĩa chăm sóc bà mợ già không chồng không con nhưng thực chất là để nuôi Nghĩa, đứa con gái cô Xuân. Ngày cô Xuân chết, Vũ cho người nhắn ông lên, bởi chẳng tìm ra ai gánh vác nổi việc này. Vợ ông, cõng thêm một đứa con trai đã là quá sức. Vả chăng, ai cũng biết rằng Vân ghét những người cùng giới tính. Bà có thể đóng vai hữu nghị trong chốc lát với một vài người đàn bà phổi bò hoặc ngu dốt, lợi dụng họ hay biến họ thành trò chơi, nhưng trong thâm tâm bà không muốn kết giao với bất cứ ai. Bà chỉ có thể làm bạn với đàn ông. Bà chỉ có thể nuôi một tình cảm thực sự với người khác giới. Bà yêu ông, nhưng ngoài ông, bà muốn có thường xuyên một đội ngũ đàn ông vây quanh bà, dưới tất thảy các loại nhãn hiệu như đồng chí, bạn đồng nghiệp, bạn đồng hương, bạn đồng niên, bạn đồng môn, chị em nuôi, cô cháu kết nghĩa...Thực chất, đám đàn ông này dù già hay trẻ đều xoay quanh người đẹp Hà thành như các hành tinh lớn nhỏ xoay quanh một vầng dương, sẵn sàng phục vụ bà khi cần thiết. Họ chiêm ngưỡng nhan sắc của bà, thèm khát bà một cách thầm lén, dù trong giấc mơ chính ngọ hay giấc mộng lúc nửa đêm. Như thế, người đẹp Tố Vân luôn sống với niềm kiêu hãnh của một nữ hoàng không ngai, tuy chẳng chính thức xưng danh nhưng không thiếu ánh hào quang bao quanh tên tuổi...Và như thế, trời không thể phú cho bà đủ lòng từ bi để chăm sóc một đứa con gái mồ côi....Hồi ấy, tuy chưa đủ can đảm để hiểu vợ một cách rạch ròi nhưng ông cũng biết chắc chắn không thể đưa Nghĩa về sống dưới mái nhà mình. Chẳng còn cách nào hơn là trông cậy vào tình ruột thịt. Ông sai lái xe về phố huyện mang lá thư vẻn vẹn một dòng :
― Anh thân mến, em cần gặp anh ngay, càng sớm càng tốt. „
Lái xe đi buổi sớm, tối sẩm quay về Hà-nội mang theo người anh cả . Buổi tối, ăn cơm xong, họ ra vườn hút thuốc. Ông Bắc hỏi :
- Liệu họ có để cho đứa bé yên thân sinh sống nơi thôn dã ?...Chú đừng quên rằng càng xa thủ đô, càng tối tăm...Côn đồ càng dễ ra tay.
Vũ đáp :
- Em lại nghĩ rằng ở xa, đứa bé sẽ an toàn hơn. Nó là phận gái, chẳng phải kẻ duy trì nòi giống nên không nằm trong ống kính của họ. Ở xa, họ bớt chú mục. Bớt chú mục ắt bớt động dã tâm.
Ông anh bảo :
- Vậy là được. Nếu chú đã thu xếp đầy đủ quần áo cho cháu bé, tôi sẽ đưa nó đi ngay đêm nay.
- Anh không cần đi ngay đêm nay. Lái xe phải ngủ. Nhưng sáng mai, em sẽ yêu cầu cậu ta đưa anh và con bé lên đường thật sớm. Tuy nhiên...
Lúc đó, chính Vũ lại tần ngần.
Ông thấy áy náy khi buộc người anh phải bỏ gia đình lẫn công việc để về sống nơi thôn dã, một cuộc sống thiếu ánh điện, thiếu mọi phương tiện sinh hoạt bình thường. Đang từ ông chủ một xưởng mộc lớn nhất ba huyện, ông sẽ buộc phải cấy lúa, làm vườn, kẽo kẹt đẩy xe thồ đi bán mít, bán ổi, bán dứa, bán bưởi, bán xoan...Đang từ bậc gia chủ ngày ngày có cơm bưng nước rót, ông sẽ phải sống trong ba gian nhà mênh mông tù mù ngọn đèn dầu hoả, phải tự nấu lấy mấy bữa cơm trong căn bếp mù mịt khói trấu, khói rạ. Ông sẽ phải chịu đựng nỗi nhớ vợ nhớ con. Ông sẽ phải chịu đựng cả nỗi nhớ nghề, bởi đó chính là một người thợ có đôi tay vàng, tất thảy những gì ông làm được người trong vùng trân trọng như những tác phẩm mỹ thuật. Đồ gỗ khảm trai của ông không chỉ để dùng mà còn được coi như gia sản di tặng cho con cháu. Gia đình nào cũng cố mua cho được một thứ gì đó, một chiếc tủ chè, tủ đứng, một chiếc búp-phê, hay một chiếc sập chân quỳ. Và hãnh diện khoe với láng giềng : « Đồ xịn nhà ông Bắc đấy ! »
Nghĩ đến nông nỗi ấy, Vũ đâm ra ngượng ngùng :
- Tuy nhiên, em nghĩ rằng...em thật là có lỗi với anh.
Ông Bắc lắc đầu :
- Chú không cần áy náy. Tôi biết phận mình đã lâu. Ngày chú còn ở trên chiến khu Việt bắc, mẹ ốm nặng nửa năm liền. Trước khi chết, mẹ dặn tôi : « Em con về già gặp nhiều điều khổ tâm lắm. Con đừng bỏ nó một mình. Tuy thiên hạ nói : Anh em kiến giả nhất phận. Nhưng nhà mình phải tuân theo câu này : Anh em như thể chân tay »
Đoạn ông dập điếu thuốc, đi ngủ.
Hôm sau, ông dắt đứa bé lên xe từ lúc còn mờ sương.
Mười hai năm trôi qua như giấc mộng.
Người anh đã trở thành nông phu đích thực, đúng như Vũ dự đoán, cho dù ông không cấy lúa. Tiêu chuẩn gạo của ông trên phố, vợ ông mua và chuyển về từng tháng, tiện thể bà ghé thăm chồng, thu xếp những thứ vặt vãnh mà người đàn ông không quen đảm nhiệm. Dưới thôn, một mình ông chăm sóc nương vườn. Vườn trước, vườn sau, trại trồng dứa, sân nuôi gà vịt, mười hai đõ ong nhà...Xoay sở từ sáng đến tối, chẳng ngày nào thiếu việc. Như thế, ông nuôi Nghĩa từ năm hai tuổi cho đến lúc này, đã trở thành cô thiếu nữ biết quán xuyến việc nhà, biết phụ bố đẩy xe thồ đi bán trái cây hoặc gia cầm vào ngày phiên chợ. Làng xóm gọi họ là bố con ông thợ mộc vì Bắc có đem theo mớ đồ nghề và những lúc rảnh rỗi, ông ngồi luyện tay đục tay chạm cho khỏi quên. Bà mợ của họ đã chết từ bẩy năm nay, thọ tám mươi hai tuổi. Nhưng Bắc vẫn ở lại miền quê cùng đứa bé.
Sau một hồi im lặng, Vũ cất tiếng hỏi :
- Cháu nó ra sao hả anh ?
- Nó khoẻ và ngoan, càng lớn càng hiền lành. Tôi e là nó quá hiền lành nhút nhát.
- Giỏ nhà ai quai nhà ấy. Mẹ nó xưa cũng hiền lành như vậy.
- Có điều năm nay nó đã tới tuổi dậy thì.
- Chết thật ! Sao em lại quên khuấy đi điều ấy nhỉ ?
Vũ kêu lên rồi nhẩm tính. Quả thật, đứa bé đã đến tuổi dậy thì. Thời xưa, còn tục tảo hôn, mười ba tuổi người ta đã lấy chồng cưới vợ. Ngày nay, ấy là tuổi bản lề để con người bước từ thời niên thiếu sang tuổi thanh xuân.
- Trời đất ơi, nước chảy bèo trôi, thời gian đi như tên bắn...
- Thế đấy, chú và tôi, chúng ta cũng đã già đi nhiều.
- Mười hai năm qua, anh đã phải xa chị và các cháu để gánh vác cho em.
- Chú đừng nói thế. Phận sự của chú cũng chính là phận sự của tôi. Tôi không quản ngại gì. Chỉ có điều khó nghĩ là giờ đây, con bé đã lớn. Nếu để nó tiếp tục sống dưới làng, nó sẽ trở thành người làm vườn thực thụ, rồi chẳng mấy lúc, nó sẽ phải lòng một cậu trai làng và biến thành nông dân. Như thế, xem ra quá thiệt thòi cho thân phận của con bé chăng ? Tuy sống dưới vòng tay bảo trợ của chúng ta, nhưng danh chính ngôn thuận, đó vẫn là một công chúa.
- Vâng, anh nói đúng. Việc này hoàn toàn do lỗi ở em. Em mê mụ đầu óc nên không sớm nghĩ ra điều này.
Vũ nói, đoạn nắm lấy bàn tay ông anh :
- Anh xem này, tay anh đen đủi xù xì còn tay em trắng lốp. Vậy là bao nhiêu phần vất vả trong gia đình anh gánh hết cho em.
- Chú nói rỡn, ai làm việc văn phòng mà chẳng trắng mặt, trắng tay ?...
- Em không thể mở miệng cảm ơn anh vì lời lẽ đó tầm thường nhạt nhẽo. Lẽ ra, theo cung cách thời xưa, em phải quỳ gối trước mặt anh mà vái tạ.
- Ồ chú Vũ....
Ông anh lắc đầu :
- Đừng nói thế. Chớ bao giờ nên nói thế. Tôi với chú là khúc ruột trên khúc ruột dưới. Gánh nặng trên vai chú cũng là gánh nặng trên vai tôi.
Nước mắt trào qua mi, lăn xuống gò má Vũ. Ông quay đầu nhìn sang khu vườn sau của bệnh viện để tránh những con mắt tò mò. Ông Bắc cũng cúi xuống, uống liên tục hết chén trà này đến chén trà kia. Cả hai đều nghe rõ tiếng ong rù rì bay trong đám dâu da. Hồi thơ ấu, vườn nhà họ cũng trồng dâu da, ong cũng rù rì bay như hôm nay. Những tàn lá dâu da cũng xanh màu xanh mong manh và đám hoa chua me dại mọc dưới các gốc cây cũng tím màu tím ấy...Cảnh vật đâu có thay đổi ? Chỉ có một đổi thay là từ hai chú bé mặc quần thủng đít giờ họ đã trở thành hai gã đàn ông đứng chông chênh giữa tuổi trung niên với tuổi già.
Hồi lâu, người anh ngẩng đầu lên :
- Việc chú với cô Vân sẽ giải quyết theo hướng nào ?
- Em chưa làm thủ tục ly hôn nhưng sẽ dọn vào cơ quan. Khi nào thằng bé Trung nghỉ hè em sẽ đón nó về đấy. Bữa trước cậu thư kí đến thăm em đã yêu cầu chuẩn bị sẵn mọi thứ cần thiết để khi ra viện em sẽ về thẳng nơi ở mới. Còn Vân sẽ ở lại biệt thự với Vinh và chắc chắn, cậu em ruột của cô ấy sẽ mò tới.
- Khó mà ổn thoả. Tôi nghĩ rằng cô ấy chẳng chịu đâu.
- Bây giờ, em chưa tìm được giải pháp nào hơn.
- Tình thế này, chú khó gánh thêm cháu Nghĩa. Thôi , để tôi đưa nó lên phố huyện với gia đình. Dẫu sao, gái phố huyện còn đỡ thiệt thòi hơn là nông dân xóm trại.
- Em xin đội ơn anh, nhưng em sẽ xoay sở tìm nơi nhờ vả. Quả tình là con bé quá thiệt thòi. Ông Bắc đứng lên :
- Tôi phải quay về nếu không lỡ chuyến tàu chiều. Bỏ con bé một mình qua đêm e không ổn. Có lẽ tôi phải thu xếp bán nhà cửa vườn tược hoặc thuê người trông coi để đưa nó lên phố huyện, sớm ngày nào hay ngày ấy.
Ngần ngừ một lát, ông buông tiếng thở dài rồi nói thêm :
- Chú biết không, ối thằng con trai sớm chiều lượn quanh ngõ. Chưa đầy mười bốn mà con bé đã đẹp nõn ra.Thế nên, tôi chẳng dám để nó ở một mình.
Nói rồi, ông xoa lưng đứa em trai :
- Chú lo giữ sức khoẻ. Tôi sờ thấy cả dãy xương sườn rồi đây.
Chụp chiếc mũ lá lên đầu, ông đi.
Vũ ngồi lại, nhìn ông Bắc mất hút trong đám người tấp nập ra vào trước cửa bệnh viện. Ông không thích cảnh bịn rịn phơi bày trước mặt đám đông nên không bao giờ đưa tiễn người anh. Trong gia đình ông, thường diễn ra cảnh trái ngược này : Khi ông về phố huyện thăm ông Bắc, lúc ra đi hai anh em bìu díu hàng giờ đồng hồ chẳng dứt ra nổi. Bao giờ ông anh cũng mượn cớ tháp tùng ông em ra xe rồi kéo đi lòng vòng quanh các phố để hỏi thăm láng giềng, ghé chỗ này một lát uống chén trà, tạt qua chỗ kia một lát thưởng thức bể cá cảnh hay hòn non bộ. Rồi, đến lúc chót, ông Bắc lại đột ngột kêu lên :
- Thôi chết, tôi quên đưa cho chú gói chè....Chè ướp sen của bà Liễu trong làng Chẩm Liên đấy. Mùa sen, bao nhiêu hồ sen lớn trong vùng đều lũ lượt chở hoa đến bán. Tay sao chè của bà ấy thì chẳng ai dám bì. Dân Hà nội vẫn phải đổ về đây mua.
- Thôi chết, tôi đã nhốt mấy con cá vào túi nước mà lại để quên trong bếp. Chờ tôi đã. Cá này thuần cá sông loại thượng hạng. Chịu khó xách về nhốt vào ang, rồi bảo cô Vân nấu cháo hay hấp rượu gừng cho mà ăn.
- Thôi chết, mớ tôm biển tôi đã nướng kĩ lại bỏ quên trong trạn. Chờ tôi lấy đã. Mang về Hà nội mà uống bia.
Lần nào, ông anh cũng tìm ra đủ thứ quên lãng như thế, và cuộc tiễn đưa cứ dùng dắng kéo dài. Ngược lại, ông Bắc lên Hà nội chơi, lúc ra về thường một mình chạy cun cút ra xe, ông em ngồi trong nhìn theo một cách âm thầm. Tính khí họ trái ngược nhau, cung cách cư xử cũng vậy.
Vũ nhắp một ngụm trà :
« Anh ta thật xứng là người : Quyền huynh thế phụ !... »
Ông thầm nghĩ, nhưng tức khắc lại tự riễu cợt mình :
« Anh ấy thế phụ nhưng chẳng có quyền huynh !... »
Và đúng là như thế. Mọi quyết định lớn trong gia đình chính ông đảm trách . Nhưng thực hành những nghĩa vụ nặng nề nhất lại chính là ông anh. Hồi nhỏ, mẹ anh thường nói với cha anh, không ra than phiền, cũng chẳng phải vui sướng, chỉ đơn thuần là một nhận xét với xiết bao tò mò, kinh ngạc : « Hai đứa con trai nhà này giống như ăn phải bùa mê hay bả tình của nhau vậy. Nhưng thằng bé lại to đầu, chuyên sai khiến thằng anh. ».
Vũ cười thầm, đưa chén trà lên uống. Đúng lúc ấy, ông thấy hai gã Trần Phú và Lê Phương đang khoác tay nhau đi qua sân. Đột nhiên, một ý tưởng vụt qua óc ông :
« Hai gã này ! Chính là hai gã này. Tại sao không ? Chắc chắn ta sẽ nhờ cậy được một trong hai kẻ đó. Linh giác mách bảo ta như vậy. »
Ông vội đặt tách trà xuống chạy ra cửa, gọi Trần Phú. Hai người cùng tức khắc quay lại :
- Ồ, đại nhân....
Lê Phương nhoẻn miệng cười :
- Đại nhân có hẹn với ai hay ra đây để tránh mặt người ?
Vũ hỏi :
- Tránh mặt người ? Anh muốn nói điều gì vậy ?
- Tránh mặt đám đồng chí của anh trong phòng bệnh. Cuộc đối diện thường xuyên với đám đồng chí đó, hẳn không làm cho anh khoẻ khoắn cả thể chất lẫn tinh thần ?
- Ồ, đúng vậy.
Vũ thú nhận. Ông quay lại bảo Trần Phú :
- Anh còn nhớ người bệnh nằm đối đầu với tôi không ? Cái tay sĩ quan từng quen biết anh khi anh phụ trách tiểu đoàn 5O7.
Trần Phú ngơ ngác nhìn ông :
- Tôi chưa kịp định thần để nhớ lại cái thời xa xôi ấy.
- Ồ, cái tay sĩ quan quân đội nhưng không dám vào viện 108 điều trị mà lại trốn sang bên này. Cái người đã gửi lời thăm và nói rằng anh là người biết chọn đúng con đường của mình trong cuộc đời.
- A ! Giờ thì tôi nhớ ra rồi. Cái gã khò khè môi thâm như mận Lạng sơn chứ gì ?
- Chính xác. Anh ta đã chết sáng nay.
- Thế a ...
Trần Phú buông tiếng kêu, chẳng ra ngạc nhiên cũng chẳng phải buồn phiền... Rồi anh ta quay sang bảo Lê Phương :
- Gã trung tá này có một cuộc đời sóng gió, đầy ham hố cũng như tì vết, và đương nhiên là vô số ân oán giang hồ....Lúc nào rảnh tao sẽ kể cho mày nghe. Được cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đấy...
Quay sang Vũ, anh ta hỏi :
- Khi anh ta chết, nhân viên bệnh viện đưa xuống nhà xác. Còn người thân chẳng một ai vào, điều đó có đúng không ?
- Sao anh biết ?
- Vì tôi vốn có thói xấu tò mò....Tôi đã quên anh ta từ lâu, nhưng khi anh nhắc lại, tôi muốn hiểu xem những gì đã diễn ra giữa đám người cùng thời với mình. Và tôi mở cuộc điều tra tức khắc.
