Trang Dimple

New member
Xu
38
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 16: TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (5)
Đúng như Quý dự đoán : Vào đêm tất niên, cả Xóm Tiều Phu đến xem ― Thị Mầu lên chùa, trừ vợ chồng ông Quảng. Họ không đi vì nhiều lẽ. Trước hết họ đang ở thời kì nóng bỏng ái ân. Cô Ngân còn ở tuổi thanh xuân, ắt hẳn. Nhưng ông Quảng cũng đã nhịn đàn bà gần hai năm, kể từ ngày vợ bị bệnh Ma đói. Cuộc hôn nhân này, với cả đôi là nắng hạn gặp mưa rào. Lẽ thứ hai, họ làm việc dưới tỉnh quanh năm, và ở dưới đó, tuồng chèo, ca nhạc mới, chiếu bóng, các hội thi hát dân gian diễn ra gần như từng tuần, từng tháng, họ không phải nhịn thèm nhịn nhạt như dân Xóm Tiều Phu. Lẽ đương nhiên là thế. Kể ra, việc ấy chẳng động chạm đến ai . Nhưng thói đời, sự chênh lệch nào cũng gợi nên những ganh ghen, dù muốn hay không, dù nói toạc móng heo hay vờ vĩnh che đậy. Ngay từ lúc màn chưa mở, dân làng đã đưa mắt tìm kiếm cặp vợ chồng oái oăm này, sốt sắng như sự hiện diện của họ sẽ làm cho vở chèo thành công hay thất bại :
- Không thấy cả anh lẫn ả !...Chắc họ ở nhà !
- Chắc với lép gì nữa. Họ không thèm xem thứ chèo về xóm. Dưới tỉnh thiếu gì ? Mà dưới đó, rạp hát rộng bằng mấy cái đình làng, màn trướng thuần bằng nhung đỏ, oách lắm.
- Sao cậu Quý không mời đoàn chèo hạng một về cho dân xem? ...Đắt thì đắt nhưng cả năm một lần, ai cũng bấm bụng mua được vé.
- Có mời họ cũng chẳng về, đường xá xa xôi gập ghềnh, mà những thứ màn trướng bằng nhung bằng gấm như thế muốn di chuyển phải dùng xe ca loại đặc biệt. Rách một vết phải đền cả đống tiền.
- Thôi, phận đũa mốc thì cứ yên bề đũa mốc, đừng có rửng mỡ đòi màn nhung màn gấm làm gì ?...
- Ông nói ngang như con cặc ! Ai cũng da cũng thịt, ai cũng muốn được được ăn cơm với cá. Có đồ điên mới từ chối của ngon vật lạ.
- Chính ông mới là thằng nói ngang như con cặc! Muốn nhưng lại đéo có tiền. Thèm của ngon nhưng túi lại rỗng ! Đã thế thì im đi, nói ra làm gì cho thêm hổ thẹn ?
- Thôi, tôi xin các ông, đêm nay là đêm tất niên, chớ có sinh sự. Cuộc vui sắp bắt đầu lại cãi nhau thì còn nghĩa lý gì nữa ?
Người ta can nhau. Các bà dấm dúi cấu véo các ông chồng để họ nguôi đi cơn bốc hoả. Rồi tiếng trống nổi lên rộn ràng mời gọi. Hai tấm màn lụa , tuy đã lỗ chỗ thủng vì gián nhấm nhưng vẫn còn giữ được màu đỏ hoa mẫu đơn, từ từ mở ra và cô đào váy áo xênh xang như làn gió ngũ sắc lướt trên sân khấu :
― Tôi lên chùa thấy tiểu mười ba, thấy sư mười bốn vãi già mười lăm ...‖
Dàn nhạc sau cánh gà rộn lên tiếng đế. Một cây sáo lảnh lót vút lên trên tiếng nhị, tiếng sáo và tiếng trống đệm nhịp. Khuôn mặt tươi cười của cuộc sống khiến cho người ta tạm quên đi những dồn nén và những cơn xung động.
Sau hơn hai giờ, muốn hay không tích chèo cũng kết thúc.
Dân làng đứng ngẩn ngơ hồi lâu trước sân khấu, tiếc nuối. Cuộc vui thật nhanh tàn. Và sau cuộc vui bao giờ cũng là nỗi buồn thường trực. Khi đám diễn viên đã thay trang phục, dỡ sân khấu, gấp lại mớ phông màn để chuyển lên chiếc xe tải nằm chờ sẵn phía sau, đồng hồ mới chỉ tám giờ. Còn những bốn tiếng nữa mới đến giao thừa. Còn những bốn tiếng nữa mới được nổ pháo, hạ cỗ. Còn những bốn tiếng nữa phải chịu đựng thứ im lặng trường niên nơi sơn khuê heo hút, sau khi được tẩm đẫm trong không gian đầy ắp ánh sáng, mầu sắc, hình ảnh và âm thanh của vở chèo, quả là rất nặng nề, quả là rất đỗi khó khăn. Người ta đứng xem cảnh thu dọn cuối cùng của đội văn công, nhìn chiếc máy nổ hai mươi lăm ngựa chạy ầm ầm toả ánh điện lên màn trời đen kịt. Bỗng nhiên, nỗi luyến tiếc dâng đầy tâm hồn. Bỗng nhiên, sự cảm nhận mơ hồ về một nỗi thiếu hụt, mất mát khiến con tim khắc khoải. Người ta biết chắc chắn chẳng có gì mới chờ đợi họ ở cuối đường, nơi bóng tối đêm đông hoà cùng mầu đen của rừng cây bóng núi, nơi lát nữa, họ sẽ tìm về dưới ánh lửa bập bùng của cây đuốc dầu hoả hay ánh lập loè của ngọn đèn pin. Nơi ấy, là cuộc sống cũ mòn như tấm vải đã trơ lõi sợi ...
Trong lúc đám đông còn tần ngần, Quý đã lo xong các khoản thù lao cho đội văn công huyện. Anh ta bảo Vui :
- Bây giờ, tôi phải lo dẫn đội chèo đi ăn cháo gà trước khi họ quay về huyện. Dân làng còn đứng đầy bãi chưa muốn đi. Có tiện thì cô mời bà con đến chơi trước giao thừa. Năm có một lần, cũng phải tạo cho mọi người một đêm ấm cúng.
- Có ngay thôi, chẳng khó với em. Nhưng lát nữa anh đến chứ ?
- Có thể ...
Quý đáp nước đôi :
- Tôi sẽ đến nếu mọi việc xong xuôi.
- Thôi được, anh cứ lo phận sự của anh.
Cô Vui trả lời. Đoạn cô đi tới trước đám đông, lên tiếng :
- Bà con chưa thích về xin mời đến nhà tôi uống nước chè, ăn mứt Tết ...Đợi giao thừa, quay về tự xông nhà cho chắc ăn !
- Hoan hô, được thế thì cô là người sang nhất hạng !
- Mứt nhà cô tự làm hay mua dưới phố ?
- Mứt xịn dưới phố. Hạt dưa, hạt bí cũng là hàng cấp một, xin đảm bảo chất lượng . Còn chè mạn thơm, chính hiệu Hồng Đào.
- Ai đến nhà cô Vui với tôi nào ?
- Chẳng phải rao ! Người nào có chân, người ấy tự biết đi !...
Không ai nói ra, nhưng người ta ngầm hiểu rằng cuộc tụ tập ở nhà cô Vui chính là màn hai của đêm tất niên, sau tích chèo ―Thị Mầu lên chùa‖, ắt là tình sử của cặp vợ chồng chênh lệch. Bởi họ giàu nhất làng, bởi họ sống một cuộc sống khác biệt với đám đông, nên chắc chắn họ phải biến thành con mồi cho những cuộc đàm tiếu. Đàm tiếu, xưa nay vốn là thứ món ăn tinh thần gần như duy nhất nơi làng xóm, và là thứ độc dược kinh niên ngấm vào xương tuỷ chúng sinh.
Đêm ấy, nhà cô bí thư chi đoàn thắp đèn măng-xông.
Cô sắm cây đèn này từ khi cô ý thức rằng cô đã trở nên có vai có vế, nghĩa là từ khi cô nổi lên trong xã như một bậc Mạnh thường Quân, dù đối với ông Quảng cô cũng chỉ tương tự như võ sĩ lông gà lông vịt so với hạng gấu, hạng voi ...Tuy nhiên, đó vẫn là niềm tự hào mà không mấy người đàn bà được quyền nếm trải ...Thêm nữa; cô thầm nghĩ rằng mọi thành công của cô đều do cha cô phù trợ nên cô muốn cho ông ở dưới suối vàng được hãnh diện. Như vậy khắp Xóm Tiều Phu, sau ông Quảng giờ cô là người thứ hai có máy nổ bốn ngựa, có đèn măng-xông, những đồ vật được coi là biểu tượng của cuộc sống thịnh vượng. Với người dân vùng này, sau nhà cao sân lớn ắt đến xe ngựa, vừa là thứ tài sản vừa là phương tiện kiếm tiền. Sau xe ngựa ; có máy nổ gia đình để tưới vườn ruộng, và cây đèn măng-xông để thắp sáng tưng bừng trong những dịp lễ tết là niềm ước mơ tột đỉnh. Tết năm nay, cô Vui lại mua thêm được ba bộ ấm chén sứ Hải Dương loại một với chiếc bình pha trà cỡ đại quai đồng. Cô đem ra pha trà thết khách. Chiếc bình đại chứa hai lít nước, mỗi lần pha hết nửa gói Hồng Đào. Dân làng chỉ nhìn thôi cũng đã khiếp. Ở thôn quê, người ta vốn có thói hà tiện. Một gói trà Hồng Đào, với những nhà bình thường, uống dè sẻn ít nhất cũng mươi hôm.
Như thế là, dưới ánh sáng trắng rực của ngọn đèn măng-xông, chén tách sứ mới lóng lánh, trà thơm ngào ngạt bốc hơi, đĩa lớn đĩa nhỏ đựng mứt sen, hạt bí, hạt dưa, và các loại bánh kẹo. Tất cả được bày kín mặt hai chiếc bàn lớn kê sát nhau, trên phủ khăn hoa như bàn đám cưới. Một không khí nồng ấm, hội hè bao phủ khắp hai gian nhà, nơi người làng ngồi túm tụm nhau theo xóm hoặc theo dây mơ rễ má họ hàng. Không khí ấy khiến con người tự nhiên hào hứng và cởi mở. Người ta chuyện trò như pháo ran, từ chuyện cô con dâu nhà bà Côi ở xóm Thượng đẻ sinh ba đến chuyện con nghé nhà lão Tự say ở thôn Hạ bị cố ý đánh què để ngả ra thịt. Từ chuyện cô diễn viên đóng vai Thị Mầu có cặp vú lép đến nỗi mỗi khi cô ta cử động thì những miếng mút đệm trong su-chiêng trồi lên trụt xuống trông đến là buồn cười, đến chuyện con gái ông Huân ở xã bên chửa ngoài dạ con đem xuống bệnh viện tỉnh, tốn một tạ tiền cũng không cứu được thai ...v ...v ...
Rồi một ông bỗng lớn tiếng gọi :
- Bà chủ ơi, tôi vốn có thói xấu là bụng cao dạ dốc ...Chẳng hay có thể kiếm được miếng bánh hay khúc giò ở đây không ?
Cô chủ đứng lên :
- Có ngay ...
Nhưng vợ ông ta lên tiếng trấn áp :
- Nhà ông này rõ vô duyên, không nhịn được đến giao thừa hay sao ?
Ông chồng vặc lại :
- Việc gì phải nhịn ? Đói ngày giỗ cha no ba ngày tết. Chỗ láng giềng, cô ấy lại có bụng mời.
Bà vợ phân bua :
- Miếng ăn chẳng to, nhưng người ta lại phải đụng vào dao vào thớt, lại phải dọn dẹp, rửa tay. Trời rét thế này ! ...
Đến đó, làng xóm ùn ùn hùn vào :
- Kệ ông ấy. Đói thì làm sao mà ngồi uống nước chè ăn bánh kẹo như mấy bà cho được ?
- Đúng đấy ! Tôi tán thành. Cô Vui ơi, cho tôi chén rượu. Lũ đàn ông cứ phải có chén rượu mới xôm trò được. Các cụ dạy : Phi tửu bất thành lễ. Tôi xin phép nói trại đi : Phi tửu bất thành đêm tất niên. Ai tán thành ý kiến của tôi ?
- Tôi.
- Tôi cũng vậy.
- Tôi nữa !
- Cả tôi nữa, cô chủ ạ ...
- Được thôi, không có gì khó khăn. Nhưng trong đám các bà, ai sẵn lòng đứng lên giúp tôi một tay nhỉ ?
- Vâng, có tôi đây ! Tôi đã trót lấy một cục nợ thành ra phải đèo bòng.
Đấy là giọng bà vợ có ông chồng háu ăn đòi cỗ mặn trước tiên. Đương nhiên, sau lượt bà ấy là ba bà khác, phu nhân của các đức lang quân chủ trương :phi tửu bất thành đàn ông. Một thứ lo-gic ngầm ẩn chỉ định họ phải đứng lên , gánh bớt những phiền nhiễu cho gia chủ.Và, như thế, một phần đêm tiệc trà đã biến thành cỗ mặn với đầy đủ giò, rượu, bánh chưng, măng nấu sườn, thịt kho và hành muối. Tuy là một thứ cỗ tuỳ hứng, chỉ được chuẩn bị trong vòng mười lăm phút, nhưng cũng đủ món cho các ông nâng đũa lên hạ đũa xuống một cách sung sướng.
Khi hai mâm cỗ đầy, mỗi mâm kèm theo hai chai rượu lớn được bưng lên và đặt trên hai chiếc phản lớn kê đối diện nhau thì cánh đàn ông háo hức sà xuống . Mỗi cỗ sáu người, vị chi mười hai người. Cô chủ kê một chiếc ghế chính ở lối đi giữa hai tấm phản để cùng một lúc có thể tiếp rượu cả hai bên :
- Các bà tự pha trà, thỉnh mứt nhé. Tôi đành phải hầu chuyện đám các ông vậy.
Cô chủ tuyên bố.
Các bà nhao nhao đáp :
- Cứ tiếp họ, chẳng phải lo cho chúng tôi.
Nói thế thôi nhưng các bà cũng bưng bánh kẹo, trà nước tới chầu rìa sau lưng đám đàn ông để hóng chuyện. Người ta không quên rằng, đấy mới chính là phần cốt lõi nhất của buổi tối hôm nay, sau tích hát chèo.
Làng Khoai là làng nghèo nhất xã Hưng Mỹ.
Tỉnh Hà Tây khá rộng, nhưng sự phân bố ruộng đất cũng như nghề nghiệp giữa các vùng vô cùng chênh lệch. Người giàu nhất làng Sơn nam cũng chỉ ngang với kẻ cùng đinh ở làng Nam lộc, tuy hai làng cách nhau chưa đầy mười lăm cây số. Cứ như thế mà so sánh, làng Khoai ắt hẳn là làng nghèo nhất trong đám các làng nghèo. Cái tên làng Khoai chỉ ra rằng từ xửa từ xưa, dân ở đây làm quen với khoai hơn là với gạo và các thứ thực phẩm khác. Đương nhiên dạ dầy họ phải thích ứng để quanh năm xơi các loại khoai luộc, khoai nướng, khoai nấu độn cơm, cả thứ khoai Vàng Anh bở tung như đỗ xanh đồ lẫn khoai mật nghệ trong suốt như thạch, cả thứ khoai ngọt như mía lùi được gọi là khoai Hoàng hậu, đến thứ khoai tăng sản được dặm vào cuối mùa, vỏ trắng ruột cũng trắng nhạt như nước ốc, thường gọi là khoai Trung-Hoà ; cả khoai lang lẫn khoai sọ, khoai môn.
Thế nhưng đời nào cũng vậy, làng Khoai đều có mỹ nhân. Đấy là niềm tự hào duy nhất của dân sở tại. Đấy cũng là niềm an ủi duy nhất để bù lại sự khắc nghiệt của số phận mà họ phải chịu đựng từ thế hệ này qua thế hệ khác. Con gái làng Khoai dù chẳng là mỹ nhân cũng có nước da trắng muốt . Dù họ dãi dầu ngoài ruộng bãi cũng chỉ hai bàn tay bị mặt trời làm đen đi chút đỉnh nhưng so với đàn bà con gái tất thảy mọi làng, da họ trắng và đẹp một cách lạ kì. Người ta cho rằng làng Khoai nửa cận sông, nửa gần núi, khí trời thanh thoáng khiến cho da dẻ đàn bà con gái tươi nhuận quanh năm. Thứ nữa, mắt họ từa tựa như mắt đàn bà Chàm, mênh mông thăm thẳm, với những cặp mi dài ngút ngát, cong veo. Người ta nhắc rằng thời trước, có một toán tù binh Chàm bị đầy về tận đây để khai đất khẩn hoang cho một tướng công được triều đình phong tước. Toán tù binh này ăn chung ở lộn với đám dân sở tại, rồi vì họ có tay nghề thợ mộc thợ nề giỏi, mang lại nhiều lợi tức cho vị tướng mà họ được phép dựng vợ gả chồng với các gia nhân. Hậu duệ của những cặp vợ chồng này vì thế có những cặp mắt lớn, trong vẻo trong veo mà lại buồn như cảnh tàn thu vậy. Tóm lại, nhan sắc con gái làng Khoai đã trở thành truyền thuyết từ bao nhiêu đời, làm nức lòng đám con trai các vùng lân cận và gây nên mối hiềm khích với các cô gái khác làng, khác xã. Người làng Khoai có thể kể vanh vách thời Trần triều bà nào được tuyển vào làm chánh hậu, đời Hậu Lê ai được kết duyên với quan tể tướng, đời Minh Mạng ai được tuyển vào làm ái thiếp, đời Tự Đức ai được làm thứ phi ....Cho tới thời cách mạng này, cũng có bà Lan lấy được ông bí thư tỉnh uỷ Ninh Bình, còn cô Nga được tuyển vào đoàn văn công tổng cục chính trị, nay đi Liên-xô, mai đi Tiệp-khắc như cơm bữa ...
Cô Ngân sinh ra trong một làng nghèo với bao nhiêu niềm tự hào về dung nhan của các ái nữ. Mẹ cô đã từng là cô gái xinh đẹp nhất huyện nhưng chưa kịp được một vị quan tỉnh hay vị nha lại đầu huyện dòm ngó đã phải lòng bố cô, anh giáo làng. Anh giáo quèn lại lớn lên trong một gia đình nghèo rớt mùng tơi giữa một làng nghèo, nhưng vì là đứa con duy nhất nên cả cha lẫn mẹ đều thắt lưng buộc bụng cho anh học đủ chữ để trở thành giáo viên cấp một. Như thế, anh giáo quèn vô cùng biết ơn vợ vì cô đã lấy anh, chứ không vào đoàn văn công quân khu hay chờ đợi một vị hôn phu sang giàu nào khác. Từ thuở nhỏ cho đến khi trở thành thiếu nữ, có đến cả ngàn lần Ngân được nghe bố kể :
― Mẹ con đã được tuyển vào đoàn văn công quân khu tả ngạn rồi đấy. Có kém cạnh ai đâu. Chẳng qua bố tốt số nên lấy được mẹ thôi !
Khi cô lớn lên, nhan sắc còn đậm đà hơn mẹ. Bố cô vừa dạy học, vừa đánh dậm hoặc đan cói vào buổi tối để cô đủ tiền theo học cho đến hết cấp hai. Ông nuôi một niềm ước mơ không che đậy :
― Con xinh đẹp hơn cả mẹ con ngày trước. Con lại được học hành. Sau này nhất định con còn sung sướng hơn cô Nga xóm Mới, nay cưỡi máy bay mai lên tầu thuỷ vượt biển khơi ...
Như vậy, tương lai cô gần như đã được định sẵn, giống như một bức hoạ đã được phác thảo kĩ lưỡng, chỉ chờ ngày hoạ sĩ đủ cảm hứng để phết lên đó những nhát sơn dầu : Cô sẽ được tuyển vào đoàn văn công trung ương hoặc đoàn văn công tổng cục chính trị, sẽ đi Liên xô, Trung quốc và hàng trăm nước khác như cơm bữa, làm vinh hiển cho toàn gia !
Nhưng trong lúc cả ông bố lẫn bà mẹ đang còn bận lo toan nuôi hai đứa con trai và đinh ninh trong dạ rằng Ngân sẽ thực hiện đúng chương trình của họ thì cô đã lớn. Tuy mới mười sáu tuổi, nhưng nhan sắc lộng lẫy của cô quyến rũ không biết bao nhiêu bạn đồng môn, và không ít các anh giáo trẻ trong trường cấp hai của huyện. Tựa ngọn đèn bắt sâu ban đêm giữa cánh đồng, mời gọi lũ bướm đêm bay tới, múa lượn, say sưa mà chết thiêu chết rụi ; vẻ tươi cười nhí nhảnh của Ngân khiến cho bao nhiêu bạn học bị kỉ luật, bởi nhà trường cấm học sinh được tự do yêu đương khi chưa tới tuổi thành niên. Tuổi thành niên, theo quy định luật pháp, là mười tám. Nhưng sau khi đã thiêu chết hằng hà sa số bướm đêm, ngọn lửa đèn ắt phải tắt. Vì một lẽ nào đấy, vì lũ bướm tội nghiệp kia chất chồng khiến nó thiếu ô-xy, vì cạn dầu, vì gió thổi ? Cũng như vậy, sau khi đã chứng kiến bao nhiêu chàng trai ngã ngựa vì mình, đến lượt chính Ngân bị đánh gục, không phải với những gã trai khờ khạo đồng lứa, nhưng bởi ông giáo dạy văn, người mực thước, một vợ ba con. Ông giáo Tường.
Không ai biết đầu cuối tình sử của họ. Bởi ông giáo Tường sống với vợ con ngay trong khu gia đình giáo viên trường huyện. Một dãy nhà lợp ngói chạy dài với hàng hiên hẹp, chia thành từng lô nhỏ, giống nhau cả về hình dáng lẫn chất liệu, được xây cất một cách tùng tiệm và ẩu tả, trông hệt như một dãy hộp các- tông.Trước khu nhà đó là khoảng đất trống với dăm cây bàng, được dùng làm sân chơi bóng chuyền, bóng rổ của giáo viên lẫn học sinh. Sau khu nhà ấy là vườn tăng gia của các giáo viên giúp cho họ cải thiện đời sống vì đồng lương không bao giờ đủ, nhất là với những ai đã có gia đình. Người ta vẫn thấy ông giáo Tường cầm ô-doa tưới su hào bắp cải vào các buổi chiều, vẫn thấy vợ ông quần ống thấp ống cao te tái lùa gà vào chuồng lúc nhọ mặt người hoặc vẫn thấy chị ta cầm đèn pin đi nhặt trứng lúc gần nửa đêm. Đấy là một người đàn bà nhỏ bé, gầy nhẳng, vẻ buồn rầu không lúc nào thiếu vắng trên gương mặt nhọn như mặt chim. Họ đã sống trong khu tập thể ấy từ khi mới cưới nhau, anh Tường được bổ nhiệm về trường huyện sau khi tốt nghiệp sư phạm trung cấp tỉnh, còn chị vợ bán thuốc trong cửa hàng dược phẩm. Từ bấy đến nay họ đã có ba đứa con trai, đứa lớn nhất mười ba tuổi, đứa thứ hai mười một, đứa út, chắc là vỡ kế hoạch nên mới lên ba. Trong tình cảnh như vậy, không ai tưởng tượng nổi có một mối tình lãng mạn, say đắm nảy nở giữa một cô thiếu nữ mười sáu, đẹp lồng lộng như trăng rằm, với một ông giáo sắp sửa tứ tuần, râu một ngày quên cạo thì mặt tối như hũ nút, áo quần cũ nát, răng lẫn ngón tay ám thuốc lá vàng khè.
Khi mọi chuyện vỡ lở, nghĩa là khi Ngân có thai, thiên hạ gần như cuồng lên vì sửng sốt. Đám học sinh đã đành. Nhưng những người lớn, giáo viên, cán bộ huyện, công nhân các nhà máy trung ương đóng trong vùng, và cả dân thường ....tất cả đều muốn biết căn nguyên một mối tình phi lý hoàn toàn, theo ý họ. Chuyện thầy trò yêu đương lan khắp nơi cùng chốn, ào ào như lửa bỏng, nước sôi :
- Quỷ ám, đích thị là quỷ ám !
- Làm chó gì có quỷ, chuyện dị đoan. Tôi cho rằng thằng cha này dẻo mồm tán. Người ta bảo:đàn ông yêu bằng mắt ; đàn bà yêu bằng tai.
- Mắt với tai thì cũng phải có lý. Đời thuở nhà ai con bé lại tự nguyện yêu một lão bằng tuổi bố nó bao giờ ? Hoạ là điên ! Nếu không điên, ắt hẳn thằng cha này bỏ bùa yêu cho nó. Trước đây, em họ tôi đi dân công trên Tây bắc, bị một đứa con gái Thái đen bỏ bùa yêu. Cứ mỗi lần tìm cách quay về đồng bằng là lên cơn điên, mắt trợn trừng, mồm lảm nhảm nói toàn tiếng Thái. Gia đình đành phải đưa lên sống với đứa con gái kia.
- Cho đến tận bây giờ ?
- Chính thế. Con vợ nó chờ đến năm năm rồi cũng phải xin xã làm thủ tục ly dị để đi lấy chồng. Hai đứa con gửi cho chú thím tôi nuôi.
- Tôi không tin chuyện bỏ bùa yêu.
- Tôi tin.
- Tôi cho rằng lão giáo này có thuật chài đàn bà con gái mà chúng ta không biết được.
- Thuật gì ?
- Thôi miên chẳng hạn. Thằng cha này trông hom hem thế nhưng khi nó nhìn ai, người ta cứ như bị đóng đinh câu rút, không động cựa nổi. Tôi cho là con bé bị cặp mắt nó hút hồn.
- Có thể ! Nhưng nếu thế sao từ trước tới nay nó không chài những đứa khác ? Khoá học nào chẳng có vài cô xinh ?
- Đúng vậy. Từ trước đến nay ông ta có chuyện trăng gió nào đâu ? Nếu là kẻ chuyên mồi chài ong bướm hẳn mọi sự đã phải xảy ra từ lâu. Mười lăm năm qua, thiếu gì học trò đẹp, tại sao phải chờ đến lượt con Ngân ?
- Vì số mạng định thế. Đến ngày đến tháng, cái thai mới chui ra khỏi bụng mẹ. Cũng như vậy, đến ngày đến tháng, tai hoạ mới hiện hình.
- Ông cho thế là tai hoạ à ? Tôi lại cho là phúc cơ đấy. Đương nhiên, được ngủ với một đứa con gái còn trinh tiết, lại xinh đẹp như tiên. Chẳng khác chi được bước vào thiên đường.
- Nhưng sau thiên đường là địa ngục. Mọi người chưa biết chuyện bố con Ngân lồng lộn kiện nhà trường, vác dao đòi giết lão giáo Tường. LãoTường phải trốn lên tỉnh. Bây giờ, nghe đâu đã nhận kỉ luật chuyển đi nơi khác.
- Chuyển đi đâu ?
- Tôi không nhớ rõ nhưng chắc chắn là một tỉnh biên giới. Trên đó, ông ta bị phân công tới một nơi khỉ ho cò gáy, dạy đám tân binh trong trường đào tạo hạ sĩ quan. Các trường đào tạo sĩ quan cao cấp thường ở gần thành phố lớn, nhưng các trường đào tạo hạ sĩ quan bao giờ cũng bị tống vào những miền chó ăn đá, gà ăn sỏi. Ở những nơi ấy, ngọn rau muống cũng hiếm. Thức ăn đầu bảng quanh năm là cá khô với mắm tôm.
- Đáng kiếp thằng dê già. Luật nhân quả chẳng bao giờ sai. Đã hưởng lộc trinh tiết, đã nếm da thịt con gái trắng như trứng gà bóc thì sau đó mãn kiếp mút cá mắm khô cũng là phải.
- Địa vị tôi là bố con bé Ngân, tôi cũng vác dao cho thằng cha này một nhát. Hết một đời con gái. Uổng một kiếp giai nhân !
- Ông cho nó một nhát thì ông cũng phải ngồi bóc lịch trong tù. Mà đã dan díu nhau ắt hẳn phải tự cả đôi bên, cả anh lẫn ả ...can cớ chi đâm chém người ta ?
- Ông ngu thật. Theo luật, mười tám tuổi mới thành niên. Con cái Ngân mới mười sáu ...Ngủ với nó tức là thằng cha kia phạm luật. Tội ấy gọi đích danh là : Quyến rũ trẻ vị thành niên. Đáng lẽ nó phải bị truy tố và tù ngồi ít nhất bốn năm. Nhưng bác ruột nó là chánh án toà án tỉnh.Vì lẽ ấy mới thoát được cửa tù.
- Ra thế, tôi không biết.
- Ông không đọc luật à ?
- Thời giờ đâu mà đọc luật. Ngày làm hai ca, có khi ba ca thông tầm. Tuần làm sáu buổi, có khi chủ nhật còn phải lao động công ích xã hội chủ nghĩa. Về đến nhà chỉ muốn lăn ra ngủ. Trèo lên bụng vợ còn lười huống chi ngồi đọc luật ?
- Thế con gái ông lên mấy rồi ?
- Mười hai.
- Vậy thì hãy lo đọc luật từ bây giờ. Có ngủ chỉ nên nhắm một mắt, mắt kia phải mở mà ngó nghiêng, mà liếc ngang liếc dọc. Nếu không lại có thằng cha nào bằng tuổi ông nó ngấp nghé gọi ông là bố vợ bây giờ.
- Đồ đểu ! Tại sao ông độc mồm độc miệng thế ? Ông cầu cho tôi khốn nạn như lão giáo làng Khoai hay sao ?
- Tôi không cầu cho ông khốn khổ như vậy. Nhưng biết lo xa thì tránh được cái hoạ gần.
Quả tình, tất cả những gia đình có con gái tuổi dậy thì đều nháo nhác sau câu chuyện tình oái oăm trên. Người ta hiểu được nỗi đau đớn của ông giáo làng Khoai. Vì sao một con người hiền lành nhu thuận như thế lại vác dao lên huyện giữa thanh thiên bạch nhật. Ông giáo Tường chỉ kém bố cô Ngân hai tuổi, nhưng vì mắt sâu, râu rậm nên trông mã còn có vẻ già hơn. Giá như ông ta là đại gia đại phú, hoặc là quan lớn đầu tỉnh hoặc bậc lương đống triều đình, người ta còn có thể châm chước. Nhưng đằng này, ông giáo dạy văn trường huyện lại là kẻ ―trên răng dưới dái, mà đã thế lại là dái già ....nên thiên hạ bất khoan dung.
Lúc ấy, cái thai trong bụng cô Ngân đã sang tháng thứ tư ; kể thì cũng khá muộn nhưng nhà trường vẫn cho giấy giới thiệu vào bệnh viện huyện xin ― nạo thai cho nữ sinh vì lý do tai nạn đạo đức ―. Mẹ Ngân đưa con gái nhập viện buổi tối, cả hai đều lấy khăn bịt mặt chỉ để hở hai con mắt, nón đội sụp xuống ngang mày. Bố Ngân tuyên bố từ con gái. Ông giáo làng bảo vợ :
― Giá nó cầm dao đâm thẳng vào tim tôi còn hơn là nó đẩy tôi vào tình cảnh này. Kể từ nay, dưới mái nhà này có nó thì chẳng có tôi, và ngược lại. Tuỳ mình chọn ...