- Đúng, anh ta chết khoảng ba bốn giờ sáng nay. Từ khi anh ta nhập viện , chẳng thấy một ai bước vào. Cái tủ đầu giường của anh ta chưa từng có một quả cam hay một gói bánh người khác đem tới. Bác sĩ bảo anh ta nhập viện đã gần ba tháng.
- Đó là chung cục của một cuộc đời. Nhưng thôi, chúng ta chuyển đề tài, vì thứ người như vậy chẳng đáng quan tâm vào một buổi sáng đẹp như sớm nay.
Vũ cất tiếng cười :
- Anh có lý....Vì chính tôi, tôi cũng đang có chuyện đau đầu và đang muốn nhờ cậy hai anh.
- A...ha ....ha....
Cả hai gã ngoác miệng cười. Tiếng cười của họ ròn rã lan đầy không trung khiến cho đám người đang ngồi xung quanh tò mò đưa mắt liếc sang. Lê Phương bảo :
- Một bậc đại nhân quyền cao chức trọng mà lại nói những lời khiêm nhường như vậy trước mặt hai kẻ lêu lổng, chơi bời ?....Đại nhân định đùa bọn em hay định nói thật đấy ?...
- Suốt đời tôi, tôi chưa đùa rỡn ai...
Vũ đáp. Và vẻ nghiêm trang của ông khiến hai gã ngậm miệng lại. Họ bắt đầu chăm chú nghe ông nói.
- Các anh biết rằng tôi lãnh nhận việc nuôi hai đứa con của một bậc ...huynh trưởng....
- Chúng em đều biết chuyện ấy. Xin đại ca nói tiếp...
- Đứa con trai sống cùng với gia đình tôi. Nhưng đứa con gái phải về quê sống với anh trai của tôi, một làng hẻo lánh không phải ở tỉnh Bắc mà tận chót tỉnh Thái Nguyên. Nói thật tình, một đời sống hoàn toàn thôn dã....Nay cháu đã mười ba tuổi, tôi tính đem cháu về Hà-nội, nhưng chưa biết nhờ cậy ai.
Lê Phương gỡ cặp kính dày như trôn chén của anh ta xuống, đưa mắt liếc quanh rồi hạ giọng :
- Đấy chính là đứa con gái đầu lòng của ....bậc trưởng thượng ?
Dẫu là nhà văn, anh ta cũng phải lúng túng một hồi trước khi tìm cho được danh từ chính xác, vừa có thể gọi tên người cha bí ẩn kia một cách rõ ràng, vừa không để cho những lỗ tai bên ngoài đoán định được :
- Đấy chính là những trái cây trong mùa hoa cuối cùng của cuộc đời bậc cao nhân !
Sau rốt, anh ta tìm lại cách diễn đạt hết sức văn chương.
Vũ gật đầu :
- Chính xác như vậy. Hai đứa trẻ đó cách nhau có hai mươi tháng thôi.
- Tôi hiểu. Thời gian đó là cuộc truy lĩnh những ham muốn bị tước đoạt, những dục vọng bị cấm đoán hay ghìm nén suốt cuộc kháng chiến trường kì. Sau ngày giải phóng thủ đô là thời điểm giải phóng những thân xác bị giam cầm. Nhưng cuộc giải phóng nào cũng kèm theo những điều kiện khắc nghiệt. Cuộc giải phóng của dân tộc chúng ta mở ra ngay sau lưng nó những nhà ngục khổng lồ.
- Những nhà ngục khổng lồ ? Ý anh muốn nói gì ?
- Xin lỗi đại ca, những lời lẽ của tôi có thể làm anh phẫn nộ hay phật ý. Nhưng không thể tìm được danh từ nào chính xác hơn. Sau ngày giải phóng thủ đô, toàn thể những người Việt nam buộc phải sống bằng các xuất gạo hẩm của nhà nước và những ô tem phiếu. Điều kiện kèm theo các thứ tem phiếu đó là sổ hộ khẩu, biện pháp kiểm soát con người còn chặt chẽ hơn chính sách « Tam gia » của Thương Ưởng thời xưa. Một xã hội mà con người bị khống chế từ miếng ăn đến sự đi đứng, bị kiểm soát như những con cừu đánh số trong chuồng cừu, xã hội đó chẳng gọi là nhà ngục khổng lồ thì còn biết gọi bằng danh từ nào chính xác hơn ?
- Vâng. Quả thực là ...
Vũ đáp, nhưng lòng ông quặn đau. Rồi sau một khoảnh khắc, ông cố gắng tự trấn tĩnh và nói :
- Vâng. Quả thực là chúng tôi không ngờ được cơ sự diễn ra theo nông nỗi ấy. Khi dấn thân vào con đường cách mạng, ai nấy đều nghĩ đến tương lai dân tộc, ai nấy đều mơ đến một ngày mai tươi sáng cho đất nước. Phan chu Trinh cũng mơ ước một ngày mai tươi sáng cho đất nước. Nguyễn thái Học cũng mơ ước một tương lai rực rỡ cho dân tộc và niềm tin ấy theo ông cho đến tận đoạn đầu đài. Năm 1946, bao nhiêu chàng trai cảm tử chống lại quân Pháp bằng bom ba càng, bằng cây súng cổ lỗ mút-cơ-tông và cả bằng dao găm, kiếm ngắn nữa. Nhưng nếu những người trai này không chết bởi thực dân Pháp, ắt sau ngày chiến thắng họ cũng sẽ bị các anh kết án và tống giam, hoặc bởi liên quan với quốc dân đảng, hoặc bởi có gốc tích địa chủ hay tư sản. Tất thảy những ý tưởng tốt đẹp không thể biện minh cho một chung cuộc đểu cáng, ô nhục như vậy. Xin lỗi đại ca, nếu sự thẳng thắn của tôi khiến anh phải đau lòng. Nhưng ít ra, một lần trong đời, chúng ta cũng nên đối đầu với sự thật.
Lê Phương ngừng lời, anh ta quay lại quầy căng-tin cao giọng gọi :
- Cho ba vại bia lớn nhé. Một đĩa lạc luộc và một đĩa bánh rán nhân thịt kèm theo.
Trần Phú bật cười hô hố :
- Chiều nay bão cấp bảy sẽ đổ bộ vào đất liền. Bởi cái thằng kiệt sỉ lõ đít này chưa bao giờ đãi ai dù một tách cà-phê.
Lê Phương quay sang bảo bạn :
- Không kiệt sỉ không phải là tao, mà không mất tiền cho gái sẽ không phải là mày. Nhưng thực ra mày cũng chỉ để gái moi túi áo bên trái còn túi bên phải mày vẫn giấu kĩ cho vợ con đấy chứ ?
- Chính xác như vậy.Tao không bác bỏ sự thật. Tao là thằng dại gái có chừng mực. Bộ máy kiểm toán trong đầu tao tuy nhỏ nhưng hoạt động liên tục và có hiệu lực.
Hai người lại cất tiếng cười. Vẻ sung sướng của họ khiến ông sững sờ. Dường như họ sống trong một cõi đời khác. Vừa lúc đó, cô bán căng-tin bưng ra một mâm đầy nào bia nào đồ nhắm bình dân. Nhà văn đưa mắt lúng liếng nhìn bạn rồi nói :
- Hôm nay cái thằng đệ nhất kiệt sỉ là tôi khao bia mọi người để chúc mừng thắng lợi của anh chàng chim gái Trần Phú. Báo tin cho đại ca mừng là bạn tôi vừa tìm được một cô nàng ngon mắt, ngon cả miệng. Theo phương thuốc cổ truyền của dân tộc, ắt nàng sẽ chữa được căn bệnh u tiền liệt tuyến cho cậu ta trong thời gian ngắn nhất.
- Thôi, không phải khua chiêng gõ trống. Để rồi xem. Làm trước nói sau, các cụ đã dạy như thế.
Trần Phú ngắt lời bạn. Đoạn, anh ta quay sang hỏi Vũ :
- Giờ, xin đại ca uống bia rồi trở lại câu chuyện chính. Nếu tôi không nhầm anh muốn tìm nơi gửi cháu gái, năm nay tuổi mười ba ?
- Vâng.
- Nó sống ở nông thôn từ thuở nhỏ ?
- Vâng, nói một cách chính xác, từ năm cháu lên hai. Năm nay nó đã xấp xỉ mười bốn tuổi. Nếu không đưa cháu kịp thời trở lại Hà nội, chắc chắn nó sẽ trở thành một nông phu. Và sống trọn kiếp sống của người làm vườn, cấy lúa...
Trần Phú gật đầu :
- Tôi hiểu. Đời người đàn bà ngắn lắm. Trước hết là đàn bà xứ quê.
Vũ nói tiếp :
- Tôi biết là việc này vô cùng khó khăn. Ngay cả những người quen thân hàng mấy chục năm nay tôi cũng không dám nghĩ đến. Thành thực mà nói, chính tôi cũng không hiểu vì sao tôi lại nảy ra ý định nhờ cậy hai anh ? Hoàn toàn là sự chỉ định của linh giác...
Trần Phú ngoác mồm cười :
- Linh giác vẫn luôn luôn là người chỉ đường khôn ngoan nhất. Anh nhờ cậy chúng tôi là đúng. Vì chúng tôi đang ngồi bệt dưới cỏ....Chỉ có những kẻ đít lấm bùn mới dám dây vào những chuyện như thế này.
Vũ ngơ ngác, ông chưa kịp hiểu anh ta định nói gì. Có lẽ nhìn thấy vẻ ngơ ngác của ông nên nhà văn đặt vại bia xuống để giải thích thay cho bạn :
- Có hai thứ người đít lấm bùn. Thứ người đít lấm bùn theo nghĩa đen tức là nông dân hoặc đám thị dân cùng khổ, những người ấy khó có thể giúp anh cho dù lòng họ mong muốn. Bởi họ thiếu khả năng, trí tuệ cũng như tài chính. Thiếu trí tuệ dẫn đến sự sợ hãi kẻ cầm quyền. Thiếu tiền bạc, họ chẳng thể bao dung ai khi ngay những người thân của họ còn đang đói khổ. Thứ người đít lấm bùn theo nghĩa bóng là những kẻ tự nguyện sống ngoài vòng quay quyền lực. Họ chọn cách sống như thế vì họ đủ khả năng nhìn ra sự thấp kém của kẻ cầm quyền. Thêm nữa, họ cũng tự trang bị một phương tiện tài chính tối thiểu đủ để duy trì cuộc sinh tồn và có đôi chút dư ra để có thể bao bọc kẻ khác khi cần thiết. Như thế, họ tương đối tự do.
- Vâng. Giờ thì tôi hiểu. Tuy nhiên...
- Tuy nhiên, anh vẫn ngại ngùng vì chắc chắn đây là chuyện tầy trời đối với những ai đang sống trong thế giới của anh ?....Chúng tôi hiểu rất rõ điều đó. Khi sống trong thế giới của quyền lực, sự xếp hạng theo vị trí quyền lực khống chế tất cả. Càng có quyền, người ta càng ham hố và càng phụ thuộc vào nó...Còn chúng tôi, chúng tôi là những kẻ gần như đứng bên rìa guồng máy....Tuy anh bạn tôi là giám đốc một nhà xuất bản nhưng chức đó chẳng qua là miếng bánh mì khô so với những chức vị thật sự béo bở...Miếng bánh khô chẳng quết bơ cũng không phết mứt người ta chỉ gặm lúc quá đói ....Không ai mong muốn phải xài thứ đó suốt đời.....Nhất là khi tuổi đã xế chiều và cần bảo vệ hai hàm răng....
Ngừng lại, Lê Phương quay sang hỏi bạn :
- Tôi nói thế đúng hay sai, đồng chí giám đốc ?...
- Đúng trăm phần trăm.
Hai người lại phá lên cười. Lát sau, mặt họ đỏ lên vì cơn cười sặc sụa.
« Họ có một vẻ sung sướng lạ lùng....Một thứ đùa bỡn, cợt nhả thường trực khiến ta đâm ngờ vực. Chẳng hiểu khi nào họ nói thực và lúc nào họ nói bỡn ? »
Vũ thầm nghĩ. Không dám bày tỏ nỗi băn khoăn của mình một cách thẳng thắn nhưng cũng không dám tin vào những điều hai gã đàn ông phong tình lẻo miệng này vừa nói. Sau một hồi lặng lẽ uống bia, ông cất tiếng hỏi :
- Liệu các anh có thể chịu được sự đe doạ hay quấy rầy của bộ máy này không ?
Trần Phú đặt vại bia xuống bàn, mặt trở lại nghiêm trang :
- Miệng tôi cười đùa nhưng óc tôi đã tính đủ nước cờ cho việc anh nhờ cậy. Tôi biết anh là người có bản tính cả lo. Thêm nữa, suốt đời anh chỉ quen với ngôn ngữ chính thống, thứ ngôn ngữ nghiêm cẩn của các chính khách và các nhà quản trị hành chính. Gặp lũ lông bông như bọn tôi đây, anh có đôi phần hoảng hốt cũng là điều dễ hiểu. Thế nên, tôi sẽ lý giải mọi sự một cách cặn kẽ cho anh yên lòng.
Lần đầu tiên từ khi gặp lại Trần Phú, ông thấy anh ta có một vẻ mặt nghiêm trang. Có lẽ anh ta muốn làm dịu cơn phấp phỏng trong ông hơn là để chứng tỏ khả năng giữ tư thế long trọng của kẻ có chức quyền, cho dù thứ quyền hạng bét :
- Tôi có cô em gái lấy chồng bác sĩ, chính là đứa vẫn làm bánh Ma-đơ-len, bánh ga-tô và nấu các món ăn đem vào đây nuôi tôi. Vợ chồng nó vô sinh, đã từ lâu muốn kiếm con nuôi nhưng mọi người, mà trước hết là tôi ngăn cản. Nuôi con nuôi là một cuộc phiêu lưu nguy hiểm, bởi đa phần những đứa bé bị cho hoặc bán đi đều có một lịch sử bất thường, chứa đầy những yếu tố bất lợi cho sự phát triển tâm sinh lý. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng cáng đáng một đứa bé bị bỏ rơi là việc phúc đức. Việc này có thể làm với một người bình thường huống chi đối với giọt máu của một bậc cao nhân ? Anh yên tâm đi. Tôi chưa hỏi ý kiến em tôi nhưng chắc chắn không có gì trở ngại. Chúng tôi sẽ tuyên bố rằng chúng tôi tìm được một đứa con nuôi. Và rằng chính anh đem cho chúng tôi, ở ngay đây, trong bệnh viện này. Sự thật ra sao, ta sẽ nói đúng như vậy. Anh, với danh nghĩa là người đã quen biết tôi hồi ở trên chiến khu Việt bắc. Sự hiểu biết của chúng tôi chỉ cần hạn định ở mức đó, không hơn một ly. Một đứa con gái mười ba tuổi không có tiền án tiền sự, chưa từng lừa lọc, giết hại ai, nếu muốn gây sự cũng khó tìm ra duyên cớ...
- Cảm ơn anh....
Vũ đáp, không khỏi hồi hộp và cảm động. Tuy nhiên, ông vẫn chưa đủ tin vào những gì đã diễn ra trong cuộc đối thoại ngắn ngủi vừa rồi . Có thể điều đó quá đẹp để là một sự thật....Uống liên tục vài ngụm bia, ông hắng giọng rồi gặng hỏi :
- Nhưng chúng ta giả sử rằng....Rằng họ có thể nói toạc ra sự thật...
- Họ không thể...Và nếu ai dám nói thế tôi sẽ tuyên bố rằng họ là kẻ phản động, vu cáo bôi nhọ lãnh tụ tối cao....Từ bao năm nay, đảng và nhà nước đều tuyên truyền giáo dục dân chúng rằng lãnh tụ của chúng ta là vị cha già dân tộc, người suốt đời tranh đấu vì độc lập và tương lai của đất nước nên chưa bao giờ có hạnh phúc riêng tư....Tôi sẽ nói đúng trăm phần trăm tất cả những bài thuyết giáo của ban tuyên huấn trung ương đảng....Tôi sẽ nhắc lại nguyên si những điều mà họ yêu cầu tôi in ấn từ bao nhiêu năm nay...Tôi sẽ đổ vào mặt họ chính xác những gì họ đã nôn ra một cách có hệ thống...
- Tuyệt vời...
Nhà văn cất tiếng bình luận :
- Không có phương sách nào hữu hiệu hơn là nhặt viên đá trước cửa nhà ông Tư râu ném vào vườn ổi nhà ông Tư râu; là lấy gậy của ông chánh tổng đập vào đầu ông chánh tổng....Tương kế thì tựu kế...Đòn phản công kiểu này cũng đã có từ hàng ngàn năm nay...Vào thời hiện đại, người ta diễn đạt một cách tối tân hơn là : Luật phản hồi của chiếc boomerang....Nào, chúng ta cạn cốc để chúc mừng cho cuộc gặp gỡ hôm nay...
Họ cạn cốc....Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không buông tha Vũ. Sau một hồi đắn đo, ông lại cất tiếng :
- Tôi không dám phiền anh nhiều đến thế. Thực sự, tôi cảm thấy không yên lòng....Nếu anh ưng thuận, tháng tháng tôi sẽ cho thư kí mang tiền và thực phẩm tới góp phần với gia đình...
- May mắn thay chúng tôi chưa cần đến tiêu chuẩn thực phẩm của các anh...Nói cho cùng, thứ tem phiếu đó chẳng đủ nuôi một con mèo, theo cái cách người ta vẫn nuôi mèo ở đất Hà thành này từ bao nhiêu năm trước...
Trần Phú đáp. Chừng như đoán được rằng ngần ấy lời lẽ vẫn chưa đủ khiến cho ông hết băn khoăn, anh ta đưa mắt nhìn quanh. Khi thấy căn phòng vắng teo, chỉ còn họ là những người khách cuối cùng, anh ta hạ giọng giảng giải :
- Chúng tôi tuy không thực giầu có nhưng là dân Hà nội cũ, phải biết dắt lưng ít tiền. Chúng tôi không thể tin tưởng vào sự đưa đường chỉ lối của những kẻ chiều hôm trước còn ngồi vỉa hè, dốc ống bơ ra đếm mớ xu lẻ thiên hạ bố thí, sáng hôm sau đã nhẩy lên ghế bộ trưởng bộ tài chính nhờ ân sủng của cách mạng ...Không, chúng tôi chẳng đến nỗi ngu ngốc như vậy. Tiền của chúng tôi không thể gửi vào ngân hàng nhà nước, cũng chẳng thể khai báo với các quan chức vốn dĩ là bọn ăn mày...Chúng tôi phải tìm cách đổi ra thứ gì đấy....khả dĩ có thể chôn xuống gốc sấu hay gốc cam....Đơn giản thế thôi...Giờ, anh đã yên lòng hay chưa ?...