Vợ ông không dám chọn, bởi bên chồng bên con đều là máu thịt cả. Đưa Ngân vào viện nạo thai xong, bà giáo dẫn con về gửi mẹ. Ở đó, Ngân sống với cậu mợ và bà ngoại. Hơn một năm sau, cậu Ngân vốn là thợ nề tay nghề cao xin cho cô chân thợ quét vôi dưới công trường. Còn ông giáo Tường, không nghe thấy tin tức gì nữa. Có tới một năm ròng, người ta thấy vợ ông, người đàn bà teo tóp như cây rau cải phơi nắng vẫn bán thuốc trong cửa hàng phố huyện. Gương mặt vốn dĩ nhọn như mặt chim nay càng quắt lại, trơ cả xương hai gò má lẫn xương sống mũi. Qua tết, không còn thấy chị ta trong cửa hàng dược phẩm huyện. Bốn mẹ con nghe đâu dắt díu nhau về tỉnh Thanh, quê ngoại. Gian nhà của ông giáo Tường khoá cửa một vài tháng rồi được phân cho giáo viên thể dục mới về.
***
Khi ông Quảng và cô Ngân quyết tâm gắn bó keo sơn, họ tính chuyện hợp lý hoá cuộc sống đôi lứa. Trong tình cảnh gia đình như vậy, cô Ngân không muốn cưới xin linh đình theo cách của mọi người. Trước hết, cô không muốn khuấy lại dòng nước đã lắng. Vết thương cũ của ông giáo làng chắc chắn chưa lành, nếu cơn cớ chi chạm tới, ắt máu lại ròng ròng chảy. Người làng vẫn nhắc lại cảnh bố Ngân bỏ lên lớp, bỏ ruộng cày cả tháng, băm nát mớ đồ nghề đánh dậm, chũm cá sông. Đêm đêm, ông giáo đi như cuồng cẳng trên đường làng, chốc chốc lại ngửa cổ lên tru như chó sói gọi đàn khiến chủ tịch xã là cậu ruột, phải bỏ tiền mời bác sĩ tỉnh về tiêm. Ai cũng ngỡ ông ta sẽ khăn gói vào nhà thương điên, không chóng thì chầy. May phúc đức tổ tiên, và cũng nhờ tay nghề bác sĩ tỉnh mà ông ta đã hoàn hồn, tuy thi thoảng vẫn có những cử chỉ hoặc những câu nói không thật sáng suốt. Cô con gái chính là toàn bộ giấc mơ vinh quang của người cha. Giấc mơ ấy tan tành như chiếc gương bị đập vụn. Ông giáo làng không muốn chấp nhận sự thực đau lòng ấy. Ông tìm cách tẩy xoá mọi dấu vết của thời mơ mộng cũ. Tất thảy những gì liên quan đến Ngân đều bị ông đem đốt hoặc trôi sông. Những tấm ảnh xinh đẹp treo đầy tường. Hòm quần áo. Rổ đồ khâu khi cô học nữ công gia chánh. Những con búp-bê vải cô tự khâu. Những quyển vở chi chít điểm son từ khi cô còn học cấp một. Tất thảy những kỉ niệm của một niềm tự hào quá lớn chung sống với một giấc mơ ban ngày kéo quá dài.
Ông Quảng đã từng làm cha. Ông hiểu lòng tự ái tổn thương sẽ xô đẩy con người vào thứ địa ngục nào. Những năm tháng lăn lộn trên đủ miền đất, rong ruổi trên mọi nẻo đường dậy cho ông biết cảm thông và nhẫn nhịn. Hạnh phúc của ông ắt sẽ đòi thử thách. Chính ông là người gánh vác chứ không phải Ngân. Sau khi tính đi tính lại, họ quyết định nhờ người cậu Ngân mời mẹ cô xuống công trường chơi. Ở đó, đêm thứ nhất bà mẹ được nghe cô con gái kể lại tình sử của cô với một người đàn ông hơn cô bốn mươi ba tuổi, bậc Từ Hải tái sinh đã dang tay che chở cứu cô thoát khỏi kẻ hung đồ. Ngày thứ hai, cô đưa mẹ đi chơi phố, sắm sanh cho gia đình tất thảy những gì làm cho con mắt mọi người có thể sáng rực lên như đèn điện. Ngày thứ ba, mới là bữa cơm chính thức giữa bà mẹ vợ và chàng rể tương lai hơn bà hai mươi bốn tuổi. Có một sự trùng hợp khiến cho cả hai bên đều không tránh được ngượng ngùng : bố của Ngân sinh cùng tháng cùng năm với Quý, con trai đầu ông Quảng, họ chỉ khác biệt nhau về ngày sinh.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 17: TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (6)
Tuy nhiên, mẹ Ngân là người thực tiễn. Bà hiểu rằng con gái mình đã lỡ trớn không thể nào tìm lại được cơ hội cũ. Như con thuyền bị lũ cuốn xuôi chẳng thể quay ngược dòng. Nếu cô cảm thấy sung sướng với những người đàn ông hơn cô nhiều tuổi chắc chắn vì số mạng của cô đã định sẵn một lối kết duyên trái khoáy, ngược đời như vậy. Không ai chống lại được luật trời. Từ ông giáo Tường đến ông Quảng, đường đời của cô đã vạch sẵn theo những đường chỉ kẻ trên lòng bàn tay. Bà thở dài, nhưng bà chấp thuận tất thảy những gì không thể thay đổi được. Thêm nữa, đối với người làng Khoai, vật chất có giá trị mạnh mẽ. Người chồng tương lai của Ngân sẽ đem lại cho cô một đời sống vật chất tối đa. Và đó là sự bù trả của định mệnh.
Ngày thứ tư, bà mẹ khệ nệ xách hai chiếc hòm quay về làng . Bà không nói gì với ông giáo về cuộc gặp gỡ cô con, chỉ lẳng lặng thu dọn đồ đạc và dáo dác :
- Ít bữa nữa thế nào cậu cháu cái Ngân cũng gửi thợ về làm nhà. Dưới đó, nó dành dụm được ối tiền.
- Tôi đã bảo mình là đừng bao giờ nhắc lại tên nó trước mặt tôi.
- A, tôi quên. Vậy từ giờ tôi chỉ nhắc tới cậu nó. Tháng tới cậu ấy sẽ giúp chúng ta sửa nhà.
- Làm gì tuỳ ý. Nhà này quyền ở mình từ xưa đến nay.
Ông giáo đáp chủng chẳng rồi chắp tay sau đít đi ra ngõ.
Hai tuần sau, em bà giáo dẫn một tốp thợ tám người về làng Khoai. Kèm theo họ là ba xe tải chở gỗ, gạch, xi-măng lẫn các phụ liệu khác. Dân làng xúm lại xem như đêm rằm tháng tám trẻ con xem đèn kéo quân.
Làng Khoai chưa từng có một mái ngói. Cả làng thuần một kiểu nhà lợp rơm hoặc lá cọ, tường xây bằng đủ loại chum vại sành, tiểu sành hư hỏng, mua ở làng bên. Làng láng giềng là Quách Thổ, một làng bề thế với trên bốn ngàn dân, giàu có từ nhiều đời đổ lại . Họ giàu vì họ không làm ruộng mà chỉ chuyên làm đồ sành. Đất vùng Quách Thổ là thứ đất sét tuyệt hảo để chế tác các loại vật dụng bằng sành , trước hết là tiểu. Tiểu lại là mặt hàng đời đời kiếp kiếp cần thiết cho chúng sinh. Dù giàu hay nghèo, bất luận muốn hay không muốn, nhà nào cũng có người chết, qua ba bốn năm phải rửa xương cốt cho vào tiểu sành chôn lại lần thứ hai. Lần này mới thực là lần hoàn tất thủ tục ma chay, và như thế chiếc tiểu sành được coi như nơi trú ngụ cuối cùng của vong linh, ngôi nhà vĩnh cửu nếu vong linh đó không có cơ may đi đầu thai lại. Bởi thế, tiểu sành là thứ mặt hàng bắt buộc phải tiêu dùng đối vớ tất thảy dân cư. Nghề làm tiểu sành được coi như thứ nghề danh giá nhất trong vùng. Người ta không cho phép kẻ ngoại nhân được học nghề ấy. Con gái con trai làng Quách Thổ buộc phải kết hôn nội trong ba dòng họ thống lĩnh nghề này. Nếu kẻ nào dám mạo muội vượt qua lề luật, buộc phải đi biệt xứ, hoặc vào Nam kì, hoặc ngược lên biên giới phương Bắc. Nếu quanh quẩn trong vùng châu thổ sông Hồng, thế nào cũng bị phát hiện và rượt đuổi. Còn trường hợp hãn hữu, những kẻ bạo phổi to gan dám mở lò nung tiểu sành hay chum vại theo nghề cũ ; ắt phải liệu thân ; cuối mọi ngả đường đều có kẻ rình đánh cho tàn tật. Vì lý do ấy, cả vùng nhìn dân làng này như nhìn những kẻ thù bất dung thứ, vừa là lũ giàu sang ngạo ngược vừa là những kẻ độc ác, tay dính máu người. Để mua lại đôi chút tình cảm vờ vĩnh của dân các vùng phụ cận, tức khách hàng vĩnh cửu của mình, dân làng Quách Thổ bán lại những chum vại nổ, vỡ, méo mó hoặc non lửa hoặc già lửa và những chiếc tiểu không đủ tiêu chuẩn với giá rẻ như bèo . Khách hàng đầu bảng của họ chính là dân làng Khoai, làng bần cùng nhất trong đám làng bần cùng. Xây cả một ngôi nhà năm gian bằng những thứ chum méo, vại thủng hay tiểu sành vỡ đáy này chỉ tốn bằng tiền mua một chiếc tiểu đúng chất lượng. Thế là ngôi nhà dành cho cả chục người sống cũng chỉ trị giá như nấm mộ cỏn con dành cho người dưới tuyền đài. Dân làng Khoai quen với hình dáng kinh dị của những ngôi nhà xây bằng đồ phế thải. Nhưng nếu khách giang hồ lạc đường ghé qua đây, ắt hẳn phải giật mình kinh sợ vì những bức tường cong queo, lồi lõm, khi phình ra như những chiếc bụng ỏng, khi dúm lại như vỏ quả bóng xì hơi. Chúng đem lại nỗi ngần ngại hãi hùng, vì với hình dạng kì dị như thế, chúng gần với hang hốc, nơi trú ngụ của gấu ngựa hay hùm beo chứ không phải những ngôi nhà dành cho con người. Vì lẽ đó, hình ảnh những ngôi nhà ngay ngắn, đẹp đẽ, với mái ngói đỏ au là giấc mơ tót vời của người dân ở đây. Và là một giấc mơ bất khả trong hiện tại. Như thế, đủ hiểu vì sao người ta xúm đen xúm đỏ xem những chiếc xe chở vật liệu và toán thợ tỉnh về làng như du khách xem bảo tàng.
Công việc xây dựng tiến hành một cách hối hả. Cậu em bà giáo ở lại trực tiếp chỉ huy. Ngôi nhà hai tầng hiện lên như trong chuyện cổ tích. Nó vượt qua trí tưởng tượng của mọi người. Nhà mình xây xong, bà giáo có nhã ý tặng cho ông cậu chồng đương kim chủ tịch xã nửa xe gạch và xi-măng còn thừa, động viên ông cậu : « Dấn lên, cháu ghé vai gánh đỡ một nửa ». Ông chủ tịch dấn lên thật, vì cơ hội ngàn năm có một mà bỏ qua thì hoạ là điên ... Bà giáo hỗ trợ ông để có thể thay đủ bốn bức tường gạch với lên một mái ngói. Còn cậu em bà tự nguyện chờ đến năm sau.
Hôm khánh thành nhà mới, bà giáo làm hai mươi mâm cỗ mời họ hàng. Một tuần sau, ông chủ tịch quyết định cho cửa hàng kinh doanh xã dời về tầng chệt nhà bà bởi không thể tìm đâu ra một nơi lý tưởng đến thế cho dân làng tụ họp, nhận các phần tem phiếu và mua mọi loại nhu yếu phẩm, từ mắm muối, len vải sợi, đến sách bút cho trẻ em, thuốc thang cho người ốm, từ quần đùi, may-ô, sơ-mi dệt cho các ông cho đến gương lược, kim chỉ, sáp chống nẻ môi và nước hoa rẻ tiền cho các cô các bà. Bốn gian phòng thênh thang khả dĩ vừa làm cửa hàng, vừa làm kho chứa, vừa là nơi khách ngồi chuyện gẫu. Như thế, đương nhiên bà giáo được bổ nhiệm làm cửa hàng trưởng, thay cho cô cửa hàng trưởng cũ vừa bị kỉ luật vì tham ô. Ông giáo lẫn hai cậu con trai rút lên tầng trên. Tầng này, cũng có ba gian rộng rãi, ngoài nơi làm việc, ăn uống của ba bố con, ông vẫn còn nơi thờ cúng tổ tiên, hoặc ngồi ngắm cảnh. Cuộc đổi đời xảy ra gần như trong chớp mắt, giống như chiếc đũa thần của bà tiên chạm vào mớ áo quần rách rưới của nàng Lọ Lem và biến chúng thành xiêm y lộng lẫy, chạm vào quả bầu để biến nó thành cỗ xe ngựa xa hoa chở nàng đến với Hoàng tử trong Vương quốc của những chiếc giầy thuỷ tinh.
Dân làng Khoai dù đã được mời ăn cỗ nhưng vẫn điên lên vì bỗng dưng chuyện cổ tích hiện về. Mà nếu chuyện cổ tích đã hiện về thì những nén vàng thoi bạc phải chia đều cho chúng sinh, cớ sao bao nhiêu ân sủng dồn cả cho lão giáo làng ngơ ngẩn ? Thế là người ta cố công moi cho ra bí ẩn của sự việc.
Cuộc dò tìm không mấy khó khăn bởi tám gã thợ kia trong lúc làm nhà đã đủ thời gian để liếc các cô gái làng và chết mê chết mệt vì nhan sắc của họ. Trong đám thợ ấy ngoài những gã đã hai ba mụn con với một nái xề giữ chuồng gà chuồng lợn nơi quê nhà cũng còn được hai chàng chưa vợ. Hai gã thợ xây trẻ nếm cơm thiên hạ đã mòn môi , nhận ngay ra vẻ đẹp của các cô gái trong cái làng nghèo xa lắc xa lơ, nơi cùng sông cuối núi này. Cả hai quyết tâm cưa bằng đổ các cô, quyết tâm « đi theo gót ông già kháu lão chịu chơi tên là Quảng ». Vài bữa cơm rượu trong nhà người đẹp đủ cho hai chàng trai phun ra tất thảy mọi bí mật về tình sử ―cô Ngân, ông Quảng, kèm theo những bình phẩm của mọi loại dân trên công trường. Sau rốt, người ta được thoả mãn vì đã tìm thấy chiếc đũa thần của bà tiên, chiếc đũa biến những con cóc thành cặp giầy thuỷ tinh tuyệt mỹ.
Lần này, mọi dư luận không còn chạm tới ông giáo làng được nữa, bởi ông cố thủ trên căn gác, suốt ngày ngồi đọc sách. Cậu em vợ khuân hai thùng sách cũ thư viện công trường thải ra đem về làng, làm quà tặng cho ông anh rể, kèm theo ngọn đèn điện chạy ắc-quy. Người ta thường xuyên nhìn thấy ông qua khuôn cửa sổ thênh thang của căn gác, nghiêng đầu trên chồng sách , thay vì hì hụi đánh dậm ban đêm hoặc chổng mông lên mò cua giữa trưa hè một thuở chưa xa. Bà giáo tươi cười như hoa, càng ngày càng béo phây phây, má đỏ hồng như má con gái. Bà mặc vải phin nõn hoa, tai đeo nụ chân đi dép Trung Quốc tím trong suốt, kể như thế đã là giấc mơ tột đỉnh của đám đàn bà cầy cuốc đương thời.
Tuy nhiên, bà không bao giờ dám nhắc đến tên con gái. Vài tuần sau ngày khánh thành nhà mới; nghe đâu ông Quảng cô Ngân về làng đăng kí kết hôn. Nếu quả thực như vậy, chắc chắn chủ tịch xã sẽ đích danh làm thủ tục. Còn nhân chứng hẳn không thể là ai khác ngoài bà mẹ vợ và cậu em trai của bà. Tất thảy diễn âm thầm và vô cùng mau lẹ, người ngoài cuộc chẳng thể biết. Bởi chính chủ tịch xã không hé môi nói nửa lời. Người ta đồn thổi hoặc suy đoán như vậy vì bắt gặp cặp vợ chồng mới quay trở lại chiếc xe ô-tô chờ họ bên kia sông để trở về thành phố. Đưa chân họ là bà mẹ và ông cậu. Chủ tịch xã tươi cười vẫy tay chào . Cô Ngân nhỏ nước mắt trước khi trèo lên xe. Cô nhìn vài lượt làng cũ, con sông, cánh đồng ...nơi chôn rau cắt rốn, nơi đớn đau thân thiết, nơi cô sẽ không còn có cơ quay trở lại.
***
Tiệc rượu tất niên trong nhà cô Vui kéo qua giao thừa. Pháo nổ tứ bề nhưng đám người say chuyện vẫn còn ngồi hỉ hả nâng chén lên, hạ chén xuống :
- Đã giao thừa rồi sao ? Vui chuyện quên cả đường về .
- Gọi là Tết thì cũng phải được thoải mái. Quanh năm đầu tắt mặt tối còn gì ?
- Nhưng lẽ ra tôi phải về đốt pháo.
- Đốt pháo là việc của trẻ ranh, sao ông lại tranh với chúng nó ?
- Nhưng con tôi còn bé quá.
- Bé quá thì vợ ông làm, bề nào thì cũng đã quá giờ. Ông có đi bây giờ cũng bằng vô tích sự.
- Ờ ...ờ ...
- Vui thật, nghe pháo nổ sướng cả tai. Dù sao Tết cũng vẫn là Tết !
- Tết năm nay xôm ra trò. Mà cũng lạ lùng. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, chẳng bao giờ tôi qua giao thừa ở nhà hàng xóm.
- Tôi cũng vậy. Nhưng sống mãi cũng phải tìm cái gì mới lạ . Mà dẫu ngồi dưới mái nhà mình hay nhà láng giềng thì cũng vẫn rượu, vẫn thịt, vẫn bánh chưng xanh với đồ nhắm. Có thiệt miếng nào đâu ?
- Chẳng thiệt miếng nào đã đành mà còn được nếm rượu thượng đẳng nữa. Phải công nhận rằng tay nghề của cô Vui đáng kính nể. Cô ấy học được phép bí truyền của bà cụ thân sinh ông Đô. Cùng một thứ men, cùng một thứ nếp nhưng rượu nhà này say êm hơn rượu nhà tôi.
- Không chỉ có rượu ngon mà còn trà ngon và chuyện hay nữa chứ ! Này cô Vui, tôi tưởng cô chỉ giỏi làm nhưng không ngờ cô còn giỏi nói nữa. Lẽ ra cô nên làm nghề giáo học.
- Không dám, ông quá khen ! Tôi nghe được ra sao thì kể lại nguyên si như vậy, không thêm không bớt.
- Kể nguyên si cũng phải biết rút lưỡi ra mới đổ được nhời. Thiếu gì kẻ hiểu rành rẽ mọi sự mà không nói được cho ra nhẽ .
- Ôi dào, các ông khen phò mã tốt áo. Cô ấy làm bí thư chi đoàn đương nhiên phải biết nói năng .
- Bí thư chi đoàn thì cũng chỉ biết phổ biến nghị quyết, biểu dương thành tích hay công bố kỉ luật chứ làm sao biết tả cảnh tả tình lên bổng xuống trầm như thế ?
- Đúng đấy. Rõ rành rành là cô Vui có năng khiếu kể chuyện. Nhưng phải công nhận rằng tình sử của cặp vợ chồng này cũng hay.
- Ông có lý. Chuyện tình của ông Quảng xôm ra trò. Năm nay vui đáo để ! Bởi năm nào cũng chỉ có một vở chèo. Năm nay, những hai tích chèo lận. Này cô chủ, cho thêm rượu với ...
- Chờ tôi một chút.
- Chúng tôi không nói cho được lòng chủ nhà đâu, nhưng quả thực cô có tài ăn nói. Tiếc rằng cô xuất đầu lộ diện hơi muộn. Cô mà là giáo viên dạy văn cấp hai thì khối kẻ xin chết đấy.
- Không dám đâu.
- Cô đừng tưởng trên đời này chỉ đơn thuần là ― Gái tham tài, giai tham sắc. Nhiều khi cánh đàn ông cũng tham tài nữa đấy. Tôi là đàn ông tôi hiểu bụng dạ đàn ông.
- Thôi, tôi xin các ông ! Không dám !...
- Tôi nói thực tình chứ không nịnh rượu của cô đâu. Đói ngày giỗ cha no ba ngày tết, nhà chúng tôi cũng đầy rượu thịt, bánh trái. Nhưng ăn mà không có người cùng ngâm nga, không có chuyện mà tán tỉnh thì vô duyên quá. Tôi nói có phải không các ông ?
- Đúng như vậy ; chuyện cô kể thật tuyệt vời. Điều đó đáng giá hơn ngàn lần hai mâm cỗ của cô.
Cô chủ mang tiếp ra hai chai rượu nữa. Không rõ những lời khen của khách là thật hay dỡn nhưng hai má cô đỏ ửng lên, mắt cô long lanh và rõ ràng trông cô xinh gấp bội ngày thường. Cánh đàn ông tiếp tục rót rượu, nhưng những người đàn bà đã nháo nhác đứng lên :
- Thôi đi chứ, Tết nhất mà ăn uống như thuồng luồng ba ba, quá bằng kẻ đói năm Ất Dậu.
- Ô hay, cứ để các ông ấy được tự nhiên. Tết có đông khách đến nhà ăn uống ra giêng chắc chắn sẽ làm ăn thịnh vượng.
- Sông nào cũng có bờ có bến, vườn dẫu hẹp dẫu rộng cũng có rào có dậu. Tiệc nào rồi cũng phải tàn. Về đi cho cô chủ nghỉ ngơi.
- Về đi ! Tôi sốt ruột lắm rồi.
Những người đàn ông tuy có oai phong lẫm liệt nhưng sau rốt cũng phải hiểu rằng khi các bà lên tiếng có nghĩa rằng giờ đã điểm. Một ông dốc tuột chén rượu cuối cùng vào họng rồi hắng giọng :
- Nào các ông, cạn chén đi rồi đứng lên. Người xưa bảo :―Lệnh ông không bằng cồng bà. Người thời nay thêm vào : ― Nhất vợ, nhì trời .Thôi, chúng ta cũng phải nhìn người đời mà hành xử.
- Ông đúng là đồ râu quặp.
- Tôi đích thực râu quặp, xin nhường cho ông vểnh râu. Ở đây ai mắc bệnh râu quặp như tôi ?
- Tôi.
- Tôi nữa.
- Tôi cũng vậy ...
Các bà vừa vỗ tay tán thưởng, vừa cười sặc sụa khi nhìn các đức lang quân nghiêng ngả đứng lên. Sau rốt, chỉ còn lại hai ông râu vểnh. Hai ông này ngó xuôi ngó ngược thấy xung quanh đã đứng lên hết cũng đành dằn chén xuống mâm :
- Nào thì về ! Rõ thật chán mớ đời cái bọn đàn bà. Chuyện đang rõ là vui.
Một bà đanh đá ngứa mồm đối đáp :
- Chuyện vui đến mấy cũng đến lúc chấm hết. Hát cô đầu hay đến mấy cũng đến lúc phải hạ trống chầu. Không kẻ nào cả gan tom chát suốt ngày dài đến đêm thâu. Chẳng qua vợ các ông quá hiền nên mới chịu bị bắt nạt.
- Việc ấy chẳng dây dưa đến nhà bà. Tôi có lấy bà làm vợ đâu ?
- Ồ, may thật là may, phúc nhà tôi to bằng cái đình nên tôi không phải chui vào cửa nhà ông. Trên đời này ai ghét tôi thế nào tôi ghét hạng đàn ông vểnh râu như thế.
- Tôi cũng ghét ...
Bà vợ ông râu vểnh đứng nép sau đám chị em, im lặng từ đầu giờ mới lên tiếng :
- Lòng vả cũng như lòng sung các bà ạ. Khốn nỗi các cụ đã dạy : « Ghét của nào trời trao của ấy » Chịu nhịn mãi rồi cũng thành quen ...
- A ....a ....Con mẹ này hôm nay to gan nhỉ ?
Ông râu vểnh quay lại nhìn vợ với đôi mắt trợn trừng, nửa như kinh ngạc nửa đe doạ. Bà vợ được kích thích bởi khí thế của láng giềng, cũng sửng cồ lên:
- Ai cũng da cũng thịt. Chị em người ta dám như thế, tôi cũng phải vùng lên chứ ?
Đến đây thì cô chủ ra tay can thiệp vì không khí bắt đầu căng thẳng. Bước hai bước, cô xen giữa cặp vợ chồng, cười nụ cười tươi chưa bao giờ thấy :
- Bà ấy nói đúng đấy, tất cả loài người đều hát khúc hát vùng lên !
Rồi cô tủm tỉm nhìn quanh. Khi thấy mọi người đang ngẩn tò te trước cách diễn đạt quá văn chương của mình, cô liền cao giọng :
- Trong số các vị ở đây tôi điểm thấy tám đảng viên cả thẩy. Chẳng lẽ các vị đã quên bài hát tuyên thệ dưới đảng kì hay sao ?
Tám ông đảng viên nhìn nhau, người này cầu cứu trí nhớ của người kia nhưng rốt cuộc tất cả đều ậm ừ, ngắc ngứ trong họng. Lúc đó cô Vui mới dõng dạc đọc từng lời từng chữ :
-― Vùng lên hỡi các nô lệ của thế gian ;
Vùng lên những ai cực khổ bần hàn ;
Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành ...
Thế nào, các ông đã nhớ ra chưa ?
- Quên tiệt.
- Chịu cô thật. Ngày kết nạp thì phải cố học vài câu mà ư hữ cho qua chuyện. Xong thì thôi chứ có phải cơm áo gạo tiền đâu mà nhớ ?
- Thế mà tôi cuộc rằng các ông nhớ không sót mảy may chuyện nhà ông Quảng. Điều đó đúng hay sai ?
- Chả phải bàn. Cũng chả cần chối. Chuyện trong làng trong thôn thì chẳng cần vắt óc cũng nhớ như nhớ cái gối đầu giường. Còn những bài hát tận đẩu tận đâu, từ những bên Tầu bên Tây đưa về hơi sức đâu mà bận tâm cho nhọc ?
- Chính phải.
Lúc ấy, một trong hai ông vểnh râu lên tiếng :
- Tôi đố các vị chuyện đã chấm hết chưa ?
Vẫn là chị chàng đanh đá trả lời trước :
- Chẳng chấm hết thì còn gì nữa. Kết thúc, anh lấy ả, ả chui vào giường anh ...Ông còn muốn gì hơn ?
- Rõ thật là đồ đàn bà, óc không to hơn quả bưởi, mắt nhìn không quá hai sải tay.
- Phải chúng tôi ngu, nhường cho ông khôn hết ...Rõ ra đồ sĩ diện, lòng tự ái to bằng cái bồ.
- Nghe cho rõ đây này : Chuyện bây giờ mới bắt đầu. Mọi người không thấy thể sao ?
- Chúng tôi chẳng thấy gì hết. Người ta đã thương nhau, đã đi cuối núi cùng sông, đã làm thủ tục kết hôn hợp pháp, còn ai dám xen vào ?
- Đã làm thủ tục chưa cô Vui ?
- Tôi không rõ. Nghe người ta đoán già đoán non thế thôi.
- Mà không có thủ tục thì trai chết vợ, gái chưa chồng, làm gì được họ ? Mấy ngàn năm trước tổ tiên mình vẫn lấy nhau vẫn sinh con đẻ cháu, có ai cần đến tấm giấy kết hôn với con dấu đỏ của chính quyền đâu ?
- Tấm giấy kết hôn không to nhưng củ tỏi lại to. Vấn đề là ở đấy.
- Cái gì là củ tỏi ? Ông định nói đến cái cặp ngọc hành lủng lẳng trong đũng quần chúng ta phải không ?
- Sao mà tối dạ đến thế ? Bìu dái là bìu dái còn củ tỏi là củ tỏi ; thứ nào đi thứ nấy. Ban đêm ông có sờ nhầm con hến của bà ấy thành cái ấm pha chè đặt trên bàn hay không ?
- Ông ví von rắc rối bỏ mẹ.
- Rắc rối mới là sự đời. Bây giờ ai dám đánh cược với tôi là chuyện nhà này chấm hết ? Còn tôi, tôi cho rằng màn vừa khép sau hồi một. Mà hồi hai mới thực xôm trò ...Nào, ai dám chơi ?
- ... ....
- Các vị nhát như cáy đồng. Không ai dám lên tiếng hay sao ?
- Thôi, tôi chẳng dại.
- Cược với ông làm gì ? Nhỡ đến tai người ta, miếng chẳng được lại nghe câu chửi. Xưa nay nhà ông ấy có hại ai bao giờ đâu ?
- Thôi, đừng có bé xé ra to ! Chuyện gì đến khắc đến. Xin thay mặt bà con cảm ơn cô chủ. Giao thừa năm nay vui thật là vui !
Đám người lục tục chuẩn bị đốt đuốc, rọi đèn, khoác áo ấm rồi kéo nhau ra về. Khi những ánh lửa bập bùng trên các ngả đường thôn Trung, gà đã cất tiếng gáy chào canh một. Chó sủa ran lên theo bước chân người. Trời đen như mực và không gian ắng lặng. Cô Vui tắt cây đèn măng-xông, bắt tay vào dọn dẹp nhà cửa dưới ánh sáng của một dãy nến sáp ong tự chế.
Trong thâm tâm, cô phập phồng chờ đợi :
― Chuyện gì đến khắc đến !
Cô biết những người khác cũng đang chờ đợi như mình. Do tính thận trọng lưu truyền, người dân quê không bao giờ dám tham gia vào một vụ cá cược nhưng họ thầm kín theo rõi mọi câu chuyện và cũng thầm kín mong đợi nó xảy ra theo sự phán xét của mình. Luôn luôn ấp ủ giấc mơ trở thành kẻ phán xét, kẻ có quyền hành nơi những con người sống chật vật và đơn điệu. Cô Vui cảm thấy giấc mơ thầm kín ấy đang cựa quậy trong tâm hồn mình, tựa hồ cái bào thai đang quẫy đạp trong bụng một người mẹ. Cô linh cảm thấy ― ...cái gì đó sẽ đến, không chóng thì chầy .... Cô nhớ đôi mắt vằn lên của chủ tịch Quý khi cô mô tả ngôi nhà hai tầng, bảy buồng của vợ chồng ông giáo làng Khoai. Bởi nhà của chính ông Quảng vẫn chỉ là kiểu nhà cổ truyền một tầng tuy rộng mênh mông và xương khung kết thuần gỗ tứ thiết. Còn nhà của Quý kém nước hơn nhiều. Vậy mà giờ đây bố con đĩ Ngân lại thượng trên tầng gác suốt ngày ngồi đọc sách, cảnh tượng ấy làm sao chịu nổi ? Linh cảm mách cho cô Vui hiểu rằng cuộc tình này ắt dẫn đến bão tố. Nhưng bão tố theo kiểu nào, gió thổi từ núi cao hay từ biển xa tới, cô không thể dự đoán.
Bỗng nhiên, con mèo già trong bếp xồ ra, khoèo vào chân Vui :
- Cút ngay, con điên này ...
Cô quát, tiện chân thượng cho nó một đạp.
- Ngoeo ....ngoeo ...eo ...
Con vật nhảy phóc sang một bên, cất tiếng kêu ai oán, đôi mắt nó hướng về phía cô, tròn xoe nỗi kinh hãi và ngạc nhiên. Cô chủ tặc lưỡi:
- Mình quên, nó chưa được ăn. Suốt tối bận khách khứa, quên cả mèo.
Bỏ mớ bát đĩa đang dọn dở, cô vào trạn, lấy ra con cá kho, đặt vào chiếc đĩa mẻ dành riêng cho mèo ăn :
- Nào, giờ mới đến lượt mày ...