- Vâng.
Vũ đáp, và mặt ông lại nóng rát như vừa bị tát. Lần đầu ông nghe những lời lẽ như thế. Rủi ro thay, nó lại là sự thật. Vậy thì trên cõi đất này còn có biết bao nhiêu sự thật bị bóp họng hoặc bị chôn vùi ?...
Vừa lúc ấy, tiếng kẻng cất lên , vang rền không trung. Nhìn ra sân, đã thấy gã trai ngớ ngẩn, to như hộ pháp đang ra sức nện búa vào thanh tà-vẹt. Cả ba người chẳng ai bảo ai đều đứng lên :
Vũ nói :
- Đã đến giờ ăn cơm trưa. Chào hai anh, tôi phải về phòng.....Cảm ơn về tất cả những gì các anh đã nói....
- Ồ, đại ca....Chớ nên khách sáo. Mọi thứ đều ở trong tầm tay. Giờ tôi phải tiễn anh bạn ra phố...Chúc đại ca ngon miệng. Anh cứ chuẩn bị đồ cho cháu, được đến đâu hay đến đấy, không cần thiết cầu toàn. Phần còn lại em gái tôi sẽ lo...Tuần sau là chúng tôi có thể đón cháu được rồi...
Trần Phú đáp rồi hai gã khoác tay nhau ra cửa viện. Ông quay lại khu nhà điều trị, đi trên sân bê-tông mà bập bỗng như bước trên mây....
― Quá đẹp để có thể tin là sự thực.!..
― Ai từng nói câu này nhỉ ?...
Ông vừa đi vừa ngẫm nghĩ, lòng chưa hết xốn xang. Hết cầu thang, cô y tá trực phòng đã tiến lại trước mặt ông, miệng cười tươi tắn :
- Mời bác về xơi cơm cho nóng. Cháu đặt ở trên mặt tủ rồi.
- Cảm ơn cô nhiều. Tôi về ngay đây.
Cô gái thoăn thoắt bước đi nhưng chợt nhớ ra điều gì đó nên vội vàng quay lại :
- Bác có thư nữa ạ....Cháu đã bỏ vào ngăn kéo tủ vì sợ gió thổi bay hoặc ai đó tò mò giở ra xem...
- Ô...Cảm ơn cô. Có tí tuổi mà đã cẩn thận thế ?...
- Bác quá khen. Cháu chưa bao giờ được coi là người cẩn thận ....Hồi cháu ở nhà mẹ cháu vẫn đặt tên là ― con quạ mổ, ruột để ngoài da....Nhưng ở xã, thư của cháu thường bị bóc trộm nên ...
- Nên cô có kinh nghiệm về sự tò mò và thói bóc trộm thư của người khác ...Đó là điều các cụ vẫn gọi ― đứt tay mới hay dao sắc ....Đúng không ?...
- Thưa bác, đúng thế ạ...
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 39: ƯỚC NGUYỆN (3)
Cô cất tiếng đáp hồn nhiên và lại cười, nụ cười khiến gương mặt cô ngời sáng. Họ chào nhau, cô gái xuống cầu thang và Vũ trở lại phòng. Ông rảo bước, không khỏi tò mò vì chưa đoán được ai gửi thư cho ông :
― Ai có thể gửi thư cho ta vào lúc này ?...Sáu chăng ?...Y thường gửi những dòng chữ ghi nguyệch ngoạc trên trang giấy xé ra từ cuốn sổ, không bao giờ có phong bì để kẻ cầm thư dù là lái xe hay cần vụ đều có thể đọc được một cách tự do, một thứ thân ái xuồng xã được bộc lộ đầy dụng ý, làm như giữa hai người có một tình bạn thâm căn cố đế hay rất nhiều đồng loã, đồng tình...Nhưng thường y chỉ gửi những bức thư kiểu đó khi cần có một cuộc gặp gỡ đột xuất. Lúc này, ta đang nằm viện, điều đó là bất khả. Còn để thăm hỏi, ngay hôm ta vào viện y đã cử người mang quà bánh vào rồi, một sự chỉn chu theo nghi thức. Chắc chắn không thể là y, vậy thì ai ?... ..Ai có thể là tác giả bức thư này, bức thư đầu tiên kể từ ngày ta được đưa vào viện ?...
Vân chăng ?...Hẳn là cô ấy muốn đề nghị ta tha lỗi hoặc dàn xếp lần chót cuộc thoả hiệp ?...Trở lại mái nhà xưa, trong tâm hồn rách nát và một mối tình chẳng còn tình mà chỉ còn lại cặn bã ?... Trở lại mái nhà xưa để tiếp tục ăn những bữa cơm lặng lẽ, một người nhìn ra sân còn người kia nhìn vào trong bếp. Sự liên kết bởi thói quen ẩm thực và bởi thiếu phương tiện bếp núc tự do ?...Trở lại mái nhà xưa vì biệt thự đó là tiêu chuẩn của quan chức cách mạng và người đẹp Tố Vân vẫn cần đến danh nghĩa của ông chồng như cần đến một tiện nghi quen thuộc ?...Hoặc vì nàng còn một đứa em trai tồi bại và một đứa con trai vô dụng mà nếu không có ta chắc chúng chẳng thể tìm được chốn dung thân ?...
Trong phòng, tiếng thìa bát lanh canh đã vang lên. Những người bệnh ngồi ăn ngay trên giường, người nhà của họ trải đụp các tấm nhật báo lên chăn để hứng thức ăn rơi vãi. Xuất cơm của Vũ đặt trên mặt chiếc tủ nhỏ, nhưng vì vừa uống bia và ăn bánh rán nên ông còn ngang dạ. Mở ngăn kéo tủ, ông lấy lên chiếc phong bì tự dán bằng giấy kẻ sọc ngang của học trò :
― Thư của thằng bé....Vậy là nó đã biết viết thư....Bức thư đầu tiên nó viết trong đời ...
Ông giữ nguyên chiếc phong bì trên tay, bồi hồi nhớ lại đứa bé trai lẫm chẫm bước trong phòng, giọng bập bẹ khi nó tập nói, bàn tay ngọng nghịu khi lần đầu nó giằng thìa trong tay người lớn để tự xúc cơm ăn.... Những hình ảnh ấy còn tươi mới như hôm qua, vậy mà giờ đây nó đã biết viết thư cho ông, đàng hoàng như một kẻ trưởng thành.
Con trai : Trần Trung.
Kính gửi cha : Trần Vũ.
Ông nhìn lần cuối tấm phong bì dán bằng cơm nguội dầy cóc cách rồi xé ra, lấy thư đọc :
« Cha yêu quý,
Con viết thư này gửi cha, biết cha đang nằm trong viện mà chẳng có cách nào rời khỏi nơi đây để về. Từ trường sơ tán xuống huyện hơn bốn mươi cây số nhưng không có xe ca, chỉ có xe ngựa. Mỗi chuyến xe ngựa chở tám khách nên vé những năm ngàn đồng, vậy mà con để dành hai năm nay mới được ba ngàn rưỡi. Con có thể đi bộ xuống phố nhưng nếu vậy chẳng đủ thời gian quay lên và nhà trường sẽ kỉ luật. Không an ủi được cha lúc cha đang đau ốm như vầy, con thật là có lỗi. Xin cha tha thứ cho con. Con chỉ biết lậy trời cho cha mau lành bệnh trở về công tác như thường. Ở đây, chúng con vẫn học tốt. Thỉnh thoảng Vinh có nghỉ học vì đau bụng, nhưng con vẫn chép bài cho anh. Tuần trước, mẹ Vân lên đây thăm chúng con, có vẻ rất lạ lùng. Con chẳng hiểu chuyện gì xảy ra dưới Hà nội nhưng mẹ Vân nhìn con chằm chằm rồi bỗng nhiên nói : Chỉ vì anh mà gia đình chúng tôi tan nát...
Cha yêu quý, con rất khổ tâm nếu con thật sự là nguyên cớ gây nên sự đổ vỡ trong gia đình. Con chỉ cần biết con là con đẻ của chính cha, điều đó đã là hạnh phúc. Đối với con, như thế đủ rồi. Chị Nghĩa cũng vậy. Chị ấy viết thư cho con, bảo rằng xin cha một tấm ảnh của mẹ, rồi giấu vào trong hòm đừng để mẹ Vân nhìn thấy. Khi nào ra viện, cha hãy cố gắng tìm cho chúng con cha nhé. Con sẽ làm đúng như lời chị Nghĩa. Con không muốn làm khổ mẹ Vân cũng như làm thiệt phần của anh Vinh. Cha có thể cho con về sống dưới thôn cùng với bác cả. Hết hè này, con chuyển về học ở tỉnh cũng không sao. Miễn là gia đình ta được êm ấm, mẹ Vân và anh Vinh được hài lòng. Con tin rằng chị Nghĩa sẽ rất vui vì có con, như thế ở nhà quê bác cả sẽ đỡ buồn. Như thế, cha cũng sẽ được nhẹ gánh và mọi người đều vui vẻ.
Con cũng nói với cha rằng mẹ Vân lên đây với một chú to lớn, đeo kính đen. Chú ấy chưa từng đến nhà ta bao giờ và có vẻ cư xử rất kì lạ. Thừa lúc mẹ Vân đang đứng với anh Vinh chú ấy kéo tai con lên bảo ― Tao xem tai thằng này mềm hay cứng , rồi cầm tai mà xách bổng con lên. Con đau quá nước mắt chảy ràn rụa. Con suýt hét lên mà phải cố nghiến răng lại vì sợ mẹ mắng. Người đàn ông này khiến con vô cùng sợ hãi. Con chẳng hiểu vì sao ông ta lại độc ác với con như vậy....Cha yêu quý, cha hãy cho con về quê, rồi thi thoảng cha về thăm hai chúng con. Như thế, mọi việc sẽ ổn thoả hơn.
Con vẫn luôn cố gắng học hành để cha khỏi lo buồn. Con cầu chúc cha mau lành bệnh để cha con ta mau đến ngày gặp mặt.
Con trai của cha hôn cha : Trần Trung.
Vũ vội vã tựa lưng vào tường vì choáng váng :
« Ôi đứa con trai của ta....Tội nghiệp cho nó. Một đứa con hiếu nghĩa mà chẳng được làm con. Một đứa bé sinh ra đã đầy lòng nhân ái mà phải sống giữa thế giới của những kẻ bất nhân, bất nghĩa ..
Ôi, tội nghiệp cho chính ta, kẻ nhân danh làm cha mà không bảo vệ được đứa con sống dưới vòng tay bảo trợ của mình....
...Cũng tội nghiệp cho chính ta vì ta chẳng còn cơ hội để sinh ra một đứa trẻ có thiện tâm như vậy....Cuộc tình với người đẹp chỉ tạo nên một thứ sản phẩm không những vô đức vô năng mà còn đầy tì vết, dòng máu khốn khổ của ta đi lạc vào một thân xác tối tăm và một tâm hồn còn tối tăm hơn nữa. Đấy thật sự là một cuộc thất bại toàn phần ...
Người đàn bà của ta ! Người đẹp Tố Vân. !.....
Tại sao cô ta có thể hành động độc ác như vậy ?..Người đàn bà ta đã ấp ủ hơn ba mươi năm trời....Một quãng thời gian dằng dặc với biết bao kỉ niệm....Nếu không còn tình ít ra cũng còn lại những níu kéo cuối cùng của nghĩa lý và đạo đức. Một thứ liên đới vô hình buộc con người phải dừng lại trước những giới hạn. Nhưng người đàn bà này không còn biết đến giới hạn. Thật kì lạ là cho đến tận giờ ta mới hiểu con người đã đầu gối tay ấp bấy lâu...Cuộc đời quả là một sân khấu trường kì mà đến lúc hạ màn người ta mới biết được trắng đen, bởi sự thật được dấu kĩ phía sau những mánh khoé của tích tuồng nhằm lừa bịp hoặc đánh đố khán giả. ...Cuộc đời cũng giống như trò phù thuỷ trong đó những loài cóc nhái có thể nhờ phù phép mà biến thành các mỹ nhân hoặc quả bí có thể biến thành cỗ xe ngựa thếp vàng....Ôi, chẳng phải ngẫu nhiên mà từ ngàn xưa thiên hạ đã đọc đi đọc lại chuyện Liêu trai, bởi chẳng thiếu gì kẻ sống mê man trong vòng ân ái cho đến lúc giật mình thức tỉnh thì hoá ra đã chìm đắm bao nhiêu năm trong lạc thú với bộ xương người ...
Vợ ta !...Tố Vân....Cô ấy đã biến thành kẻ thù tự bao giờ vậy ?...Gã đeo kính đen kia chẳng phải là ai khác mà chính là tay chân của Sáu. Chúng giở trò hành hạ thằng bé, đó là dấu hiệu chúng sắp triệu tập ta để đưa ra một yêu cầu nào đó, với người cha đích thực kia. Điều kiện sinh tồn của kẻ này trở thành cây gậy chỉ huy với người khác...Ngón đòn này chẳng có gì mới nhưng điều đáng kinh ngạc là chính cô ta chấp nhận hiệp đồng. Chính cô ta dẫn kẻ thù nghịch đi làm điều đê tiện ấy ?... Tại sao , chính cô ta ?...... »
Những đợt sóng đen đột ngột hiện lên trước mắt ông. Khi ông vừa nhìn thấy chúng thì chúng đã vươn lên như những chiếc vòi bạch tuộc khổng lồ. Và rồi chúng tiếp tục dâng cao, cao hơn cả những mái nhà và khi dội xuống, chúng khiến ông có cảm tưởng như tấm thân ông tan nát thành bọt sóng. Tiếng gầm gừ của thuỷ triều dữ tợn và bí ẩn làm sao, dường như chẳng còn là tiếng biển động mà là tiếng gầm rú của những đàn thú khổng lồ thời hồng hoang. Đột nhiên, ngọn thuỷ triều biến mất và thay vào đấy là những đàn khủng long đang chạy rầm rập trên một thảo nguyên mênh mông. Đuổi theo chúng là những lưỡi lửa khổng lồ tràn lên nhau, chồng gối lên nhau như một đại dương đỏ rực tràn ngập đến chân trời. Gió dồn thổi tới đâu, mọi loài thảo mộc đều biến thành lò lửa rừng rực tới đấy. Những cơn bão lửa quây bọc, vây bắt, tàn sát bầy thú. Ông cảm thấy ngọn lửa ấy thiêu đốt chính ông và khiến mắt ông toé lên những đốm lửa than.
« Tại sao ta lại hoá thân thành một con thú thời hồng hoang ?...Thực hay mơ mà kì cục như vậy ?... »
Ông nghe rõ tiếng lửa bị gió táp phần phật quanh mình. Rồi lửa táp vào mặt ông, khiến ông muốn hét lên :
« Nước....Cho tôi nước....Gọi xe cứu hoả .... »
Nhưng hình như ông không thể há miệng ra nổi. Hình như ông ngã xuống, dưới bàn chân khổng lồ của khổng long khác và nhìn thấy trước ông sẽ biến thành một đống thịt xương vụn nát dưới bàn chân ấy....
Rồi ông nghe mơ hồ tiếng gọi vẳng đến từ đâu đó :
- Bác sĩ....Gọi bác sĩ...
- Cấp cứu đâu ?.....Đem bình ô-xy đến đây...
Một ý nghĩ mơ hồ thoáng qua óc ông :
« Ô, họ lại đem bình ô-xy đến cho anh chàng sĩ quan thở khò khè, môi thâm như mận Lạng sơn ....Ồ, anh này chết rồi mà còn ngốn khá nhiều bình ô-xy của viện... »
Bất thình lình, ông nghe tiếng cá quẫy bên tai. Ông chợt nhớ đó là tiếng cá quẫy trong cái ang mẹ ông thường nhốt cá ở đầu hồi, những con cá chen thách nhau tanh tách suốt ngày đêm. Bên trên ang cá ấy là mái ngói chạy dài với đường máng. Còn bên trên mái ngói là bầu trời, một thinh không cao ngất tràn ngập ánh dương, một màu xanh lơ vô chung vô thuỷ....
* * *
Quân y viện 306 nằm ở bìa rừng, không quá xa dòng suối, điều kiện tối cần thiết để duy trì một bệnh viện đa chức năng. Toàn bộ các khu nhà quây tụ trên cao, dưới bóng những tán cây um tùm, dày đặc đến nỗi những ngày hè chói chang nhất ánh sáng cũng không lọt qua được. Trong bóng râm miên viễn đó, lủng lẳng các chùm phong lan núi lẫn các cây tổ quạ, loài cây kí sinh có sức nảy nở lạ thường. Phía sau viện, là một hang đá lớn mà những lúc bị bom dội cấp tập, có thể chuyển ba mươi thương binh nặng vào trong. Nhà bếp, phòng ăn tập thể, và kho thuốc men lẫn y cụ đều dồn vào một khóm ngay sát cửa hang, nơi người ta có thể thường xuyên hứng nước khe để nấu ăn và lau rửa các y cụ bởi nước suối chỉ có thể dùng giặt giũ đại trà những thứ quần áo và đồ bẩn. Điều bất tiện là nước khe không đủ dùng. Mà nếu tắm gội bằng nước suối thì sớm hay muộn tóc cũng rụng. Đối với đám đàn bà con gái, có một cái đầu trọc lốc cũng đau khổ ngang ngửa như bị bom tiện cụt chân tay. Thế nên ở nơi đây, vệ sinh thân thể trở thành khổ nạn. Các cô đành phải chờ đến lúc lặn mặt trời mới dám xách nước khe về lán gội đầu. Còn tắm, phải chờ những đợt mưa nhiều, nước khe chảy liên miên không cạn. Nếu không, hoặc là xách nước suối lên đánh phèn cho lắng, hoặc là lau người theo kiểu dân vùng sa mạc. Sau một ngày làm việc căng thẳng, tối đến lại hì hục xách nước từ dưới suối lên cửa hang, mò từng bước trên con đường dốc ngược lởm chởm đá. Thêm nữa, đeo năm sáu ống lồ-ô nước trên lưng leo dốc là cách thức của người vùng núi cao. Đối với những cô gái đồng bằng, việc đó cũng giống như một thứ lao động của tù khổ sai, phải nghiến răng lại mà chấp nhận.