Con vật vừa tiến đến đĩa cá vừa tiếp tục kêu, mắt không rời cô chủ. Dường như nó chưa hiểu và chưa thể bỏ qua hành vi lỗ mãng của Vui. Cô bỗng nhiên bật cười :
- Thôi, ngoeo ngoeo gì nữa, ăn đi cho rồi ...
Rồi cô ngồi xuống, đối diện với con vật để cho nó yên tâm rằng cơn thịnh nộ của cô đã qua . Khi con mèo già cúi đầu xuống đĩa cá, cô bỗng nhiên có ý tưởng lạ lùng rằng cô cũng giống như một con mèo. Một con mèo đang ngồi rình mồi trong bóng tối. Nhưng không phải là một con mèo già mà là một con mèo cái, đang còn rất trẻ và tràn trề sinh lực. Ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy khiến cho cô tủm tỉm cười mãi một mình.
Con mèo ăn xong, liếm mép với vẻ hài lòng rồi tót lên nhà trên, khoanh mình trên cái ổ khâu bằng vải vụn. Cô Vui tiếp tục dọn nhà, rửa bát. Những ngọn nến đại cháy bùng bùng từ trên nhà xuống bếp, ánh sáng thừa thãi hoang tàng. Ong nhà nuôi, sáp làm nến quanh năm dư dả. Hơn nữa, bố cô đã dạy :
― Sống dầu đèn, chết kèn trống ―
Cô không việc gì phải tùng tiệm như những người đàn bà nheo nhóc một nách năm bảy đứa con. Bữa tiệc tất niên này khiến cô mãn nguyện.Vừa rửa bát, cô vừa lẩm nhẩm bài : Vùng lên, hỡi các nô lệ ở thế gian. Tự thán phục mình vì trí nhớ siêu việt và vì khả năng văn chương bỗng nhiên dạt dào tuôn chảy. Khi cô rửa xong bát đĩa, dọn nhà láng bóng như gương thì vừa rạng sáng. Trời lạnh, nhưng mồ hôi nhơm nhớp chảy dọc sống lưng. Cô tặc lưỡi :
- Tắm cái đã !Thế là năm nay, trước lẫn sau giao thừa, ta tắm cả thảy hai lần !
Đó là một sự bất thường. Vì người ta thường kiêng tắm sau giao thừa. Nhưng những kẻ sống độc thân thích thờ vị thần sạch sẽ. Vị thần này mang cho họ niềm kiêu hãnh mà những ai bìu díu con con, cháu cháu, chồng chồng vợ vợ không có quyền hưởng thụ.
Vui tắm xong, đồng hồ chỉ bảy giờ kém mười lăm. Sương hãy còn trùm phủ núi non nhưng những rặng cây quanh vườn đã lờ mờ hiện lên với những vòm lá ướt sũng. Cô chủ đứng nhìn vườn cây trong chốc lát, mơ màng. Rồi cô khoá cửa, lên giường ngủ :
― Cái gì sẽ đến, ngày mai ?
Cô tự hỏi, khi khoan khoái duỗi tấm thân đồ sộ dưới tấm chăn bông.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 18: TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (7)
Cái gì phải đến, ắt sẽ đến !
Nhưng người ta chẳng cần súng sính văn chương chữ nghĩa, mà cũng chẳng cần nhọc công chờ đợi. Ngay chiều mồng một Tết, sự đã sinh.
Vào lúc cửa nhà cô Vui còn đóng kín mít. Tiếng ngáy rền như sấm, lên bổng xuống trầm như giọng hò kéo gỗ của cô còn vang khắp năm gian nhà. Cái sự sinh, sinh sự. Cái cảnh màn hai trong tấn tuồng của gia đình ông Quảng mà cô thầm chờ đợi đã đến. Tiếc thay cô không được chứng kiến tấn tuồng ấy, dẫu cô là người duy nhất trong Xóm Củi đã trèo đèo lội suối đi đến tận làng Khoai xa xôi kia.
Theo lệ thường, sáng mồng một Tết mọi người khăn áo chỉnh tề thay hương trên bàn thờ, cúng gia tiên. Cúng xong, trời ắt đã non trưa, họ được quyền ngả cỗ ra đánh chén một bữa tuý luý để cả năm có cơ dồi dào chè rượu. Cỗ xong, là thời khắc đón khách trong gia tộc. Thời khắc ấy, gia chủ đón con trai kèm theo con dâu, con gái kèm chàng rể và đàn đàn lũ lũ cháu nội cháu ngoại. Phải có mâm ngũ quả ê hề để trẻ con được quyền ăn thoả sức. Phải có hộp phong bao đỏ chót để phân phát một cách đồng đều tiền mừng tuổi cho đám hậu duệ, không kể gái hay trai, ngoại hay nội. Phải có bánh kẹo, các loại mứt khác nhau để mọi người nhấm nháp với nước trà.
Năm nay, nhà ông Quảng chỉ có hai vợ chồng son. Cậu Quỳnh vẫn sống dưới thôn Hạ với bà ngoại. Sau buổi thương thuyết thất bại của hai cậu, chính Quỳnh phải lên xin bố áo quần và mọi thứ vật dụng kèm theo một khoản tiền đủ trả học phí lẫn sinh hoạt phí. Chỉ một tuần lễ sống dưới mái nhà ngoại, chàng trai đã hiểu rằng những lời nói tốt đẹp không ve vãn được túi tiền. Bà ngoại cũng như hai cậu chỉ có thể cung cấp những lời khuyên giải xuông hoặc những kích động không hiệu lực. Họ không thể làm gì hơn. Và Quỳnh đành chấp nhận sống ở đó như khách trọ, góp tiền ăn hàng tháng. Chàng trai không muốn quay lại mái nhà cũ, phần vì sĩ diện của kẻ đã tự ý khăn gói ra đi, phần vì nhan sắc của bà mẹ kế khiến cậu điên đảo. Chắc chắn hiểu lòng dạ con, ông bố không nài ép :
- Được, anh muốn thế nào được thế nấy. Còn năm gian nhà dành cho anh, anh tính sao ?
- Bố hãy giành cho mẹ kế và các em. Con không có ý định quay trở lại.
- Hãy nghĩ cho kĩ.
- Con chỉ xin tiền bố học hết đại học. Học xong, con tự liệu thân.
- Nếu được vậy, tôi lấy làm mừng. Chỉ e anh không vào nổi cửa trường trung cấp.
- Con biết. Từ giờ con sẽ ra công học.
- Được, tôi sẽ lo cho anh đủ tiền.
- Con xin bố.
Cuộc đối thoại chấm dứt và cậu con út xách chiếc hòm véc-ni vàng óng ra đi. Ắt là một cuộc chia ly tốt đẹp vì sau đấy, Quỳnh bỗng nhiên trở thành chín chắn , học đến đâu nhớ đến đấy. Thành tích vượt bực của cậu ta khiến cả trường kinh ngạc.
Ông bố ở lại với tình yêu mới của mình. Cả một dinh cơ rộng mênh mông, năm gian nhà chính, mười gian nhà ngang cả bên tả lẫn bên hữu chỉ có anh với ả.
Như thế Tết năm nay, ắt hẳn là ông Quảng sẽ là người được quyền mừng tuổi cho cô Ngân. Quà mừng tuổi của cô không phải là chiếc phong bì đỏ đựng mấy đồng bạc mới mà là một hộp nhung màu cánh hồng. Khi cô mở hộp, mắt cô sáng lên như điện và cô nhảy bổ đến bá cổ ông chồng :
- Anh chàng kháu lão ! Thật tuyệt vời.
- Quà này liệu có xứng với cô gái làng Khoai ? Hay là cô văn công quân khu tả ngạn ? ...
- Văn công tả ngạn hay hữu ngạn cũng chẳng bằng về làm chủ trại nhà ông Quảng nơi xóm Thượng.
- Mình có chắc không đấy ?
- Chắc như cột lim.
- Hễ lão giáo Tường quay về đây rủ rê bỏ tớ mà đi thì tớ sẽ treo cổ lên cây mít đầu vườn.
- Phỉ thui cái mồm nói láo. Mà anh nói treo cổ ai ?
- Treo cổ cô ả trước, rồi đến lượt tớ sau. Cùng một giờ không hơn không kém. Để sau này con cái tiện làm ma.
- Nói gớm chết.
- Sao non gan thế ? Tôi đùa một chút thôi ...
- Đừng đùa dại như thế. Mình đã cay đắng bao nhiêu rồi. Mình sẽ sống cùng nhau đến lúc bước xuống mồ.
Cô ôm chặt lấy ông, nước mắt rưng rưng tưởng như sự chia cách đang rình rập bên ngoài khuôn cửa. Ông ôm chặt lấy cô, để xác định sự chở che vô điều kiện của mình. Vào khoảnh khắc ấy, ông lại có một cảm giác hết sức chính xác, hết sức mãnh liệt như cảm giác trong lần gặp đầu tiên, khi cô bối rối đặt hai chai rượu xuống bàn, trong căn phòng trọ nơi thành phố : Cô chính là một phần xương thịt của ông, một phần đời của chính ông, phần đời mà ông đã quên lãng, đã đánh rơi từ bao nhiêu kiếp trước ở một vùng xa lơ xa lắc phía bên kia chân trời. Họ đứng như thế hồi lâu, trong không gian yên ả của đầu xuân, vừa đinh ninh vừa ngạc nhiên vì sao bỗng dưng họ lại gắn bó với nhau đến thế, vì sao bỗng dưng họ lại yêu nhau tha thiết thế, sợi dây thần bí nào của định mệnh đã ràng trói họ, hai con người vừa còn là những kẻ không quen biết trong một quãng thời gian chưa xa ? ...
Rồi tiếng chó sủa và tiếng chân bọn trai trẻ đi chơi xuân sớm ngoài đường thôn khiến họ bừng tỉnh giấc mê tình ái. Cô Ngân vội vã mắc đôi nụ mặt đá ru-bi đỏ lên tai :
- Thôi chết, đã đến giờ làm cơm cúng tổ tiên.
- Không việc gì phải vội ? Tổ tiên chứng dám rằng chúng ta cùng có lòng thành. Nửa trưa bưng cỗ lên là được.
Ông đáp.
Tuy chỉ có hai người nhưng cỗ cúng vẫn phải đủ lệ bộ. Dẫu xuất thân từ làng nghèo, nhưng đã nếm nhiều thứ cơm thiên hạ lại vốn dĩ thông minh nên cô Ngân đủ tay nghề lo liệu. Không cần chồng hỗ trợ cô vẫn làm được mâm cỗ mười món trong vòng hai tiếng đồng hồ : Gà luộc lá chanh, gà rán ướp mật ong, thịt bò xào măng, cá quả xào cần, thịt lợn xào bông cải, mọc gà, mọc lợn mộc nhĩ, chân giò nấu đông, tôm nấu bóng, xương sườn om măng. Còn các loại giò lẫn bánh nếp bánh chưng không tính. Đúng ngọ, cỗ bưng lên bày la liệt mặt bàn thờ. Mười tám đĩa lẫn bát cho món chính lẫn món phụ. Ông Quảng đứng vê râu trầm trồ khen vợ. Hương trầm bốc khói thơm ngát khắp mấy gian nhà. Có một thứ nồng ấm của ngọn lửa vô hình lan toả trong không gian, có một gương mặt tươi cười vô hình của vị thần hạnh phúc ngự trị dưới những mái nhà mà người ta yêu thương nhau ....
Vào đúng lúc ông Quảng áo xống chỉnh tề, đứng ngay ngắn trước bàn thờ tổ tiên chuẩn bị khấn, Quý dẫn vợ và hai đứa con gái bước vào. Anh ta mang đến hai trái bưởi đào vườn nhà với mấy chồng bánh gai là thứ bánh bà Quảng thích ăn nhất khi còn sống. Đặt lễ vật trên bàn thờ xong, Quý nói :
- Con xin được khấn mẹ con trước, xong việc con còn phải đi chúc tết các đoàn thể và dân xã.
Ông Quảng quay lại, nhìn con trai :
- Lui ra kia ! Trên bàn thờ này có tổ tiên tôi năm bảy đời về trước. Sau đấy đến cụ kị, ông bà bên nội bên ngoại của tôi. Rồi đến cha mẹ, chú cô, cậu dì của tôi. Thứ nữa, đến người anh trai tôi chết trẻ. Mẹ anh, tức là vợ tôi còn phải chờ sau lượt ông ấy. Thứ tự đó là niêm luật, không có quyền đảo ngược.
- Nhưng con ...
- Lui ra kia.
Ông bố quát. Không nói ra nhưng ông biết rằng cả nhà Quý không ai chào cô Ngân, và cô đã lui ngay xuống bếp khi thấy vẻ sinh sự trên những gương mặt của họ.
- Đây là nhà tôi. Không phải trụ sở uỷ ban xã. Quyền của anh dùng ở chỗ khác, không phải dưới mái nhà này.
Vẻ quả quyết của ông khiến Quý chùn bước. Vợ anh ta, luôn luôn nép vào một xó nào đấy, thò tay kéo áo chồng. Quý đành hậm hực đứng yên, chờ ông Quảng khấn vái.
Bài khấn của ông Quảng khá dài vì ông phải triệu hồi theo thứ tự từ cao xuống thấp vong linh tất cả những người thân thuộc, từ năm bảy đời trước cho tới bà vợ vừa chết mùa xuân năm vừa rồi. Quãng thời gian ấy quả là khó chịu đựng nổi với một đứa con thích sinh sự mà lại đang có quyền lực trong tay. Chủ tịch Quý hết dậm chân nọ lại đến chân kia. Dường như có một ổ kiến lửa đốt dưới bàn chân khiến anh ta không đứng yên nổi. Khi ông Quảng vừa dứt lời, anh ta liền nhào đến trước bàn thờ, vái hai vái cúi gập lưng kiểu như phường tuồng rồi cất tiếng gào thật to :
- Mẹ ơi, mẹ ở dưới tuyền đài có khôn thiêng xin quay trở lại, mở mắt mà nhìn mọi sự nhiễu nhương dưới mái nhà này. Mẹ ơi, nhục nhã cho các con lắm. Tại sao mẹ vội ra đi để cho cóc nhái nhảy lên bàn, để gà tha rác vào nhà, quạ về đậu trên ngọn buởi ngọn cam làm tổ ?
- Ối mẹ ơi là mẹ ...
- Ối bà ơi là bà, bà đi đâu ? Bà bỏ lại con cháu như vậy bà ơi ?
Vợ con Quý, hẳn đã được chuẩn bị sẵn ; lên tiếng kêu khóc như dàn đồng ca nhạc kịch hoà theo giọng độc tấu. Tiếng kêu gào của họ vang lên trong không gian yên tĩnh của xóm thôn. Vào giờ này, mọi người đang còn chuẩn bị quần áo trước khi ra đường. Theo cổ tục, trừ lũ trai thích chơi xuân sớm, không ai ra khỏi ngõ trước giờ Mùi. Do đó, mọi lời qua tiếng lại cũng như tiếng kêu khóc của gia đình ông chủ tịch xã lọt tuốt tuột vào những cái tai lúc nào cũng sẵn sàng giỏng lên của láng giềng bốn phía .
Ông Quảng sững sờ chết lặng. Ông không chuẩn bị để đón nhận sự việc này. Nói cho đúng, chẳng một ai đủ sức tưởng tượng một sự việc như thế. Người ta lam làm cả năm, chờ đợi năm mới với tất cả những hy vọng mới. Ngày mồng một tết, là ngày thứ nhất của thời gian tương lai, của đoạn đời sắp tới, có tính chất đặc trưng thiêng liêng của sự khởi đầu. Bởi thế, không ai cãi nhau với ai ngày này, láng giềng dù có thù ghét nhau đến mấy cũng phải ngậm bồ hòn làm ngọt mà chào hỏi, chúc tụng vì nếu nói lời không hay, ý không đẹp thì sự rủi ro sẽ đến cho cả hai phía. Người ta kiêng mặc quần áo cũ, kiêng đi giầy dép cũ, kiêng chửi tục, kiêng quát tháo lẫn nhau, kiêng lườm nguýt nhau, kiêng khóc, kiêng làm bát đĩa vỡ, kiêng làm đổ nước tương, nước mắm, kiêng ném vỏ chuối hay vỏ cam ra sân, tất thảy những gì có thể gợi ý đến một rủi ro hay thiếu may mắn. Ngay cả đến những kẻ thù địch còn không dám sinh sự ngày tết, huống chi người thân thích, ruột rà ? Vậy nên ông đứng bàng hoàng khi nhìn đứa con trai đầu và gia đình nó gào khóc trước bàn thờ tiên tổ, biến ngày Tết thiêng liêng thành một đám ma. Nhưng qua một khoảnh khắc kinh ngạc, hoang mang, ông hiểu rằng ông cần phải hành động. Rút phắt cây trượng dựng trong góc nhà, vật bất ly thân gần hai mươi năm khi đi rừng, ông trỏ vào mặt Quý và quát :
- Cút ngay ! Cút ngay lập tức ! Đây là bàn thờ tiên tổ của tôi chứ không phải bàn thờ riêng cho mẹ anh. Nếu anh có lòng hiếu đễ, tôi cho phép anh mang ảnh bà ấy về nhà anh mà thờ. Lũ vợ con anh nữa, cút ngay khỏi nhà này, tôi cần con cần cháu, nhưng không cần bọn lưu manh phá rối. Tôi không cho phép lũ bất nhân biến mái nhà này thành cái chợ.
- Trời đất ơi, ông đuổi con đuổi cháu ra khỏi nhà, ông ơi ...
Vợ Quý tiếp tục gào, trong khi anh chồng giương đôi mắt đỏ vằn nhìn bố. Hơi thở anh ta sặc sụa rượu ; chắc hẳn đứa con trai đã phải mượn hơi men trợ sức trước khi tới gây sự với ông bố già :
- Mẹ tôi đã sống ở đây, ông không có quyền đuổi tôi ra khỏi cửa nhà này.
Ông Quảng đứng ngây người trong giây lát, dường như không tin vào đôi tai mình ...Trong gia tộc của ông, con không được quyền xưng tôi với bố, bất luận tình cảnh nào. Tất cả đám con ông, cũng như con cái của những người em trai ông và chị ông, đều biết rõ luật lệ này và coi đó như một thứ đạo luật của gia đình, phân biệt họ với những dòng họ khác, ít nghiêm minh hơn trong nền nếp gia phong và sự giáo dục. Chưa bao giờ trong dòng họ nhà ông xảy ra sự ô nhục này. Quý biểt rõ điều ấy. Bây giờ, chính anh ta là kẻ đầu tiên khạc nhổ lên lề thói của gia tiên.
Ông Quảng đứng lặng như thế hồi lâu. Những cơn nhói liên tục chạy qua tim như có kẻ liên tục đâm những nhát gươm xuyên qua nó. Lần đầu tiên trong đời, ông hiểu rằng trái tim một người bố cũng vô cùng mong manh và dễ bị tổn thương. Lần đầu tiên trong đời, ông biết nỗi đớn đau chua chát khiến hai mắt ông như mờ đi, và những cơn rung động lướt qua toàn thân ông như những cơn run của người sốt rét. Ông biết rằng sự thay đổi cách xưng hô là dấu hiệu của giới hạn cuối cùng. Rằng sau đây, họ sẽ không bao giờ còn là cha con như thuở trước. Không bao giờ còn như xưa. Cơn đau đớn vẫn nhói lên không ngừng nhưng cùng lúc ấy tấm thân ông đột nhiên cứng lại như đá, một cảm giác giống hệt cảm giác của lần đầu , khi ông mười bảy tuổi, lần đầu đặt lên vai cây cột nhà trước những con mắt thách thức của đám trai xóm Thượng.
Người cha nhìn bộ mặt đứa con trai, biến dạng bởi hận thù và men rượu. Một khoảnh khắc yên lặng nữa trôi qua. Rồi đột ngột, ông bố cất tiếng cười :
- Ông chủ tịch say rồi ...
Ông tiếp tục cười gằn và giọng nói của ông bỗng trở nên lạ lùng khiến đứa con trai ông lẫn gia đình nó đưa mắt nhìn nhau kinh ngạc : Chưa bao giờ họ nghe ông nói với mọi người bằng cái giọng ngọt ngào, trịnh trọng như thế :
- Bà chủ tịch đưa ông về nhà nếu không tôi sẽ đem chuyện này lên thưa kiện huyện. Chủ tịch say rượu đến quấy rối nhà dân.
- Ông nói gì ?
Chủ tịch Quý hỏi lại, mắt trừng trừng nhìn bố. Có lẽ anh ta say, hoặc đúng hơn là anh ta thiếu thông minh để hiểu rằng người cha đã chuyển giọng, đó cũng chính là dấu hiệu của giới hạn cuối cùng : Ông đã phải đối đáp với đứa con rứt ruột đẻ ra bằng thứ ngôn ngữ ngọt ngào, thớ lợ. Thứ ngôn ngữ của kẻ chuyên đi kiếm cơm đất khách. Buông từng tiếng thong thả, ông Quảng đáp :
- Ông chủ tịch say rượu đến quấy rối nhà dân. Như thế, là làm tổn hại danh dự của đảng và chính quyền.
- Ông nói gì ?
- Bây giờ, ông không còn là con tôi nữa . Ông là chủ tịch xã, đại diện chính quyền. Ông say rượu, dẫn đồng bọn đến phá rối nhà dân.
- Tôi không say, tôi nhục vì ông lấy một con điếm về làm vợ.
- Xưa nay, các cụ vẫn dạy ―Người ta lấy đĩ về làm vợ, không ai lấy vợ về làm đĩ . Nếu cô Ngân là đĩ, tôi cũng chưa làm sai lời dạy của người xưa. Nhưng nếu vợ tôi không phải là điếm, ông chủ tịch sẽ chịu tội vu khống và nhục mạ công dân. Ông có hiểu điều đó không ?
- Vợ ông không là điếm thì cũng là con đĩ chửa hoang. Ông tưởng rằng không ai biết chuyện thày ngủ với trò, con Ngân ễnh bụng với lão giáo Tường hay sao ? Ông nghĩ rằng cứ quắp một con đĩ ở hang cùng ngõ hẻm, hay cuối núi cùng sông về đây là có thể bít bùng mọi sự, che mắt được thế gian hay sao ?
- Xưa nay, tôi vốn hành xử giữa thanh thiên bạch nhật, không có điều gì cần che mắt thế gian ...Ông chủ tịch chui từ mái nhà này ra mà mau quên đến thế thì trí khôn ngắn ngủi thật. Đúng, cô Ngân chửa hoang. Cô ấy chửa với người cô ấy yêu là ông giáo Tường. Cũng như hàng vạn người đàn bà khác chửa với người đàn ông họ chọn. Cô ta chửa hoang vì cô ta mắn như gà ri. Còn nhiều người đàn bà khác không chửa hoang vì họ may mắn không thuộc loại máu bồ câu mà máu vịt. Ví như mẹ anh chẳng hạn. Bà ấy không chửa hoang vì không thuộc nòi mắn đẻ chứ chẳng phải vì cầm thật chặt chữ trinh. Trước khi cưới mẹ anh tôi đã đưa bà ấy lên núi Trúc vàng chơi cả năm rồi Anh có muốn tôi chỉ cho anh chỗ nào tôi ngả bà ấy ra không ?
Đến đây, chính đứa con trai há hốc mồm ra vì kinh ngạc. Giống như kẻ bị sét đánh ngang tai. Rồi khi đã hiểu rõ những lời lẽ ông bố vừa nói, anh ta tru lên như con lợn bị chọc tiết :
- Không đúng, ông đổ điêu cho mẹ tôi ! Tôi không tin !
- Tôi với mẹ anh đang tuổi xuân thì, đi củi đi rừng với nhau quanh năm, ai cấm nổi chúng tôi ? Việc gì chúng tôi phải nhịn thèm nhịn nhạt, việc gì chúng tôi phải chờ đợi cho đúng ngày đúng tháng, bề nào ăn hỏi rồi, hai gia đình kết giao rồi, sớm muộn chúng tôi cũng lên giường với nhau.
- .....
- Anh đắng họng không trả lời được vì anh quen giả dối. Bản thân anh chị nữa, anh chị chẳng đã no xôi chán chè với nhau cả năm trời trước khi tôi lo đủ tiền cưới hay sao ? Cái bận anh chị lén lút đưa nhau đi nạo thai dưới huyện, anh tưởng mắt tôi thong manh chắc ? Tiền mẹ anh dúi cho anh là tiền móc từ túi quần tôi, sao tôi không biết ? May mà còn đẻ được. Nhiều trường hợp nạo thai đứa đầu lòng gây vĩnh viễn vô sinh.
Vợ Quý đang há hốc mồm ra nhìn bố chồng tới đó bật khóc vì hổ thẹn. Hai đứa con gái đến tuổi cập kê lẫn cậu con trai cúi mặt xuống. Tất cả đều hành động dưới cây gậy chỉ huy của ông bố. Và lúc này, ván bài lật ngược, ông bố lẫn bà mẹ bị bóc mẽ khiến cho cả lũ con không dám ngửng đầu lên. Ông Quảng hạ giọng :
- Thôi nhé, đã sinh sự thì sự sinh. Đẻ ra anh nhưng từ khi anh mười ba tuổi, tôi đã hiểu anh là hạng người nào. Tôi đã cố tìm mọi cách xoay chuyển nhưng không lại. Chẳng ai chống được mệnh trời. Từ nay anh đừng bao giờ đặt chân đến cửa nhà tôi nữa. Chúng ta không còn là bố cũng chẳng còn là con.
- Đấy là tự ông muốn thế.
- Anh nhầm tưởng, người ta không thể muốn hay không muốn. Nhưng một khi đã xô đẩy nhau đến nông nỗi này, mọi sự ắt phải đổi thay.
- ....
- Bây giờ, tôi hỏi điều cuối : Anh có muốn được độc quyền cúng giỗ mẹ anh hay không ?
- ....
- Anh không dám mở mồm vì anh tiếc của. Làm người khó lắm anh Quý ạ. Mở mồm thì dễ còn mở bàn tay khó hơn nhiều. Lòng hiếu đễ nơi bọt mép ai cũng có cả. Nếu anh không muốn, tôi sẽ tiếp tục làm giỗ cho mẹ anh, như thường lệ. Bà ấy đã từng là vợ tôi và bây giờ vẫn là vợ đã chết của tôi. Bà ấy không có lỗi với tôi. Nhưng anh lại khác. Từ ngày này trở đi, tôi không có anh.
Đám người đứng đờ đẫn. Có thể vì sự việc diễn biến quá nhanh và họ chưa kịp hiểu hồi kết thúc. Có thể vì con người thường có thói quen nhận biết mọi sự theo những ước định đã tồn tại trong óc não họ. Những ước định cổ nói rằng tình huyết mạch là sợi dây không bao giờ đứt, rằng :
― Anh em có chém nhau cũng chém nhau đằng sọng, không ai chém nhau đằng lưỡi ! Và với những ước định ấy, họ tin rằng dù họ làm gì chăng nữa, ông Quảng cũng không thể đẩy họ ra ngoài ngưỡng cửa ngôi nhà này, ngôi nhà mà họ tin chắc đứa con trai duy nhất của họ mai đây sẽ là chủ nhân. Nhưng ông Quảng đã ném cây trượng trở lại góc nhà, nhìn họ và hạ giọng :
- Đi đi ! Đi khỏi đây !
Ông nói nhỏ, gần như thì thầm, nhưng trong giọng thì thầm ấy, sự đã thành, nước đã chảy, thuyền đã trôi.
Không có gì quay ngược lại.
* * *
Vợ chồng con cái nhà Quý kéo nhau ra về .
Khi bầu đoàn ấy riễu qua đường thôn, những cặp mắt láng giềng nép sau các khuôn cửa, các bờ cây, bụi trúc nhìn theo. Đời sống sơn dân vốn tĩnh lặng như mặt nước hồ dưới lũng sâu, bị cầm tù giữa bốn bề vách núi. Nếu một hòn đá ném xuống đó, ắt những vòng sóng lan toả không ngừng. Cũng như vậy, một sự kiện dù lớn dù nhỏ, nhưng động chạm tới những sợi dây thầm kín nhất trong tâm hồn con người, ắt trở thành một bãi chiến trường, nơi giao tranh của những ước định cổ xưa với những biến động của cuộc đời hiện tại. Xóm Tiều Phu mùa xuân năm ấy giống như một hoả diệm sơn mà chất dung nham phun lên không ngừng chính là câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Quảng. Hoặc nói một cách văn vẻ hơn, Xóm Tiều Phu mùa xuân năm đó giống như lò lửa rừng rực cháy mà người ném than vào đó là một cô nàng xinh đẹp đến từ miền đất lạ, với cặp mắt đa tình và màu áo lụa xanh.
Giờ Mùi đã điểm, người làng đổ ra đường, đi chúc Tết người thân. Theo cổ lệ, mồng một dành cho những ai cùng huyết thống. Mồng hai mới tới họ hàng xa, láng giềng, bạn hữu. Mồng ba là ngày các chức sắc trong xã thăm hỏi nhau, chủ tịch đến nhà bí thư, bí thư đến thăm trưởng công an xã, công an xã đến chúc tết bí thư chi đoàn thanh niên hay bí thư liên hiệp phụ nữ ....cả một hệ thống rường cột của cộng đồng. Năm nay, mọi sự dường như đảo ngược. Ngay buổi tối mồng Một, người ta đã ào ào kéo đến gõ cửa nhà cô Vui :
- Năm mới , chúc cô làm ăn thịnh vượng gấp năm gấp mười năm ngoái.
- Năm mới, chúc cô có thật nhiều cái mới, mới từ đầu xuống chân ...
- Năm mới, chúc cô Vui vui cả năm, lúc nào cũng hớn hở tươi cười, ngày nào cũng là mồng một tết, tháng nào cũng là tháng giêng, mùa nào cũng là mùa xuân ...
Chưa bao giờ, kể từ ngày cất tiếng khóc chào đời, cô Vui được hưởng những lời chúc đẹp như hoa như gấm vậy. Cũng chưa bao giờ cô được hưởng một sự trọng thị đến thế nơi dân làng. Muốn hay không, do thân phận của mình, cô luôn cảm thấy những con mắt xung quanh lục lọi thân thể cô, phán đoán, tọc mạch ...dường như cái sự không chồng của cô là nguồn cơn cho mọi sự đàm tiếu và là một sự thất thoát không thể nào cứu chữa, giống như một thứ què cụt về tinh thần. Chưa Tết năm nào, khách đến gõ cửa nhà cô, cho dù nó rộng thênh thang, cho dù nó sáng choang và đầy đủ những thứ quà bánh hiếm ...Năm nay, có lẽ trời đã để mắt nhìn cô, hoặc là, do người cha tận tuỵ của cô nơi chín suối ngày đêm phù trợ, số phận cô dường như bắt đầu thay đổi. Mở rộng hai cánh cửa, Vui tươi cười mời khách :
- Năm mới, chúc các vị có tất cả những gì mong đợi ...
Người ta ùa vào nhà, không ai chờ đến lời mời thứ hai. Ai ai cũng ngầm hiểu rằng màn hai của tấn tuồng ― Ngân Quảng ― sẽ lại được tường thuật ở đây, nhưng lần này người đóng vai chủ đạo không còn là cô chủ.
Phần cô Vui, sau khi ngủ một giấc đẫy đà hơn chín tiếng, sức khoẻ tràn trề, tâm hồn phơi phới, cô thắp nhang mới trên bàn thờ cha, thay nước cho bình hoa đào rồi ngồi xơi hết hai khúc giò với chiếc bánh chưng đại. Khi dân làng kéo đến nhà, cô ở trong trạng thái tuyệt vời nhất của sự thoả mãn và vui vẻ, điều kiện tối ưu nuôi dưỡng lòng hiếu khách. Vì thế, không cần ai chèo kéo, cô lại thắp đèn măng-xông, thứ đèn dân quê chỉ dám dùng vào những ngày cưới xin hay ma chay, hoặc vào đêm hội làng. Ánh sáng lại tưng bừng rọi sáng khắp năm gian nhà khiến cho không gian long lanh, nồng ấm. Bà chủ đun nước pha trà, trưng ra tất cả các loại bánh mứt kẹo mua dưới phố. Trong lúc đó, khách đổ đến mỗi lúc mỗi đông. Không chỉ có những người đứng tuổi mà cả đám trai gái trong chi đoàn xã, lũ choai choai đi dự hội thi pháo tép, chọi gà và cờ bàn. Thành ra hai gian nhà đầy ắp người, giá có họp bình công, chia thóc cũng chỉ đông được đến thế. Cô Vui có ngay một lũ lính để mà sai mời nước, tiếp bánh kẹo cho mọi người. Còn cô, cô ngồi chĩnh chện ở bàn chính, với các bậc mày râu, những vị gia trưởng của những gia đình có máu mặt nhất trong xã :
- Tôi nghe láo nháo chuyện xảy ra rồi. Vậy là vị vểnh râu thắng cuộc. Tôi xin mở chai Lúa Mới chúc mừng.
Cô Vui lên tiếng để mở đầu đêm tụ họp. Nói xong, cô lấy chai rượu Lúa Mới trên bàn thờ xuống, cùng với gói lạc rang húng lìu nửa mặn nửa ngọt mua dưới phố :
- Có ai cần bánh chưng, giò nhắm rượu không, xin cho biết ?
- Không.
Chính ông vểnh râu trả lời :
- Hôm nay mồng một, chẳng ai còn dạ dày để chứa giò với bánh chưng nhà bà chủ. Nhưng lạc rang húng lìu với rượu Lúa Mới thì tuyệt. Không ai dám chê.
- Dân dưới phố sành điệu thật, cũng củ lạc, họ rang lên ăn cứ ngọt cuốn cả lưỡi, đưa bao nhiêu rượu cũng vừa. Lạc rang trong bếp nhà mình, ăn được một dúm đã thấy tắc họng.
- Họ có bí quyết. Đã mấy lần tôi mua thử húng lìu ở chợ huyện, đem về trộn lẫn đường và nước muối rồi ngâm lạc trong sáu tiếng đồng hồ, xong phơi khô mới đem rang, nghĩa là tôi làm đúng cách mọi người bầy cho nhưng rút cuộc cũng chẳng ra hồn, ăn củ lạc khét lẹt.
- Ôi chao, cứ nghe mà làm nổi thì còn ai sống được bằng nghề đầu bếp hay cửa hàng ăn nữa. Họ phải giữ bí quyết chứ. Người ta bảo rằng ở Hà nội, có những nhà làm giàu chỉ bằng nghề rang lạc, hoặc bán mía hấp mía nướng ướp hoa bưởi, hoặc chè đậu xanh nấu với vỏ quýt, gọi theo tiếng Tầu là Lục tào xá. Một nồi Lục tào xá nuôi bảy tám miệng ăn, lại còn xây ba tầng nhà gác.
- Nơi đất chật người đông người ta phải cạnh tranh ráo riết mới sống nổi, thế nên họ khôn hơn cánh dân quê chúng mình.
- Nói như ông, chẳng hoá cái việc ông Quảng nói tuột móng heo mọi sự giữa vợ chồng ông ấy với gia đình nhà Quý trưa hôm nay là khôn lắm hay sao ? Bởi muốn hay không, ông ấy cũng là người ― nhà tỉnh nhất trong đám dân xã này .
- Tôi biết ngay mà ...
Ông vểnh râu cất tiếng cười sằng sặc :
- Chưa kịp ngồi nóng chỗ đã quay câu chuyện sang nhà ông Quảng ? Các vị sốt tiết quá. Không chờ chúng tôi uống cạn tuần rượu đầu được hay sao ?
Giọng ông ta đầy vẻ khiêu khích và ngạo mạn. Chị chàng đanh đá chịu không nổi lên tiếng đáp :
- Mọi người đã nhận là thua ông rồi mà ông vẫn chưa thấy đủ hay sao ? Lòng sĩ diện của ông không chỉ bằng cái bồ mà to bằng quả núi cơ đấy.
- Ồ thôi thôi ! Hai người này kị nhau như nước với lửa. May mà không kết đôi kết lứa.
- Thôi thôi, hạ hoả xuống cô mình ơi.
- Được rồi, tôi im mồm ngay đây.
Chị chàng đanh đá lên giọng rỗi, và ông chồng đang ngồi cùng bàn với ông vểnh râu từ tốn cười :
- Nhà tôi vốn tính trẻ con đấy thôi, cô ấy là người tốt bụng.
Cả hai gian nhà chợt im ắng trong tích tắc, rồi khi nghe thủng câu nói người ta nhất loạt cười ran lên như pháo nổ, bọn trai trẻ thì hò hét vỗ tay đôm đốp :
- Hoan hô, thật là một ông chồng tuyệt vời!
- Hoan hô, chúng tôi xin bầu ông là ông chồng điển hình, được thưởng phiếu ―chồng ngoan nhất xã. Này lũ con gái, chúng mày mở to mắt ra mà nhìn nhé. Cứ lấy ông ấy làm kiểu mẫu để kiếm lấy một tấm chồng.
Tiếng cười, tiếng trêu chọc vang lên bốn phía. Xưa nay, ít ai dám ngang nhiên khen vợ , nhất là khen vợ trước một đám đám đông. Quả tình, đó là một sự hiếm hoi đến lạ lùng. Nhưng mặc kệ sự ồn ào vừa ngợi khen vừa chế nhạo, ông chồng vẫn ngồi thản nhiên nhắp rượu. Khi đã tự nhận là râu cụp, hẳn mọi lời chê cười với ông chỉ như nước đổ đầu vịt. Hoặc có một sự nghĩ ngợi nào đó khiến ông lãng tâm ? Người ta đồ như vậy nên những tràng cười lắng đi khá nhanh và họ nhất loạt quay về phía người đàn ông vốn bình thường được coi là kẻ ít mồm mép nhất làng, xưa nay chưa từng tham gia vào các vụ tranh cãi xảy ra nơi công chúng :
- Hôm nay cóc mở miệng, thế nào trời cũng có bão to đây ! Nào, ông anh có điều gì muốn dạy bảo làng xóm, đầu xuân xin lên tiếng.
Người đàn ông đặt chén rượu xuống bàn, nhưng mắt vẫn không rời những gợn sóng li ti phản chiếu ánh đèn của thứ rượu mạnh :
- Nói bà con bỏ quá, sự việc nhà ông Quảng không phải là chuyện nhà tỉnh hay nhà quê. Ấy là sự giữa cha với con, cái sự có thể xảy ra với bất cứ gia đình nào dù ở nơi thâm sơn cùng cốc hay nơi đô hội. Cái sự ấy khiến ta phải ngẫm ngay đến thân phận mình.
 


Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 19: TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (8)
Mọi người im lặng. Người ta đờ đẫn hồi lâu bởi không ai nghĩ ra chuyện ấy. Giờ có người day mặt đặt tên họ mới ngã ngửa người ra vì một sự thật sờ sờ trước mắt mà chẳng ai nhận thấy, giống như kẻ đi đường mất phương hướng cứ đâm sầm vào hòn đá tảng hay bước thẳng xuống vực sâu. Có cái sự mù loà ấy bởi người ta vốn coi những gì diễn ra trong gia đình ông Quảng như một tích chèo, một màn tuồng, một vở cải lương mà họ thi thoảng được xem với tất thảy sự háo hức tò mò và đinh ninh rằng ấy là chuyện của người khác. Rằng chuyện ấy chỉ dính líu đến những người môi son, má phấn, áo đính kim sa, đội mũ cánh chuồn, đi những đôi hia cổ, suốt đời hò hát múa may trên sân khấu.
Vậy mà giờ đây lại có người vạch ra rằng những tấn tuồng ấy có thể diễn ra trong chính ngôi nhà của họ. Lời cảnh báo ấy nào khác chi sét đánh ngang tai. Đám đông lặng đi như bị cấm khẩu. Người ta phải chờ cho qua giây phút choáng váng. Rồi sau một hồi tự trấn tĩnh, đầu óc mới bắt đầu sáng láng trở lại. Khi ấy, họ dò dẫm tìm xem trong câu chuyện kia có nguy cơ nào phương hại tới cuộc sống của chính mình.
- Cũng có thể là ông có lý Nhưng ông có phải ông Quảng đâu , tôi cũng vậy.
- Ông chẳng phải ông Quảng vì bà nhà còn chưa bạc tóc. Tôi cũng vậy, vì nhất định tôi sẽ ra đi trước vợ tôi.
- Ai cho ông ra đi trước tôi ?
Chị vợ lên tiếng ngay tức khắc :
- Ông phải chờ làm đám ma cho tôi rồi mới được lên đường.
- Ôi dào, rõ cái thói được chồng yêu chiều, quen xỏ chân lỗ mũi. Chúng ta không ai định được, vì sinh có hạn, tử bất kì.
- Đúng đấy !...
- Có thể là trong gia đình chúng ta, không có cảnh một đứa con trai phải lòng mẹ kế, cũng không có cảnh một đứa khác dẫn vợ con về gây nhiễu loạn trước bàn thờ gia tiên vào chính ngày mồng một tết. Nhưng có ai đảm bảo rằng tất cả những đứa con chúng ta sinh ra đều một lòng hiếu thảo và cư xử tử tế đối với cha mẹ chúng? Tôi chẳng nói thì các vị cũng đã nhìn thấy từ lâu.
- Đúng thật! Chẳng thiếu gì chuyện. Nhưng xưa nay, người ta quen che giấu đậy điệm , nhẫn nhịn mà nuốt nước mắt trong xó bếp. Các cụ dạy từ xưa rồi : ― Nhà nào cũng có lọ mắm thối, phải biết lấy nùi mà đậy cho chặt, kẻo láng giềng ngửi thấy mùi hôi „.
- Nhưng cái sự ―đậy cho chặt „ ấy nhiều khi còn thối hơn cả quậy hố cứt lên mà ngửi. Mọi người có nhớ chuyện bà cụ Cửu chết đói hay không ?
- Nhớ !...Chuyện ấy làm sao mà quên được ?...
- Vậy ở đây có bà nào muốn chết đói như bà cụ Cửu hay không ?
- Ồ, trăm lần không. Chúng tôi tuy đàn bà óc bằng quả bưởi, nhìn không quá hai gang tay nhưng chúng tôi cũng là người chứ có phải loài gà vịt đâu mà ngu như vậy ?
- Bà cụ Cửu cũng chẳng phải người ngu. Chồng chết từ năm hai mươi chín tuổi, nhà tranh vách nát. Một mình bà ấy lên nương xuống ruộng, một mình đốt than, đi củi nuôi ong mà xây dựng cơ đồ. Người đảm đang như thế sao có thể là người ngu ? Chẳng qua bà cụ quá thương con, quá tin con, mà đứa con lại không thương nổi mẹ ; mọi sự đều nghe vợ, do vợ điều khiển, cho nên để mẹ phải chết đói.
- Sao bà cụ không làm toáng lên cho mọi người biết chuyện từ đầu ?
- Cơ sự là ở đấy ! Vì quá yêu con, vì đã trót nói với mọi người rằng con tôi tốt nhất cõi đời, con tôi thông minh, hiếu thảo...; nay sự tình tồi tàn đồi bại xấu hổ không dám mở miệng, đành nghiến răng cắn lưỡi mà chết thôi. Chẳng lẽ các vị không nhận ra rằng bà cụ đã làm đúng cái câu : ― Đậy chặt hũ mắm thối lại hay sao ? „
- Ờ ờ ...thế mà bây giờ tôi mới nghĩ ra.
- Còn tôi thì tôi chẳng dại.
Chị vợ ông râu quặp cao giọng :
- Nghĩ hay chẳng nghĩ thì cũng nên biết rằng nước mắt chảy xuôi chứ không chảy ngược. Mẹ cho con tiền thì con cười tươi như hoa nở. Con cho mẹ tiền thì mặt ủ mày chau, ruột đau như cứa. Thế nên tôi vẫn bảo ông nhà tôi rằng làm người phải biết lo cho con cái nhưng trước hết phải lo cho bản thân mình. Tôi không dám há miệng chờ sung, buông cả hai tay chờ lòng con hiếu thảo. Tiền của tôi tôi buộc thật chặt vào hầu bao. Khi nào vợ chồng tôi đau ốm, thong thả mở hầu bao ra mà rút.
- Nhà ông này tốt số thật, có con vợ biết lo xa.
- Con nuôi cha chẳng bằng bà nuôi ông. Đã là vợ là chồng thì xuống biển mò cua, lên non hái lá cũng phải keo sơn gắn bó.
- Đúng đấy, chẳng ai muốn nghi ngờ, nhưng con trai lại có con dâu, con gái lại còn con rể. Những kẻ ngoại lai đột nhập vào nhà, tốt khó kiếm mà xấu xa thì dễ thấy.
- Bây giờ tôi xin trở lại chuyện nhà ông Quảng : Các vị cho rằng việc ông Quảng nói toạc móng heo mọi bí mật vợ chồng ra là dại hay khôn ?
- Dại, trăm phần trăm là dại dột. Việc gì không khảo mà xưng. Vả lại, bà ấy cũng chết rồi. Ai lại nỡ nói ra cái bí mật của người đã khuất ?
- Chẳng dại chẳng khôn, ấy là sự buộc phải làm. Bởi chính đứa con trai gây sự trước.
- Phải, khi rơi vào thế cùng ắt xảy ra những việc cưỡng tâm. Ông ấy cũng chẳng sung sướng gì khi buộc phải nói ra mọi sự .
- Tôi không thân với nhà ấy, nhưng tôi là thông gia với em trai út của ông Quảng. Ông này bảo tôi rằng từ khi Quý còn nhỏ, ông Quảng đã nói vụng với mấy ông em rằng sau này ông ấy sẽ không nhờ cậy được đứa con đầu. Nhưng ông ấy sẽ làm đầy đủ nghĩa vụ người cha để tương lai đứa con được tốt đẹp. Mọi người đều thấy rằng ông Quảng đã làm đúng những điều đã nói . Chính Quý bỏ trường trung cấp lâm nghiệp về làng làm ruộng chứ ông ấy đã tìm mọi cách cho nó được học lên.
- Không chỉ trường trung cấp lâm nghiệp đâu. Trước đấy, ông ta đã lo cho nó vào trường cơ khí luyện kim nhưng thằng Quý học không nổi. Óc đã đặc có đánh gậy sắt mà lèn chữ vào đầu cũng chẳng xong.
- Thế nhưng nó hách ra phết. Lại lắm mưu thâm nữa.
- Mưu thâm là một nhẽ, học thông minh lại là một nhẽ ; như cây cà gai với cây rau cải, làm sao lẫn được với nhau ?
- Ờ, ông bố sáng ngời ngời mà sao cậu con trai xấu mã làm vậy ? Anh ta giống hệt mẹ nhưng lại không được tươi đẹp như bà ta. Thật lạ lùng, cùng một đường nét nhưng cậu Quỳnh đẹp trai lồng lộng còn ông anh cả thì thậm xấu. Người đã loắt choắt, mắt lại sâu hoăm hoắm. Nhìn vào mắt anh ta cứ như nhìn xuống vực thẳm, chẳng biết đâu mà dò.
- Người ta bảo mắt như thế là lòng dạ nham hiểm lắm. Nhưng có nham hiểm thì cũng nên đấm đá thiên hạ chứ sao lại quay vào đánh bố đẻ ra mình ?
- Ờ, tôi cũng tự hỏi như thế. Bởi người mù trong xã này cũng biết được là từ khi đẻ Quý, ông Quảng chính là người lo toan cho anh ta hết thảy, từ việc học hành cho đến việc dựng vợ gả chồng, xây nhà , sắm sanh áo quần vật dụng. Mà không chỉ lo cho con, ông ấy còn lo cho cả lũ cháu gái lẫn trai.
- Ông ấy hái ra tiền.
- Hái ra tiền mà tính ki bo, bỏn xẻn thì cũng đừng hòng rút được tiền ra khỏi túi.
- Giúp được người dưng thì còn tiếc gì con ? Nhưng tôi cho rằng anh Quý ỷ thế con trai trưởng, mà theo tục truyền, con trai trưởng là người được quyền thừa tự vì phải lo ma chay cho bố mẹ. Một khi bố mẹ khuất núi phải lo cưới xin, dựng vợ gả chồng cho các em .―"Quyền huynh thế phụ", câu ấy vốn có tự bao nhiêu đời.
- Thế phụ chỉ là khi phụ chết ...Nhưng ông Quảng đang còn sống nhăn nhăn, lừng lững như cây cột, đứng với con trai trông còn bảnh mã hơn mười lần ... Vậy tính chuyện ―thế phụ„ còn quá sớm.
- Đúng, vấn đề chính là ở đấy !
Ông râu quặp thong thả buông từng lời, như ông giáo làng đọc đoạn kết một bài văn :
- Anh con trai tính chuyện bố sẽ chết, sẽ phải nhờ cậy đến mình, nào ai đội mũ mấn khăn xô, nào ai chống gậy lăn đường, nào ai rước kèn rước trống, nào ai lo cỗ khao vong. Sau tang ma đến giỗ bốn mươi chín ngày, sau bốn mươi chín lại đến ngày thứ năm mươi ba rước vong lên chùa tụng kinh. Rồi đến giỗ thứ nhất, giỗ nhị, giỗ tam. Lại đến lễ rửa xương cốt, đưa vào tiểu sành. Sau đấy mới xây mồ vĩnh cửu. Tất cả những thủ tục cho một người chết quá nhiêu khê. Ai cũng lo khi chết đi con cái không nhìn ngó tới nên dù ngậm đắng nuốt cay cũng phải chiều lòng chúng. Và do nỗi sợ hãi bị bỏ bê làm ma đói, người ta đành muối mặt làm ngơ trước nhiều sự đồi bại, tàn tệ trong nhà. Sự cư xử giữa cha mẹ với con cái thường chỉ để phô bầy cho hàng xóm láng giềng nhìn thấy. Còn thực tế ra sao hiếm có người dám bộc bạch một cách chân tình.Vì thế mới có câu ca:
― Sống thì con chẳng cho ăn,
Đến khi mẹ chết làm văn tế ruồi. ―
Câu ca ấy có từ bao đời không ai biết. Như vậy, cũng đã từ bao nhiêu đời, nhiều bậc cha mẹ phải nghiến răng chịu đựng những cung cách cư xử bội bạc, bất nhân để hòng chết đi được chôn cất cho hẳn hoi. Con cái, trừ những đứa hiếu thảo, cũng thường lợi dụng tâm lý này để sách nhiễu và áp bức bố mẹ. Nhìn vào cảnh nhà ông Quảng hôm nay đủ thấy rõ. Nhưng vấn đề chính của gia đình nhà này là đứa con trai nghĩ tới cái chết hơi sớm. Người già đứng trước cái chết thường run sợ, thường mất hết lòng tự tin cũng như quyền uy với con cái. Hơn nữa, Quý lại đang giữ ghế chủ tịch xã, vừa có vai vế với làng xóm, vừa có quyền huynh trưởng trong gia tộc. Nhưng ông Quảng chưa thuộc loại già dù ông ta đã sáu mươi mốt tuổi. Ông ấy đang còn lực lưỡng ; mắt sáng như sao, óc tính nhanh hơn điện, tay hái ra tiền. Ông ấy chưa nghĩ đến cái chết, ông ấy đang còn thích sống, đang tính chuyện chăn gối với người vợ mới. Thế nên anh con trai không ép được ông ta. Ông ta đuổi thẳng cổ cả bầu đoàn thê tử của Quý ra đường. Vậy là đứa con đi nhầm một nước cờ. Nước cờ nhầm không cứu vãn được. Tôi nghĩ như vậy, các vị cho là đúng hay sai ?
- Trăm phần trăm chính xác.
- Đúng, tôi tán thành. Người ta bảo khi cóc mở miệng, không phải chuyện tầm phào, cũng chẳng phải trò giải trí.
- Đời người vốn dĩ như vậy. Khi nhìn nghiêng, tưởng là chuyện vui đùa chơi dỡn ; đến lúc nhìn thẳng lại hoá việc tang thương, chanh xát dạ muối xát tim.
- Thế mới biết, sống khó thật.
- Ngoảnh đi ngoảnh lại, tuổi già đã xồng xộc kéo tới. Không phải sau lưng mà lù lù ngay trước mặt mình.
Mọi người im lặng. Cả hai gian nhà đột nhiên im phăng phắc như chùa ngày dưng. Bởi lần đầu tiên, người ta mới dám nhìn thẳng vào nỗi sợ hãi của mình. Nỗi sợ hãi ấy vẫn chung sống với họ đời đời kiếp kiếp, như bóng với hình, nhưng không ai dám gọi tên, không ai dám duy danh định nghĩa. Người ta lảng tránh nó, người ta đậy đệm nó dưới đủ mọi duyên cớ, nào danh dự gia đình, nào tình huyết mạch thiêng liêng, nào bổn phận người làm cha làm mẹ, nhưng thực chất, nó ẩn nấp trong những xó xỉnh tối tăm nhất của tâm hồn. Còn những đứa con hỗn hào, trơ trẽn không ngần ngại mà lôi thẳng cổ nó ra, bêu riếu giữa thanh thiên bạch nhật. Chẳng ai bảo ai, nhưng người ta vẫn nhớ từng lời từng chữ vừa chua ngoa vừa cay nghiệt của cô con dâu bà cụ Cửu :
―Bà tưởng có mẹ già nhẹ nợ lắm hay sao ? Chúng tôi được hưởng nhà cửa ruộng vườn của bà thật, nhưng bà ốm, người ta phải mua thuốc cho bà, bà chết, phải làm ma, cỗ lên cỗ xuống, rồi còn phải rửa xương cốt, thay hòm gỗ sang tiểu sành, mọi thứ đều đòi tiền cả đấy, chẳng phải cứ vỗ tay xuông mà xong đâu.
Đã đành là chẳng phải nhà nào cũng có cô con dâu độc ác, tham tàn như con dâu bà cụ Cửu nhưng cuộc sống vốn nghiệt ngã, muốn hay không cũng phải nhìn rõ sự thật ấy. Nhưng trái tim con người thường từ chối chấp nhận sự nghiệt ngã. Chẳng ai muốn tin vào cái sự đã xảy ra từ đời nọ đến đời kia, từ châu thổ đến núi cao, từ sơn thôn sang vùng chài lưới. Dẫu sao chăng nữa, trái tim con người cũng cần một chút nước cam lồ. Những đứa con là từ lòng ruột chúng ta mà ra, lớn lên bằng máu và sữa của cha mẹ, nào ai muốn tin có ngày chúng đưa chiếc bát mẻ cho mình ăn cơm ?
Sau hồi yên lặng, một ông cất tiếng :
- Con cái cũng là của trời cho, cha mẹ sinh con trời sinh tính. Xưa nay ai cũng cậy con trai. Vậy mà nội trong huyện này, tôi không dám nói xa hơn, đã có ông bố nào nằm xuống được làm ma khang trang hơn là cụ Đô Vàng ?
- Cô Vui là trường hợp đặc biệt, kể làm gì ?
- Một cha một con, mà chết được xênh sang áo gấm. Có người đẻ tới bẩy đứa con, suốt đời làm quần quật như trâu, khánh kiệt gia tài để nuôi lũ con khôn lớn. Vậy mà lúc nằm xuống còn phải nghe chúng nó cãi nhau xem mỗi đứa góp bao nhiêu đồng để lo thuê xe tang. Ở đời này, người ta hơn thua nhau là ở phúc đức. Không ai tính được từ sáng đến tối. Chẳng ai định liệu nổi phút xuống cửa mồ. Thôi, rót rượu đi các ông ơi. Ngày xuân con én đưa thoi. Chúng ta cùng cạn chén để mừng năm mới, nào cô chủ, cạn chén với chúng tôi.
Cô Vui lẳng lặng cạn chén với các ông. Không ai nói gì nữa. Dân làng hăm hở đến nhà cô để đàm tiếu chuyện bố con ông Quảng nhưng sau rốt, câu chuyện ấy lại động chạm tới những uẩn khúc trong cuộc đời riêng tư của từng người. Và những uẩn khúc của lòng người thường gợi đến mùa đông của cuộc đời hơn là mùa xuân. Cô bí thư chi đoàn đọc thấy điều ấy. Sau chầu rượu cô yêu cầu bọn thanh niên hò hát để khoả lấp đi không khí trầm tư. Tuy nhiên, khách khứa vẫn kéo nhau tốp năm tốp ba ra về. Cô chắc họ sẽ tiếp tục câu chuyện dưới mái nhà của họ, giữa những cặp vợ chồng trung niên cũng như những ông bà tóc đã ngả muối tiêu bởi câu chuyện này chính là rường cột của kiếp người, nơi hạnh phúc lẫn khổ đau bó kết lại như hai sợ chỉ xe xoắn thành sợi dây định mệnh. Có lẽ cuộc xô xát giữa cha con ông Quảng là hồi còi báo động, khiến cho mọi gia đình phải lường đến những phong ba rình rập trước mỗi mái nhà, giống như tiếng kêu thét của loài chim biển khiến cho những con tầu phải dè trước những vịnh đá ngầm hoặc những cơn bão bất thần trong đại dương tối đen phía trước.
Lũ trai trẻ cũng ra về ngay sau đó. Cô Vui ngồi trước bàn thờ ngắm bức ảnh ông Đô, thì thầm :
― Cha ơi sống khôn chết thiêng xin trở về chỉ đường dẫn lối cho con „.
Ông Đô nhìn thẳng vào mặt con gái với cái nhìn răn đe xưa nay cô chưa từng thấy :
― Mình đã đi sai nước cờ. Hoàn toàn sai. Giờ phải tính cách gỡ „
Cô thầm nghĩ, nhẩm tính lại những hành động của mình. Cô đã lặn lội về tận làng Khoai để điều tra gia cảnh nhà cô Ngân và tình sử của cặp vợ chồng chênh lệch này. Cô là người duy nhất biết đầu cuối mọi sự và cũng đương nhiên là người tường thuật lại cho Quý cũng như dân xã. Rồi người ta sẽ hỏi, vì động cơ nào mà cô hăm hở đến như vậy? Không thể vì ngoan ngoãn nghe lệnh của ông chủ tịch, bởi xưa nay cô vốn chẳng là người ngoan ngoãn với bất cứ ai. Cô chỉ làm mọi việc theo chủ ý của riêng cô. Như vậy thì cái lập luận :
― "Bí thư thanh niên hành động theo chỉ thị của chủ tịch xã"
ắt chẳng lọt tai mọi người. Rồi giống như những người thợ đào giếng khoan sâu xuống những vỉa đất bên dưới để tìm mạch nước, dân làng sẽ moi đến tận cùng lý lẽ để tìm ra cái duyên cớ đã khiến cô bỏ công bỏ của thuê xe về tận làng Khoai. Rồi họ sẽ tìm thấy, chẳng khó khăn gì. Và lúc ấy, mũi dùi sẽ quay lại phía cô :
― Mới từ tối hôm qua đến tối hôm nay, tình thế lật nhào. Nào ai tính trước, một khi nước cờ thay đổi ?„
Cô buông tiếng thở dài. Đêm qua, giao thừa, cả làng nghe cô kể chuyện, vui cười hỉ hả nâng chén rượu lên đặt chén rượu xuống, và tâng bốc cô lên tận mây xanh. Bởi cô thoả mãn cơn tò mò của họ. Bởi họ coi câu chuyện nhà ông Quảng như tấn tuồng mua vui cho ngày xuân. Tối nay, màn hai vở tuồng diễn ra mau lẹ, nhưng nó không còn là chuyện riêng của nhà ông Quảng mà nó gợi đến cái sự ―tình cha con „, là sợi dây leo quấn chằng chịt vào những thân gỗ lớn, chính xác theo cái nghĩa mà các tiền nhân thường răn dạy :
― Rút dây động rừng „
Cô lại bất giác thở dài lần nữa với ý nghĩ rằng mình có khôn mà chẳng có ngoan, rút dây mà không tính tới việc động rừng. Giờ, mọi sự đã qua, không cách chi vớt vát lại. Sau một lát bần thần, cô chợt nhớ tới câu cha cô vẫn dạy :
―Giơ tay mà hứng nước trời, hứng sao cho đủ những lời thế gian „.
Câu phương ngôn sáng suốt ấy khiến cô lấy lại được bình tĩnh. Cô tự an ủi mình :― Kệ sự đời. Hơi đâu mà lo hứng nước trời mưa ? „
Dẫu vậy, Vui vẫn luôn luôn là con gái của cha cô, ông Đô Vàng, người có óc thực tế. Cô biết rằng cô có thể mặc kệ những lời đàm tiếu của dân làng vì vốn dĩ xưa nay, lời đàm tiếu vẫn quẩn quanh như khói bếp trên mái nhà bất cứ kẻ nào có máu mặt hoặc có những dị biệt với làng xóm. Nhưng cái sự cô không thể bỏ qua, chính là ông Quảng. Từ lâu cô biết đó là một người hảo hớn, rất tốt bụng và hào phóng với láng giềng nhưng cũng không ngán rút gươm ra trước kẻ nào có ác tâm. Cho dầu đã thả trí tưởng tượng bay bổng xung quanh người đàn ông râu rậm ấy, cô vẫn không hình dung được rằng ông ta có thể thản nhiên nói toáng lên cho con cái lẫn bốn bên láng giềng nghe cái chuyện : ―Trước khi cưới mẹ mày cả năm tao đã dẫn bà ấy lên núi Trúc vàng ...„ Đã dám ăn nói bỗ bã thế, ngán gì mà ông ấy không chửi thẳng vào mặt cô một cách sỗ sàng cay độc khi biết chuyện cô lần mò về tận làng Khoai ?.... Chỉ tưởng tượng đến nông nỗi ấy, toàn thân cô đã nóng bừng , mặt chín nhừ như phải bỏng. Mồ hôi toát ra dưới đám tóc đỉnh đầu lẫn hai bên thái dương, cô nhìn ông Đô và bật thành lời :
- Cha ơi, cha khôn thiêng xin chỉ đường mách lối cho con.
Ông Đô không nói năng gì, vẫn chiếu vào mặt cô cái nhìn nghiêm nghị. Cô Vui chợt nhớ ra rằng trong đám đông lúc nãy có ai đó cất tiếng bình phẩm :
- Ông bố sáng ngời ngời mà sao cậu con xấu mã làm vậy ?
Đúng thật, từ xưa cô chưa bao giờ nghĩ đến điều ấy. Rõ ràng là Quý đứng cạnh ông Quảng giống như hai loài cây khác giống mọc kề nhau. Ông bố rõ ra dáng trượng phu. Anh con hoàn toàn ngược lại. Không những còi cọc, mặt tối như hũ nút, cái nhìn lại lén lút nham hiểm. Vui chưa từng thấy Quý nhìn thẳng vào mặt ai. Đôi mắt anh ta chìm sâu dưới hố mắt, lúc nào cũng như có bóng mây vương bên trên, và cái nhìn, nếu không xiên sang một bên thì thường là hạ thấp xuống, dường như lúc nào anh ta cũng lục tìm một thứ gì đó dưới mặt đất.
― Vậy mà anh ta đã làm chủ tịch xã mấy khoá liền. Và lần nào cũng đích thân bí thư lẫn chủ tịch huyện về làm việc với chi bộ xã.„
Một ý nghĩ bỗng vụt qua óc cô. Và cô bật tiếng kêu :
- Thôi chết rồi ! Thế mà không ai biết !