Đầu xuân năm 1969, y viện đầy ắp thương binh. Hai người phải nằm đổi đầu đuôi trên một chiếc giường hẹp như cáng tải thương, đặt ngay trên những bệ gỗ cao hơn gang tay chút xíu. Số thương binh chờ phẫu thuật nhiều gấp ba con số bình thường khiến từ bác sĩ đến các nhân viên phải chia ca đổi nhau làm việc quần quật không nghỉ. Đèn phòng phẫu sáng suốt ngày đêm. Tiếng kêu gào, tiếng rên rỉ, tiếng cãi cọ cấm cảu và cả tiếng hát của đám thương bệnh binh đông đúc khiến y viện có một vẻ náo loạn mà trước đó nó chưa từng biết đến. Mười hai cô gái của y viện không còn thời giờ xách nước tắm, đành phải quấn ngược tóc lên cao mà nhảy ùm xuống suối, người nọ bảo người kia :
« Thây kệ, tắm cái đã, rồi muốn ra sao thì ra.... »
Thời gian căng thẳng kéo dài hơn một tháng, sau đó số thương binh nhẹ được chuyển sang điều trị tiếp tại một binh trạm cách đó ba cánh rừng. Lúc này, các cô gái được hưởng một sự đền bù ngoài sức tưởng tượng : trong đám thương binh còn ở lại, xuất hiện một hoàng tử quyến rũ, một miếng mồi thật ngon lành cho tất cả các nữ nhân đang đứng bập bênh trên ranh giới giữa giai đoạn chót của tuổi thanh xuân với sự lỡ thì. Đó chính là trung tá Hoàng An. Hoàng An được coi như người đàn ông lý tưởng vì ngoại hình đã đành, nhưng cũng còn vì lòng can đảm mà không phải bậc nam nhi nào cũng có. Anh chẳng hề cất một tiếng kêu trong suốt cuộc phẫu thuật không gây mê. Một quân y viện nằm sâu như Viện 306, chẳng thể có đủ thuốc mê cho các ca bình thường nhằm cắt bỏ tứ chi. Hoàng An bị mảnh pháo tiện đứt cánh tay bên trái. Về đến viện, vết thương bị ga-rô quá lâu trên đường đã bắt đầu gây hoại thư, và người ta phải tháo khớp vai để cứu anh. Điều lạ lùng là Hoàng An hồi phục rất nhanh, trong một diễn tiến gần như thần bí. Đám thương binh xung quanh dù trẻ gấp đôi tuổi đều nhìn anh với con mắt vừa thán phục vừa ghen tị. Ngay khi vết thương chưa kịp mọc da non, anh đã dạo chơi nhởn nhơ khắp vùng, đã đặt bẫy bắt dúi, bắt nhím, bắt chồn cho nhà bếp cải thiện bữa ăn. Rồi khi vết thương lên da non, anh tự nguyện xách nước suối lên viện giùm các cô gái. Chỉ bằng cánh tay còn lại, chàng trung tá này có thể làm mọi thứ việc mà một gã trai khác đủ cả hai tay chưa chắc dám đảm đương. Hoàng An có thể đeo một chùm mười lồ nước trên lưng, tay phải xách thêm bốn năm lồ khác. Với đôi chân của người thợ săn, anh leo dốc như sơn dương. Mười hai cô gái viện nhìn anh với con mắt mê mẩn. Trừ dăm cô đã thề non hẹn biển với đồng nghiệp, số còn lại đều đưa mắt liếc nhau xem ai đã lọt mắt xanh của hoàng tử có trái tim vàng ?...Nhưng dường như Hoàng An đã chia đều lòng tốt của anh cho tất cả mọi người, và như thế chưa cuộc chiến tranh nào xảy ra giữa đám các cô gái chòng chành chờ đợi ...Cũng vì thế, khi vết thương của anh đã lành, viện trưởng vẫn nấn ná giữ anh lại thay vì chuyển anh sang một binh trạm để chờ lệnh quân khu. Nghiễm nhiên, Hoàng An trở thành một nhân viên không phiên chế. Anh có vẻ vô cùng thoả mãn với vai trò mới. Không ai nói, người ta cũng hiểu rằng ngày một ngày hai, anh sẽ được chuyển về hậu phương vì mất khả năng chiến đấu. Khi sắp được hưởng một thứ quyền lợi tối thượng như vậy, cần phải tận tình giúp đỡ tất cả những ai đang còn trụ lại nơi nguy hiểm và gian lao. Hẳn là nghĩ như thế nên Hoàng An không tiếc sức lực cũng như thời gian để góp phần cải thiện cuộc sống chung và giúp đỡ mọi người.
Một buổi sáng giá buốt, sương mù trùm phủ khắp núi non, bỗng tiếng còi xe vang inh ỏi. Ai đó đứng từ xa gào lên :
- Xe thuốc của quân khu đã tới....
Mọi người trong viện đổ ra, ngơ ngác nhìn nhau :
- Sao điện báo nói hai ngày nữa xe mới đến ?...
- Ai biết được ?...Có lẽ vắng bom oanh tạc nên đường thông ...
Rồi từ y viện trưởng tới các nhân viên đều lũ lượt tụt dốc xuống đường để nhận thuốc và các y cụ. Hoàng An nhập vào đoàn quân đó. Đúng là xe chở thuốc của quân khu và cũng đích xác vì máy bay oanh tạc của Mỹ nghỉ cuối tuần nên đường thông suốt. Ai nấy đều hỉ hả vì ngoài thuốc còn có kẹo bánh và thuốc lá sợi. Khi mọi kiện hàng đã được khuân hết xuống, xếp thành đống gọn ghẽ bên lề đường, người lái xe nổ máy cho xe quay lại quân khu tức khắc vì muốn tận dụng thời gian thuận lợi. Xe vừa lăn bánh được vài mét, anh ta chợt hét váng lên :
- Tôi quên.
Đoạn cho xe phanh kít lại, anh ta cúi xuống dưới gầm ghế moi lên một chiếc ba-lô lính cũ nát, lấm lem :
- Viện ta có thương binh nào là Hoàng An không ?...
- Tôi đây.
Hoàng An đã nâng kiện thuốc lên vai lại vội vã đặt xuống, đáp lời.
Anh lái xe bảo :
- Trên quân khu có gửi cho đồng chí chiếc ba-lô của một liệt sĩ. Liệu anh ta có thực là họ hàng của đồng chí hay không ?...
- Nếu không phải là người thân thích có lý do gì mà họ lại gửi cho tôi ?...
Hoàng An vặn lại, mặc dù óc anh thoáng qua những nghi ngờ :
« Ai có thể gửi cho ta ?....Không lẽ đây là ba-lô của thằng Mèo Mã Lỳ chết dẫm ?.....Ồ không, điều này không tin được. Bởi y họ Mã, sắc tộc Mèo và ở tận núi Hoàng liên sơn....Không ai có thể nhầm lẫn một cách điên rồ như thế.... »
Anh lính nhìn Hoàng An, phân vua :
- Không phải chúng tôi tò mò nhưng vì địa chỉ đề rất mơ hồ....Thêm nữa, trong quân khu này có đến sáu người tên là Hoàng An. Phòng tổ chức còn đắn đo vì đồng chí quê ở Lạng Sơn nhưng liệt sĩ này lại là người Tầy tỉnh Thái nguyên.
- A....
An nở nụ cười xí xoá :
- Tỉnh nào cũng là đất nước Việt nam cả...Người Kinh làm ăn buôn bán khắp nơi, người Tầy chúng tôi tuy không giỏi giang bằng nhưng cũng biết đi từ tỉnh này qua tỉnh kia để kiếm sống.
- Ô....Nếu vậy thì đồng chí cầm lấy...Tôi sẽ báo cáo với quân khu rằng kỉ vật đã đến đúng địa chỉ của người thân. Lẽ ra ...
Anh ta ngần ngừ một lát rồi nói tiếp :
- Lẽ ra, theo nguyên tắc, đồng chí phải kí giấy biên nhận. Nhưng vì tôi còn chuyến hàng thứ hai cho y viện này, mà đồng chí còn ở lại đây nên lần sau ta sẽ làm việc đó.
- Nhất trí. Tôi sẽ chờ đồng chí lần sau.
Hoàng An đáp.
Anh ta trao chiếc ba-lô rồi xiết chặt tay anh :
- Chúc đồng chí mạnh khoẻ...
- Cảm ơn. Tôi cũng chúc đồng chí lên đường may mắn....
Rồi chiếc xe nổ máy ra đi. Lần này, nó đi thật sự.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương

Chương 40: ƯỚC NGUYỆN (4)
Hoàng An cúi xuống nhìn chiếc ba-lô bẩn thỉu hôi hám như chiếc bị ăn mày, đoán rằng nó đã bị ném trong hang đá khá lâu, ít nhất cũng một hai năm nên những vết máu khô mới mốc meo thành tầng và các vết lỗ chỗ dán nhấm mới nhiều đến thế. Trên nền vải lem nhem màu cỏ úa ngả sang đen xỉn, găm một mẩu giấy trắng mà ai đó viết không lâu :
Kỉ vật của trung uý Hoàng huy Tú, tiểu đoàn 115 quân khu 18, đại đội 3, trung đội 1, liệt sĩ trên chiến trường Thuận hoá. Đề nghị chuyển cho đại uý Hoàng An , thuộc tiểu đoàn Một, tiểu đoàn trưởng Đinh quang Nhã.
Anh tê lặng một hồi. Hoàng văn Tú, cái tên gợi cả một thời ấm êm, hạnh phúc. Tú là chồng của nàng My, em gái anh. Gia đình Tú ở sát thị xã Lào Cai, một vùng đất chen chúc những người thiểu số khác sắc tộc. Cha Tú là thợ rèn nổi tiếng, chắt nội của một người thợ rèn còn nổi tiếng hơn, được đặc trách rèn vũ khí cho các tướng lĩnh và vương hầu cai quản miền biên giới. Đến thời cha Tú, người ta không còn sử dụng gươm dáo nên ông chỉ rèn các loại nông cụ và dao, búa. Nhưng dao đi rừng của ông được coi là vật tuỳ thân tuyệt hảo đối với người miền núi, còn các loại dao nhọn, dao bầu, dao bản vuông...của ông được coi là dụng cụ kiếm sống không thể thiếu của đám dân bán thịt trong vùng. Cuộc hôn nhân của hai đứa trẻ thành công một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, nhờ bà mối. Một người đàn bà còn ròn rã xinh tươi, tuy đã ngũ tuần. Bà mối này vốn buôn lâm sản ở Lào Cai, là hàng xóm liền vách với nhà Tú nhưng lại có người chị ruột lấy chồng bản Xíu. Năm nàng My mười bảy, bà về bản Xíu chơi, gặp cô thiếu nữ nhu mỳ liền vội vàng quay lại Lào Cai, rồi tức tốc dẫn Hoàng huy Tú lên Thất Khê tìm con gái ông trưởng bản. Vừa chạm mặt mỹ nhân tháng trước, tháng sau Tú đã cùng cha mẹ đem lễ vật đến nhà chú thím anh xin cưới. Dịp hôn lễ của họ chính là dịp anh đặt chân tới thị xã Lào Cai lần đầu tiên....Rồi sau đó, chẳng còn cơ hội nào quay về đấy...
Năm tháng trôi qua, gia đình Tú đã chuyển xuống sinh sống ở tỉnh Thái nguyên lúc nào mà anh không hay biết ?....Tuy trong lòng nóng như lửa đốt, nhưng Hoàng An vẫn khoác chiếc ba-lô vào cánh tay rồi đặt kiện thuốc lên vai, tiếp tục leo dốc cùng đám nhân viên quân y viện. Phải ba tiếng đồng hồ họ mới chuyển hết được số hàng vào nhà kho. Chờ mọi người tụ tập trong bếp ăn để chia bánh kẹo, An xách chiếc ba-lô của Tú đi về phía sườn dốc dẫn xuống dòng suối, lúc này chẳng một bóng người. Ở đó, anh mở ba-lô một cách cẩn trọng, lấy ra một bộ quần áo thu-đông, một ống thuốc đánh răng đã dùng dở khô đét, một chiếc bàn chải đã toẽ hết gai, một chiếc lược sừng nhỏ và một phong bì bọc dán chằng chịt bởi những lớp vải ni-lông, hẳn được cắt ra từ một tấm áo mưa cũ. Đoạn anh dốc ngược ba-lô lên rũ một hồi để cứt dán còn bên trong rơi xuống. Một cây bút bi rơi xuống theo. Mùi hôi mốc bốc lên cùng mùi vải ẩm.
« Đây là tất cả những gì còn lại của một người đàn ông đẹp đẽ và cường tráng. Tất cả những gì còn lại của một người chồng và một người cha. Gia sản của trung uý Hoàng huy Tú. Kỉ vật mà ngày nào đó ta có thể trao lại cho nàng My cùng những đứa con của nàng....
Anh ngồi như thế hồi lâu trước mớ vật dụng vô nghĩa rồi mới giở bức thư của Tú ra. Thư dán quá kĩ, chẳng có cách gì gỡ được những lớp vải ni-lông chằng đụp như vậy. Trong túi anh không có một lưỡi dao, ngay đến cả chiếc bấm móng tay cũng không có nốt. Sau cùng, anh đành tìm một lưỡi đá nhọn ven dốc, mài lớp bì thư vào đó theo cách những người nguyên thuỷ cọ đá để lấy lửa cho bùi nhùi. Khoảng chừng mươi phút sau, anh đã có thể móc ngón tay vào lỗ rách để xé toang các lớp vải quấn ra. Thư của Hoàng huy Tú viết trên giấy kẻ ô của học trò vỡ lòng. An trải tờ giấy lên đầu gối, đọc :
Anh thân mến,
Kể từ ngày anh tiễn nàng My lên Lào Cai, bao nhiêu năm tháng đã trôi qua, bao nhiêu sự việc đã xoay chuyển. Tuy không còn cơ hội gặp nhau nữa, nhưng em chẳng bao giờ quên anh bởi nàng My luôn luôn nhắc nhớ tới anh. Chúng em đã có hai con, hai đứa đều là con trai cả. Gia đình em đã chuyển xuống sinh sống ở Thái nguyên sau ngày anh nhập ngũ, bởi ở dưới đó, cha em tìm được một đầu mối bán buôn lớn và xưởng rèn gia đình có cơ phát triển. Cha em cũng đã già nên phần sản xuất do chúng em đảm nhiệm đồng thời thuê thêm non chục thợ. Em không có điều gì phải phàn nàn ngoại việc trong ba anh em hai người đã phải lên đường. Không rõ tin tức đứa em út nhưng ngày mai chính em sẽ tham dự chiến đấu trên mảnh đất Thuận hoá. Lính bước chân vào đây khó có đường về. Người ta bảo đất này vừa dữ vừa hẹp nên thây người không chôn thành một lớp mà chí ít cũng dăm bảy tầng chồng chất lên nhau. Chiều nay, toàn đơn vị ngồi viết thư cho gia đình, em cũng viết thư cho anh. Ai cũng ngầm hiểu rằng đây là lá thư cuối cùng trong đời lính.
Anh thân mến, anh còn nhớ đêm liên hoan mà anh đã gặp Mã Lỳ hay không ?...Chính em cũng có mặt đêm hôm ấy. Chính em là con chồn lủi trong bóng đêm mà anh đã rượt đến tận cửa rừng...Thoạt bước chân đến mảnh đất của anh, em đã thấy anh đứng với Mã Lỳ nên vội lảng tránh. Bởi do tình cờ mà em đã thuyên chuyển về chính đơn vị của anh năm năm sau ngày anh ra đi. Cũng do tình cờ mà em ở cùng trung đội với Mã Lỳ và được gã Mèo này tin cẩn. Có lẽ vì trong đại đội chỉ có hai chúng em là dân miền núi. Mã Lỳ hoàn toàn không biết chúng ta là anh em nên đã kể tất cả mọi sự theo...con mắt nhìn của gã. Vào đêm liên hoan ấy, khi nhìn thấy gã đi với ....bạn mới, em liền đi theo. Em biết chắc điều gã Mèo sẽ làm. Em đã lên nhà gã. Nhà gã nhỏ hơn chuồng nuôi lợn của chúng ta. Mọi người ngồi ăn cháo ngô ngay trên nền đất, lợn chạy xung quanh, thúc mõm cả vào lưng chủ lẫn khách, rồi ỉa lung tung khắp nền nhà...Có lẽ anh khó hình dung được cảnh tượng đó. Nhưng em đã chứng kiến nên em hiểu Mã Lỳ sẽ làm bất cứ việc gì để được tiến bộ....Vì vậy em đã đuổi theo y....
Anh thân mến, còn sự việc này chắc anh đã dự đoán nhưng chưa biết rõ. Nàng Xuân và Nàng Đông đều bị giết cùng năm Con gà(I957), theo cách lấy chầy gỗ đập vào sọ. Thây Nàng Xuân bị ném ven đường ngoại ô Hà nội giả làm tai nạn giao thông còn Nàng Đông bị ném dưới chân cây cầu gỗ bắc qua Khe Lan, trên đường về huyện Thất Khê. Nhưng em cũng chỉ biết điều này ba năm sau, nhờ một người quen...Bố mẹ vợ em và ông Cao đều bị giết vào mùa đông năm Con chó(I958), hơn một năm sau cái chết của hai nàng. Bà mối nhắn tin cho em. Khi em quay trở lại bản Xíu, ba tuần sau cái đêm tai hoạ đó, chỉ thấy tro tàn của hai ngôi nhà sàn. Dân bản nói rằng đêm hạ tuần tháng trước bỗng nghe tiếng máy bay trực thăng đổ xuống khu vực suối Sơn ca. Vì trời rất rét thêm nữa đêm tối đen như mực nên chẳng ai tò mò nhìn ngó. Người ta tin rằng chỉ có máy bay của bộ đội biên phòng vì lý do đặc biệt nào đấy mới bay vào lúc khuya khoắt như vậy. Nhưng khoảng chừng nửa giờ sau hai ngôi nhà sàn bốc cháy. Lúc đấy, dân bản mới hò nhau thắp đèn thắp đuốc đi cứu hộ. Khi họ đến nơi, lửa cháy cao ngất như rồng táp mà mùi săng vẫn bốc sặc sụa nên chẳng ai dám động chân động tay. Nhìn qua đám lửa không thấy một bóng người. Dân bản cứ đứng như tượng nhìn từng cây cột theo nhau đổ. Lửa cháy tới tận hôm sau. Khoảng non trưa, sương quang trời sáng rõ, người ta mới tìm thấy xác ông Cao bị thui đen trong đám than tro. Còn bố mẹ vợ em thì mất tăm, vô hình vô dạng. Huyện phổ biến rằng một đội biệt kích của Mỹ nguỵ từ phía nam bay ra gây hoả hoạn để gieo rắc hoang mang cho đồng bào dân tộc. Nhưng em biết rằng lũ giết người này chính là bọn đã giết Nàng Đông và Nàng Xuân. Cái lý của người Tầy chúng ta chỉ ra như vậy.