***
Sáng mồng hai tết, cô Vui cưỡi xe đạp lên thẳng phố huyện. Ở đó, cô quanh quẩn hồi lâu mới tìm được một cửa hàng bán chè chén và bánh kẹo, chắc vì quá túng bấn, đã phải ra vỉa hè để kiếm mấy đồng bạc lẻ của đám người chơi xuân. Bình thường, một chén nước chè giá năm chục, hôm nay, bà chủ tính đắt gấp năm lần, tức hai trăm rưỡi, và không có quyền mặc cả vì đang còn là ―ba ngày tết―. Phố xá vắng ngơ vắng ngắt, chỉ có lũ trẻ chơi đập pháo hai bên vỉa hè. Để lấy lòng chủ quán, cô Vui uống liền ba chén nước chè, lại ăn thêm hai quả chuối tiêu chín nẫu , thứ chuối nhà chủ đã để từ tuần trước giao thừa. Rồi cô đưa cho bà chủ ba ngàn, miệng nói :
- Vừa trả tiền bà, vừa mừng tuổi năm sớm ...
- Cảm ơn cô ...
Bà chủ ngoác mồm cười đến tận mang tai trước cô khách nông thôn mà xộp hơn mười lần dân phố huyện :
- Cô xởi lởi thế này, trời cho cô tha hồ lộc ăn lộc để..
- Cảm ơn bà ...
Cô đáp lại với vẻ ôn hoà. Sau đó, cô gợi ý nhờ bà đưa đường đến nhà chủ tịch lẫn bí thư huyện :
- Xã chúng tôi xa xôi lắm, nhiều vấn đề khẩn cấp chưa giải quyết được trong năm nên phải lên huyện ngay đầu xuân để lo liệu ...
- Việc khẩn mấy cũng phải chờ mồng sáu cô ạ. Tôi bán hàng ở đây hơn chục năm rồi, khách uống nước chè nhà tôi đa phần đến từ các xã vùng xa như cô, để lo liệu việc công cũng như tư. Chẳng ai dám bước vào dinh chủ tịch trước ngày mồng sáu.
- Tôi không có ý định làm phiền các cấp lãnh đạo ở nơi công sở, nhưng xã chúng tôi có chút thổ sản, muốn tặng các cán bộ cấp huyện để tỏ lòng biết ơn trước sự quan tâm của đảng và chính quyền.
- A ...a ...Tôi hiểu rồi.
Bà chủ quán cười to hơn nữa, rồi đưa mắt quan sát cô khách, lẫn chiếc xe đạp cô dựng bên vỉa hè. Cô Vui nhanh trí đáp :
- Tôi chỉ có nhiệm vụ đi xác minh địa điểm thôi. Mai hay mốt đích thân chủ tịch xã sẽ mang tặng phẩm lên.
- À ra thế ....
Không chờ bà chủ quán lục vấn thêm, cô rút ra tờ giấy bạc năm ngàn đồng, đặt vào chiếc đĩa đựng thuốc lá :
- Gửi tiền bà , để đền bù lại thời gian bà tốn phí vì tôi.
- Cảm ơn cô.Tôi sẽ đưa cô đi ngay.
Bà chủ trả lời tắp lự, đoạn quay vào ngõ, gào :
- Con Huệ đâu, ra coi hàng cho mẹ. Mau lên !
Chưa có tiếng trả lời, bà lại gào lên tiếp :
- Huệ ! Ra coi hàng, Huệ !
Bà gọi dồn dập, tức tốc vì rõ ràng, có ngồi bán chè chén từ giờ tới nửa đêm bà cũng không thể kiếm được một món tiền lớn như vậy. Gần như tức khắc, một đứa bé gái chừng bảy tám tuổi từ trong ngõ nhếch nhác chạy ra, chân loẹt quẹt đôi dép cũ :
- Con đây. Mẹ đi đâu ?
- Đi có việc, không phải hỏi.
Đứa bé ngồi vào ghế phía sau chõng hàng, đưa mắt tò mò nhìn cô khách to lớn như hộ pháp đang dắt chiếc xe đạp xuống đừờng và mẹ nó leo lên ngồi phía sau, ôm chặt lưng cô ta hệt một con nhái bén ôm lấy quả dưa hấu.
Như thế, cô Vui đã đến tận nhà bí thư lẫn chủ tịch huyện. Sau cuộc đi, mồ hôi cô đổ ướt hết sống lưng. Giờ, hai năm rõ mười điều cô nghi ngờ là chính xác. Quý ngồi lên được ghế chủ tịch xã chính là nhờ bàn tay lèo lái của ông bố chứ chẳng phải vì phép thánh ; càng không phải năng lực của chính anh ta. Cô bí thư chi đoàn giương mắt trân trân nhìn hai ngôi nhà của hai vị lãnh đạo cấp huyện, nhà nào cũng hai tầng, bốn gian tầng dưới ba gian tầng trên, chừa một khoảng sân trời cỡ ba chục mét vuông vây quanh bởi hàng lan can bằng thép hàn để chủ nhân có thể ngồi uống trà ngắm trăng những đêm cao hứng. Nhà nào cũng có cầu thang bên trong lẫn cầu thang lộ thiên dẫn lên sân thượng. Nhà nào cũng có hàng hiên rộng bên dưới với đường diềm chân tường đắp sỏi trắng. Nhà nào cũng có hình đôi phượng chầu bằng xi-măng đổ cốt thép gắn trên mái ngói. Kiểu trang trí kiến trúc thời thượng. Kiểu nhà ông giáo làng Khoai.
Khi cô về làng trời đã ngả chiều. Tiếng trống đánh rộn ràng từ bãi vật vọng đến. Sợ người làng bắt gặp mình trong tâm trạng rối ren này cô đi vòng phía sau dãy núi Trúc. Đường vòng khá xa vì có đến hơn một chục trái núi nhỏ mọc thuần các loại trúc kết thành chuỗi như chuỗi hạt trai. Lối mòn ghập ghềnh khiến chiếc xe của cô nhảy chồm chồm như ngựa vía. Nhưng quả tim cô còn nhảy chồm chồm hơn cả con ngựa sắt khi cô đạp xe ngang qua chân núi Trúc Vàng , trái núi cao nhất trong dãy, mọc dày đặc thứ trúc vàng óng. Màu vàng ấy là màu vàng của dây tơ hồng trên các dậu cúc tần vườn quê. Màu vàng ấy đổ trong nắng chiều như muôn ngàn sợi vàng dát hoặc như thứ tơ tằm thượng hạng. Màu vàng ấy óng ánh thứ óng ánh của lầu vua phủ chúa. Cô đưa mắt nhìn rừng trúc đượm vàng ngày xuân, nghĩ tới một người đàn bà đã từng được trăm lần ân ái với người yêu trong đó, giờ đã nằm yên dưới mộ. Liệu bà ta có quay về đây để tìm lại mùa xuân cũ hay chăng ? Rồi cô lại nghĩ tới phận mình, vì sao chẳng một ai đưa cô tới khu rừng đó?. Giấc mơ thầm lén của cô đã tan thành mây khói, và không biết từ đây cho tới lúc xuống mồ, có người đàn ông nào chìa bàn tay cho cô mà nói :
« Anh yêu em ... » Hoặc là :
― Vui ơi, từ nay chúng ta sẽ sống cùng nhau !„
Cô đặt chân vào ngõ lúc trời xẩm tối. Chắc chắn không ai nhìn thấy vì cô phóng xe vào tận giữa sân. Cô gài thật chặt then cổng. Sau đấy, cô mở khoá cửa, lao vào nhà. Không kịp thay bộ quần áo phủ dày bụi đường, cô vật mình xuống đống chăn bông mà khóc. Cô khóc hối hả, nức nở, giàn giụa. Cô khóc thành nhịp, hộc lên từng hồi như loài lợn rừng bị trúng thương. Cô khóc no nê, ngập ngụa, không kìm nén. Cô khóc điên cuồng. Cô khóc sầu thảm hơn cả ngày ông Đô chết. Cô khóc, với tất cả nỗi bi thương đam mê không hay biết, giống như đứa bé đói ăn ngấu nghiến miếng bánh mà người ta đưa cho. Có thể là, với ngần ấy nước mắt được trút ra, tâm hồn cô sẽ vơi nhẹ.
Sáng hôm sau, mồng ba tết, cô ăn vận chĩnh chện, đàng hoàng, vác một cành mai lớn đến nhà ông Quảng. Cô tính không sai, bởi vườn nhà ông Quảng chỉ có đào thắm chứ không có đào phai hay mai trắng. Mai trắng là giống cây khó gây lại phải dày công chăm sóc. Ông Quảng đi vắng quanh năm, không thể trồng nổi thứ mai này. Trong làng, ối người trồng mai nhưng đa phần là giống mai vàng, còi cây, hoa nhỏ. Chỉ riêng vườn nhà cô là có mai trắng, thứ mai lớn, cành toả đều, hoa dày chi chít. Ấy là thứ mai Hoàng đế, ông Đô đã về tận làng trồng hoa Nhật Tân xin giống. Hồi còn sống, ông giữ cây mai như giữ vàng. Ông chết rồi, cô Vui vẫn tiếp tục chăm sóc nó như cũ, dù cô chẳng phải là người say hoa hoặc biết thú thưởng hoa. Nhưng ông Đô là vị thần duy nhất đối với cô, những gì cha cô đã muốn đã làm, cô phải tiếp tục bằng mọi giá...Cô chẳng ngờ vào lúc nguy nan này, cây mai trắng đã trở thành phao cứu hộ cho mình :
―Nhà lão ấy chẳng thiếu thứ gì, ngoài một cành mai trắng. „
Suốt đêm cô trù đi tính lại. Trời vừa sáng, cô vác cưa ra vườn, thiến cành mai lớn nhất, sai cả nụ lẫn hoa đem làm vật tế.
Khi cô đến ngõ nhà ông Quảng, khách khứa chưa có ai. Cô Ngân và bà Tư móm đang ngồi vặt lông gà giữa trước cửa bếp. Thấy cô, cả hai người cùng đứng lên chào. Cô Ngân mỉm miệng cười :
- Chào chị, năm mới xin mừng tuổi chị.
Bà Tư ròn rã hơn :
- Năm mới, rồng đến nhà tôm, năm nay thế nào cũng có sự tốt lành ...
Cô Vui cố gắng nhìn vào đôi mắt đen như ngọc huyền của bà chủ mười tám tuổi. Cô cũng tươi cười cất tiếng chúc tụng dù tim đánh thì thòm trong lồng ngực. Rồi bà Tư móm cao giọng gọi :
- Cậu ơi, có khách đến nhà !
Nói xong, bà giục :
- Mời cô lên nhà trước, mợ cháu tôi đang giở tay.
- Xin phép các vị.
Cô đáp, đoạn bước lên bậc tam cấp. Ông Quảng đứng chờ cô ngay khuôn cửa trong bộ đồ lụa nâu cổ truyền.
― Lão già chơi trội ; ăn diện kiểu khác đời ... „
Cô cúi đầu xuống chào chủ nhân theo kiểu các cán bộ dưới phố, thầm đánh giá cách phục sức của người anh hùng. Lẽ ra, lấy vợ trẻ, người ta phải diện sơ-mi trắng hoặc màu trứng sáo, tệ nhất cũng phải áo bu-dông, quần tây thẳng ống, cho ra dáng thị thành và trẻ trung. Đằng này, ông Quảng lại trưng bộ đồ lụa tơ tằm của các bậc lão trượng, rộng thùng thình. Thêm nữa, ông ta không cắt tóc ngắn mà để tóc dài dưới vai rồi buộc lại sau gáy bằng một sợi dây chun theo đúng kiểu tóc của các hiệp khách giang hồ thời trước. Thêm nữa, ông ta để râu quai nón, mớ râu bao quanh hàm đen nhánh, rậm như cỏ vực và xoăn như râu người phương tây. Điều lạ lùng là trong thứ y phục ấy có vẻ như lỗi thời ấy, tất thảy những cơ bắp cuồn cuộn trên ngực, trên vai ông ta nổi lên rõ mồm một. Và trong thứ y phục ấy, trông ông ta đẹp ngời ngời, một sắc đẹp của bậc trượng phu, không chỉ riêng Xóm Tiều Phu mà khắp huyện này khó có thể tìm được ...
Vui bất giác gò mình, lùi lại một bước vì hơi thở của ông Quảng từ phía đối diện đang phả vào mặt cô, như làn gió nóng của một mùa hè oi nồng, một mùa hè tích tụ biết bao mây giông và sấm sét.
- Chào cô, năm sớm.
- Năm sớm chúc ông mọi sự tốt lành.
Cô đáp lời rồi đặt cành mai đồ sộ tựa vào chiếc tủ chè kê sát bàn thờ. Ông Quảng đưa mắt nhìn cô :
- Mời cô ngồi. Nhà tôi có trà vườn ướp nhài và ướp bạch cúc. Nhà tôi cũng có trà Tuyết Sơn lẫn trà Hồng Đào, cô thích loại nào ?
- Đã là trà nhà ông, chắc thứ nào cũng tốt. Xin ông cứ tự tiện.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 20: TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (9)
Cô trả lời, nhận ra giọng nói của mình run rẩy. Chưa kịp hiểu vì sao , cô đã thấy một cơn nghẹn ngào dâng lên họng. Một thứ nghẹn ngào lạ lùng và bất khả kiềm chế như dòng lũ, cuồn cuộn tràn lên cánh đồng tâm hồn cô, cánh đồng mênh mông hoang vắng. Vui sợ hãi thầm nghĩ:
― Hỏng thật, sao bỗng dưng mình lại đổ đốn ra thế này ? „
Cô tự trấn áp một cách dữ dội nhưng không mảy may hiệu lực. Vui vội vã cúi gò lưng xuống sửa chiếc quai hậu của cặp xăng-đan, cố tình dán mắt vào những ngón chân được kì cọ sạch bong nổi bật trên màu nhựa xanh diệp lục:
― Hãy nhìn xem ! Hãy nhìn xem ! Ta không có những bàn chân đen đủi như chân bọn đàn bà, con gái Xóm Tiều Phu „.
Cô thầm lặp đi lặp lại câu nói đó nhiều lần và niềm kiêu hãnh khiến cô dần trở lại bình tĩnh. Chẳng riêng gì đàn bà, con gái Xóm Tiều Phu mà ngay đàn bà, con gái khắp huyện, hoặc khắp tỉnh này cũng không thể có được cặp chân trắng nõn như chân cô. Cho dù là người hay lam hay làm, Vui bảo vệ nước da lẫn đôi bàn chân như thiên hạ giữ con ngươi trong mắt. Bất kể mưa hay nắng, hè cũng như đông, cô đều đi giầy vải đế cao-su và mang tất sợi dày, hoàn toàn giống như người ngoại quốc. Ấy là có lần, một phái đoàn chuyên gia Liên xô về thăm huyện. Vui nhìn thấy nước da trắng nõn lại mỏng như giấy dó của họ. Cô cho rằng sở dĩ họ giữ được nước da như thế một phần là do quanh năm họ mang tất, mang giầy. Ngày ấy Vui mới mười ba tuổi, nhưng ý thức về nhan sắc đã sớm ám ảnh cô. Kể từ đó, cô đòi ông Đô sắm giầy sắm tất cho mình. Cũng từ đó, mang giầy mang tất với cô trở thành thói quen như cơm ăn nước uống. Giữa một xứ sở mà tất thảy dân cày đều đi chân đất hoặc dép mỏng, sự việc một người con gái quanh năm mang tất mang giầy là sự du nhập một phong tục nước ngoài mà thiên hạ cho là quái gở. Bởi mùa hè nhiệt đới kéo rất dài, trong mùa nồng nực ấy, mang giầy cao cổ lẫn tất sợi là một cực hình. Mồ hôi sẽ ngấm rất nhanh vào các loại sợi vải làm bốc lên mùi khó ngửi. Mặt khác, việc đó cũng giống như sự thách thức dư luận mà người khác khó vượt qua. Nhưng Vui bất cần. Vả chăng, tất thảy những dị nghị, những dè bỉu lẫn những sự rườm lời của công chúng cũng giống như lũ ve, chỉ sống trong mùa hè. Tiết thu sang, muốn hay không chúng cũng phải chui vào kén.
Vui nhìn đôi bàn chân trắng như trứng gà bóc của mình, biết đó là sự cứu rỗi. Một chiếc phao cứu hộ đúng vào lúc cô sắp chết chìm. Gài lại chiếc khoá nhôm một cách tỉ mẩn, nhìn lại lần nữa làn da mỏng dính, trắng hơn cả da con gái thị thành, cô tìm lại điểm tựa giống như một đô vật tìm lại được thế đứng thuận lợi trên võ đài. Ngẩng đầu lên, Vui đã có thể cất lời một cách trịnh trọng, giống như những dịp cô khai mạc cuộc họp chi đoàn toàn xã :
- Năm sớm, có cành mai trắng làm quà, tặng vật nhà nghèo, mong ông không chê.
- Cô mà nghèo sao ?
Ông Quảng cười phá lên và cất tiếng hỏi :
- Cô tưởng tôi đi kiếm cơm xứ khác nên chẳng hay biết gì mọi sự trong làng trong xóm ?
- Không ! Tôi không nghĩ như vậy ...
Cô đáp, lúng túng cúi mặt xuống vì hàm răng ông chủ trắng như ngọc, lại đều chằn chặn, chúng loá như ánh chớp khi ông ta cười :
― Phải chăng lão ta không hút thuốc lào, thuốc lá ? Có người đàn ông nào kiêng được thuốc ? Vậy làm cách nào mà lão giữ được hàm răng đẹp như răng bọn trai mười tám đôi mươi ? „.
Ông Quảng tiếp lời :
- Người làng bảo cô sắm máy nổ thượng hạng, rồi cô sắm đèn măng-xông cũng là thứ mới ra lò, tốt hơn hẳn đèn nhà tôi. Nay mai, cô sẽ trở thành người giàu nhất huyện đấy.
- Không dám ...
- Nhưng cô đã có lòng cho cành mai, tôi xin nhận. Đối với tôi, đây chính là lộc đầu xuân. Nhà tôi có chiếc độc bình quai đồng , lát nữa tôi sẽ cắm cành mai vào đó.
Ông rót nước trà. Cô nhìn làn khói bốc lên , bâng khuâng tự hỏi vì sao cô lại không thể là người cắm cành mai kia vào chiếc độc bình cổ quai đồng kia? Vì sao ? Có lẽ trời đất hoặc quỷ thần hai vai đã quên lãng một phận sự cần thiết mà đáng lẽ họ nên làm từ rất lâu mới phải !
Nhưng cơn mơ mộng vụt đi rất nhanh, Vui nhớ lại nhiệm vụ khẩn cấp mà cô phải thực hiện : Gỡ cô ra khỏi tầm ngắm bắn của người đàn ông ngồi trước mặt.
- Đầu xuân, đến chúc tết ông, mừng người mới, hạnh phúc mới. Nhưng cũng lại có chuyện muốn nói. Không rõ ông có vui lòng chấp thuận hay không ?
- Ồ, tôi có phải bí thư huyện đoàn hay tỉnh đoàn đâu mà cô phải đưa đón vòng vo như vậy. Chỗ xóm giềng, trong làng ngoài thôn, chuyện gì mà chẳng thể nói được với nhau ?
- Vậy xin hẹn ông sau năm ngày tết, lúc nào rảnh mời ông ghé qua nhà chơi.
- Được rồi, tôi cũng có nhiệm vụ đến chúc tết lại chứ. Có đi có lại mới toại lòng nhau ...
Chưa kịp cạn chén nước chè, khách đã ầm ầm kéo đến đầy sân. Cô Vui rút lui, nhưng trước khi về không quên ghé vào tận bếp chào cô Ngân với bà Tư bởi hai người đàn bà đã rút lui vào vương quốc của họ. Trong bếp, ngổn ngang những nồi cùng chảo. Mùi xôi dừa lẫn mùi gà tẩm mật ong rán cùng bốc lên, hoà lẫn nhau, cho một mùi thơm ngào ngạt.
Trưa hôm đó, vào bữa cơm chỉ có ba người, cô Ngân bảo chồng :
- Này anh chàng kháu lão, cái nhà cô to đùng đến đầu buổi phải lòng ông đấy. Có biết hay không mà cứ giả bộ ậm ừ ?
- Sao mà tôi biết được ?
- Đúng, việc gì cậu phải biết cơ chứ ? Đông, tây, nam, bắc...bốn phương tám hướng, thiên hạ thiếu gì người ?
Bà Tư chêm vào, rõ ra vẻ hãnh diện. Ông Quảng tò mò nhìn vợ :
- Nhưng vì sao mình lại cho là cô ta mê tớ ?
- Úi chao !
Cô vợ trẻ bĩu dài môi :
- Kiểu mắt nhìn đờ đẫn như say thuốc lào thế ấy chẳng phải kẻ mộng du thì chỉ là mắt mê trai thôi.
- Thật thế sao ?
Ông Quảng hỏi lại và cất tiếng cười ròn rã:
- Này cô mình, nếu chẳng có duyên có phận gặp cô mình tớ cũng có khối người xin vào cửa. Chưa đến nỗi phải đi gánh một cô hộ pháp về để sớm tối đấu võ hay tranh giải đô vật gia đình.
- Đúng rồi !
Bà Tư móm đế vào tức khắc :
- Gần một năm nay , không biết bao nhiêu kẻ gửi trầu cau với bánh đậu, bánh gai Hải Dương biếu cháu. Nhờ lộc cậu, chưa kịp làm bà mối đã no xôi chán chè.
Cô Ngân nhìn hết nhìn chồng lại nhìn bà Tư , đang đong đưa đôi khuyên tai mặt ngọc , ngoác cái miệng móm cười với vẻ hả hê :
- Thôi, tôi chịu thua cả hai cậu cháu rồi ! Rõ thật là một đồng một cốt.
Phần cô Vui, suốt dọc đường về, cô băn khoăn tự hỏi xem ông Quảng đã biết chuyện cô đi đến làng Khoai hay chưa ? Bởi giọng cười của ông, vừa có vẻ khoáng đạt, lại vừa có vẻ riễu cợt mà cô không thể cắt nghĩa. Cái nhìn của ông cũng vậy, khi long lanh nó toát lên sự vui vẻ và độ lượng, khi mờ tối nó lại phản chiếu nỗi chua chát mơ hồ mà cô không biết căn duyên. Thêm nữa, cô tin chắc rằng sau tối mồng một, dân làng đã lại đổ đến nhà ông Quảng, nơi chốn lý tưởng cho truyền thống hiếu khách. Tính hào phóng cũng như cốt cách sang cả của chủ nhân là những phẩm chất bất khả cạnh tranh. Cô hình dung mảnh sân mênh mông ấy, những gian nhà thênh thang bài trí toàn đồ gỗ thượng hạng mà ông đã chuộc lại và mua sắm thêm sau ngày sửa sai cải cách ruộng đất. Những bộ đồ ấm chén bầy trong chiếc tủ chè. Những chiếc đĩa men ngọc cổ và những chiếc lọ sứ bịt đồng mà khắp huyện không gia đình thứ hai nào có được. Và cô hình dung lại dáng vóc vừa vạm vỡ vừa thanh tao trong bộ đồ lụa, tiếng cười sang sảng như ngọc đổ vàng rơi. Cô bỗng cảm thấy cô như một con rối khổng lồ kết bằng giấy bồi, bị sụp đổ, bị bẹp dúm dưới cái nhìn sắc như gươm, bị tan rã bị rút mất linh hồn trước diện mạo của người đàn ông đó.
― Có lẽ lão ta đã biết hết chuyện. Không phải có lẽ, mà chắc chắn lão ta đã biết hết mọi chuyện. Từ hôm qua đến hôm nay, khách khứa nườm nượp như thế, chắc chắn đã có người kể lại mọi sự xẩy ra dưới mái nhà mình. Trong đám khách, có nhà thông gia với em út của ông ta. Vả chăng, khi dân làng đã nhìn mọi sự theo chiều hướng khác, người ta sẽ chẳng ngại ngần mà trở mặt, lật tay. Thói đời xưa nay đâu có lạ ?...
Cô nhớ lại đường nhăn hằn sâu xuống một bên mép khi ông ta cười và giọng nói có phần chớt nhả :
- Tôi có phải bí thư huyện đoàn hay tỉnh đoàn đâu ?
Cái chi tiết sau cùng khiến cô đinh ninh rằng ông Quảng đã biết hết mọi chuyện. Giờ đây, cô chỉ có thể trông vào sự độ lượng của đối thủ mà thôi.
Về đến nhà, Vui mệt rã rời. Nỗi mệt nhọc lạ lùng cô chưa hề biết từ thuở khôn lớn. Buông mình xuống ghế, bất giác cô cúi xuống nhìn đôi bàn chân . Hai bàn chân trắng nõn trong màu nhựa xanh. Quanh năm đi tất đi giầy chỉ để ba ngày tết khoe được làn da trắng. Nhưng hôm nay trời rét, ai cũng thấy rằng cái việc mang đôi xăng-đan nhựa của cô là sự làm dáng cố tình. Người lõi đời như ông Quảng không nói ra nhưng hẳn phải thừa biết. Ôi, đôi bàn chân trắng nõn của cô. Tốn phí biết bao công sức nhưng cũng chỉ gìn giữ được làn da còn chẳng có cách chi thay đổi được hình dáng :
― Ta là con đàn bà mang cỡ giầy bốn mươi ba. Đôi chân này suốt đời chọn giầy dép thửa, đôi chân này bị kết tội vĩnh viễn mang hình dạng của bọn đàn ông. Đôi chân này không thể đẽo gọt, không thể sửa sang. Cũng chẳng có cách chi che giấu.
Nước mắt bỗng trào lên mi, và lần đầu tiên trong đời, cô hướng về phía ông Đô, nói lời oán hận :
- Cha ơi, sinh con ra để làm gì ? Cha sinh con ra làm gì để con phải chịu bao nhiêu đớn đau, khốn khổ ?
Nước mắt che mờ khiến cô không còn nhìn rõ ảnh cha cô nữa. Nhưng lúc ấy, trên bàn thờ, ông Đô cũng rưng rưng lệ.
***
Từ khoảng mồng mười tết cho đến cuối tháng giêng, trời bỗng mưa rào liên tục. Nếu theo thời tiết thông thường những cơn mưa này chỉ có thể đổ xuống vào khoảng đầu tháng tư âm lịch, nghĩa là cuối tháng năm theo lịch phương tây. Những cơn mưa ào ạt, rơi như bão táp trong vòng nửa giờ rồi ngừng lại. Nắng hửng lên, trời bỗng oi nóng một cách khó chịu. Rồi sau đó, gần như một trận tấn công bất ngờ của lũ cướp, mưa lại sầm sập tuôn rơi. Sau những cơn mưa, trời có một màu hồng xám nhợt nhạt, với những vẩn mây bẩn như bụi chì. Người ta ngửa mặt nhìn trời, than:
- Lạ lùng, sao mới tháng giêng đã có mưa rửa đền như vậy ?
- Mưa rửa đền tới sớm, cháo cám cũng chẳng có mà ăn.
- Lạy trời, đừng bắt dân khốn khổ thêm nữa. Vừa mới dịch châu chấu rồi lại sâu rầy .
- Ông không tin vào sức người mà chỉ lạy trời thôi ư ?
- Sức người có hạn, uy trời vô bờ. Mấy ngàn năm tổ tiên chúng ta lạy trời, nay tôi cũng lạy trời.
- Thôi, lạy trời xong cũng phải tìm cách mà dặm lấy ít khoai ...Mưa sớm thế này, lợi dụng làm thêm vài luống khoai trái vụ. Nếu không may mất lúa thì còn có thứ mà bỏ vào dạ dày.
Người ta rủ nhau đi dặm khoai trái vụ. Rồi tiếp đó, người ta rủ nhau lên rừng hái nấm. Mùa này, nấm mọc như sung, mỗi buổi đi gặp may có thể hốt đầy bao dăm, bẩy cân tây hoặc hơn nữa. Nấm tươi xào mỡ lợn xuông cũng ngọt. Nhà nào xôm cho thêm vài lạng thịt bò ướp tỏi và lá ngò gai thái miến thì tuyệt vời, chẳng cần nêm gia vị hay bột ngọt vẫn ăn đứt nấm xào trong khách sạn thủ đô . Đối với những nhà đang còn nuôi con nhỏ, các bà có thể vằm nấm tươi với thịt thăn và hành hoa rồi đem viên theo kiểu viên bún mọc, sau đó nấu cháo hoặc nấu canh rau ngót rừng hay hoa lý. Tuy nhiên, người ta không chỉ hái nấm để ăn mà còn hái nấm để phơi khô, sấy khô đem bán. Quanh năm các cửa hàng ăn thành phố, từ thủ đô cho tới các thị xã miền xuôi lẫn miền ngược đều cần tới nấm khô. Bún mọc, bún thang, bóng nấu tôm, măng nấu sườn....tất thảy những thứ ấy đều phải có dăm cánh nấm mới dậy mùi. Ấy là chưa kể tới các món xào, các món hầm, hoặc món chưng cách thuỷ nơi cao lâu, tửu quán ...Nấm đối với dân vùng này không nhẹ cân hơn lúa, khoai mì và những nguồn thu khác. Như thế, mùa nấm cũng giống mùa gặt lúa dưới châu thổ sông Hồng, vừa là mùa làm ăn vừa là một dịp chính đáng để tụ họp vui vẻ nên mọi người khó bỏ qua.
Mùa nấm năm nay là mùa nấm đầu tiên cô Ngân lên rừng với đám đàn bà Xóm Tiều Phu. Cũng chính là cơ hội đầu tiên để một cô dâu xứ lạ tham gia vào sinh hoạt của cộng đồng. Thoạt tiên, cô đi với bà Tư Móm, vị thần bảo trợ và người thân thiết nhất với cô sau đức lang quân. Rồi khi mối bang giao xóm giềng đã khá mặn nồng, hoặc là làm ra vẻ mặn nồng, cô đi với mấy bà, mấy cô liền dậu. Mỗi tốp như vậy khoảng từ năm đến mười người. Họ cùng nhau mang theo đồ ăn và thuốc phòng rắn độc. Mỗi năm chỉ có một mùa hái nấm chính thức nên đàn bà con gái Xóm Tiều Phu đổ hết lên rừng. Vợ con Quý đương nhiên cũng đi nhưng họ nhập vào tốp khác, và cả hai bên đều tìm cách tránh mặt nhau. Tuy nhiên, dù muốn hay không, cũng vẫn có những cuộc chạm trán. Bởi đường lên rừng buộc phải qua những trảng cỏ hẹp nơi lòng thung hay những con dốc độc đạo. Người ta không có cách chi tránh được những lối đi bắt buộc ấy. Cái sự chạm trán giữa những kẻ cừu thù đương nhiên phải xẩy ra trước mắt láng giềng. Sau mỗi lần, thiên hạ lại trần thuật một cách rộng rãi khắp xóm cùng thôn, giống như cuộc trần thuật những trận bóng đá tranh giải quốc gia hay quốc tế xảy ra tại các câu lạc bộ thành phố. Theo cách đánh giá chung của người làng, vợ con Quý ỷ vào hai thế : Trứơc hết, họ là dân sở tại , mà cái thói :― Ma cũ bắt nạt ma mới vốn là thói quen đã hiện hành hàng nghìn năm. Thứ hai, họ lại là số đông, bởi họ có những ba mẹ con, trong khi đối phương đơn thương độc mã. Thế nhưng, điều oái oăm là cả hai thế mạnh kia đều không chạm tới được lông chân cô nàng áo xanh của ông Quảng. Người ta kể một cách chi tiết rằng, ngay lần chạm trán đầu tiên, vợ Quý chiếu vào mặt cô Ngân một cái nhìn đầy vẻ khiêu khích và phỉ báng , ngay tức khắc cô Ngân cũng quay đầu, giương mắt trừng trừng nhìn lại địch thủ, không lùi một phân. Kể về sức lực cũng như tinh thần thì cô ta uy hiếp hẳn người con dâu của ông chồng, nhỏ bé quắt queo nặng không quá bốn mươi cân, cổ dúm lại như cổ bà lão. Nếu hai đứa con gái nhà Quý nhổ nước bọt một lần, tức khắc cô Ngân nhổ hai lần trả miếng. Những cuộc chạm trán thù địch như vậy thường diễn ra trong sự im lặng của dân làng. Mọi người đếu cúi mặt làm ngơ, chẳng ai dám lên tiếng can ngăn hay hoà giải. Một lần nào đấy, đứa con gái nhỏ của Quý, chanh chua thách thức :
- Giỏi thì chơi ?
Cô Ngân cười khẩy, vênh mặt lên :
- Chớ cậy thứ luật :― Hai chọi một, chẳng chột cũng què. Tao đây, tao chấp cả ba chọi một. Dám hay không ?
Lúc này, chính ba mẹ con nhà Quý lại phải nuốt hận làm thinh vì nhìn tình thế, rõ ra cô thợ quét vôi kia có thể tả xung hữu đột với cây trượng của ông chồng giáng cho họ những đòn chí tử. Và chắc chắn không một người láng giềng nào dám đứng vào bè với họ để đánh lại cái ―con đĩ áo xanh kia. Sân nhà ― Con đĩ áo xanh giờ đây đã trở thành câu lạc bộ của người làng, còn có phần đông vui gấp bội thời bà Quảng còn sống. Người ta đã ăn đã uống, đã vui vẻ chuyện trên trời dưới biển trong ngôi nhà ấy, người ta, dẫu trong lòng có muốn, cũng không thể quay đầu lại đánh gia chủ.
Thời gian này, chẳng thấy chủ tịch Quý đâu. Mọi thứ giấy má của dân xã, đã có ông phó chủ tịch lo liệu. Nghe đâu có đợt tập huấn mười hai ngày dưới huyện dành cho các chủ tịch xã, sau đó tiếp đến cuộc tập huấn mười ngày dành cho các bí thư xã. Quý vừa là chủ tịch vừa kiêm nhiệm phó bí thư. Tập huấn xong bên chính quyền, anh ta ở lại luôn dự đợt tập huấn đảng thay cho ông bí thư ở nhà nuôi vợ đẻ .
Trước khi đi, anh ta rẽ qua nhà cô Vui :
- Ông bố tôi biết chuyện cô về làng Khoai rồi hả ?
- Chứ anh tưởng giấu được ông ấy hay sao ?
- Ông ấy có tra hỏi gì không?
- Anh không hiểu bố anh. Ông ấy chẳng thèm động dạng tới chuyện đó. Ngay một nửa chữ.
- Bố tôi không vừa đâu.
- Anh chẳng phải dạy.
- Thế hai người nói chuyện gì ?
- Chuyện trồng mai, trồng đào phai hay bích đào...Chuyện nuôi ong, thay giống, hớt phấn hoa hay cải tiến kích thước đõ. Thiếu gì việc ông ấy quan tâm.
- Giờ tôi hỏi cô sự này : Cô có chắc hai người ấy đăng kí được ở làng Khoai hay không ? Bởi lão giáo làng Khoai lại là cháu ruột chủ tịch xã ?
- Người ta đoán vậy thôi, chẳng ai chắc. Một mặt, chủ tịch xã không thể phỉ báng cháu ruột mình. Bởi nếu ông ấy công khai làm đăng kí kết hôn cho cô Ngân khác nào dáng cho cậu cháu một cái tát. Nhưng mặt khác ...
- Mặt khác làm sao ?
- Tôi không biết được.
Cô bí thư buông câu nói nửa chừng vì trong óc cô hiện lên những ngôi nhà mà ông Quảng đã ra tay xây dựng. Chủ tịch làng Khoai không được hưởng một cơ ngơi đồ sộ như thế, nhưng ít nhất ông ta cũng đã được thay mái ngói, thay bốn bức tường lồi lõm cong queo thành những bức tường gạch phẳng phiu, trát xi-măng từ ngọn tới gốc, lại quét vôi vàng sáng choé ...Thêm nữa, chân tường cũng chạy diềm sỏi trắng như kiểu nhà công sở, đối với dân làng Khoai, đấy hẳn đã là cách chơi sang. Chưa hết, mảnh sân cũng được lát gạch lá nem và có tường hoa bao quanh. Như thế, nhà ông ta tuy vẫn chỉ một tầng nhưng trông khang trang, lộng lẫy như con công đứng giữa đám gà vịt đói lông cánh xơ xác xung quanh. Rõ ràng là của cải từ túi bà giáo làng Khoai chảy ra để đắp đổi cho ngôi nhà này không phải ít.
Quý sốt ruột trước vẻ ỡm ờ của Vui. Anh ta cau có dằn giọng :
- Cô bảo sao ? Làm gì mà nửa kín nửa hở như vậy ?
- Tôi không biết được.
- Cô không biết thì còn ai biết ? Cô là người duy nhất ở Xóm Tiều Phu đi đến tận làng Khoai.
- Vì thế nên tôi sẽ phải hứng đòn của ông bố anh. Mà anh cũng không thể giơ lưng chịu thay tôi được.
Cô Vui nổi khùng quát trả lại, giương mắt nhìn Quý, hai kẻ a tòng nhanh chóng biến thành thù nghịch sau cái nhìn hờn oán. Rồi sau một tích tắc bất động, cô gái già bất chợt vùng đứng lên xô ghế và vung tay như đuổi gà :
- Tôi đã bảo không biết tức là tôi không biết. Muốn rõ đầu đuôi, anh về làng Khoai mà điều tra.
Quý không nói thêm nửa lời, mặt đen sầm như đám mây trước cơn mưa bão. Anh ta ra cửa, cô Vui quay lưng vào buồng trong, chẳng ai chào ai.
Ở dưới huyện, nhưng gan ruột Quý cồn cào như ăn phải thuốc phiện sống. Giống mảnh vải bị cuốn vào guồng bánh xe, lòng thù hận khiến anh ta quay đảo, khắc khoải không nguôi ...Anh ta không còn nhìn thấy vật gì ngoài ―con đĩ áo xanh. Con đĩ áo xanh, kẻ bất chợt từ trên trời rơi xuống hoặc từ một miền đất lạ gió cuốn tới đây ...
― Con đĩ áo xanh ! Kẻ thù sinh tử của ta ! »
« Con đĩ áo xanh ! »
Nhưng vì đâu mà có lòng căm thù ấy ? Quý không thể tự hỏi vì anh ta không đủ sáng suốt lẫn can đảm để làm điều ấy. Bởi chính anh ta cũng không hiểu vì sao mình căm thù người đàn bà khác xứ kia đến như vậy. Dường như lòng căm thù này là một loại mèo hoang hay chó lạc bỗng dưng từ đâu đó chạy thẳng vào sân nhà cất tiếng gào dã man cất tiếng sủa điên loạn. Hoặc như thứ hạt mầm cay độc cơn gió lang thang bỗng dưng mang tới, cấy vào trái tim con người, ở trong đó, nó nảy mầm, đơm lá, những chùm rễ sinh trưởng mau hơn loài thuỷ tức, lan toả, len lỏi, ăn sâu vào từng tế bào và con người khốn khổ không còn là gì hơn một thứ xác chết vận hành dưới những sợi dây điều khiển của lòng thù oán. Những dòng chữ thường xuyên hiện lên trong óc não, những tiếng nói thường xuyên vang lên bên tai Quý là :
« Con đĩ áo xanh, kẻ sẽ chiếm mái nhà mà ta có quyền thừa tự, kẻ khiến cho gia đình ta tan vỡ, cha con chia lìa và mẹ ta phải ngậm hờn nơi chín suối. »
Tuy nhiên, anh ta chưa bao giờ dám thú nhận với chính mình rằng cái « con đĩ áo xanh kia » còn khiến anh ta mất hoàn toàn thăng bằng mỗi khi gặp mặt. Rằng ngay lần đầu chạm trán cô ta, toàn thân Quý đã hầu như tê liệt, giống như một con cua trong tầm tay vồ của con ếch, co rúm cả tám càng lại chờ phút khai tử, hoặc giống như một con chuột hoàn toàn bị đông cứng tứ chi mất hết khả năng tự vệ trước cặp mắt thôi miên của loài rắn. Khoảnh khắc ấy, toàn thân anh ta lạnh ngắt như tử thi rồi sau đó lại bừng bừng như đám cháy, và những cảm giác tột độ trái chiều như thế cứ lần lượt đổi thay nhau. Ngay lần ấy, anh ta đã cảm thấy sinh mệnh của mình từ nay thuộc về một kẻ khác, và cái thân xác anh ta đang cư trú chẳng qua cũng chỉ còn là vỏ của một con tàu mà bánh lái lẫn những ngọn buồm đã bị điều khiển bởi bàn tay một ác thần vô hình đầy quyền năng. Kể từ ngày ấy, cứ mỗi lần nhìn thấy đôi mắt nhóng nhánh đen huyền của cô ta là máu trong huyết quản Quý lập tức sôi lên. Cái thứ máu sôi sục trong thân xác đó thổi lên trên mặt anh ta một đám cháy, khiến da mặt anh ta bỏng rát trong khi đầu óc quay cuồng, và mọi vật bỗng trở nên bồng bềnh mờ mịt như bị nhìn qua đám khói đốt rạ giữa cánh đồng. Anh ta cũng không kịp nhận ra rằng khi thấy cô ta, cổ họng anh bỗng dưng bị nghẹn, kiểu như người ăn khoai bị nghẹn vì nuốt nhầm thứ khoai quá bở lại không có nước chiêu. Và hơi thở của anh ta cũng bỗng nhiên thiếu hụt như kẻ leo núi cao mà không còn đủ sức. Sáng mồng một, để giữ được vẻ bình tĩnh khi đối đáp với người cha, Quý đã phải tự cấu vào lòng tay mình cho đến nỗi máu tụ đen bầm sau đó. Rồi tới lúc bị ông bố đuổi, bầu đoàn kéo nhau qua sân anh ta vẫn cảm thấy nửa bên mặt hướng về phía gian bếp bị tê liệt vì chờ mong ―cái con đĩ tử thù kia xuất hiện lần nữa. Một nỗi ước mong thầm kín bất khả nhận diện và bất khả kiềm chế khiến anh ta bước đi một cách vô hồn như sự vận hành của một zombie. Mảnh sân quen thuộc nơi nhà bố mẹ đẻ bỗng trở thành một sa mạc bất trắc. Và khuôn cửa nhà bếp bỗng trở thành cửa một hang đá bí ẩn nơi có nguy cơ xuất hiện một loài thú huyền diệu có khả năng dẫn tới cùng một lần địa ngục lẫn thiên đường. Anh ta đã đi qua mảnh sân ấy với cơn bão lốc cuồng nộ trong tâm hồn ...Nhưng cô Ngân đã cố thủ bên trong. Cuộc tấn công của anh ta thất bại hoàn toàn mà không có mảy may an ủi hay cứu rỗi ...
Giờ thì những cuộc chạm trán thù nghịch giữa ―con đĩ xinh đẹp kia với vợ con anh ta đã diễn ra mỗi ngày mỗi căng thẳng. Lòng căm thù của anh ta cũng càng ngày càng ngùn nghụt bốc cao :
« Con Vui đã trở mặt, nó không còn muốn giúp ta nữa. Con voi cái thiếu đực này chắc đã ngã lòng trước ông bố của ta. Lão già ăn hết mọi phần lộc của thiên hạ. »
Quý ngẫm nghĩ với nỗi đau đớn rằng sẽ chẳng bao giờ anh ta với được đến vai ông bố , không chỉ vì tầm vóc bên ngoài mà còn vì biết bao điều khác. Và cái ý nghĩ này dầy vò anh ta cả ban ngày lẫn ban đêm, cả lúc ăn lẫn khi ngủ. Sau những ngày đêm liên tục bị nghiền nát dưới cảm thức về sự thua thiệt và tủi hổ, đôi khi anh ta ngồi làm phép tính cộng trừ tuổi tác giữa ông bố đẻ với mình. Chỉ khi đó, Quý mới tìm được nguồn an ủi. Muốn hay không, anh ta cũng còn trẻ, và tuổi trẻ là sức mạnh vô địch. Trời cho anh ta thời gian. Trời cho anh ta cơ hội. Có một khác biệt không thể chối cãi, một vực sâu không thể san lấp giữa một ông già sáu mươi mốt với một người đàn ông tuổi bốn mươi :
« Ta không thể chấp nhận để mình bị gạt ra ngoài lề và thành kẻ trắng tay. Cuộc đấu không thể kết thúc dễ dàng như vậy. Ta còn cơ hành động. Chẳng cần cái con gái già kia, ta vẫn có thể làm mọi sự một mình. »
Ý nghĩ cuối cùng nung nấu Quý trong suốt ba tuần lễ tập trung nghe huấn thị của cấp huyện và cấp tỉnh. Khi đợt huấn thị kết thúc, anh ta bỏ bữa cơm liên hoan bế mạc dông thẳng xuống thành phố, nơi công trường tỉnh uỷ. Người làng báo cho anh ta biết rằng ông Quảng đang còn ở lại Xóm Tiều Phu để giúp cô vợ trẻ phơi sấy nấm. Thực là cơ may. Tại công trường, Quý tránh khu vực của đám thợ nội tỉnh vì đa phần đều là người trong huyện do ông Quảng tuyển lựa. Anh ta phải lân la ở dãy quán bán cơm bên ngoài khá lâu nhằm dò cho ra khu nhà mà đám thợ Hà Tây, lũ ―gái công trường trú ngụ. Tìm ra ―hang ổ ― của con đĩ áo xanh rồi, Quý còn phải ngồi chờ ngoài quán cơm cho đến khi trời sẩm tối , anh ta mới dám mò vào công trường sau khi mua hai bao thuốc làm quà cho gã gác đêm :
- Tôi có cậu em họ làm việc trong đội nề của ông Quảng. Nó đang tìm hiểu một cô thợ quét vôi Hà Tây. Chú thím tôi nhờ tôi kiểm tra xem tình hình sinh hoạt của cô ta có được lành mạnh hay không để còn quyết định tổ chức đám cưới. Lý do chính đáng như vậy, hy vọng rằng đồng chí có thể giúp đỡ tôi.
- Đồng chí có giấy tờ chứ ?
- Có ngay đây.
Quý chìa chứng minh thư kèm theo theo giấy triệu tập chỉnh huấn của huyện. Người gác cổng chúi mũi xuống đọc. Sau đó, anh ta ngẩng lên nhìn Quý với vẻ nịnh bợ :
- Mời đồng chí vào. Cẩn thận những khúc đường trơn vì giờ này chúng tôi tắt nửa số đèn, khu vực thi công còn nhiều đoạn lầy lội. Chúc đồng chí thành công.
- Cảm ơn.
Chủ tịch Quý đáp một cách hài lòng. Vẻ khúm núm của người gác cổng khiến anh ta thấy tự tin hơn, phấn chấn hơn .
Từ cổng công trường tới khu vực ăn ở của thợ không gần. Đi rảo bước cũng phải mất hơn nửa tiếng. Vừa đi, Quý vừa suy tính cách tiếp cận với đám thợ quét vôi, những kẻ không mảy may quen biết. Một lần nữa, cái bóng sừng sững của người cha lại đổ xuống, trùm lấp. Quý biết rằng anh ta không có khả năng chinh phục, anh ta thiếu duyên giao tiếp. Những điều mà ông Quảng có thể nói ra một cách dễ dàng trong giây phút anh ta phải suy ngẫm đắn đo, tìm lời sắp ý một cách khó khăn. Theo rõi ông bố từ tuổi thiếu niên, Quý ngạc nhiên vì hầu như ông ta không cần suy tính gì trước, khi sự việc đến, tức khắc cách phản ứng, những lời lẽ đối đáp như dòng suối bất thần chảy tới, hoặc như mạch nước ngầm từ trong núi đá tuôn ra. Quý chứng kiến khả năng ứng biến tài tình của người cha, vào chính những dịp ông dẫn anh ta xuống xin học dưới tỉnh. Thoạt tiên là trường trung cấp hàng hải vì thuở nhỏ Quý thích gấp thuyền, tắm suối và giấc mơ tuổi mười ba của anh ta là trở thành thuỷ thủ. Nhưng ngay lần thứ nhất tham quan tầu thuỷ, Quý đã say sóng đến nỗi cả tuần sau đứng lên vẫn xây xẩm mặt mày, anh ta nằng nặc xin bố cho chuyển sang trường trung cấp cơ khí. Với nghề cơ khí, Quý theo học được hơn một năm, nhưng cho dù hết sức cố gắng và cho dù ông Quảng không tiếc công tiếc của nhờ các thầy giáo trong trường lẫn các quản đốc công xưởng kèm cặp, Quý cũng không đủ khéo léo và kiên nhẫn để có thể trở thành thợ tiện mức trung bình. Sau thất bại này, mới đến trường trung cấp lâm nghiệp, cây cầu cuối cùng để sau đó anh ta phải rút ván và không bao giờ dám mơ tưởng quay lại bất cứ mái trường nào nữa. Sự thay đổi liên tục các trường trong hệ thống hành chính nhiêu khê, phiền toái như thế, ai nghe cũng lè lưỡi lắc đầu, vậy mà Quý thấy ông Quảng phẩy tay nhẹ như bấc. Dường như con người đó sinh ra để thành công, ông ta có tất thảy những phẩm chất của kẻ thành đạt.
Nhưng một khi ông ta đã hưởng hết mọi quà tặng của số mệnh, con cái sẽ phải chịu hẩm hiu ...:
« Trời cho người này, trời rút trong túi người kia ! »
Quý đinh ninh như vậy. Không hiểu từ đâu, mà anh ta có cái kết luận lạ lùng đó. Có những ý nghĩ quái đản mọc rễ trong óc con người mà không ai nhổ bật lên được. Phải chăng vì có những thứ tâm hồn u ám chỉ thuận lợi để nuôi dưỡng sự hằn học, ghen tuông giống như những đầm lầy chỉ có thể làm nảy sinh loài rong đuôi chồn, cỏ mực ?
Khu nhà dành cho các nữ công nhân ồn ã nhất là sau bữa cơm chiều. Đây là giờ các bà các cô ăn cơm xong, ngồi túm tụm chơi tu-lơ-khơ hoặc chuyện gẫu. Mùi ngô rang bay thơm lừng. Các bà nạ dòng vừa đánh bài vừa ăn kẹo lạc và ngô rang. Còn những cô trẻ nhất đang kề mặt dưới ngọn điện mà tỉa lông mày, thứ chăm sóc dung nhan ít tốn kém nhất. Quý phải dừng lại ngoài cửa vì nghe tiếng quật bài đen đét, tiếng cười sằng sặc, tiếng nói quang quác của họ. Một thứ thực tiễn mà anh ta chưa chạm trán bao giờ. Đàn bà Xóm Tiều Phu không dám cười sằng sặc như thế, cũng không dám la hét và quát tháo hệt như lũ đàn ông quanh chiếu bài. Nói cho thật đúng, đàn bà Xóm Tiều Phu không được phép chơi bài. Họ có nhiều việc trong nhà và trong bếp :
« Rõ là mấy con đĩ công trường, thiên hạ chửi không ngoa. Đúng là lũ ngựa cái được xổ chuồng tháo cũi. »
Anh ta thầm nghĩ, cảm thấy hả hê khi con đĩ áo xanh chính nảy nòi từ đây, giữa bọn đàn bà mất nết này. Ông bố chẳng có lý do gì để quá tự hào vì một cô vợ như thế ... Trong khi Quý tần ngần nghĩ ngợi, một cô gái trẻ vừa sửa sang xong cặp lông mày bỗng dưng bước ra ngoài. Thấy bóng đàn ông nép trong bóng tối, cô ta kêu thét lên:
- Ối giời ơi !Ai ? Ai thế ?
- Tôi ...tôi ...
Quý lắp bắp trả lời :
- Tôi là người nhà cô Ngân ....Hà Tây ....Tôi đến tìm cô ấy ....
Tiếng kêu thét của cô gái kéo cả lũ các bà các cô đổ ra cửa. Họ vây lấy Quý, người đang còn nhai dở ngô rang, kẻ đang cầm cỗ bài, cả bọn nhìn chòng chọc khiến anh ta thấy đôi chân bỗng dưng mềm nhũn ra như muốn chạy trốn khỏi cơ thể :
- Ngân nào nhỉ, Ngân thối tai hay Ngân Quảng ?
- Ngân ...Hà Tây ...Ngân làng Khoai.
- A ...Thế là Ngân Quảng. Nó đi lấy chồng rồi, họ hàng sao chẳng biết ?
- Tôi cũng đi thoát ly dưới Ninh Bình từ mấy năm nay ...
Quý đáp. Các bà các cô nhìn anh ta từ đầu đến chân một cách tọc mạch, và ngờ vực :
- Anh họ hàng thế nào với nó ?
- Tôi với cô ấy là ...con cô con cậu ...
- Con cô con cậu hay anh em ...thông ruột ? Cứ khai thật ra rồi chúng tôi khắc mách đường mách nẻo cho mà tìm.
Quý im lặng, mặt bỗng dưng nóng rần rật và mạch máu nhảy như đánh trống hai bên thái dương. Anh ta không biết đối đáp ra sao với lũ đàn bà dạn dĩ này. Trong khi đó các bà các cô nhất loạt phá lên cười ngả cười nghiêng, giống như họ được xem một màn hề chèo tuyệt đỉnh . Những ánh mắt tinh quái của họ chiếu vào mặt Quý giống những mũi kim châm khiến anh ta ê ẩm da thịt. Lát sau, anh ta hắng giọng, cố gắng nói một cách từ tốn và bình thản :
- Các chị hay đùa quá. Tôi đến đây thăm hỏi thật tình.
Bà nạ dòng có tiếng cười nam nhi nhất, sau khi lau nước mắt bằng ống tay áo, thu cỗ bài dang dở lại và bảo Quý :
- Thôi được, nếu anh đã muốn nói thật tình, chúng tôi sẽ bảo anh tình thật. Đùa một chút cho vui thôi. Mà cho dù anh là họ hàng con cô con cậu hay nhân tình nhân bánh thì cái sự ấy cũng chẳng dây gì đến chị em chúng tôi. Nếu đúng anh muốn hỏi cô Ngân làng Khoai thì cô ấy bỏ công trường theo chồng về làm trang trại. Chồng cô ấy là ông Quảng, xếp điều hành toán thợ tỉnh sở tại chứ không phải những kẻ đi làm mướn xứ người như chúng tôi đây. Anh muốn rõ thêm, sang khu nhà A 7, A 8 mà hỏi. Thợ ở đấy toàn một tay ông Quảng tuyển về. Họ biết rõ hơn chúng tôi.
- Cảm ơn chị , vậy cô Ngân cưới vào thời gian nào ?
- Chịu ! Không ai biết.
- Tôi tưởng công nhân xây dựng gia đình, ban tổ chức công trường có nhiệm vụ giúp đỡ ? ...
- Công nhân cũng dăm bẩy loại công nhân. Chúng tôi đây chỉ là dân quê chân đất được tuyển tạm chứ có đứng trong biên chế nhà nước đâu mà được quyền đòi hỏi. Vả chăng tình cảnh gia đình cô Ngân cũng rắc rối lắm. Họ không thể cưới xin bình thường như những người khác.
Một cô trẻ tuổi đứng cạnh chêm vào :
- Nghe nó nói là có cưới xin đàng hoàng mà ?
Cô khác ngắt lời ngay tức thì :
- Cưới cái con khỉ ...
Đoạn quay lại cô kia, cấm cảu :
- Cưới xin gì mà nó im ỉm như ngậm hột thị thế ?
- Nó đã chẳng mời bọn mình bún chả với bánh kẹo nhoè bữa chia tay rồi còn gì ? ...
- Liên hoan chia tay là một việc, cưới xin danh chính ngôn thuận lại là việc khác. Mày to đầu mà sao ngu thế ?
Bà nạ dòng có tiếng cười nam nhi mắng cô gái. Đoạn bà cúi xuống nhìn cỗ bài trong tay. Quý biết rằng đã đến lúc phải chuồn, anh ta cúi chào mọi người :
- Xin cảm ơn các chị, các cô.
- Không dám .
Anh ta vừa quay lưng đi đã nghe các đám đánh bài hò nhau vào chiếu . Những tràng cười ròn rã lại nổ như bắp trong nồi rang. Trong khung cửa sáng, bóng con gái đi qua đi lại, cô áo trắng, cô áo tím, cô áo hồng :
« Mấy con đĩ ngựa xổng chuồng. »
Quý lầm bầm trong họng, nhưng mắt vẫn dán vào khung cửa hình chữ nhật sáng loá điện. Có cái gì nơi đó hút anh ta như nam châm hút sắt ? Anh ta không biết. Nhưng đứng hồi lâu trong bóng tối, thầm lén nhìn những người con gái kia, anh ta bỗng cảm thấy như vừa đánh mất cái gì đó, một sự mất mát mà anh ta không hình dung nổi và cũng chẳng hiểu vật bị mất là cái gì. Cố cắt nghĩa những điều xảy ra trong lòng mình mà không thể được, Quý tự hỏi :
« Cái gì nhỉ ? Ta đánh mất vật gì ? Ta muốn điều chi ? »
Không có lời giải đáp. Rồi bất chợt một cơn tức giận xộc lên họng mặn chát khiến anh ta phải bật thành lời :
« Đúng là lũ ngựa cái động đực, thằng nào rước phải thứ của nợ như chúng mày chẳng chết sớm cũng chết muộn. Rõ ra thứ gái công trường. Con đĩ kia trước đây vài tháng cũng ra ra vào vào õng ẹo như thế. »
Trong đêm, tiếng anh ta vang rất to, dội qua những khu nhà thô rỗng vọng lại khiến anh ta đâm hoảng. Sợ đám người trong nhà nghe thấy Quý vội quay đầu chạy. Đường công trường len lách giữa những đống cát sỏi, những đống gạch ngổn ngang cao thấp , những đống xà giầm, những cối vữa dùng dang dở được ủ lại bằng nhiều lượt bao tải ướt. Trong bóng tối, thần hồn nát thần tính, Quý đạp lên một viên đá cục, ngã bổ nhào vào đám vữa đang còn nhão. Vữa lấp đầy mặt lẫn một bên vai và cánh tay anh ta. Khi đứng lên được, Quý mới nhận ra tình cảnh của mình :
« Thế này mặt mũi nào mà đi ra phố ?... Mà trước khi ra phố lại còn phải qua mặt thằng gác cổng ?»
Anh ta bỏ chiếc cặp da bò xuống, lục tìm các ngăn xem liệu có tờ báo nào có thể vò nhầu để lau đỡ khuôn mặt nhem nhuốc của mình. Lúc ấy, nước vôi đã kịp ngấm vào một bên mắt khiến anh ta buốt rát. Cơn buốt rát mỗi lúc mỗi tăng theo cấp số nhân , một sự gia tăng kinh hoàng. Cơn đau nhục thể ấy rút lên tới tận đỉnh đầu hoà với một nỗi đau khác, còn khủng khiếp hơn, ý thức về sự bất khả và nhục nhã. Nước mắt anh ta tuôn ra, hoà lẫn chất vôi khiến cho cả khu quầng mắt và gò má bỏng rát như bị chà lửa. Rồi nỗi đau đớn đẩy bật lên những tiếng nức nở. Người đàn ông đã ngoại tứ tuần hốt hoảng vì không thể kìm nén khóc. Những cơn nức nở buột khỏi sự gìm nén của anh ta, giống sợi dây diều tuột khỏi tay đứa bé chơi diều, như dòng lũ phá sập bờ đê để tuôn tràn như thác đổ. Trước mắt Quý chỉ còn lại một không gian mênh mông, trong đó những con thác đen không ngừng tuôn xối xả. Dường như toàn bộ máu trong huyết mạch anh ta giờ đây đã trở thành đen, đen tuyền, đen kịt. Những dòng máu đen lan toả khắp cơ thể. Toàn thân Quý run lên trong một nỗi thèm khát điên cuồng : Cần phải cắt cổ ai đó, cần phải đập vỡ sọ ai đó, cần phải chà nát ai đó dưới chân cho hả cơn đau đớn mà giờ đây anh ta đang phải chịu. Vừa chùi bộ mặt lem luốc vôi vữa, Quý vừa nhắm chặt mắt lại để nước mắt có thể rửa trôi đi phần nào chất vôi bám quanh bờ mi. Và lúc đó, trong óc não, anh ta thực hiện mọi cuộc trả thù : Anh ta đốt cháy khu nhà lộng lẫy của tỉnh uỷ. Anh ta cầm súng lia vào đám đông hội nghị như đứa bé lấy roi quật nát một tổ kiến, anh ta cưỡi lên đầu bí thư tỉnh uỷ, cái lão bụng phệ đã một lần mắng anh ta như mắng trẻ lên ba trong hội nghị đảng bộ tỉnh, anh ta cầm con củ tia vọt nước đái vào cái mặt phương phi nhờn những mỡ của lão, anh ta khạc lên mái tóc hoa râm mĩ miều lúc nào cũng rẽ đường ngôi thẳng tắp của lão, anh ta trèo lên xe Volga chễm chệ ngồi và bắt lão chạy bộ ngửi đám bụi mù mịt ở đuôi xe ....
....Hình ảnh sau cùng lưu lại trong đôi mắt bỏng loét của Quý là hình ảnh chính anh ta đang cưỡi lên ngực một con đàn bà trần truồng, trắng nõn. Anh ta bóp nặn, cấu chí, rồi cắn rách đôi vú của ả. Vết răng anh ta hằn rõ như vết răng loài sói trên bờ những vết thương, nơi máu ri rỉ chảy ra. Đôi núm vú nhỏ của cô ta sắp đứt chỉ còn lủng lẳng bám vào bầu vú nhờ một mẩu da nhỏ, giống như hai hạt sen. Anh ta cúi xuống dứt đứt chúng bằng những ngón tay đen đủi của mình, với niềm khoái trá như đứa bé vặt chân con châu chấu. Rồi anh ta hiếp ả. Hiếp, với tất cả đam mê và căm uất tích tụ từ bao nhiêu kiếp sống. Hiếp, như cách duy nhất để có thể tồn tại trên mặt đất này. Anh ta hiếp ả no nê từ lúc mặt trăng mới lên cho đến tận trưa hôm sau, giờ ngọ, khi mặt trời in bóng các vòm cây tròn xoe trên mặt đất. Anh ta hiếp ả từ khi da thịt ả mơn mởn như mỡ đông, hồng tươi như vỏ trứng gà cho đến lúc da thịt ả trở nên mềm oặt, phôi phai, lợt lạt và sau rốt trong suốt như đám trứng ếch. Anh ta hiếp ả từ lúc ả xinh đẹp như bông hồng mùa xuân cho đến khi ả suy nhược, mệt lả , đến độ chỉ còn thoi thóp thở và khi anh ta đứng lên, cài khuy quần, ả hoàn toàn tan rã như đất mủn. Chỉ còn lại trên mặt đất một mớ giẻ lươm tươm, rách nát.
Một mớ giẻ màu xanh.
 

Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 21: TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (10)
Mùa hái nấm qua đi như một thứ hội hè. Người ta thường nói tháng giêng là tháng ăn chơi, nhưng với dân Xóm Tiều Phu, tháng giêng lại là tháng làm cật lực. Trừ những ngày mồng bẩy, mồng tám và ngày mười bốn, mười lăm, dân chúng đi lễ chùa, không nghĩ tới đồng tiền bát gạo. Thời gian còn lại, ngày nào cũng được hoạch định ra tiền :
- Hôm nay nhà chị được bao nhiêu ?
- Năm cân bẩy.
- Thế cũng tàm tạm.
- Tạm làm sao ? Thua xa nhà con Minh thôn Hạ. Nhà ấy cũng một mẹ một con như nhà tôi mà mỗi ngày trung bình kiếm được bẩy cân rưỡi.
- Bì sao được với họ ? Cả hai mẹ con đều khoẻ như hùm. Chúng nó leo núi chẳng khác gì dân Sán Dìu, Sán Chỉ.
- Nhà bà cũng kiếm tốt đấy chứ, ngày nào cũng ngót nghét một yến.