Anh thân mến, sớm mai chúng em phải lên đường. Chắc sẽ không có ngày quay lại. Anh hãy cố gắng sống bằng mọi cách để trả mối hận này. Anh hãy bảo bọc nàng My và những đứa con em. Được như vậy, dù ở dưới mồ, em cũng sẽ ơn anh mãi mãi...
Em Hoàng huy Tú.
Chữ kí rắn rỏi, không một chút run rẩy. Nét bút của một tay thợ rèn, quen quai búa từ thuở còn thơ. Anh đặt lá thư xuống. Trời không có gió nhưng tờ thư run rẩy. Những cơn rung động chạy khắp toàn thân khiến anh nổi da gà. Rồi những ý nghĩ nối nhau chạy qua óc não anh như đàn chuột lửa :
« Chúng giết hai nàng bằng chầy gỗ vì đó là cách tiết kiệm và giản đơn nhất cho một cái chết. Chúng giết ông Cao bằng cách đâm chém để thiên hạ ngờ rằng đó chính là cuộc thanh toán trong giới giang hồ bởi ông Cao đã rời bản đi lênh đênh chân trời góc biển hai mươi năm. Chúng bắt cóc chú thím ta lên máy bay để giết họ rồi quăng thây xuống một cách rừng tỉnh khác để không ai còn có thể dò ra tăm tích và để dễ bề tung tin rằng lũ biệt kích giết người, bởi chú ta đương kim vẫn là chủ tịch xã, chức quan bé mọn nhất trong bộ máy quyền lực này....Quả là một bọn sát nhân thành thạo, mọi con tính đều có sẵn trong ngăn kéo bàn giấy của chúng. Tất thảy những người thân của ta đều bị huỷ diệt trong một cuộc cờ. Ta chẳng còn ai trên cõi đất này...Chẳng còn ai....
Ngọn lửa trong đầu anh bốc như đám cháy hai ngôi nhà sàn mà anh mường tượng. Những đàn chuột lửa không ngừng chạy đi chạy lại, nhảy nhót, khiến anh vừa đau đớn vừa ngứa ngáy, một thứ cảm giác anh chưa từng biết đến và chẳng thể diễn đạt. Rồi đôi mắt anh bỗng nhiên mờ dần, mờ dần trước đám khói mù mịt bốc ra ngay trên đỉnh sọ, tựa hồ hộp sọ đã nứt đôi để phun lên những đám khói ngột ngạt của một cuộc thiêu đốt âm thầm. Một cơn đau khác dưới đám ruột cuộn lên, trào qua cơ hoành, thốc vào hai lá phổi những luồng khí nóng bỏng, dường như ngực anh đã trở thành một chiếc nồi súp-de đầy ứ hơi sắp nổ. Đột nhiên anh cất lên một tiếng thét rợn hồn, một tiếng thét khiến chính anh cũng choáng váng, chính anh cũng chết lặng đi vì không hiểu nó từ đâu tới. Dường như chẳng phải chính anh đã cất lên tiếng thét đó, chẳng phải âm thanh kinh dị ấy vừa thoát ra từ hai lá phổi đầy ứ khí nóng của anh mà đó là tiếng gào của một con quỷ lạ, một loài ngạ quỷ mượn cổ họng người để trút ra tiếng gào của chính nó.
Từ phía quân y viện, ai nấy đều đổ xô ra nhìn. Chưa bao giờ họ nghe thấy một tiếng thét khủng khiếp như thế. Mặc dầu tiếng la hét đau đớn trong những ca giải phẫu thiếu thuốc gây mê là thứ âm thanh tra tấn thường xuyên và đã trở thành quen thuộc nhưng đây là lần đầu họ nghe thấy một tiếng thét kì lạ, trong đó không chỉ có nỗi đau đớn thể chất hay sự thống khổ tâm hồn mà còn cuồn cuộn những con sóng cuồng nộ của một sức mạnh kinh hoàng. Sức mạnh của man dại và thù hận. Bốn phía núi rừng rung động. Mọi người ngừng thở vì sợ hãi. Người ta cho rằng tiếng thét ấy chỉ có thể là tiếng thét của thần sông, quỷ núi, hoặc của người điên. Một người điên khổng lồ hung dữ và đang ở cực điểm cơn kích động.....
Chẳng tìm thấy ai ngoài trung tá Hoàng An. Anh đang ngồi một mình ven con dốc dẫn xuống suối. Một mình anh. Bác sĩ viện trưởng lẫn mọi người đưa mắt nhìn nhau trong khoảnh khắc rồi tất cả kéo nhau đi tới. Khi nghe thấy tiếng chân đám đông vang lên phía sau lưng mình, Hoàng An ngoảnh lại, tuy mặt trắng nhợt nhưng anh đã nhoẻn miệng cười nụ cười dễ mễn mà mọi người quen thuộc :
- Đây là chiếc ba-lô của đứa em tôi, hy sinh tại chiến trường Thuận hoá....Tôi không thể chôn nó, cũng không thể khóc thương nó....Tôi hét lên vì tôi căm thù... Tôi căm thù Mỹ nguỵ....
- Đồng chí An....
Viện trưởng dịu dàng đặt tay lên vai anh :
- Đồng chí hãy về viện nghỉ ngơi....Chiến tranh mà. Tất cả chúng ta có mặt ở đây đều vì cuộc chiến tranh này...Tất cả chúng ta đều phải căm thù Mỹ nguỵ....
* * *
Chủ tịch thức dậy lúc nửa đêm. Sau những giấc mơ nặng nề, mắt ông bỗng nhiên ráo hoảnh và tim ông phập phồng, hồi hộp. Tiếng quật bài tu-lơ-khơ của hai chàng cận vệ ở bên ngoài tuy khẽ khàng nhưng vẫn vang lên trong đêm khuya khoắt. Cây kim dạ quang trên mặt đồng hồ chỉ một giờ hai mươi nhăm. Ông kéo tấm chăn lên cằm, lắng nghe những tiếng thì thầm một cách lơ đãng :
- Tám nhép.
- Mười nhép.
- Ji cơ.
- Ka cơ...
- Quy rô ...Mày sắp chết rồi con ơi....
- Chết cục cứt tao đây này, ka rô đỏ chon chót nhé. Tao chờ xem mày xuống cây gì ?...
- Con ơi, mày đã đến ngày tận số. ... Át cơ !...Phăng-teo đâu rồi, đem xuất xưởng. Nếu không thì bó gối lai hàng cho xong...
- Thôi được, chịu thua ván này....Nếu có quân phăng-teo chắc chắn tao cho mày sấp mặt keo nữa....Bây giờ là tám ba nhé. Mày vẫn còn nợ tao năm ván. Khó lòng mà gỡ đêm nay, con ơi...
― Chúng nó sung sướng thật, những đứa trẻ chơi loại cờ này. Thắng, chúng ăn vài chiếc kẹo vừng hay kẹo lạc....Thua, chúng bị đối phương vẽ nhọ nồi lên mặt....Ván cờ của chúng không làm tổn hại đến ai, không có máu chảy đầu rơi, cũng chẳng hận thù ân oán....
Chủ tịch thầm nghĩ. Rồi một gương mặt khác đến với ông, vừa điệp với gương mặt đứa con trai người tiều phu Xóm Núi, lại vừa nhù nhoà trong lớp sương mù tưởng tượng. Ông bất giác buông tiếng thở dài :
― Con trai của ta....Nếu lũ phản bội để cho con được sống, chắc chắn con sẽ có một cuộc sống vô danh vô diện của thứ dân. Con sẽ trà trộn trong đám người đứng ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Ngày nào đó con sẽ chơi bài ăn kẹo lạc và vẽ râu nhọ nồi như mấy chú lính ngoài kia....Nhưng biết đâu con chẳng hài lòng vì cuộc sống vô danh đó ?....Và biết đâu những ván bài ăn kẹo lạc chẳng đem lại cho con một hạnh phúc thật sự trên cõi đời ?....
Để xua đuổi những ám ảnh, chủ tịch giơ tay định bật cây đèn ở đầu giường để đọc sách nhưng chợt nhớ ra rằng làm như vậy cuộc chơi cờ của hai chàng trai ắt phải dẹp bỏ. Họ sẽ phải băn khoăn hỏi xem vì sao ông mất ngủ ?...Có cần gọi bác sĩ hay không ?...Có cần đun nước pha trà không ?...Có cần chuẩn bị thứ gì đó ăn nhẹ cho đỡ mệt ?...Tất thảy những quan tâm hành chính ấy khiến ông não lòng. Ông lại nằm xuống, kéo chăn lên cằm, đăm đăm nhìn khoảng trần nhà mờ tối. Dưới chân tường, ngọn đèn ngủ bé xíu như con đom đóm và cũng có màu xanh của lửa đom đóm. Ngày ấu thơ, ông vẫn cùng bạn đi bắt đom đóm bỏ vào những chiếc vỏ trứng gà. Trong bóng đêm, những chiếc vỏ trứng sáng óng ánh và mùa hè đom đóm ấy là mùa hè thần thoại nhất trong đời ông...
― Giờ đây, liệu thằng bé có chơi đèn đom đóm hay không ?...Nó cũng đang sống nơi thôn dã cùng đám bạn học và xung quanh chúng cũng là những khu vườn, những bờ cỏ, những nghĩa địa làng um tùm như quang cảnh thời xưa khi ta còn ở Nghệ An ?...
Ông tự hỏi, nhưng rồi lại tự riễu mình vì đứa con ông sẽ chẳng bao giờ biết quê quán ở đâu và lúc này chẳng đứa trẻ nào có thể chơi đèn đom đóm. Đất nước đang trong cuộc binh đao, thay vì ánh lửa lập loè của lân tinh là đạn các loại pháo cày đỏ trời đêm. Thứ lửa gieo rắc nỗi kinh hoàng cùng cái chết...
― Chiến tranh, chiến tranh, chiến tranh....
Một lịch sử đã dằng dặc những cuộc chiến liên miên không ngưng nghỉ, vậy mà lũ người đam mê vinh quang còn cộng thêm vào đó cuộc chiến này. Một cuộc chiến vô tiền khoáng hậu cả về phương diện năng lực bị huy động cũng như những tổn thất máu xương...Ôi cuộc chiến tranh ngu xuẩn, cuộc chiến tranh đã được thực thi như đòn trừng phạt đối với một dân tộc. Một dân tộc tự đưa thân mình ra làm tăm-pông giữa hai toa tầu lịch sử, tự sử dụng danh tính của mình như con tốt đen trong bàn tay của thế nhân, tự hoán cải giang sơn thân thiết thành chiếc cối xay thịt khổng lồ trong một cuộc huynh đệ tương tàn khủng khiếp gấp ngàn lần cuộc binh đao Trịnh Nguyễn !...
Ta biết làm gì giờ đây khi ván cờ đã lỡ, khi ta bắt buộc trở thành con rối gỗ trong tay lũ sát nhân ?...Những người anh em thù nghịch của ta, chẳng lẽ chúng ngu dại đến mức không có một chút ngờ vực khi dấn thân vào tấn trò này hay chúng cố tình quay lưng lại với lương tâm vì cuộc ganh đua quyền lực hấp dẫn hơn thân phận của một dân tộc ?... Ôi danh vọng, vinh quang....những thứ người ta chẳng thể ăn chẳng thể ngửi chẳng thể làm tình nhưng lại có sức huỷ diệt kinh hoàng, không chỉ huỷ diệt một cá nhân, một tập đoàn mà cả một nòi giống..
Nhưng vì cớ chi ta mãi đắm đuối , mãi khổ đau vì dân tộc này ?...
Cái dân tộc cần đến cuộc đời ta như cần một con vật làm lễ hiến thần linh. Cái dân tộc ngu ngơ cười những nụ cười thoả mãn, cất tiếng tung hô ta như tung hô một hoàng đế vĩ đại, thần phục ta như đám ba quân thần phục một nguyên soái lẫy lừng bất khả chiến bại mà không mảy may hiểu một phần nghìn nỗi đau đớn giằng xé con tim ta, mà không đủ nhân từ ban cho ta một chút cỏn con hạnh phúc ?... ....Vì cớ gì ta mãi phải dày vò vì cái dân tộc vị kỉ và vô tình ấy cho dù nó chính là của ta ?...
Ồ không, từ muôn đời người ta đã biết rằng đám đông chỉ là một luồng gió, một đợt sóng, một trận cuồng phong, một cơn lũ hay một cơn hoả hoạn....Đám đông vô danh vô tính và vô trách nhiệm trước tất thảy những gì họ đã làm. Ta không thể lên tiếng oán trách hồ đồ như vậy. Dù muốn hay không dân tộc này vẫn là dân tộc của ta.
Lý do cuộc sinh tồn của ta là vì nó. Nỗi thống khổ lớn nhất trong con tim ta cũng là vì nó : Một dân tộc bị đoạ đầy....
Vì chưng ta đã sinh ra chính ở nơi đây, mảnh đất bùn lầy đau khổ ...Vì chưng sợi dây đàn mong manh nhất trong tâm hồn xứ sở vang vọng nơi tâm hồn ta cũng như nỗi tủi nhục nghìn năm của nó tẩm liễm vào từng tế bào cơ thể ta, từ da thịt máu xương cho đến cách cảm thụ sinh tồn...Chính ở nơi đây ta đã bị kết án vĩnh viễn khổ đau. Chính ở nơi đây ta buộc phải trả món nợ non sông lưu tồn từ ngàn kiếp !...
Vậy là mọi nẻo đường đều dẫn ông quay lại địa ngục của chính ông. Không có cách nào trốn thoát....
Chủ tịch bật lên một tiếng rên rồi vội vã nghiến răng lại vì sợ hai cậu lính bên ngoài nghe thấy. Trái tim ông dường như mắc chứng sung huyết, nở to ra, đập một cách nặng nề. Ông nghe rõ từng nhịp đập ấy, ông cảm thấy rõ rệt những cơn co thắt khó khăn của nó :
― Ước gì thay vì một trái tim, con người có thể sở hữu một cái bơm máu, một thứ dụng cụ đủ chức năng nuôi dưỡng sự tuần hoàn mà chẳng mảy may gây ra những đớn đau...Giá như ta có một trái tim khác, một bộ óc khác hẳn ta có thể sống an nhiên ?....Giá như ....
Ông đưa tay lên xoa ngực, sờ đốt xương sườn cuối và bỗng thương thân:
― Tại sao ta mãi tự đầy đoạ ta trong một nỗi khắc khoải triền miên, một nuối tiếc dằng dặc và một nỗi nhớ mong không bao giờ nguôi dịu ?...
Tại sao ta không thể lãng quên vì cuộc sống cần đến sự lãng quên như kẻ mắc chứng nhiễu tâm cần thuốc ngủ ?...Ta đã học cách lãng quên gần như suốt cuộc đời để rồi khi trở về già mọi bài học đều hoá thành đám tro như đám tro sau cuộc đốt mã ?.....Cuộc chiến tranh ngu xuẩn này là đòn trừng phạt đối với dân tộc của ta còn sự vãn hồi trí nhớ là pháp đình tối cao dựng lên để triệu hồi ta về nghe phán quyết ?...Phải chăng đây chính là một liên đới thảm khốc giữa thân phận riêng ta với kiếp nạn chung của giống nòi ?...Hay là sự trùng lặp ngẫu nhiên bí ẩn sẽ còn lại như một câu đố mãi ngàn thu ?...
Ông nghe một tiếng cười khẽ khàng bên tai nên mở mắt ra.
Gã đàn ông có nước da màu nõn chuối đang đứng dựa lưng vào tường. Bảnh bao trong bộ com-plê màu trắng ngà, thứ màu ông thích nhất. Ông vẫn nhớ cái cảm giác súng sính hớn hở khi lần đầu có đủ tiền để cắt may bộ com-plê ấy tại Paris, cái thành phố đắt nhất thế giới, nơi thợ may kiếm tiền nhiều gấp năm đến mười lần đám thợ các thành phố khác....Bộ quần áo sang trọng đầu tiên trong tuổi trẻ của ông, giờ đây gã đang mặc. Cũng cách bẻ cổ áo sơ-mi như thế, cũng chiếc cà-vạt màu xanh dương thẫm điểm chấm trắng và kiểu thắt cà-vạt cũng là kiểu thắt của thời xưa...Nhưng đó chẳng phải một chàng trai trẻ mà là một kẻ trạc ngũ tuần, có ngoại hình giống ông như bản chính với bản sao...Một lần nữa, ông hiểu rằng gã chính là bản diện thứ hai của ông, là kẻ mà lẽ ra ông có thể trở thành......
Gã đứng tựa lưng vào tường, dáng thong thả và điệu đàng, hai tay đút trong túi quần, mắt nhìn thẳng vào mặt ông với cái nhìn chăm chú :
- Ngươi không khóc đấy chứ ?...
Ông ngần ngừ một chút rồi đáp :
- Xin lỗi...Tôi không thích câu hỏi của ông.
- Nếu cần, cứ khóc một chút cho nhẹ lòng....Ta vốn rộng lượng với những kẻ yếu đuối.
- Tôi không quá yếu đuối như ông tưởng.
- Để rồi xem.
- Câu ấy để giành cho trai tráng. Tôi đã ngoại bẩy mươi, câu nói của ông với tôi là thừa thãi.
- Nếu ngày mai ngươi lên đường về với tổ tiên, ngày hôm nay câu nói ấy vẫn còn cần thiết.
Ông lặng im vì thấy gã có lý. Nhưng ông cũng không thể thú nhận thua cuộc. Cách tốt nhất là lặng im. Và ông đưa mắt nhìn lên khoảng trần nhà mờ tối. Gã mỉm cười nói tiếp :
- Vào tuổi này mà ngươi vẫn cố sức đi tìm lời giải cho những câu hỏi siêu hình....Thế cũng đáng khen.
- Người ta có thể bị quay đảo bởi những câu hỏi như thế cho đến tận phút xuống mồ. Vì vậy, cuộc tìm kiếm lời giải cũng là lẽ đương nhiên.