- Cả ba mẹ con làm không kịp thở, tuốt mồ hôi lưng, đêm về hai bắp chân đau ê ẩm ...Nhưng nhờ trời, thế cũng bõ. Mùa nấm năm nay bằng ba vụ sắn.
- Đúng thật, trồng sắn chẳng ăn thua.
- Chúng ta ngẩng lên chẳng bằng ai, nhưng nhìn xuống cũng ối kẻ thèm được như mình. Trời thương ra tay cho lộc, ngoài ruộng nương còn có rừng, có ong, có nấm. Trần xì mỗi hạt thóc hay củ sắn chỉ có nước ăn cơm độn quanh năm với cà muối hay mắm tôm chưng.
- Phải. Chẳng trách chi dân những vùng độc canh dạ dày quanh năm lép, quần một mảnh áo một manh.
Cô Ngân tuy chẳng phải dân sở tại nhưng cũng không chịu kém cạnh ai, tuy một mình nhưng ngày nào cũng trên dưới bốn cân nấm. Bà Tư móm khoe khắp họ hàng :
- Mợ Ngân về làm dân Xóm Tiều Phu chưa kịp ấm chỗ mà tay lam tay làm còn hơn chán vạn người khác.
« Chán vạn kẻ khác » ở đây bao gồm ba mẹ con nhà Quý với đám đàn bà ngứa lưỡi chưa biết nếp tẻ xuôi ngược ra sao đã dài mồm chê :
- Cái ngữ áo đỏ, áo xanh ấy làm sao leo nổi núi ? Có hoạ chăng leo lên được lên bụng chồng.
Cái sự « leo lên bụng chồng » thì chỉ ông Quảng mới biết, nhưng việc leo núi hái nấm thì cả làng cả xã phải rõ rành rành, bởi ngày nào người ta cũng cân đo, đong đếm, ngày nào người ta cũng cộng các con số. Nhà nào cũng có một cuốn sổ để ghi chép từ đầu vụ đến cuối vụ, một thói quen ganh đua giữa các gia đình, một cách trực tiếp khích lệ lao động, nhưng nhiều khi cũng lại là duyên cớ làm nảy sinh những ghen tuông. Như thế, cuối vụ nấm, những ai sớm bĩu môi bĩu mỏ chê cô gái « áo đỏ áo xanh như con cào cào » đều phải sượng sùng cúi đầu làm thinh. Cô thợ quét vôi từ thành phố lên đã ăn đứt đám đàn bà sở tại. Ông chồng ở nhà vừa lo cơm nước vừa xoay sở sấy nấm mệt vã mồ hôi nhưng hớn hở như trẻ được quà. Chẳng nói ra nhưng mùa nấm năm nay chính là trận thử thách thứ nhất đối với cô vợ trẻ của ông. Họ lấy nhau khi chưa kịp qua giỗ đầu của bà Quảng, hơn nữa cô Ngân lại quá trẻ quá đẹp và ông thừa biết tất thảy những thứ « quá » ấy đều gợi lòng ghen tuông lẫn hậm hực của người đời. Nhiều bận, ông bắt gặp lũ trẻ rong chơi ngoài đường thôn nghêu ngao hát :
« Áo đỏ áo xanh
Là ả cào cào
Nơi nảo nơi nào
Mà mày bay đến .... »
Ông hiểu những câu đồng dao cũ kĩ ấy được moi lên để ám chỉ ai. Cho dù vợ ông không bao giờ mặc áo đỏ , màu duy nhất cô ấy thích là màu xanh, nhưng cái thành ngữ kép ― áo đỏ áo xanh đối với dân quê nhằm ám chỉ những người đàn bà đỏm dáng thái quá, nhưng cũng còn ám chỉ những cô gái ở xóm chơi, những ả hát cô đầu . Mùa nấm qua đi cùng với tiếng thở phào của ông, bởi cho dù là người quả quyết, ông cũng biết rằng dư luận công chúng là sức mạnh không dễ vượt qua.
Giờ đây, dù muốn hay không, cái quan niệm ―con đĩ thị thành áo xanh áo đỏ không còn cơ tồn tại. Bằng năng lực lao động của chính cô ấy, vợ ông có quyền đánh bại bất cứ kẻ vu khống nào. Nói như bà Tư móm:
― Từ giờ trở đi, đứa nào dài mỏ nói láo, mợ Ngân cứ việc lấy gậy mà gang họng nó ra ...
Đương nhiên, bà Tư không chỉ nói một lần mà lặp đi lặp lại nhiều lần ở mọi nơi chốn một cách đầy dụng ý. Những lời lẽ cong cớn ấy được coi như một thứ cảnh báo chính thức nhất, cổ truyền nhất mà những người đàn bà Xóm Tiều Phu vẫn quen dùng để tự vệ.
Khi mùa hái nấm chấm dứt, chỉ còn lại những gia đình rỗi việc hoặc đông con là tiếp tục mót nấm ở những xó rừng hẻo lánh, còn đa số dân xã ở nhà để hoàn tất khâu lao động cuối cùng : sấy nấm và đóng bao nấm khô. Khắp xóm cùng thôn, mùi nấm thơm lan toả khiến không gian ngọt ngào, ngây ngất. Khói từ những lò sấy nấm bay lên, thanh mảnh nhẹ nhàng, toả vút cao giống những bó sợi trắng lửng lơ giữa khung trời, vây quanh chúng là những đám mây núi trắng vần vũ và những làn hơi mênh mang trắng từ các khe vực bốc lên tạo thành một bức tranh diễm lệ, nơi những màu trắng hoà sắc trên nền lơ xanh bất tận của thinh không. Vào buổi chiều, chim ríu ran về tổ, chim vợ gọi chim chồng, chim mẹ rủ chim con, từng đàn bay lượn trên các khu vườn. Ấy là những thời khắc mà tâm hồn con người bỗng trở nên tốt lành, êm dịu. Người ta dễ quên đi những cay đắng nhọc nhằn cũng như những xót xa, hờn oán. Mùa hái nấm còn đọng lại biết bao kỉ niệm vui vẻ của một thời gian lao động chung và lòng biết ơn nồng nàn những ân sủng của đất trời.
Trong nhà ông Quảng, đóng xong bao nấm cuối cùng cũng là lúc lo làm giỗ đầu cho bà vợ. Từ hai hôm trước, đám anh em trong họ đã dựng rạp che kín sân, kê từng dãy dài bàn ghế. Ứớc tính phải trên một trăm mâm, bởi khách ăn từ trưa đến tối gồm ba đợt, mỗi đợt ba mươi lăm mâm. Chưa kể, cỗ cho người nhà và xóm giềng tới giúp việc nấu ăn cũng như rửa chén bát. Giỗ đầu bao giờ cũng là giỗ quan trọng nhất đối với cả người sống lẫn người chết. Với người chết, đó là thời khắc vĩnh viễn để vong linh được an tâm nơi chín suối, không còn muốn quay lại quấy rối những người thân sau khi đã nhận đủ phần hương hoa cũng như nợ nần ân ái. Đối với người sống, rõ là dịp bày tỏ trách nhiệm và tình cảm của họ với kẻ ra đi. Ấy là bằng chứng hiển nhiên về cung cách ứng xử cũng như tinh thần đạo đức. Với tình cảnh riêng trong gia đình ông Quảng, những tiêu chí này được nhòm ngó một cách kĩ lưỡng bội phần. Hẳn chủ nhân biết rõ điều đó nên việc chuẩn bị được thực hiện một cách hoàn hảo. Chủ chi, đương nhiên là ông Quảng, nhưng chủ trì, lại là bà Tư móm. Cô Ngân, chỉ đóng vai trò phụ tá cho bà Tư, có nghĩa là làm bất cứ việc gì được phân công, giống như bất cứ người nào trong đội quân láng giềng tương trợ. Xưa nay cô thường bận áo xanh, từ xanh cốm non hay nõn chuối đến xanh lá dừa hay xanh rêu đá. Hôm giỗ bà Quảng, cô bận áo đen. Rõ ra một sự để tang kín đáo người đã khuất. Thêm nữa, cô tháo đôi hoa tai mặt đá ru-bi đỏ lẫn cặp nhẫn dóng trúc cất vào hòm. Thêm nữa, lời ăn tiếng nói của cô cũng kín đáo nhẹ nhàng chứ không hồn nhiên thơ trẻ như vốn dĩ bản tính của cô, cũng không chanh chua đanh đá như khi cô phải chống trả những kẻ kình địch. Thành ra, ngay cả những người xăm xoi, móc mói nhất trong dân xã cũng không nỡ mở miệng chê bai.
Về phần vật chất, ông Quảng lại càng chú trọng hơn. Luật đời đã dạy :
― Có thực mới vực được đạo.
Kẻ từng trải không được phép quên nguyên tắc căn bản ấy. Cỗ trong đám giỗ đầu của bà Quảng phải sang hơn cỗ những đám cưới linh đình nhất từ trước tới nay. Có cả một đội quân xóm giềng phụ trợ nhưng ông Quảng vẫn thuê ba người đầu bếp duới tỉnh lên. Kèm theo họ là một xe đầy những thứ gia vị lẫn các loại phụ liệu và dụng cụ làm bếp mà người ta không kiếm được nơi sơn dã. Các bà các cô Xóm Tiều Phu được dịp tròn xoe mắt mà xem cách thức nấu ăn đặc biệt kiểu thị thành. Mấy gian bếp vì vậy lúc nào cũng đầy nghịt đám đàn bà hiếu kì, đứng vòng trong vòng ngoài dòm ngó. Vừa để học lỏm mấy ngón nghề, vừa để thoả cơn tò mò cố hữu. Đám giỗ vì thế lại có vẻ sầm uất của một thứ chợ phiên hay phòng triển lãm mà người ta chưa từng thấy ở các gia đình khác. Và như thế, chẳng ai còn có thể tính toán : Cỗ năm tầng hay bảy tầng ? Bởi cỗ của gia chủ làm theo kiểu thị thành, toàn bát lớn đĩa to, không bày trên mâm mà đặt lên bàn, do đó không thể đo được theo tiêu chuẩn cũ. Chỉ một điều ai cũng phải xác nhận, chưa từng có nhà ai làm cỗ sang trọng và ngon được như thế, kể từ ngày có Xóm Tiều Phu đến nay. Một ngày giỗ chính, hai ngày chuẩn bị trước và một ngày sau đó để thu dọn bàn ghế, chén bát, phát quà phát lộc cho những người giúp việc, dù trong họ hay ngoài làng, cả thẩy bà Tư móm tính vừa tròn một trăm tám mươi mâm, mâm ở đây có nghĩa phần ăn cho sáu người. Bà bảo :
- Ấy là còn thiếu người. Nếu đủ ắt hẳn phải tròn hai trăm mâm.
―Thiếu người ở đây, ám chỉ sự vắng mặt của gia đình Quý. Anh ta làm cỗ riêng. Sự đương nhiên, sau khi bị ông bố từ bỏ. Đứng về lực, anh ta thua đứt ông bố đẻ. Mối quan hệ họ hàng, xóm giềng lẫn duyên giao tiếp cũng kém xa. Sức mạnh duy nhất của Quý là con triện anh ta đang giữ trong tay, mà bất cứ thời nào người ta cũng ngầm hiểu rằng cái con triện ấy chẳng phải củ khoai hay hòn đất sét. Thế nên tất thảy những ai đang ngấp nghế trước cửa xã cần một con dấu áp lên tờ giấy đều phải đến nhà ông chủ tịch xã ―ăn giỗ đầu bà Quảng. Một tay xách giỏ quà, tay kia sờ nắn trong túi cái phong bì đã được chuẩn bị kĩ lưỡng. Ngoài những gia đình đang cần chạy chọt cửa công, còn cánh thông gia của ông Quảng, tức là cha mẹ, chú bác, anh em ruột của vợ Quý cũng không dám đặt chân tới nhà ông bố. Thêm nữa, cánh cán bộ rường cột trong xã, những người ngày thường đang cùng ngồi một bàn với chủ tịch gồm bí thư đảng uỷ, công an trưởng, chi hội trưởng phụ nữ, trạm xá trưởng, cửa hàng trưởng của xã. Cả bộ sậu ấy cũng phải kéo nhau tới cửa nhà anh con. Cô Vui chơi trội, không đến nhà ai cả. Còn lại, đa phần người làng, họ đi cả hai bên bởi người ta cho rằng phận sự của mình là phải làm ngơ trước mọi hiềm khích và phải có mặt ở bất cứ nơi đâu có sự hiện diện của vong linh người đã khuất. Ăn giỗ nhà ông bố buổi trưa rồi quay về nằm nghỉ cho xuôi cơm hoặc tụ họp đâu đó chuyện gẫu cho qua chiều để chờ đến nhà ông con buổi tối. Thành ra giỗ đầu bà Quảng khiến biết bao người phải thực hiện một cuộc chạy việt dã mà họ không trù tính trước :
- Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới nay tôi mới ăn một giỗ hai lượt như vầy.
- Tôi cũng vậy.
- Xưa nay liệu có nhà ai rơi vào cảnh oái oăm như thế này không ?
- Làm gì có ?
- Có, nhưng lâu lắm rồi, đời cụ cố nhà tôi có hai anh em bất hoà, không nhìn mặt nhau. Ngày giỗ bố, giỗ mẹ, anh làm riêng, em cũng làm riêng ; người trong họ ngoài làng đều phải đi hai lượt.
- Thế là đúng, mâu thuẫn gì chăng nữa họ cũng vẫn là người cùng máu thịt. Phận sự kẻ đứng bên ngoài là phải lấy chữ ―dĩ hoà vi quý làm đầu.
- Xưa nay chẳng ai dại dột làm mất lòng xóm giềng. Vả chăng, tốn công chạy đi chạy lại nhưng ăn cỗ hai nhà càng được dịp nhờn môi, khoái khẩu.
- Khoái khẩu chỉ có cỗ nhà ông Quảng ...Cỗ nhà Quý thì quá thường. Rặt những đĩa lẫn bát nhưng mỗi đĩa lèo tèo vài miếng thịt.
- Ồ, chuyện đó chẳng phải nói. Vợ chồng nhà Quý xưa nay nổi tiếng rán sành ra mỡ.
- Tôi có câu này hay hơn : Ăn tép ỉa ra tóc.
- Nhà ấy xưa nay vẫn ỉ thế bố về mặt kinh tế. Giờ cha con từ mặt, chẳng hiểu rồi sẽ ra sao ?
- Tự làm lấy mà ăn.
- Xem chừng cũng gay go. Cả vợ cả chồng đều ốm nhách. Con Mơ nặng chưa nổi bốn mươi cân. Con Mận phốp pháp hơn thì lại mắc bệnh xuyễn.
- Đã thế còn gây hấn với bố đẻ làm gì ?
- Nghĩ như ông đã chả nên chuyện.
- Đúng thật. Nếu như ngày xưa, người ta sẽ bảo cậu Quý là kẻ bị― ma làm.
- ― Ma làm hay ― Quỷ ốp thì mọi sự cũng tự do mình mà ra. Các ông không nhìn thấy con mắt cậu ta hay sao ? Hai con mắt tối như hũ nút, mà đôi khi cậu ta cười nói với mình nhưng con mắt lại nhìn vào ai đấy. Nom cứ rờn rợn ...
Cái sự ― rờn rợn mà những người dân Xóm Tiều Phu vừa hồ nghi vừa sợ hãi nhưng không thể cắt nghĩa ấy sẽ được phanh phui không lâu. Vẻn vẹn hai tuần lễ sau ngày giỗ đầu của bà Quảng. Nói một cách chính xác hơn là sau mười hai ngày. Trước đó vài hôm, trời mưa tầm mưa tã. Người ta chẳng thể lên rừng, cũng không thể ra nương. Mọi người đành ngồi nhà bày ra chuyện rang cốm, nấu chè hoặc đánh bài ăn xu lẻ. Hết ba ngày mưa, buổi sớm ngày thứ tư, người ta nghe tiếng con ngựa nhà ông Quảng hí mừng rỡ từng hồi dài từ lúc tinh sương. Hẳn mấy ngày mưa bị giam trong chuồng tù cẳng nên con vật bồn chồn muốn chạy. Nếu người nào dậy sớm ắt thấy bếp nhà ông đỏ lửa từ lúc trời còn tối như mực : Cô Ngân thổi cơm rồi đồ xôi ém cho ông Quảng mang theo dọc đường. Họ ăn cơm cùng nhau ngay trong gian bếp. Sau đó, cô nàng áo xanh ôm lưng ông chồng ra tận bờ dậu, rồi lại đứng ở đó mà nhìn theo xe cho tới lúc nó khuất hẳn sau các rặng cây. Cái lối ôm eo, khoác lưng, bá vai bá cổ giữa đàn ông với đàn bà nơi thanh thiên bạch nhật ấy, người ta chỉ nhìn thấy trên phim ảnh Liên-xô. Nó thuộc về thế giới và phong tục của các ông tây, bà đầm. Nó không quen với mắt người dân Xóm Tiều Phu. Vì thế, nó kích thích một cách đáo để tâm trí láng giềng. Lòng tò mò của con người, dẫu là già hay trẻ cũng luôn luôn là thứ phong vũ biểu báo hiệu sự quan tâm tới đời sống, dù nó thể hiện ở khía cạnh xấu xa. Cô Ngân không hay biết, nhưng ông Quảng thì tin chắc rằng ẩn nấp phía sau các cánh cửa, khuất sau các góc tường, giấu giếm sau các bụi cây...có rất nhiều cặp mắt đang thầm lén theo rõi họ. Dẫu biết rõ tâm địa của mọi người, ông vẫn hành xử theo cách người xưa dạy:
― Ngũ thập, tri thiên mệnh
Lục thập, hành như nguyện ...
―Năm mươi tuổi, biết được số phận mà trời đã ước định cho mình ;
Sáu mươi tuổi, ta hành động theo sở thích.
Dừng lại trước cổng, ông cúi xuống hôn cô nàng áo xanh, trước khi leo lên xe và ra roi cho ngựa chạy. Tiếng vó ngựa dập dồn, hung hãn khua động không gian êm ả của sơn thôn. Trong nhịp kiệu của con ngựa bị giam hãm bởi mưa gió, người ta cảm thấy sức mạnh bất khả kiểm soát lẫn sự bồn chồn nguy hiểm của một thứ tự do bị kìm nén, đầy đoạ.
Rồi khi tan sương, mặt trời vọt lên rất nhanh, sáng chói một cách bất thường khiến cho không gian oi nồng, tràn đầy mùi đất ẩm, mùi lá mục, mùi những đống phân xanh chưa oải. Từng luồng hơi ngùn ngụt run rẩy bốc lên khắp các khu vườn ướt sũng, từ những liếp rạ mủn trải dọc các bờ dậu để trồng nấm rơm, từ những đống vỏ trấu dân quê tích trữ để quanh năm mồi lửa, nhóm bếp. Trên các mảnh sân cũ, những hạt thóc sót hoặc những hạt cỏ rơi trong các kẽ gạch đã long vôi vữa nhất loạt đâm chồi sau mấy ngày mưa. Chỉ qua vài đêm, hàng ngàn sợi lá xanh non dựng lên như những lưỡi gươm tí hon dưới ánh mặt trời. Muôn vàn sợi cỏ trong suốt như thuỷ tinh, óng ánh như nạm vàng, những lá cỏ non dường như không còn là cỏ mà là vật gì đó không thể gọi tên, lạ lùng, kì ảo, chỉ hiện lên trong khoảnh khắc làm biến đổi cái nhìn buồn chán của con người, và đem lại một thoáng ngạc nhiên thần thánh cho cõi đời buồn tẻ.
Có thể vì lý do nào đó ít tính thơ mộng hơn, hay chính vì bàng hoàng trước khung cảnh hoàn toàn thay đổi của thiên nhiên mà đa phần dân Xóm Tiều Phu ở lại nhà vào buổi sáng hôm ấy. Nhiều người đã í ới gọi nhau lên nương làm cỏ sắn, nhưng sau rốt người ta lại dùng dắng ở nhà, để giặt mớ quần áo sau mấy ngày mưa, để thu dọn lại những đám rơm vương rạ vãi, để lau dọn lại góc buồng, xó bếp, những nơi ít được dòm ngó vì mưa xuống nắng lên, ắt nhiều thứ phải đổ mốc. Vả chăng, sau mùa hái nấm, người ta cũng cảm thấy chùn chân khi nghĩ tới việc phải leo lên những nương sắn, chui vào những luống cây ngột ngạt hơi nóng mà nhặt cỏ, một công việc chẳng mấy hứa hẹn đền bù.
Khoảng non trưa, chính vào lúc các bà các cô chuẩn bị nấu cơm, bỗng có tiếng chân người chạy rầm rập ngoài đường thôn. Thoạt tiên, chỉ là đám nhi đồng bốn năm tuổi, sau đó là đám thiếu niên hiếu kì. Sau rốt, tuốt tuột dân làng, đàn ông cũng như đàn bà bỏ mọi việc dở dang trong nhà cũng như trong bếp để đi xem ― Cô Ngân bị bắt. Người ta chẳng ngại ngần, cũng không ngượng ngùng khi gọi nhau oang oang, từ sân nhà này vọng sang sân nhà kia, từ bờ dậu nhà này vói qua bờ dậu nhà khác :
- Này, biết chuyện gì chưa ? Cô vợ trẻ của ông Quảng bị công an bắt rồi. Hãy đến xem sự tình ra sao.
- Này, dừng tay cái đã. Đã nghe thủng chuyện chưa : cô nàng áo xanh nhà ông Quảng bị tóm cổ.
- Làm sao mà đến nỗi như vậy ?
- Có trát trên tỉnh dội về nói cô ta là gái làm tiền, chuyên đi lừa đảo những gia đình giàu có.
- Lừa ông Quảng ? Đúng là chuyện tầm phào. Ông ấy chẳng lừa ai thì thôi, làm gì có sự trái khoáy như vậy ?
- Ai chẳng biết ông ấy là kẻ khôn ngoan, lõi đời, ăn mòn bát cơm thiên hạ. Nhưng cái sự quan trọng là ông ấy đang bí bức. Gần một năm vợ ốm lại gần một năm vợ chết có rờ mó được ai đâu ?
- Không tin được. Lão ấy đi bát ngát mênh mông như thế, thiếu gì đàn bà ?
- Ông tưởng dễ lắm à ? Ông cứ thử xem ?
- Việc gì tôi phải thử, cơm nhà đồ vợ, muốn lúc nào tôi ngả ra lúc ấy. Chỉ sợ không đủ sức mà chơi .
- Bởi vậy ông mới dễ phét lác. Giờ nói dại, bà ấy mà thăng thiên, tôi đố ông dám mó vào con hến nhà láng giềng. Có mà dao rựa họ chém đứt phăng cổ.
- Thiếu gì lũ chưa chồng với goá chồng ? ...
- Chưa chồng, như con Vui đấy, xin mời ông thử sức ! Goá chồng, như con mẹ Hưởng rỗ với con Lan toét thôn Hạ, ông có chơi tôi xin đãi thêm ba bữa rượu tăm với gà sống thiến hấp xôi. Nào, dám chơi không ?
- Ừ, ngữ ấy thì xin chịu.
- Thế là sự đời. Cao chẳng tới thấp không xong. Chỗ ông thích, không được. Chỗ giường kê, chiếu trải sẵn sàng, con củ lại không giương lên nổi. Cho nên mới thành ra bí bức. Khi bí bức có đứa xinh đẹp như tiên nó tiến đến, nó ngả sẵn bàn đèn, có mà khôn ngoan như thánh như thần cũng đổ huống chi ông Quảng ?
- Nhưng tôi nom mặt mũi cô ta chẳng giống quân lừa đảo.
- Biết sao được cái tổ con chuồn chuồn. ? Những con đàn bà làm điên đảo quốc gia hoặc làm khuynh gia bại sản kẻ khác xưa cũng như nay đều phải xinh đẹp. Xoàng xoàng như vợ ông hay lặc lè cục mịch như vợ tôi có mà ăn cám. Muốn đi lừa cũng chẳng xong.
- Ông chỉ quen nghĩ chuyện bậy bạ.
- Tôi ăn cơm muối, sờ đầu gối nói thật. Tôi không quen hoa hoè hoa sói , nói vòng vèo.
- Nhưng tôi vẫn không thể tin rằng ông Quảng bị lừa. Chuyện đó giống như sự gà bốn cựa, ngựa bốn hồng mao.
- Ông Quảng khôn ngoan thật, nhưng xét trên gốc rễ ông ấy cũng chỉ là thằng nông dân chân đất như cánh ta thôi ...Chẳng qua ông ấy giỏi bang giao, lại suốt đời kiếm cơm nơi đất khách thành ra lọc lõi ...Nhưng lọc lõi đến đâu cũng có lúc phải mê mụ đầu óc vì khuất phục cái bộ sậu lủng lẳng trong đũng quần ... Ông có biết cái câu người ta vẫn dùng để chể riễu kẻ sĩ hay không ?
- Kẻ sĩ là gì ?
- Là đám áo dài xúng xính, tay trắng chân trắng, ngược với chúng ta dân cày cuốc hay tiều phu, cánh áo ngắn chân đen. Thời xưa nói : « Nhất sĩ nhì nông ». Kẻ sĩ bao gồm đám văn nhân, quân tử, bao gồm cả các bậc quan lớn quan nhỏ, cả đám nha lại lo việc triều chính từ kinh đô cho tới làng thôn ...Vậy mà có câu rằng :
« Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần l ... ám ảnh cũng mê mẩn hồn.
- Thế à ! Tôi không biết ...
- Không biết thì phải lắng nghe rồi hãy nói. Cớ sao ông cứ khẳng định rằng ông Quảng chẳng thể bị lừa ? Sự đời đâu có đơn giản như ông tưởng ?
- Ờ, có thể ...
Có thể hay không thể...đinh ninh chắc chắn hay nửa tin nửa ngờ, sau rốt người ta cũng vẫn nghĩ rằng có sự chi hợp lý, có một duyên cớ nào đó chính đáng dẫn tới sự bắt cô Ngân. Dân làng đổ ra đứng dọc đường để nhìn cô vợ trẻ của ông Quảng bị trói giật cánh khuỷu, dẫn độ bởi nhóm du kích xã, đi đầu là công an trưởng. Ứơc tính tất cả là mười hai người đàn ông, súng ống trên vai, vẻ mặt cứng như đá vỉa. Cuộc diễu võ dương oai không được hoành tráng cho lắm bởi kẻ thù vẻn vẹn có đúng một người đàn bà trẻ, chẳng tấc sắt trong tay, hơn nữa nước mắt lại ràn rụa trên gương mặt tái nhợt vì hốt hoảng nhưng vẫn còn muôn phần xinh đẹp. Đi sau họ, có đến trên ba chục thanh thiếu niên hiếu kì làm thành một đám khán giả tự nguyện và hết sức chú tâm. Thi thoảng, một cậu du kích muốn chứng tỏ uy lực của chính quyền quay lại quát nhặng xị :
- Giải tán ! Lũ ranh này, giải tán !
- Về nhà đi học, đây không phải phận sự của chúng mày.
- Về !Tao đã bảo về nhà !
Nhưng mọi sự doạ nạt đều như nước đổ lá khoai. Đám trẻ con hiếu kì chạy nhông nhông theo họ cho tới tận uỷ ban xã, giống một đám rước thiếu kèn thiếu trống. Tại trụ sở uỷ ban, chúng chạy dạt sang hai bên nếu bị xua đuổi, nhưng khi đám du kích sao nhãng, chúng lại lập tức chui lủi, len lỏi bằng mọi cách để chứng kiến ―cô Ngân nhà ông Quảng bị trói, cái cảnh mà từ năm cải cách tới giờ không còn diễn lại nơi Xóm Tiều Phu. Rồi khi cô tiếp tục bị áp tải đến nơi tạm giam theo lệnh chính quyền, chúng lại rều rễu chạy theo cho đến tận kho chứa đồ của xã, cách trụ sở uỷ ban chỉ một đoạn đường, đi bộ chưa đầy năm phút. Ấy là một gian nhà gạch nhỏ, kín mít như cái hộp, chỉ vẻn vẹn một cửa ra vào cánh gỗ lim, lại khoá bằng chiếc khoá đại to hơn bàn tay đứa trẻ lên bốn. Còn lại bốn bề tường gạch đôi, chẳng một lỗ thông hơi, không một khuôn cửa sổ. Ngôi nhà đó xưa kia vốn là kho chứa chè của ông chánh tổng. Sau, đến thời cải cách, chính quyền cách mạng trưng dụng để nhốt đám địa chủ cường hào. Có giai đoạn hơn một chục con người bị giam cầm trong cái không gian kín bưng bít, rộng mười tám thước, một góc đổ tro để đại tiểu tiện, và góc đối diện là một cái chum vỡ đựng nước uống cho các tù nhân. Sau ngày sửa sai, lệnh của huyện là phải đập vỡ gian nhà ấy đi, nhưng chủ tịch xã tiếc rẻ giữ lại ....vì còn hữu ích. Tất nhiên, ông ta đã cho người đến quét dọn, sửa sang, quét vôi mới trắng lốp để màu vôi bôi xoá đi những kỉ niệm cay đắng và tẩy uế xú khí còn lưu lại. Từ đấy, gian nhà này được dùng làm nhà kho của xã, nơi xếp các thứ bàn ghế, xoong nồi, mâm chậu, bát đĩa, tách chén ...những vật dụng cần thiết cho những dịp liên hoan hoặc tiếp đãi khách của chính quyền. Ban văn thể xã, hoạt động theo mùa cũng xếp vào đấy những tấm băng-rôn, khẩu hiệu, những bộ kèn trống mua vội vã trong những cơn bốc đồng của đám cán bộ lãnh đạo. Lủng củng một góc nào những chiếc trống đã long tang hoặc đã bị thủng, hai cây kèn rỉ nhoét, một cây ghi-ta và hai cây măng-đô-lin trơ trọi không dây, một mớ cờ gián nhấm mà chưa nỡ ném đi.
Khi tay trưởng công an xã đích thị mở khoá, cả một lũ chuột nhảy phóc ra, chui qua chân anh ta bổ ra bên ngoài rồi nhanh chóng biến mất trong các bờ dậu bên kia đường. Cùng lúc đó không khí tù hãm bốc lên như luồng hơi phà vào mặt mọi người mùi nước đái chuột lẫn mùi ẩm mốc.
- Nhà chị vào đây.
Cậu du kích dẫn cô Ngân tới cửa rồi bắt đầu cởi trói. Lúc ấy mọi người mới nhìn thấy tấm áo của cô bị rách một vệt dài dưới nách. Hẳn là khi bị bắt, cô đã chống trả và xảy ra sự giằng co xô xát giữa tội nhân với những người thi hành công vụ. Cũng hẳn là cô đã khóc quá nhiều nên lúc được cởi trói, cô có vẻ uể oải đờ đẫn đến nỗi chẳng buồn nhúc nhắc cánh tay. Chính cậu du kích áp tải cô phải lần mở từng vòng dây cho đến nút thắt cuối cùng :
- Nhà chị vào trong kia ! Điếc hay sao mà đứng đần ra thế hả ?
Cô Ngân thẫn thờ đứng im, dường như không nghe thấy tiếng quát của kẻ áp giải mình. Đôi mắt đầm đìa lệ như mờ đi vì sợ hãi và kiệt sức.
- Đã nghe lệnh tạm giam rồi sao không thực hiện ?
Trưởng công an xã quát. Sau đó, thấy kẻ tội đồ chẳng nghe cũng chẳng có phản ứng gì, anh ta giơ tay đẩy vào lưng người đàn bà :
- Vào trong kia !
Giơ tay chỉ gian nhà lủng củng những thứ đồ tầm tầm và bốc mùi hôi mốc, anh ta dằn giọng :
- Đi vào ! Chỗ của nhà chị bây giờ là trong đấy.
Cô Ngân bị đẩy đi như một bao tải đựng trấu, rồi cô cũng ngã kềnh như bao tải trấu lên những sọt đựng xoong nồi, bát đĩa của uỷ ban. Trưởng công an xã kéo hai cánh cửa, khoá lại rồi nói trống không :
- Từ giờ đến tối sẽ có người đem cơm cho nhà chị.