- Có cả ngàn câu hỏi mà nhân loại chẳng bao giờ tìm được câu trả lời. Vì bản chất cuộc sống là sự đánh đố và thách đố. Sự đánh đố và thách đố này bao trùm lên mối quan hệ giữa loài người với thiên nhiên, giữa các nhóm người khác nhau trên quả địa cầu, và giữa người với người trên tư cách cá thể...Hãy nhìn lại quãng đời đã qua, ngươi sẽ tìm thấy những lỗ hổng, những mắt xích yếu kém, những rạn nứt, những đổ vỡ....Tất thảy những thứ đó xảy ra khi ngươi mất khả năng kiểm soát những phẩm chất cốt lõi nhất của cuộc đời...
- Tôi sẽ cố tìm bằng chứng cho sự lý giải của ông.
- Không phải cố. Chỉ cần ngươi quay đầu lại và nhìn mọi sự một cách khách quan hơn. Các bằng chứng nằm đầy rẫy trên con đường phía sau lưng ngươi, như những cột mốc sắp hàng dọc quốc lộ.
- Tôi vẫn luôn cố gắng phân tích sự việc một cách khách quan. Đấy là đòi hỏi tối cần thiết của người cầm quyền.
- Cái đòi hỏi tối cần thiết ấy lại chính là phần thường xuyên thiếu hụt nơi kẻ cầm cân nẩy mực. Sự sụp đổ của mọi đế chế, sự tan rã của mọi vương triều đều xảy ra vì thiếu hụt cái nhìn khách quan. Khách quan đối với tha nhân chỉ là sườn đất thoai thoải miền thảo nguyên, nhưng khách quan với chính bản thân là con đường leo lên đỉnh Hymalaya. Ta về đây để chỉ cho ngươi rõ những vết nứt lớn nhất trong tâm hồn ngươi. Như thế, ta sẽ giúp ngươi tìm được tự do. Ta sẽ kéo ngươi ra khỏi cái địa ngục này....
Ông im lặng vì trong thâm tâm ông đang chờ sự giúp đỡ của gã, chờ một cách thực sự, và điều ấy giống như sự sỉ nhục. Sau một hồi im lặng, ông thu hết can đảm cất tiếng :
- Vâng. Tôi chờ nghe ông.
Gã mỉm cười, nụ cười của gã vừa có nét quyến rũ truỵ lạc của Yve Mongtan vừa có vẻ giản dị, hồn nhiên của Jean Gabin thời niên thiếu. Gã nghiêng đầu sang bên trái một chút, nhìn sâu vào mắt ông với cặp mắt trong suốt màu nâu :
- Ta bắt đầu bằng nỗi dày vò thường trực nhất của ngươi, cái chết của người đàn bà ngươi yêu dấu. Ngươi thuận tình chăng ?...
- Tôi có nhiều nỗi dày vò. Trên vai tôi cũng chất chồng vô số những tiếc thương và ân hận...
- Ta hiểu. Nhưng nỗi tiếc thương cho một dân tộc chỉ có đấng toàn năng mới đủ quyền lực để hoá giải. Ta, cũng như ngươi chẳng phải là đấng toàn năng. Ta chỉ có thể giúp ngươi trong cuộc chìm tầu này, trong cái bi kịch xưa cũ giữa một người đàn ông với một người đàn bà đồng thời giữa một ông vua già với một ái phi trẻ tuổi. Ngươi nghĩ sao ?
Ông im lặng không trả lời. Gã nhún vai một cách ngạo mạn và cất tiếng hỏi :
- Vào ngày Nàng Xuân bị giết hại, ngươi đã làm gì ?...
Ông lại tiếp tục im lặng vì không biết trả lời ra sao...Ngày ấy, ông đã gọi điện cho tướng Long nhưng khi vị tướng này sang, hai người chỉ trao đổi những sự việc liên quan đến quan hệ quốc tế. Ông đã chờ đợi tướng Long lên tiếng, nhưng cuộc trò chuyện kéo dài từ tám giờ sáng cho đến mười hai giờ rưỡi trưa mà ông ta chẳng cất lời. Còn chính ông, ông không dám mở miệng. Ông hiểu rằng vào lúc ấy, chỉ tướng Long mới đủ khả năng giải quyết sự manh động và lạm quyền của bộ trưởng Quốc Tuỳ. Toàn bộ các tướng lĩnh và bộ quốc phòng còn đang nằm dưới tầm tay của ông ta. Nhưng tướng Long đã lờ đi vì chính ông ta cũng muốn chủ tịch đóng vai thánh sống. Chính ông ta cũng muốn chủ tịch chỉ là vị cha già của dân tộc mà không để lại mảy may dấu vết của cuộc sống gia đình. Trò chơi Thánh sống này đem lại lời lãi cho toàn thể bộ máy quyền lực, không một ai từ chối miếng ăn ngon...
- Ngươi không làm gì cả và miệng ngươi câm như hến, đúng không ?...
Gã hỏi nhưng không đợi câu trả lời. Gã biết thừa ông không đủ can đảm để cất tiếng. Đôi mắt đẹp của gã nheo lại trong một cái nhìn vừa khinh bỉ vừa nhuốm màu thương xót và nói tiếp :
- Nói đúng ra, ngươi mong chờ tướng Long, người đàn em thân thiết nhất ra tay. Còn chính ngươi, ngươi không dám chủ động lên tiếng, bởi trong thâm tâm, ngươi lo sợ bị lịch sử kết án : Vì tình riêng mà gây sự biến cho quốc gia....Ai cũng nhìn thấy cách duy nhất để hành động lúc ấy là sử dụng lực lượng quân đội vây bắt Quốc Tuỳ đồng thời truất quyền Sáu, tên phản bội đầu bảng...Nhưng như thế, ắt máu phải đổ. Và ngươi lo sợ cho cái uy danh muôn đời của ngươi trong cuốn sử đất nước. Vì ngươi là tác giả của khẩu hiệu thơ mộng này :
― Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công .
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương

Chương 41: ƯỚC NGUYỆN (5)
Ý tưởng của ngươi đẹp đẽ thật và hiệu lực thật....Nhưng chỉ trong một thời, và trong một cảnh. Thứ đạo đức cốt lõi của những ai đang sống nơi rừng rậm nơi suối reo vượn hót....Ngươi không hiểu rằng khẩu hiệu đó chỉ là chiến lược trong cuộc chiến tranh du kích. Nhưng một khi guồng máy quyền lực đã thiết lập, ý tưởng cao sang ấy chỉ còn là một con chim oanh đẹp đẽ nhưng không hót được cũng không bay được vì đó là xác điểu nhồi bông. Khẩu hiệu của ngươi là thứ xăng nhớt chỉ dùng chạy cỗ xe kháng chiến nhưng không dùng được cho bộ máy điều hành quyền lực, nhất là quyền lực đảng độc tài...Ngươi quá mê mẩn với cái thứ lời hay ý đẹp của bản thân mà không hiểu rằng ngôn từ cũng như mọi thứ trên đời có sinh thì có tử. Quyền lực là quyền lực, nó không song hành với mỹ học hay đạo đức. Tính chất đặc trưng của đời sống là đánh đố và thách đố chính ở đây. Cú đòn giáng xuống người vợ trẻ của ngươi chính là trận đánh thăm dò. Vì ngươi đã tự bó tay nên hồi sau những kẻ thù nghịch trèo lên đầu ngươi cũng là điều dễ hiểu.
- Nhưng tôi cũng không thể yêu cầu tướng Long hành sự...Bởi điều đó sẽ khiến bao nhiêu con người vô tội phải đổ máu....Đất nước vừa trải qua chín năm kháng chiến, dân chúng chưa được hưởng yên vui...
- Ồ, muốn tránh máu cũng vẫn đổ....Trên hành tinh này có lúc nào ngừng tiếng súng đâu ?..Nếu như ngày ấy ngươi tự nguyện hy sinh để tránh vài vũng máu tươi thì giờ đây ngươi đã không ngăn được những dòng sông máu lênh láng chảy... Cuộc chiến tranh hiện thời sẽ là cuộc chiến tranh thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, một cuộc chiến tranh quỷ khóc thần sầu, bởi số người chết sẽ lớn hơn tổng số những kẻ đã hy sinh trong các cuộc chống ngoại xâm, từ thời Minh Nguyên cho đến tận mùa thu năm Ất Dậu(I945)....Điều ta nhận định đúng hay sai ?...
- Ông biết rằng tôi đã tìm mọi cách để ngăn cản nó...Nhưng....
- Nhưng lực bất tòng tâm và ngươi là kẻ ngã ngựa giữa trận tiền...Ta đặt giả thuyết rằng ngay từ ngày người vợ trẻ của ngươi bị sát hại, ngươi tổ chức cuộc phản công và thay vì để cho lũ đàn em thù nghịch giam lỏng ngươi trong cái nhà tù trá hình này, ngươi nhốt bọn chúng trong một nhà ngục thật sự....Biết đâu ngươi chẳng tránh được cuộc chiến thảm khốc này và tiết kiệm được biết bao xương máu của lương dân ?....
Ông im lặng thở dài và gã nhún vai nói tiếp :
- Nhưng thôi, chúng ta sẽ không tính lại chữ Nếu...Chữ ấy luôn luôn là thứ kẹo mút của bọn trẻ lên ba. Ta trở lại với bi kịch gia đình của ngươi. Và lần này ta không sử dụng từ nếu mà quả quyết rằng tướng Long giữ im lặng vào lúc ấy, chính vì ông ta cũng muốn trục lợi trong trò chơi ngươi đóng vai Thánh sống. Dưới bóng của một ông thánh có biết bao nhiêu kẻ được hưởng phần xôi oản, kẻ hưởng phần to nhất chính là ông ta. Tên tuổi của ngươi gắn với tên tuổi ông ta trong trận Điện biên Phủ. Vì thế, chính viên tướng này cũng muốn vĩnh viễn nhốt ngươi trong một ngôi đền. Ồ, trò chơi làm Thánh chính là trò chơi độc ác nhất cõi đời, ấy là độc đạo chỉ có thể trèo lên mà không có lối tụt xuống. Kẻ đóng vai Thánh sống phải chết cứng và chết đứng trên bệ của y, chết trong giá lạnh và mưa gió, chết trong cô đơn tuyệt đối vĩnh hằng, chết muôn kiếp trong tư thế một bức tượng, vĩnh viễn chẳng còn được chôn cất như những người khác....Một cái chết vô cùng mệt mỏi....Chết mà không được nằm, đó là thứ mệt mỏi kéo dài muôn kiếp.... Một kiểu hình phạt độc đáo của Tạo hoá...Ta nói đúng hay chăng ?...
Gã cất tiếng cười mai mỉa. Ông thấy mặt nóng bừng còn toàn thân lại lạnh buốt như băng. Dường như lưng ông và hai vai ông đã hoá đá dán chặt xuống giường. Ông không dám mở mắt nhìn kẻ đối thoại nên đành nhắm mắt lại và tiếp tục nghe tiếng gã tuôn ra như nghe những viên cuội dốc ra từ một chiếc hũ sành :
- Ngươi hoàn toàn tê liệt bởi chẳng có một ý tưởng nào rõ nét chỉ đạo hành động của ngươi vào lúc đó. Ngươi muốn đánh trả kẻ thù nghịch nhưng không dám thuyết phục đám tay chân. Ngươi đã quên nguyên tắc hành xử của các quân vương tự ngàn đời :
― Kẻ nào đụng đến tả hữu của ta chính là chặt chân chặt tay ta ;
Kẻ nào đụng đến máu mủ ruột rà của ta chính là chạm đến con ngươi mắt của ta vậy....
Lẽ ra, ngươi có thể vạch rõ mối hiểm nguy cho chính tướng Long và phe nhóm của ông ta. Rằng nếu ông ta giữ im lặng trước sự lạm quyền của Sáu thì sau cuộc đánh thăm dò này chính ông ta sẽ là một đại thụ cần phải đốn ngã trước tiên. Rằng kẻ hôm nay ăn cắp một quả trứng ngày mai sẽ ăn cắp một con thỏ và ngày hôm sau nữa sẽ ăn cắp con bò. Rằng quyền lực chỉ đi theo con đường của nó mà không bao giờ ngoái lại phía sau để suy ngẫm hay thương tiếc. Nếu ngươi đủ khôn ngoan để phân tích một cách đầy đủ như vậy, ta cam đoan là người đàn em của ngươi sẽ ra tay ngay tắp lự, chẳng một phút chần chừ, chẳng mảy may nao núng. Xưa nay, con người vẫn hành động tức khắc khi chính bản mệnh họ bị đe doạ. Lòng vị kỉ vốn là bản năng xa xưa và mạnh mẽ nhất của chúng sinh. Nhưng thay vì hành động với tất cả khả năng sáng suốt của lý trí, ngươi lại im lặng chờ đợi sự thông cảm một cách ngầm ẩn của đám đàn em. Sự im lặng này không hẳn vì ngươi hoàn toàn ngu ngốc, nhưng vì ngươi dùng dắng trong tranh tối và tranh sáng, chính trạng thái mù mờ đó khiến ngươi trở nên tê liệt. Có hai khả thể vào tình cảnh này : Hoặc ngươi hổ thẹn không dám bảo vệ người đàn bà yêu dấu vì nàng quá trẻ quá đẹp, một miếng ăn quá ngon đối với cái miệng của vị vua già, một thứ phản cảm đối với quan niệm chung của thứ dân và vì thế tuy trong lòng sôi sục yêu đương nhưng ngươi ngại ngùng và không dám công khai bảo vệ tình yêu đó. Trong trường hợp này đích xác ngươi là kẻ mắc chứng khổ dâm tinh thần. Nếu không, chỉ còn một cách giải thích khác. Ấy là vì ngươi quá thích thú với vai trò Thánh sống, là cuộc chơi này thoả mãn cái phần kiêu hãnh nhất trong bản thể nên ngươi buộc phải chịu đựng sự thiến hoạn cuộc sống bình thường của một người đàn ông, và do đó ngươi đã cam tâm hy sinh nàng, người đàn bà mà ngươi yêu nhất. Trong trường hợp đó ngươi là......
Những viên sỏi tiếp tục lăn ra từ miệng chiếc hũ sành, nhưng tai ông đã ù đi nên ông chỉ còn cảm giác là những đợt mưa rào đâu đó gõ ầm ầm lên mái tôn, có lẽ mái tôn nhà ngục Hương cảng ....Những đợt mưa rào hung dữ. Các tấm tôn xám kêu rùng rùng dưới những cơn mưa ấy. Phía trên các mái tôn là một mảnh trời. Lúc xanh lơ, lúc tối sầm mây giông, lúc trong vắt trong veo, lúc mịt mù sương khói...Ôi ,chỉ có kiếp tù nhân mới hiểu được tận cùng sự đổi thay sắc thái của mầu trời. Đã bao nhiêu ngày, ông nhìn bầu trời Hương cảng để hồi nhớ mảnh trời xứ sở ? Rồi đột nhiên ông thấy nàng xuất hiện trên mái tôn nhà ngục nhìn ông, cười nụ cười thơ trẻ. Hệt như cô gái mười chín tuổi ngồi trên cành cây ăn vả trong cánh rừng Việt bắc năm xưa. Hai hàm răng trắng bóng lên như ngọc trai, và cặp môi lấm lem ruột quả...
Ông cất tiếng gọi nàng nhưng miệng ông bị gắn chặt bởi một thứ nhựa dính như sơn ta và lưỡi ông dính bết vào hàm.
― Không lẽ ta đã chết và họ trám miệng ta bằng thứ nhựa này ?...
Ông nghĩ, nhưng rồi ông lại nghe tiếng quật bài tu-lơ-khơ bên ngoài vọng vào phòng và khi mở mắt ra ông vẫn nhìn rõ ngọn đèn ngủ xanh màu xanh của lửa đom đóm :
― Ồ không, ta đang ở đây....Ta đang ở trên đỉnh Lan Vu....Đối diện với khu nhà này là khu chùa phụ, nơi sư cụ có hai hàm răng đen nhánh sống cùng đệ tử ....Rõ ràng ta vừa sang chơi bên ấy, và họ thiết ta nước vối hãm gừng với chè lam, một thứ chè lam mềm như chuối chín...
Ông định thần, giương mắt nhìn quanh gian buồng lần nữa. Cảnh vật bình thường. Gã bảnh bao diện com-plê màu trắng ngà đã biến mất. Nơi gã vừa tựa lưng giờ chỉ còn lờ mờ chiếc khung gỗ trong đó lồng bức ảnh đen trắng mà ông rất thích : Hoa đào. Bức ảnh ấy chính nàng tặng ông khi họ vừa có đứa con gái đầu lòng. Không ngày nào ông không đứng trước tấm ảnh đó. Nó là tất cả những gì còn lại của nàng, gợi về nàng trên cõi đời rộng rênh hoang vắng này. Hoa đào. Sứ giả của mùa xuân. Hoa đào. Di vật bất tử của mối tình chết yểu....
Ông thấy vị mặn của muối.
Đó là nước mắt ông hay nước biển năm xưa lạc lối quay về ?.
― A!....Tuổi trẻ của ta...Khúc ca xưa cũ....
Ông vừa chợt nhớ ra câu hát ấy thì một câu hát khác đã trở lại, láy vọng và nhấn chìm ông trong nỗi tiếc thương :
― Dầu đã lìa xa, lòng ta không nguôi nhớ...
Tiếng hát rền vang trong ông, xuyên xoáy từng tế bào, khiến cơ thể lẫn tâm hồn ông tan ra như đám cát. Ông thấy những con sóng quật lên ông, lên cái khối bùi nhùi mà trong đó thịt xương bấy nát hoà trộn cùng thứ khí đục như mây giông. Ông biết ông không còn là ông nữa, bởi ông nhìn thấy mình đang dập dềnh trên ngọn sóng, một mớ bọt biển tiếc thương quyện vào đám rong rêu vật vờ của oán hờn và tuyệt vọng ..*.
Tiếng đập cửa phòng ầm ầm vang lên rồi cánh cửa bật ra. Điện bên ngoài đã sáng choang. Ông nghe tiếng bác sĩ :
- Thưa chủ tịch, xin phép được thăm bệnh cho người.
- A...
Ông chưa định thần được, cánh cửa đã mở toang và bác sĩ xuất hiện. Anh ta nói luôn :
- Cảnh vệ nghe nghe tiếng chủ tịch kêu nên sang gọi tôi. Xin người cứ nằm yên trên giường....
Ông im lặng. Bác sĩ luồn ống nghe để kiểm tra tim phổi ông. Thứ dụng cụ bằng kim loại lạnh buốt chạm vào da thịt khiến ông rùng mình. Nhưng những ngón tay bác sĩ rất mềm và ấm nóng, những ngón tay đầy nhục cảm. Hơi thở của anh ta cũng ấm nóng lướt nhè nhẹ trên trán ông. Mọi động chạm của người đàn ông này gợi nên những ý nghĩ thầm kín :
― Sự nồng ấm, đó chính là phẩm chất tối thượng của đời sống. Sự nồng ấm, vừa là hình hài vừa là đường biên của ngọn lửa đam mê...Ngọn lửa đam mê lớn nhất của đời ta đã dùng để đốt lên đám cháy cách mạng. Nhưng cuộc cách mạng ấy chẳng đem lại hạnh phúc cho con người. Ngọn lửa đam mê nhỏ nhoi hơn đốt cháy con tim ta vì nàng. Rốt cuộc nàng đã bị huỷ diệt trong chính thứ lửa địa ngục ấy. Ôi tội nghiệp thay cho sự uổng phí sinh lực của kiếp người. Đời ta đã cháy lên như một ngọn lửa hoang, một sự bốc cháy nhầm lẫn, một sự tiêu xài năng lượng điên rồ. Ta thua kém bất cứ một kẻ bình thường nào khác, như tay bác sĩ này chẳng hạn. Anh ta có thể dùng năng lượng để sưởi ấm các con bệnh, để làm nóng lên tấm thân người đàn bà gần gũi, và để hát những khúc tình ca...„
- Thưa chủ tịch, không có vấn đề gì nghiêm trọng nhưng người suy nghĩ quá căng nên giấc ngủ không lành....Có lẽ người chấp thuận uống vài viên an thần hay chăng ?
- Ồ không. Mất ngủ là bệnh của người già. Còn nói mê là bệnh của trẻ con. Tuy nhiên, khi về già người ta thường cũng hay ngủ mê vì đó là triệu chứng khởi đầu của sự lú lẫn. Thành thực mà nói, chú đã thấy tôi bắt đầu lú lẫn hay chưa ?
Ông cất tiếng cười . Bác sĩ cũng cười theo :
- Ồ! Chuyện hài hước.
Ông nói tiếp :
- Tôi hy vọng rằng tôi không bị lú lẫn trước khi chui vào hòm. Nằm trong lòng ông sáu tấm tha hồ lú lẫn cũng không phương hại tới ai. Còn bây giờ, chú cứ quay về phòng ngủ tiếp. Không cần quá lo lắng cho tôi. Tôi chẳng còn trẻ để có quyền ăn no ngủ kĩ. Mắc đôi chứng của bệnh già cũng là lẽ thường thường tình.
- Nhưng mất ngủ, người sẽ rất mệt.
- Sáng mai, tôi sẽ ngủ bù. Bảo họ chớ đánh thức tôi dậy ăn bữa sáng.
-Vâng.
- Cứ an tâm về ngủ lại. Chú nữa, chú cũng có quyền ngủ trễ ngày mai bởi phải thức dậy vào nửa đêm. Lúc này mấy giờ rồi ?...
- Dạ, ba giờ hai mươi nhăm phút.
- Tốt lắm. Còn rất nhiều thời gian để ngủ tiếp.
- Dạ. Chúc chủ tịch ngủ ngon.
Bác sĩ khép cánh cửa lại. Đèn phòng ngoài tắt. Ông nghe tiếng anh ta bảo hai cậu lính chuyển bàn ghế sang tít đầu hồi bên kia chùa chính mà đánh bài để ông được hoàn toàn yên tĩnh. Hai chú lính dạ ran rồi lục cục chuyển bàn ghế. Tiếng chân bác sĩ vang trong đêm nhẹ nhàng nhưng khoáng đạt. Hẳn đây là một người đàn ông vô cùng nồng ấm trong chuyện gối chăn. Ông chợt nhớ lại cảm giác sững sờ khi lần đầu nghe anh ta hát. Vì giọng hát ngọt ngào hay vì lời hát xuyên thấu con tim ông bằng lưỡi gươm tàn khốc :
― Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau?„
Ông nhận ra rằng ông đã quay lại pháp đình, nơi gương mặt nàng đối diện với gương mặt ông và giữa họ là tấm lưới pha lê dệt bởi muôn nghìn dòng nước mắt. Ông lên tiếng gọi nàng nhưng nàng không đáp. Tại sao nàng giữ mãi sự lặng câm ? Tại sao nàng không trách móc, không sỉ mắng ông, dù chỉ một lời ? Ồ, nếu như vậy hẳn lòng ông vơi nhẹ. Sự lặng câm của nàng là vạc dầu địa ngục khiến tâm hồn ông bị nung nấu trường kì.
― Sự lặng im của nàng là cuộc tù chung thân đối với ta. Trước tâm hồn trong trắng của nàng, trước sự tin cậy thơ ngây của nàng, trước mối tình chân thành và nồng ấm của nàng, ta là kẻ tội đồ ngàn kiếp „
Ồ, không phải chỉ có riêng ông. Những kẻ đã hy sinh nàng một cách nhẫn tâm rồi cũng phải trả giá. Chỉ một năm sau ngày nàng chết, Ba Danh và Sáu đã cho xây nhà ngục đặc biệt ở đảo Tuần Châu với ý đồ giam tướng Long vĩnh viễn trong đó. Nhưng sau khi bàn đi tính lại, chúng e ngại dư luận quốc tế nên đã bắt ông ta sang làm việc tại uỷ ban sinh đẻ có kế hoạch, lãnh nhiệm vụ đi đặt vòng cho đám đàn bà. Toàn bộ cái trò hề nhơ nhuốc này phaỉ chăng là sự trả thù của tạo hoá ? Bởi con tim nàng quá trong trắng, bởi nhan sắc của nàng là vưu vật của đất trời, sự thánh thiện của nàng cả thần lẫn quỷ đều phải chứng, thế nên những kẻ quay mặt đi trước cái chết của nàng đến lượt họ cũng phải chịu những phản trắc, những đầy đoạ, những sỉ nhục của đám đồng chí bất lương. Dù vì lý do nào chăng nữa, khi tội ác đã đặt được chân vào cửa đền thì nó sẽ tiếp tục đi thẳng vào hậu cung mà không gươm dáo nào cản nổi.
Sáng hôm nay, Vũ gọi điện cho ông, chỉ để nói một câu :
― Anh Cả ơi, đại cuộc đã hỏng rồi„
Ông sững sờ, định hỏi thêm nhưng ở đầu bên kia, Vũ đã đặt máy. Lễ cho ông biết Vũ phải nhập viện ba tuần nay vì bị ngất đột ngột mà không lập được hồ sơ bệnh lý chính xác. Nhờ cú điện thoại sáng nay, ông hiểu được căn nguyên sự suy sụp tâm thể mà các bác sĩ phải bó tay. Đồng bệnh tương liên, lẽ đời như vậy. Tất thảy sự ngờ vực của họ bấy nay đã kết thúc trong tiếng kêu của con chim trước khi cụp cánh để buông thân rơi xuống vực sâu :
- Than ôi, đại cuộc đã hỏng rồi !....
Tấm áo lót cuối cùng của sự hồ nghi, của sự tự biện minh, của những hy vọng vớt vát và nguỵ tạo đã rơi xuống. Sự thật phơi mình. Nàng tiên mỹ miều chỉ còn là con cóc cái ghê tởm. Mỹ nhân yêu kiều hoá thân thành xác cáo chín đuôi. Hơn một thập kỉ dùng dắng trong sự nhá nhem giữa ánh sáng phán đoán của lý trí với sự mù loà của lòng kiêu hãnh, giữa sức mạnh của lương tri với bản năng vị kỉ và niềm si mê tự ngưỡng mộ mình. Chính vào buổi sáng hôm nay, khi nghe giọng nói khàn đặc của Vũ, ông hiểu rằng đây chính là hồi kết thúc :
― Ta không còn lý do nào để dung thứ cái chính thể đồi bại và tàn độc này, cái chính thể mà ta đã tạo ra nhưng nó phản bội lại chính ta sau khi đã phản bội lại dân tộc. Ta không thể tiếp tục cộng sinh với nó. Một thứ ngạ quỷ lớn lên trong lòng xứ sở nhưng ngay sau khi lọt lòng lại cắn cổ và hút máu chính người mẹ đã mang nặng đẻ đau. Ôi, khốn khổ thay cuộc hoài thai đau đớn này. Khốn khổ thay cho dân tộc của ta và khốn khổ thay cho chính ta „
Bóng tối trước mặt ông bỗng trở nên đen sẫm màu mực, thứ mực Tàu mà những ông đồ già thường viết trên giấy đỏ. Óc não ông chợt sáng bừng lên một hình ảnh cũ, một mảnh đời của quá khứ xa xôi nhưng vẫn còn nguyên tươi thắm : Cứ mỗi độ xuân, các nhà nho ngồi mài mực để viết những câu thơ đối vần trong đó hàm chứa cả ước mơ và hy vọng, vừa là lời chúc tụng vừa là điềm báo triệu cho tương lai. Những nét chữ thiêng liêng ấy hiện lên trên nền giấy đỏ rực, khi ngoài kia mưa phùn nhẹ như lông tơ bay trên những vườn đào thắm đào phai ; và xa hơn nữa những đàn cò trắng dập dìu trên cánh đồng xanh thắm. Ồ, đẹp làm sao những cặp câu đối mừng xuân. Những nét chữ múa lượn như rồng uốn, như phượng bay, như mây cuốn. Màu đen, đen đến tận cùng đen. Màu đỏ, đỏ mút mùa đỏ. Cuộc đời bao giờ cũng là sự đan xen giữa những đối cực. Vậy tại sao ông không sử dụng nguyên tắc của trò chơi này ? Ý nghĩ ấy vụt đến khiến ông sửng sốt :
― Tại sao ta không dùng cái chết của ta như ông đồ già dùng thứ mực đen, để tôn vinh lên màu đỏ rực rỡ kia, biểu tượng cho tương lai huy hoàng của dân tộc ? Tại sao ta không nghĩ ra nước cờ này, đó chính là nước cờ tối hảo ta sẽ đi trên bàn cờ thế sự. Đấy chính là cách hiệu nghiệm nhất để bóp chết loài ngạ quỷ, để chuộc lại lỗi lầm của ta trước dân chúng....Đấy cũng chính là con đường ngắn nhất để ta tìm gặp lại người yêu.„
Tức khắc, ông thấy lòng nhẹ nhõm. Giống như kẻ bấy lâu mò mẫm trong bóng tối bỗng nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm.
― Ô, tuyệt vời! Cái chết này đem đến cùng một lần sự giải thoát và cứu rỗi. Tại sao đến tận lúc này ta mới nghĩ ra ? Ôi, bộ óc vô dụng của ta, ngươi thật nghìn lần đáng trách.„
Ông lật chăn, ngồi bật dậy.
Đã từ lâu ông thuộc như lòng bàn tay lá số của ông, biết chắc chắn ngày trở về cát bụi sẽ là ngày Mùi tháng Hợi năm Tân Hợi. Nhưng ông vẫn bật đèn, mở tủ lấy lá số tử vi cũ nát mà ông giữ từ hơn sáu chục năm. Các nếp gấp đã sờn, màu giấy ngả sang vàng úa. Ông thận trọng mở lá số ra, thận trọng soi chiếu lại sự tụ hợp của những hung tinh vào thời hạn mà tử thần sẽ đến tận giường để cắt sinh mạng của ông bằng lưỡi hái. Không có gì sai lệch. Cuộc kiểm định hoàn toàn chính xác. Trí nhớ của ông vẫn đáng tin cậy như thuở tráng niên.
― Ồ, sống làm gì thêm hai năm trong cuộc sống tù hãm và tuyệt vọng này ? Sống làm gì thêm để tiếp tục đóng vai trò một con rối gỗ, khích lệ những đứa trẻ vô tội lao vào một cuộc chiến sầu thảm và ngu ngốc, để rồi mai đây lịch sử sẽ lên án ta như lên án một gã vua già hèn nhát hoặc bất lương ? Cuộc ra đi này sẽ là cách sám hối tốt nhất, nó sẽ trả lại cho ta sự thanh thản trước pháp đình tối hậu của tâm hồn„
Ông gập lá số lại, cất vào tủ rồi đến bàn giấy, lục tìm trong ngăn kéo bản di chúc đã phác thảo dở dang từ năm trước. Ông sẽ hoàn tất nó đêm nay bởi ông quyết định chết vào ngày mồng 2 tháng chín. Theo phép thuật cổ, kẻ sáng lập ra một vương quốc, một tôn giáo, một môn phái võ lâm mà chết đúng vào ngày khai sinh các tạo phẩm ấy thì đó sẽ là điềm tiên triệu xác thực, là bản phán quyết định mệnh cho sự kết thúc không thể tránh được của chính các tạo phẩm trên.
Sáng hôm sau, cậu lính béo lên đổi ca lúc bảy giờ ba mươi, như thường lệ. Ông bảo :
- Chúng ta đi lên núi rồi hãy quay lại uống trà.
- Thưa chủ tịch, nhưng....
- Tôi muốn leo núi một chút cho dẻo chân. Tôi chưa thấy đói.
- Thưa chủ tịch, con phải chờ lệnh bác sĩ...Con không dám....
- Yên tâm, tôi chịu trách nhiệm hoàn toàn. Bác sĩ còn đang ngủ.
Nói đoạn, không chờ cậu ta nói thêm, ông xăm xăm bước. Anh chàng lính béo chẳng có cách nào hơn là hối hả chạy theo rồi túm lấy cánh tay ông.
- Thưa chủ tịch, để con dắt người. Giờ này đường rất trơn, nguy hiểm lắm.
- Ồ!..
Ông quay lại mỉm cười :
- Ông già dưới xóm Tiều phu ngã vào đúng ngày tạnh ráo, và mặt trời đã đi qua ngọ, đúng không ? Lúc ấy chẳng còn một giọt sương nào trên cỏ ?
- Dạ, đúng là như vậy nhưng....
- Đừng quá cẩn thận. Chú cứ đi sau lưng tôi là được rồi. Đường núi hẹp thế này hai người bấu díu vào nhau càng khó đi hơn.
Cậu lính đành lẽo đẽo theo ông. Bởi ông đi nhanh thăn thoắt nên anh chàng cũng chỉ còn đủ thời gian để bám sát gấu áo ông mà thôi. Càng đi cậu ta càng thở dữ vì tấm thân nặng nề, cũng vì chưa bao giờ ông đi với nhịp điệu thần tốc như vậy. Vạt áo bông của ông đập phần phật lên hai chân và đuôi chiếc khăn quàng len kẻ sọc bay ngoặt lại sau lưng giống như đuôi diều bị gió thổi. Ông đi thẳng một mạch lên đỉnh Lan Vu, nơi cao nhất, nơi chưa bao giờ ông đặt chân tới. Ở đấy, ông đứng trên một tảng đá lớn đưa mắt nhìn bao quát đến chân trời. Những đám mây bồng bềnh lượn quanh đỉnh núi, rồi sà xuống các tầng núi thấp hơn. Dưới những dãy núi trập chùng ấy là làng mạc. Xa hơn nữa, đồi nương rồi đồng ruộng trải mút tới chân trời.
A ! Non sông của ông ....
Giang sơn gấm vóc hay miền đất bùn lầy tăm tối ? Nói cách nào cũng được. Hiểu theo chiều nào cũng đúng. Bởi chỉ có duy nhất một hiện thực thôi : Đó là mảnh đất của ông, thuộc về ông. Cũng như ông thuộc về nó, mãi mãi. Tất cả những gì ông có được, tất cả những gì ông đánh mất, tất cả những gì ông đã làm, tất cả những gì còn lưu tồn như món nợ....tất thảy khởi sự từ nó và kết thúc cũng bởi nó, mảnh đất này. Quê hương lầm than. Dân tộc nô lệ. Một lịch sử không có tiếng đàn sáo mà chỉ vang lên tiếng lách cách của gươm đao. Một hiện sinh chẳng có tiếng cười mà chỉ vút lên tiếng hô Sát Thát. Tiếng hô ấy vang lên như tiếng hò kéo thuyền dọc con sông dằng dặc mấy ngàn năm.
―A! Đây sẽ là cuộc chiến đấu cuối cùng của ta. Đây sẽ là cuộc tế lễ cuối cùng của ta cho đất nước !
Ông bảo cậu lính béo :
- Tôi muốn đứng ở đây một chút. Chưa bao giờ tôi đặt chân lên đỉnh núi thiêng liêng này. Quả là điều đáng tiếc.
- Dạ, chúng con cũng chưa bao giờ trèo lên đây. Nghe nói các vua xưa cứ ba năm lại lên đây tế lễ một lần.
- Ai bảo cậu thế ?
- Dạ, dân xóm Tiều phu kể lại.
- Đúng đấy. Đỉnh Lan Vu là nơi tụ khí thiêng sông núi. Điều này các cổ nhân đã viết rành rẽ trong sử sách. Chịu khó đọc sẽ hiểu.
- Dạ.
- Bây giờ, cậu lùi xuống dưới kia chờ tôi. Chỗ cụm thông mọc giữa hai vách đá. Lúc nào cần quay về, tôi sẽ gọi.
- Thưa chủ tịch, nhưng....
- Xuống dưới đó chờ tôi. Không cần băn khoăn nữa.
Vì giọng ông cương quyết thậm chí có đôi phần lạnh lẽo nên cậu lính béo đành lùi lũi tụt xuống bên dưới, đúng nơi ông chỉ định. Đó là khoảng đất hẹp giữa hai vách đá, nơi vọt lên một cụm thông già. Anh lính béo chần chừ một thoáng rồi sau rốt, đành ngồi bệt dưới gốc thông, ngước mắt theo rõi ông.
Còn lại một mình, chủ tịch quay lưng về phía biển đông và ngoảnh mặt lại phía tây. Đứng im như tượng giây lát, đoạn ông nhắm mắt lại, thu hết tâm trí để tiếng nói của con tim ông có thể vang dội, để những âm thanh thầm kín nhất nơi cõi lòng ông có thể lan truyền và vọng động tới các đấng thần linh :
― Hỡi các vị thần linh đất nước, hỡi những linh hồn cao thượng của các anh hùng hào kiệt và các bậc quân vương, những người từng khai phá và bảo vệ giang sơn này. Nếu thân xác các ngài đã tan rã nhưng linh anh của các ngài vẫn tồn tại và ngự trị vĩnh hằng trên tổ quốc, xin hãy trở về đây để trợ giúp tôi.
Hỡi Như Lai Phật tổ, tôi chưa từng đi theo đạo của ngài nhưng tôi may mắn biết được những đệ tử trung thành của Ngài ở nơi đây và tôi hiểu sức mạnh chinh phục của Ngài với trần thế. Nếu quả thật anh linh của ngài luôn luôn ngự trị cõi trời tây, xin ngài hãy hợp lực cùng với các vị thần xứ sở của tôi, để giúp tôi đạt được sở nguyện cuối cùng này :
Tôi, kẻ đã khai sinh ra nhà nước cộng sản Việt nam vào mùa thu năm Ất Dậu, tức ngày mồng hai tháng chín theo lịch Ki-tô, xin được rời bỏ cõi trần vào đúng ngày ấy tháng ấy năm nay, mùa thu Kỉ Dậu. Cái chết của tôi sẽ là điềm báo triệu và là bản phán quyết khai tử cho chính nó, cái thể chế tàn độc và phản bội này.
Cái chết của tôi sẽ là tặng phẩm cuối cùng dành cho dân tộc tôi.
Cái chết của tôi sẽ là chiến thắng cuối cùng có thể gặt hái, để bù trả lại những thất bại và lỗi lầm tôi đã phạm trong suốt cuộc đời mình.
Cái chết của tôi sẽ là lời sám hối thánh thiện nhất trước pháp đình tối thượng của thiên nhiên và của lương tâm.
Vậy, tôi tha thiết xin tất cả các ngài hãy giúp cho tôi đạt được điều ước nguyện!
A...a....a....
A....a....a....
A.....a....a....a....a....
Ông nghe muôn ngàn âm thanh mơ hồ, vừa như tiếng dàn đồng ca từ biển Đông vẳng lại, chan hoà, nhào trộn cùng tiếng sóng. Lại như tiếng xì xào thầm thĩ của những cuộc chuyện trò từ ngàn năm xưa vừa được thu hồi. Ông nhìn thấy những bóng người trong suốt như nước khe, mong manh như bọt sóng, khoác những thứ y phục xưa cũ, từ các vua triều Lý cho đến vua tổ triều Trần, người khởi nghiệp phái thiền Trúc Lâm. Từ tướng Đinh bộ Lĩnh cho đến tướng Quang Trung. Cả vua Lê lẫn tướng Trần nguyên Hãn. Tướng Nguyễn Xảo trong dáng một con ma không tay và Nguyễn Trãi trong bóng một con ma không đầu....Cuộc hội ngộ những con người ưu việt nhất của xứ sở, trong đó có biết bao kẻ đã từng là bằng hữu rồi trở thành thù nghịch theo thời gian....
Phía sau đám người đó, nơi chân trời vàng rực phía tây là một người cao lớn có gương mặt trầm tĩnh, cặp môi đẹp như hai cánh hồng với nụ cười thanh thản vĩnh hằng. Ông biết, đó chính là Đức Thế Tôn...
Như thế, lời nguyện cầu của ông đã được chứng.
Ông đứng im như vậy hồi lâu, cảm nhận một hạnh phúc ông chưa bao giờ biết. Một thứ hạnh phúc hoàn toàn khác biệt với niềm vui chiến thắng hay vị ngon của điếu xì-gà. Một thứ hạnh phúc bất khả truyền đạt.
- Thưa chủ tịch, thưa.....
Ông mở mắt ra, thấy cậu lính béo đứng ngay dưới chân mình :
- Tôi có làm sao đâu ?
- Dạ, con thấy người đứng im như tượng. Rồi con bỗng thấy mặt người đỏ rực lên như say rượu. Con không hiểu vì sao ?
- Không có gì phải sợ. Người ta thường đỏ mặt lên trong trường hợp nào ? Hoặc hổ thẹn, hoặc sung sướng, đúng thế chăng ? Thế cậu cho tôi đang hổ thẹn hay đang sung sướng ?
- Dạ....Con sợ...
- Không có vấn đề huyết áp ở đây. Tim tôi đang đập rất bình thường. Nào, giờ chúng ta sẽ quay xuống.
Ông đáp đoạn tụt xuống tảng đá rồi trở lại lối mòn dẫn xuống chùa Lan Vu. Cậu lính chạy hồng hộc phía sau giơ tay túm lưng áo bông của ông và nói :
- Thưa chủ tịch, giờ con không thể nghe lời người. Dường xuống dốc thường dễ ngã hơn lúc trèo lên dốc.
- Ờ...
Ông tủm tỉm cười, để mặc cho anh chàng túm lưng áo ông kiểu như trẻ con nắm đuôi áo nhau trong trò chơi rồng rắn. Hồi lâu, anh chàng nói :
- Giờ con sẽ pha trà, người uống xong tập thái cực quyền rồi hãy điểm tâm.
- Không, từ nay tôi không tập thái cực quyền nữa.
Cậu lính béo lặng im một hồi vì ngạc nhiên. Rồi sau đó, dường như không chịu nổi cơn tò mò, anh chàng hắng giọng hỏi :
- Nhưng.... Người vẫn dạy thể thao là kỉ luật ?
Đó là thứ kỉ luật nghiêm nhặt nhất mà chúng ta cần phải thực hành khi muốn duy trì sức mạnh tâm thể. Tuy nhiên, mỗi thời điểm yêu cầu một thứ thể thao thích hợp. Theo tuổi tác, con người phải thay đổi cách thức ăn uống cũng như các hình thức thể thao.
Ông đáp khi trong lòng nở nụ cười thầm thĩ :
« Từ nay ta sẽ tập thứ thể thao tương xứng nhất để mùa thu này ra đi một cách nhẹ nhàng. Bởi nếu ta biết cách bảo dưỡng thân thể như người thợ biết bảo dưỡng cỗ máy, ắt ta phải biết cách tắt mạng sống của ta như ông thủ đền tắt một ngọn nến vào lúc bình minh. »
Con đường vòng qua một khe sâu, nước róc rách vọng lên hoà cùng lời chim chóc. Bình minh núi non bao giờ cũng thần bí và tinh khôi. Mọi thứ đều vấn vương mây trắng, đều mát lạnh những giọt nước trong veo, đều ngân nga lời chim. Ông bước phăm phăm như một chàng trai và cảm thấy như lần đầu nhìn thấy mọi vật. Rồi khi con đường ló ra khỏi đám rừng, chùa Lan Vu hiện lên đột ngột như bức tranh.
- Ồ, nhanh thật !
Ông buông tiếng kêu.
- Vâng, đường xuống núi bao giờ cũng nhanh gấp bội.
Anh chàng béo đáp.
Họ qua cổng tam quan để vào sân chùa.
Đột nhiên, một màu trắng mênh mông đập vào mắt chủ tịch khiến ông bàng hoàng như bị loá. Chủ tịch vội dừng lại, định thần rồi hiểu rằng đó là vườn mai phản chiếu ánh hừng đông. Bất giác ông cất tiếng kêu :
- Ồ, hoa mai nở đầy vườn. Sao lúc đi tôi không nhìn thấy ?
- Dạ, lúc đi trời còn lảng vảng sương mù. Vả chăng người bước vội vàng nên không để ý. Đây là đợt hoa cuối cùng nở rộ. Sau đó, chỉ còn các cành lẻ muộn thôi. Sư nữ bảo con như vậy.
- À....ra thế....
Ông dừng lại, giơ tay nhẹ nhàng chạm lên những chùm hoa.
Những cánh hoa ướt lạnh và mịn màng lướt trên da thịt ông, vuốt ve an ủi. Ánh rạng đông làm những giọt sương còn đọng trên đầu lá sáng loé như kim cương. Ông nhắm mắt lại để tận hưởng vẻ dịu dàng của những cánh hoa và để nghe tiếng thì thào gió sớm. Khi ông mở mắt ra, gương mặt nàng đã trồi lên phía bên kia vườn, đối diện với ông. Nàng tươi tắn trong tấm áo chàm, cái nhìn êm ả trong vắt, gương mặt hồn hậu tinh khôi. Ông biết rằng đó chính là nàng, là nàng của ngày hôm nay, là nàng đã được giải thoát khỏi oán hờn hình nhục, là nàng của tuổi hai mươi, của mối tình bất tử, đang đợi chờ ông ở bên kia bờ dòng sông U tịch. Đợi chờ...
Ông cất tiếng :
« Giờ đây, ta nói với em, người đàn bà dịu dàng và khiêm ái, người vợ nồng nàn và rất đỗi thơ ngây, con chim oanh bé nhỏ của riêng ta. Sơn nữ ơi, ta chuẩn bị lên đường đi gặp nàng đây. »
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 42: VĨ THANH
Chủ tịch từ trần đúng ngày Quốc Khánh, mồng hai tháng chín năm Kỉ Dậu. Lũ đàn em thù nghịch tuy chẳng thông kim bác cổ nhưng cũng hiểu được sự trùng lặp này mang tính nguyền rủa và sẽ dẫn đến đòn trừng phạt không tránh được của định mệnh đối với thể chế nên chúng lừa dối mọi người bằng cách tuyên bố rằng ông ra đi vào ngày mồng ba.
Từ lúc ông nhắm mắt, một tuần liền, mưa như thác đổ. Nước trắng xoá đất lẫn trời. Sông Hồng cuồn cuộn lũ dâng, chưa bao giờ có lũ lớn như vậy vào mùa thu, bởi khi sen tàn, cỏ ngả màu chanh là lúc các dòng sông phải thu mình và các con hồ phải lắng trong để nhìn thấu rong rêu nơi đáy nước. Vậy mà lúc đó, sông Hồng đỏ ngầu bọt, réo ào ào, hung dữ như đang mùa giông bão. Khắp Hà nội, nước mưa không tiêu kịp dềnh lên các vỉa hè, tràn vào thềm nhà, xoáy ồ ồ trên các vũng lội hình thành nơi ngã ba, ngã tư đường phố. Từ thủ đô cho đến các thành phố đồng bằng cũng như miền núi, dân chúng đứng túm tụm dưới chân các cây cột đèn, nghe loa phóng thanh tường thuật tang lễ. Thành phố cũng như thôn quê, người ta khóc như có một cuộc tàn sát tập thể vừa xảy ra trên xứ sở này.
Tang lễ cử hành tại quảng trường Ba Đình, dưới thác nước. Lính đứng theo đội hình trong đồng phục quân nhân ướt sũng. Dân chen chúc từ quảng trường sang các ngả phố, quần đen áo nâu gài băng tang, trùm vải ni-lông. Các quan chức rường cột quốc gia trên khán đài, có cận vệ giương ô đen che đầu. Diễn văn thống thiết như mọi sự thống thiết trên cõi đời. Lời lời châu ngọc tuôn ra để ca ngợi công đức của vị lãnh tụ quốc gia, người khai sinh ra nhà nước cách mạng, người dìu dắt biết bao đàn em, đào tạo lớp hậu sinh thành những kẻ kế nghiệp thuỷ chung và tận tuỵ !
Không hiểu vào thời khắc diễn ra cuộc tang lễ này, linh hồn run rẩy của chủ tịch đang ở nơi đâu ? Nếu khôn ngoan, nó phải trú đậu dưới bóng cây xà cừ trước cổng bộ quốc phòng, tuy chịu ướt lạnh vì những làn nước như roi quất, nhưng chắc chắn sẽ quan sát được đầy đủ mọi lớp lang của tấn tuồng. Toàn dân khóc. Đám dân đen tốt hỉn đã đành, nhưng ngay những kẻ mưu hại ông cũng khóc rống lên tựa như cha đẻ họ chết thật . Họ khóc thảm khóc thê, nước mắt chan hoà, giọng tắc nghẹn vì đớn đau, sụt sùi vì mũi rãi. Diễn văn của họ được tô điểm bằng những tiếng xì mũi rất to và thứ tiếng động thiếu mĩ cảm này được phóng đại rồi lan truyền trên hệ thống phóng thanh công cộng.
Điều dự đoán của chủ tịch là đúng : Họ khóc thật sự.
Nhưng sự cắt nghĩa của ông lại sai : Họ không khóc vì mường tượng một ngày nào đấy họ sẽ phải đối mặt với ông trước pháp đình của thiên nhiên, họ không khóc vì hổ thẹn hay bối rối trước cuộc gặp gỡ sẽ diễn ra bên kia bờ con sông U tịch. Ồ không, hoàn toàn không phải những lý do thơ mộng như thế.
Họ khóc vì họ không thể nào không mưu hại ông, không thể nào không truy tìm và cầu mong cái chết của ông, vì đó là lối mòn của con đường quyền lực. Tuy nhiên, đây mới chính là lý do quan trọng nhất, lý do tối hậu khiến họ phải nức nở trên khán đài: Vào chính thời điểm diễn ra tang lễ, họ mới hiểu được một cách thật sự họ là ai. Sự tự hiểu vốn là thứ kiến thức khó khăn nhất có thể truy cập được trong cuộc sống của con người. Rất nhiều kẻ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay vẫn hoàn toàn sống trong bóng tối của chính họ hoặc trong đám sương mù do trí tưởng tượng của họ tạo nên. Người ta chỉ có thể khám phá ra chân giá trị của mình nhờ những hoàn cảnh đặc biệt, và trong sự cọ sát với ngoại giới ; bởi dung mạo của một con người chỉ được nhận diện qua tấm gương của tha nhân. Cái chết của ông chính là cơ hội ấy. Từ nhiều năm nay, thâu tóm quyền lực quốc gia, nắm trong tay cả một hệ thống tay sai từ thượng cấp xuống hạ cấp, từ các vị trí rường cột triều đình xuống tận tên lính gác doanh trại hoặc bọn chỉ điểm thôn xã ; lũ đàn em thù nghịch của ông tin chắc vào khả năng khống chế của chúng. Rằng chúng là hoàng đế trên ngôi còn ông là thái thượng hoàng què liệt trong hậu cung buộc phải làm tất thảy những gì chúng yêu cầu như một con rối gỗ. Rằng chúng là những anh hùng đương đại còn ông chỉ là tấm bảng thếp vàng ghi danh sách các liệt tướng đã tan rã dưới đất bùn. Rằng khải hoàn môn chúng đang xây sẽ vĩnh cửu ngự trị trên cõi đất này còn chiến công của ông chỉ là khúc nhạc dạo đầu giống như thứ tiền sảnh người ta phải đi qua trước khi bước vào chính điện. Ngày tang lễ, những ảo vọng đó bốc bay như khói. Chúng hiểu rằng quyền lực của ông chỉ có thể làm nảy sinh lòng đố kị nhưng bất khả chiếm đoạt.
Quyền lực của ông, ấy là thứ nam châm được tạo ra dưới bàn tay thần hoặc quỷ. Từ trường thật của một ông thánh ảo. Khả năng thao thác ngoại hạng của một quyến rũ ngoại hạng. Sức mạnh vô địch của tất thảy những niềm tin, những xúc cảm, những huyễn tưởng đã nhào trộn, đã kết tinh, lắng đọng với thời gian và vĩnh định trong tâm hồn. Tất thảy những bùa phép cùng một lần dung chứa mọi nghịch lý, cái thăng hoa và cái cặn bã của cùng một trò chơi...
Như thế, chính trong thời khắc định mệnh, chúng hiểu rằng chúng không là gì cả trước lão già kia. Cho dù chúng đã bỏ ra biết bao công sức và mánh khoé để tự tuyên truyền về mình, những ngôi sao « sáng hơn nghìn ngọn nến » vừa xuất hiện trên bầu trời xứ sở....
Sự lan truyền mối xúc động chung vào ngày tang lễ ông giống như sự lan truyền của bão, lụt hay hoả hoạn. Vì thế, chúng hiểu rằng ông vẫn sống dù trái tim ông không đập nữa, rằng chúng phải tiếp tục sử dụng cái bóng của ông để che chắn mái đầu mình, rằng cái khải hoàn môn mà chúng toan tính dựng lên sẽ không bao giờ có được nếu không nương nhờ tên tuổi người đàn anh. Bởi vì, sau rốt, dù đau đớn khi lòng tự ái bị tổn thương, dù căm uất sự bất khả của bản thân hay sự bất công của tạo hoá, chúng cũng hiểu rằng chúng chỉ là lũ chồn cáo nhảy nhót kiếm ăn sau đuôi một con sư tử. Chúng cần ông, dù ông đã chết rồi.
Con sư tử già đã chết. Nhưng sự hiện diện của nó lại là điều kiện tối cần để bảo đảm quyền lực cũng như vinh quang của lũ đàn em nên bằng mọi giá chúng phải kiến tạo một cái xác nhồi rơm. Vì vậy, gần như tức thời, lăng Ba đình được khởi công xây cất.
Như thế, chúng tiếp tục phản bội ông vì chủ tịch đã chính thức viết trong di chúc là sau khi chết thi thể ông phải được hoả thiêu, tro cốt phải được rải đều trên non sông, rồi sau đó tên ông được khắc lên một tảng đá nhỏ đặt trên một ngọn đồi khiêm nhường tỉnh Vĩnh Phú. Nhưng sự phản bội cũng như tội ác một khi đã khởi hành thường không còn trạm dừng chân.
Tuy nhiên, kể từ ngày mồng hai tháng chín năm Kỉ Dậu, trên đỉnh trời Hà nội, luôn luôn treo lơ lửng một lưỡi gươm. Một lưỡi gươm khổng lồ, trong suốt. Người ta có thể nhìn rõ lưỡi gươm ấy vào những ngày thu, trời vắng mây, đặc biệt những ngày trời biếc xanh, xanh tinh lọc sau mưa bão hoặc sau khi cầu vồng hiển hiện. Lưỡi gươm ấy nhằm thẳng xuống cột cờ thành Hà nội, chờ đợi khoảnh khắc định mệnh để rơi xuống, chặt đứt lá cờ đỏ sao vàng, kết thúc cái chế độ phản trắc và tàn bạo, tiêu diệt loài ngạ quỷ đã cắn cổ hút máu chính dân tộc nuôi dưỡng nó.
Như thế, lời cầu khấn của chủ tịch đã được chứng giám. Vong linh thiêng liêng bất tử của các hào kiệt dựng nước và giữ nước, của các đấng tiên vương ; ngự trị từ bảy tầng mây xuống tận các vùng đất đai, rừng núi, sông hồ xứ sở ; cũng như anh linh của các chư phật đi lại cõi trời tây đều hiểu và thuận cho ước nguyện tha thiết này.
Điều còn lại chỉ là sự chờ đợi khoảnh khắc tối hậu. Khi dân tộc Việt biết rõ sự thật và hiểu được ước nguyện cuối cùng của ông./.
Paris, 19 janvier 2007
HẾT
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top