Sau đó, quay lại đám du kích tuỳ tùng, anh ta cũng lại buông một cái lệnh trống không :
- Liệu mà phân công người sắp cơm cho y thị. Ngày mai, chính quyền sẽ phân xử.
Sau đó, trưởng công an xã tiến lên vài bước về phía đám trẻ con lẫn dân chúng hiếu kì, đưa mắt oai vệ nhìn khắp lượt. Đám người lặng im như thóc, giương mắt nhìn vị đại diện của quyền lực. Một nỗi sợ hãi đã từ lâu yên ngủ bỗng nhiên bừng thức dậy khiến họ nhút nhát và bối rối . Chờ cho khoảnh khắc im lặng trôi qua, trưởng công an xã hắng giọng như diễn viên chuẩn bị ra sân khấu, trong lúc thầm chuẩn bị một diễn văn mà bắt buộc anh ta phải công bố cho tương xứng với chức trách cá nhân cũng như tầm quan trọng của tình huống vừa xảy ra :
- Bà con hãy lắng nghe cho rõ. Nhiệm vụ của mọi người dân là lao động. Và lao động là vinh quang. Vì vậy tôi yêu cầu bà con quay về với công việc. Chúng ta không nên lãng phí thời gian sản xuất. Còn những tệ nạn xã hội, chúng tôi, đại diện của chính quyền, có nhiệm vụ giải quyết. Trước hết, cá nhân tôi, trưởng công an xã, xin hứa trước toàn thể bà con là sự việc sẽ được giải quyết một cách triệt để. Chúng ta sẽ tiêu trừ tận gốc rễ mọi nguy cơ độc hại để bảo vệ đời sống chung của cộng đồng cũng như hạnh phúc dưới mỗi mái nhà. Nào, bà con có ý kiến gì nữa không ?
Nhà hùng biện dừng lời đưa mắt nhìn mọi người.
- Hoan hô !
Một người lên tiếng, chắc chắn đó là kẻ đang cần xin nhà chức trách áp con triện vào bản lý lịch cho con em được ―thoát li. Nhưng đám đông im lặng. Có lẽ vì bài diễn văn hay ho kia chưa kịp thấm vào cân não họ. Cũng có lẽ vì cảnh một người đàn bà bị trói giật cánh khuỷu khiến họ nhớ lại thời cải cách ruộng đất, và những nỗi hãi hùng quay lại khiến con người hoang mang. Điều cuối cùng là trong đám đông hiếu kì ấy, không ít kẻ đã chịu ơn hoặc là thực khách thường xuyên nhà ông Quảng. Dẫu sao chăng nữa ...cũng đã từng có lúc chén chú chén anh, chén tôi chén bác. Đã là giống người ắt phải hiểu câu : chẳng nỡ hoặc, nỡ lòng nào ...
Người cất tiếng hoan hô không thấy ai hưởng ứng thì bẽ bàng lẩn ra phía sau. Còn trưởng công an xã thấy bài diễn văn hùng hồn của mình rơi vào im lặng thì bẽ bàng tức tối, liền đổi giọng quát :
- Không ai có ý kiến thì nữa thì giải tán.
Nói xong, anh ta bỏ đi tức khắc. Đội du kích lục tục theo . Còn đám đông hiếu kì dừng lại nhìn ổ khoá to tướng một cách bần thần, chẳng ai nói với ai một lời. Riêng lũ trẻ tò mò chạy tới, dán mắt vào khe cửa hòng nhìn được ―tù nhân nhưng sau một hồi loay hoay đành thất vọng bỏ đi vì hai cánh cửa lim của ―ông chánh tổng thời xưa kín như bưng không một lỗ thủng bằng đầu đinh, cũng không một kẽ hở mảnh như cọng tăm dù đã qua bao nhiêu năm tháng.
Lúc ấy, mặt trời vừa đứng bóng. Những kẻ hiếu kì nhất cũng phải quay về vì kiến bò bụng. Người ta nấu cơm vội vàng, hò hét con cái cũng vội vàng, ăn cơm cũng vội vàng để sau đó đi đến nhà ông Quảng xem sự tình ra sao. Ở đấy, hai cánh cổng mở toang hoang, nhưng chớ ai hòng chôm chỉa vật gì vì bà Tư móm đã ngồi chồm chỗm ngay trên bậc cửa chính. Từ bậc cửa ấy, bà có thể nhận diện ra từng người khi họ bước vào cổng. Và bà cất tiếng đon đả như không có chuyện gì xảy ra trên đời :
- Mời các ông bà vào uống nước. Hôm nay được dịp nghỉ ngơi cho đỡ nắng. Trời này chui vào nương sắn cũng như chui vào hoả lò.
- Thế mà có người vẫn lên nương đấy.
- Thiếu gì kẻ ngu trên đời. Mà trong lũ ngu ấy có tôi đây. Nếu không sáng nay tôi đã ở nhà để chứng kiến cho tỏ tường mọi sự.
- Vậy bà vừa mới đến ?
- Cũng được ngót nghét một giờ. Tôi đang làm cỏ sắn thì thằng cháu chạy lên báo. Hai cô cháu chạy thốc chạy tháo về được đến nơi thì mợ Ngân đã bị mang đi rồi. Chỉ còn vợ con thằng Quý đang đứng ngoài sân. Chúng nó được phái đến để giữ nhà cho ông nội. Tôi đuổi tuốt tuột cả lũ về.
- Sao bà dám làm thế ?
- Sao tôi lại không dám nhỉ ? Thằng Quý là chủ tịch xã nhưng cũng còn là em tôi. Mẹ nó đẻ nó ra hết sài lại đẹn, một tay tôi chăm bẵm. Cái đận bẩy tuổi, nó mắc bệnh ghẻ suốt mùa xuân qua đến mùa hè, tôi cúi xuống lấy cái ghẻ cho nó đau sụn cả lưng, mờ cả mắt. Rồi cũng lại tôi đun nước lá tắm, xức thuốc cho nó lành. Mẹ nó vụng thối vụng nát có làm được gì đâu ? Từ khi lên ghế chủ tịch đến nay, xem ra chiều vểnh râu vênh mặt . Bọn du kích và trưởng công an xã dám ra tay như thế này ắt hẳn phải có lệnh của nó. Con mà đã bỉ mặt bố đẻ đến mức ấy thì chẳng còn là người.
- Nhưng nghe đâu đó là lệnh của tỉnh.
- Nếu là lệnh của tỉnh thì phải có công an tỉnh, không phải mấy cái mặt phèn phẹt ở xã này. Trong số mười thằng du kích vào nhà này trói mợ Ngân có sáu thằng chui từ háng mẹ nó ra là tay tôi cắt rốn, tay tôi tắm rửa. Rồi tôi sẽ đến nhà từng thằng đập váy vào mặt chúng nó. Để xem chúng nó dám làm gì tôi ?
- Chẳng qua chúng nó cũng chỉ là lũ tốt đen. Trên bảo gì thì phải cúi đầu làm nấy.
- Thời cải cách chẳng thiếu gì kẻ trên bảo tố bố tố mẹ là sẵn sàng nhổ vào mặt bố mẹ hoặc gọi bố mẹ là quân phản động, là đồ Việt gian. Những hạng người ấy rồi có ra gì đâu ?
- Đúng là lũ ấy rồi cũng chẳng ra hồn người, nhưng khi bị sai bảo chúng làm sao dám chống lại ?
- Lửa thử vàng. Người tử tế quân bất lương khác nhau ở lúc gian nan. Bình thường trơn lông đỏ da ai chẳng há miệng cười. Lúc vui vẻ, ai chẳng giơ tay vỗ.
Bà Tư móm kết thúc đột ngột cuộc đối thoại như vậy và chuyển làn nhanh như chớp :
- Nhà này có đường phèn thượng hạng , ông bà nào thích uống trà ướp cúc với đường phèn tôi mời ?
- Cúc vạn thọ ấy a ?
- Bà chị chẳng hiểu gì hết. Cúc vạn thọ không ướp được trà. Mà có ướp cũng phải đổ trà đi vì nó rất hắc. Người ta chỉ ướp bạch cúc hoặc tiểu hoàng cúc tức là loại cúc vàng nhỏ như khuy áo thôi .
- Nào ai sành chè ướp như nhà bà mà biết được ?
- Trời mới nắng lên uống trà cúc cho thanh giọng. Nào, xin mời các ông các bà.
Cái cách cắt chuyện và chuyển khúc của bà Tư móm xem ra còn giỏi hơn các nhà dàn cảnh sân khấu. Dân làng tuy mót chuyện nhưng cũng không dám hỏi thêm. Khi mùi trà cúc thơm ngào ngạt toả hương , khi bình đường phèn lấp lánh như những cục thuỷ tinh nhỏ được bày lên mặt bàn thì người ta quay sang xì xụp uống trà ngọt. Vị ngọt thanh tao của đường phèn khiến cho hương cúc có một vẻ lâng lâng trong suốt như khi con người đứng giữa một nỗi buồn đã trôi xa và một niềm vui đang còn chờ đợi. Câu chuyện xoay sang những cách thức ướp trà, cách sao trà và đóng gói trà từ thời ông chánh tổng. Người Xóm Tiều Phu hấp háy nhìn lên đỉnh Lan Vu để mơ tưởng ngày nào đó, một vị cao nhân mặc áo thụng thêu chỉ vàng lộng lẫy sẽ bước tới góc núi hẻo lánh này bày cho họ cách trồng và sao cất loại trà thượng hảo hạng như trà : Trảm mã ....Bởi nghe đâu , giá bán một cân trà Trảm mã đủ xây một toà lâu đài bốn tầng, với mười sáu căn buồng thênh thang, cửa kính cửa chớp sáng loáng như buồng của những khách sạn sang trọng ở thủ đô Hà nội.
Tuần trà kết thúc ,mặt trời đã ngả qua phía tây. Bóng nắng đổ xuống một phần ba mảnh sân gạch. Đồng hồ treo tường nhà ông Quảng thong thả gõ ba tiếng. Khách chào chủ ra về. Người ta không thể ngồi thêm vì đã qua mấy tuần trà, dạ dày chẳng còn chỗ chứa mà những điều tò mò lại không được phép hỏi . Vào giờ này, chẳng ai còn lòng dạ nào lên nương xuống ruộng. Ai nấy quay về nhà, thu dọn đồ đạc, người lật giở tấm chăn manh chiếu cho khô ròn, kẻ ra sau vườn nhà tỉa cành, rẫy cỏ, toàn những công việc nhung nhăng cho hết buổi chiều để chờ sau bữa cơm sẽ có cơ tụ họp.
Bởi mong mãi, mặt trời cũng rơi xuống để bữa cơm tối được dọn lên trên những mảnh sân mà bên dưới, gạch còn ấm nóng, nhưng bên trên gió núi đã ùa xuống phà làn hơi mát rượi như những nụ hôn ẩm ướt của sương mù. Người ta ăn vội ăn vàng, đàn ông không uống rượu, đàn bà không nghê nga cắn thóc rang hay nhâm nhi bỏng ngào mật sau bữa cơm để mau mau lên đường. Tất cả đều phải chuẩn bị đèn, đuốc bởi nơi đây, trời tối một cách mau lẹ. Mươi phút trước còn nhìn rõ bàn tay, mươi phút sau cảnh vật đã đen như mực. Từ thôn Thượng, thôn Trung tới thôn Hạ, mọi ngả đường đều lập loè ánh lửa. Một địa chỉ không ai bảo ai nhưng mọi người đều hướng tới : nhà cô Vui. Thế là không hẹn mà nên, dân xã dồn tới trước cửa nhà cô bí thư đoàn. Cả một đám đông, người cầm đèn pin, người xách đèn bão, kẻ mang đuốc dầu hoả cháy đùng đùng. Nhưng cửa ngõ nhà cô Vui đã khoá lại bằng một ổ khoá Tầu to tướng. Nhìn vào trong, sân lẫn nhà đều tối om :
- Quái lạ , nhà cô này đi đâu nhỉ ?
- Sáng nay có người còn thấy cô ta ra cửa hàng mua vải mà.
- Hay cô ta ở nhà tay Quý ? Lúc bắt cô Ngân chỉ có xã trưởng công an với đội du kích , chẳng thấy tay Quý đâu.
- Tay Quý kí lệnh cho trưởng công an thực hiện. Anh ta tránh mặt, đương nhiên là như thế. Ai đời con trai trưởng dẫn quân đi tom cổ mẹ kế bao giờ ? Hoạ có là đồ tể .
- Thế cô Vui can cớ gì mà cũng phải tránh mặt ?
- Ông quên rằng chính cô ta nhận lệnh của Quý về tận làng Khoai điều tra lý lịch cô Ngân lẫn chuyện ông Quảng xây nhà tầng cho bố vợ hay sao ? Cả xã này cô ấy là người duy nhất truy đến tận cái tổ con chuồn chuồn.
- Như thế, không là cánh tay phải thì cũng là cánh tay trái của ông chủ tịch.
- Thể nào, tôi thấy họ thậm thụt với nhau, ra vẻ đặc biệt thân tình.
- Ối chao, bắc thang mà hỏi ông trời. Tình đời ấm lạnh là chuyện thường. Họ từ mặt nhau rồi .
- Sao ông biết ?
- Bữa tôi kéo mấy bao than về ngang qua nhà cô Vui, thấy tay Quý hầm hầm bước ra mặt thâm như l...trâu vậy. Mấy hôm sau gặp cô Vui, tôi giả tảng hỏi thăm Quý thấy mặt cô ta cũng sưng lên như cái lệnh vỡ, đáp chủng chẳng : Tôi không biết, tôi chẳng liên quan gì tới ông Quý.
- A, ông này chết nhá ...Sao dám ví mặt chủ tịch thâm như âm hộ con trâu ? Tôi mà mách thì ông chết toi.
- Tôi thách ông mách đấy...― Thâm như l...trâu là câu ví tự xửa xưa. Tôi cứ theo thế mà nói .
- Đùa tí thôi, nhưng tôi không ngờ họ lại bỏ nhau nhanh như vậy.
- Ôi chao, người với người giằng néo nhau cũng như cái nút lạt: cởi ra rồi lại buộc vào, buộc vào rồi lại cởi ra như bỡn. Trên đời này có cái gì bền đâu ?
- Nhưng cậu Quý là chủ tịch. Chẳng nhẽ bí thư đoàn lại dám qua mặt cấp trên ?
- Cái đó thì chỉ có trời mới biết. Thôi, về ngủ, sáng mai còn làm cỏ sắn. Mai không làm để dăm hôm nữa nó ăn xuống gốc có mà hà hết củ. Bao nhiêu công trồng trọt, chăm bẵm mất toi.
- Ông nói chí phải. Đành là sắn chẳng ra mấy tiền nhưng cũng đủ cho ta thứ nuôi lợn và hạt bột dành những ngày cơ nhỡ. Chẳng nên bỏ phí của trời. Về !...
Thế là người ta lục tục kéo nhau về, bởi mất cả ngày để theo rõi một tấn tuồng như vậy kể cũng đã là đủ. Rồi mai đây, sự gì đến sẽ phải đến. Còn họ, những nương sắn đang đợi chờ.
Ánh lửa lại lập loè tản ra trên những ngả đường ngoằn ngoèo lượn qua các miệt vườn và các giải núi. Tiếng trò chuyện tan loãng trong khung cảnh bao la huyền tịch của trời đêm.
Trên đỉnh Lan Vu, chợt một vệt lửa phóng qua như pháo thăng thiên. Ai đó cất tiếng :
- Ô , sao chổi. Sao lại có sao chổi vào tiết xuân ?
- Không phải sao chổi đâu, đấy là sao rụng. Khi sao rụng là có người vừa tạ thế .
- Chim cú kêu hoặc chim lợn kêu là có người khuất núi. Chứ sao rụng là điềm báo rằng có một ông thánh hết hạn lưu đày dưới trần gian bay trở về cõi Thiên đình.
- Thật vậy sao ? Trời đất thật lạ lùng ...
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 22: TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (11)
Ngày hôm sau, mưa lại rơi sầm sập.
Thế là ý đồ lên nương làm cỏ sắn bị bãi bỏ. Người ta thở dài vì càng mưa, cỏ sẽ mọc càng dày, rễ đâm xuống nhanh như thổi, chẳng mấy nỗi chúng sẽ chọc ngang thân các củ sắn non. Sắn đã bị cỏ đâm, không hà thối thì cũng nhạt thếch hoặc ngai ngái đắng, chỉ dùng nuôi lợn chứ không thể làm thức ăn cho người. Tuy chẳng đáng bao tiền, nhưng công chăm bẵm cũng không ít. Vì thế, ai nấy đều sốt ruột, chẳng ai còn lòng dạ nào chơi bài hay rang ngô. Họ đành đội áo mưa ra nhổ cỏ vườn, không làm việc nọ phải làm việc kia, có phải dân ăn trắng mặc trơn đâu mà dám chơi mãi ?
Qua ngọ, mưa tạnh hẳn. Cũng vừa xong bữa cơm trưa. Người ta đang ngồi uống nước, xỉa răng thì nghe còi ô tô toe toe ngoài đường thôn. Cái thứ tiếng động hiếm hoi này bình thường ra chỉ nghe thấy mỗi năm đôi lần. Vào tất niên ấy hẳn là tiếng xe của đội chèo lên diễn. Còn năm thì mười hoạ, ấy là tiếng xe của phái đoàn y tế về kiểm tra các loại bệnh nghiêm trọng như sốt rét rừng, viêm gan, bạch hầu, hoặc bệnh phụ khoa cho đám đàn bà, con gái. Với người dân Xóm Tiều phu, tiếng còi ô tô đồng nghĩa với một biến cố vui mừng, vì cùng với nó là sự xuất hiện của các nàng tiên môi son má phấn, váy áo long lanh rực rỡ dưới ánh đèn, hoặc sắc áo bờ-lu trắng của các bác sĩ. Theo thông lệ, cứ nghe tiếng còi, là mọi người ơi ới gọi nhau :
- Phái đoàn khám phụ khoa đã về ...
Hoặc là :
- Hôm nay là phái đoàn tiêm phòng bạch hầu, các bà đã chuẩn bị cho trẻ con chưa ?
- Hôm nay đội kế hoạch sinh sản sẽ làm việc. Nhà chị đã làm đơn trình bày và xin con dấu xã để tháo vòng hay chưa ?
V...và ...v...v...
Vì đã từ nhiều năm nay, mọi sự diễn ra theo một công thức không ngoại lệ nên buổi trưa hôm ấy, khi nghe tiếng còi, người ta ngơ ngác hỏi nhau:
- Quái lạ, đoàn nào nhỉ ?
- Sao chẳng thấy ai phổ biến ? Cả chủ tịch lẫn phó chủ tịch, cả bí thư phụ nữ lẫn bí thư thanh niên ?
- Chẳng lẽ lại là chương trình bổ xung đặt vòng, triệt sản ?
- Chương trình triệt sản tạm dừng rồi. Nghe nói trung ương đang bàn lại...
Tuy nhiên, dù có biết hay không biết đích xác tiếng còi xe ấy là của ai, người ta vẫn đổ ra xem, như xem một màn chèo, như xem một gánh xiếc rong, giống hệt những kẻ hiếu kì chốn thị thành thường xúm đông xúm đỏ xem một con điên xổng bệnh viện trần truồng khoe vú lẫn khoe mông trên hè phố. Trên con đường cát chạy xuyên qua ba thôn, một chiếc xe jeep sơn màu cỏ úa, mui xe cũng là vải bạt màu cỏ úa, đang bò túc tắc như con cánh cam. Đường đã hẹp, lại khấp khểnh, gồ ghề. Xe lách trầy trật giữa hai rặng trúc, đôi lúc nhảy tâng tâng trên một khúc vòng, đôi lúc chúi đầu vào khe kẹt giữa hai vườn cây um rùm. Sau đó, nó buộc phải lùi lại, húc đít vào bờ đường đối diện rồi mới bẻ lái đi tiếp. Mặc dầu cuộc hành trình vất vả, trầy trật, chiếc Jeep vẫn lùi lũi tiến thẳng đến thôn Thượng, kéo theo sau nó một đám trẻ chừng hai chục đứa, đứa nào đứa nấy toe toét cười, vừa chạy vừa nhẩy cẫng lên hò hét, mặc kệ lớp bụi mù mịt phả vào đầu vào mặt. Đến giữa thôn Thượng, người lái thò cổ ra hỏi dân đứng hai bên đường:
- Xin bà con cho biết nhà chủ tịch Quý ?
Lúc ấy, người ta mới nhận ra chiếc xe này chở toàn công an, và người lái xe cũng là công an nghiêm chỉnh trong đồng phục. Một làn chớp nhạy bén lan truyền rất nhanh dọc theo đám dân thôn:
- Xe công an đến nhà chủ tịch Quý !...
- Từ hồi cải cách đến nay mới lại thấy xe công an về.
- Chắc chắn xe đến bắt cô Ngân lên tỉnh .
- Đúng, tỉnh mới có quyền xét xử. Có phải thời cải cách đâu mà cấp xã có quyền lập toà án ? Thằng nào hôm qua tuyên bố chính quyền xã sẽ xét xử cô Ngân là nói láo .
- Xã trưởng công an chứ thằng nào.
- Xã trưởng mà nói thế cũng là nói láo. Cấp xã mà có quyền xét xử thì lại đầu rơi máu chảy, rồi lại sửa sai dăm bẩy lần.
- Thế sao hôm qua ông không lên tiếng ? Tôi cũng thấy mặt ông trước cái nhà kho giam cô Ngân ?
- Ăn có lời mời, cất nhời có người thỉnh...Đương nhiên nói trống không giữa trời hoạ có lũ điên.
- Thôi, lặng im mà xem. Họ tới nơi rồi kìa ...
Dân làng đổ tới đứng nghẹt lối rẽ vào nhà Quý. Họ chờ đợi ông chủ tịch quay ra cùng với bốn anh công an tỉnh để đi tới nhà kho giam cô Ngân. Một số người không thể lách vào gần đã tranh thủ đi trước đến nhà kho để chờ lúc tội nhân bị dẫn lên xe, bởi đó chính là cảnh kích động trí tò mò cũng như lòng thương cảm.
Chừng hai mươi phút sau mới thấy tốp công an quay ra cùng chủ tịch Quý. Nhưng ông chủ tịch không có chút mẽ nào của kẻ cầm quyền. Những người đứng xa thì thấy anh ta cúi đầu đi cung cúc, mặt không còn chút máu. Đến cửa xe, anh ta leo lên, chui tọt vào trong, ngồi nép tận góc xe để khỏi nhìn thấy ai và cũng không bị ai dòm ngó. Những người đứng gần nhìn rõ mồ hôi toát đầm đìa từ trán lẫn hai thái dương Quý chảy dọc theo gương mặt dài và nhọn, loang xuống tận cằm. Họ còn nhìn rõ hai bàn tay anh ta run như giẽ, cặp môi trắng bợt như môi kẻ sốt rét kinh niên cũng run đến nỗi không thể mím lại được, và cặp mắt sâu tối như hũ nút của anh ta bỗng nhiên bạc hết màu. Tất thảy vẻ lạ lùng ấy khiến đám đông nín thở. Linh cảm mách bảo cho họ điều gì đó nghiêm trọng sắp xảy ra. Khi chiếc xe quay bánh để tiến về phía nhà kho, dân đứng dạt sang hai bên đường, không ai nói với ai một lời. Rồi khi xe rời bánh, họ lặng lẽ bám theo xe mà đi, giống một đám đưa tang hơn là đám đông hiếu kì tìm cách thoả mãn cơn tò mò bệnh hoạn.
Chiếc jeep dừng lại trước kho, tốp công an nhẩy xuống trước rồi mới đến Quý. Anh ta bước lên để mở ổ khoá, nhưng loay hoay mãi không làm nổi khiến cho một người trong số bốn công an phải giằng chùm khoá và tự tay mở ra. Hai công an khác tiến vào trong gian nhà tạm giam để một phút sau đó quay trở ra cùng với cô vợ trẻ của ông Quảng, mặt đầy những mụn đỏ vì muỗi đốt. Người cuối cùng, ắt hẳn là sĩ quan lãnh đạo nhóm, quay lại hỏi Quý :
- Anh còn muốn nói gì nữa không ?
Không thấy Quý trả lời .
Người công an đã mở khoá gian nhà kho giờ rút từ trong túi quần ra một chiếc còng số tám, mở còng và chìa ra trước mặt Quý, không nói thêm một lời. Quý cũng không nói một lời, im lặng như xác chết, anh ta đưa hai bàn tay vào ổ còng, trước vẻ kinh ngạc sững sờ của tất thảy dân chúng, kể cả cô Ngân.
Người sĩ quan lúc đó đưa mắt nhìn nạn nhân vừa được giải phóng :
- Chị có cần chúng tôi đưa về tận nhà hay không?
- Dạ...
Cô Ngân đáp một cách máy móc, dường như chưa kịp hiểu người ta hỏi gì. Anh công an nhắc lại, giọng nhẹ nhàng hơn :
- Chị có thể tự trở về với gia đình hay muốn chúng tôi đưa chị về ?
- A...Không...Em có thể đi về được...Cảm ơn các anh.
- Vậy thì chào chị, và chúc chị mau trở lại cuộc sống bình thường.
Anh ta nói, với giọng trầm tĩnh nhưng không che giấu nổi mối thiện cảm tự nhiên mà bất cứ người đàn ông nào cũng nảy sinh khi đứng trước một người đàn bà đẹp.
- Vâng, em xin chào các anh, và cảm ơn các anh.
Cô Ngân đáp. Vẻ linh hoạt đã bắt đầu trở lại.
Tốp công an áp giải Quý lên xe. Rồi chiếc xe lăn bánh. Dân Xóm Tiều phu đứng như đám phỗng nhìn theo . Họ cứ đứng như vậy cho đến khi đám bụi đã hoàn toàn lắng và tiếng động cơ không còn nghe thấy nữa. Rồi một bà nào đó chợt lên tiếng:
- Khổ thân cô, muỗi đốt chi chít như cám thế này. Ấy là mới chỉ một đêm. Cái đận cải cách ruộng đất, chị tôi còn bị giam đến mấy tháng.
- Kể làm gì thời cải cách, người biến thành quỷ, quỷ đội lốt người hiện hình.
***
Ngay đêm hôm ấy, ông Quảng về làng .
Những người láng giềng gần nhất nghe cô vợ trẻ gào lên như đứa trẻ bị đòn khi ra mở cổng:
- Trời đất ơi, anh đi đâu để cho con anh hành hạ tôi như thế ?
- Tôi có tội tình gì mà phải chịu đoạ đầy, sỉ nhục như con điếm ? Chỉ vì yêu thương anh, làm vợ anh mới nên nông nỗi này đây...
Không ai nghe thấy tiếng ông chồng, kể cả những kẻ thính tai nhất. Họ cũng không thấy bếp đỏ lửa nên đoán rằng ông Quảng đã liệu thân ăn quàng ăn quấy dọc đường vì chắc mẩm cô vợ giận dỗi không thèm nấu cơm. Nghe ngóng mãi chẳng thấy gì láng giềng cũng đành đi ngủ, lòng dạ đầy ắp những nôn nao sau hai ngày đầy sự biến.
Qua nửa đêm, trời se lạnh và tràn ngập sương mù. Từ đỉnh Lan Vu, sương trôi xuống các tầng núi thấp. Rồi từ các giải núi ấy, sương lan toả khắp các miền đồi, sương trôi xuống các khu vườn; la đà cuộc rong chơi trắng ngát trên những nương chè, nương sắn, và sau rốt, những đồng lúa. Trong màn sương trắng mịt mùng, giấc ngủ trở nên sâu thẳm. Tiếng gà gáy báo canh nghe chừng cũng rụt rè, dấp dính như ngái ngủ. Và bóng đêm vùng cận sơn thường nhử đến những giấc mơ lạ lùng. Khoảng ba giờ sáng, thằng cu Hoà ở thôn Trung tung chăn vùng dậy chạy khắp nhà, vừa chạy vừa kêu như lợn bị chọc tiết. Bố mẹ nó phải giữ chặt tay chân đứa con trai, đổ nước gừng nóng cho nó tỉnh. Mở mắt được rồi, cu Hoà khóc mếu đòi thắp đèn sáng trưng từ trong nhà ra ngoài sân, rồi ngủ ngồi trên ghế. Cứ tắt đèn, nó lại bừng mắt dậy kêu thét lên. Người nhà đành phải để đèn sáng như thế suốt đêm, khi hửng mặt trời mới dám tắt. Thằng bé ngủ cho đến tận trưa mới dậy, bấy giờ mặt trời đúng ngọ chói chang, cu Hoà kể lại giấc mơ hãi hùng của nó. Trong mơ, nó nhìn thấy một con trăn khổng lồ nhưng có vây như cá, có móng như rồng, có đuôi chẻ như đuôi rết, có lưỡi dài như lưỡi chó ngao, có mào thịt giống như mào chim vẹt. Con vật khổng lồ từ dưới vực trườn lên, nằm dài trên dãy núi Trúc. Khi nó há mồm ra ngáp, con trâu đực có thể rơi thỏm vào bên trong. Một cái miệng đỏ rực màu máu, trong khi toàn thân con vật lại đen, vằn vện những sọc dài màu xanh lục chen màu vàng ốc. Những chiếc vây của nó cứng như tạc bằng than vỉa, có hình dạng từa tựa như vây kì đà. Con vật khổng lồ trườn từ dãy núi Trúc sang các giải núi Cườm xanh, Cườm vàng. Khi bò, đuôi nó quật sang hai bên khiến cây rừng đổ rạp như phải bão. Qua mấy giải núi, con vật phóng lên đỉnh Lan Vu. Nhưng nửa chừng, nó bất thần dừng lại, rống lên đau đớn. Cái bụng khổng lồ của nó trồi sụt, phập phồng như sóng biển, có thể nhìn rõ những chuyển động của một con thú đang quẫy đạp, nhào lộn bên trong. Con vật mẹ quằn quại, vật vã, mắt lồi lên như sắp bật ra khỏi mí, mũi phả ra từng luồng hơi nóng rực, mồm khạc ra từng tràng tiếng kêu ầm ầm như tiếng sấm. Rồi qua một hồi lồng lộn vì đau đớn, bụng nó từ từ nứt toác, một kẽ nứt dài, sâu hoắm, không vết máu mà chỉ chảy ra một chất nhựa đen, đặc như mủ cây. Từ trong kẽ nứt ấy, lộ ra một cái đầu y hệt như đầu con mẹ, cùng hình dáng, cùng màu sắc, cùng cả vẻ hung dữ của đôi mắt lồi, cùng cả màu đỏ như son của chiếc mào thịt khổng lồ giống như mào vẹt. Cái đầu thứ hai lớn lên vùn vụt, tựa hồ một trái bóng được thổi, chỉ trong phút chốc nó đã lớn ngang đầu con vật mẹ và vươn ra khúc thân bóng nhẫy, với những vằn dài màu vàng đất và màu xanh. Khi đã vươn đủ chiều dài để sánh ngang tầm với con vật mẹ, chiếc đầu quái vật thứ hai này gầm một tiếng hung tợn, táp vào đầu con mẹ một cú dữ dội khiến cho con vật mẹ bị thương. Từ vết thương ấy, máu phun lên đặc như mủ cây, tím như nước mận. Con vật mẹ vươn cổ lên gầm thét, và cuộc giao tranh bắt đầu. Cu Hoà đứng ngay dưới chân núi Lan Vu, đúng khoảnh đồi ngày thường nó vẫn chơi đá cầu với lũ bạn. Hai con vật cắn xé nhau ngay trên đầu nó khiến nó sợ những chiếc vuốt khổng lồ kia chà nát khoảnh đồi mà nó chỉ nhỉnh hơn con cáo ở bên trong. Nó tháo chạy nhưng không chạy nổi. Xung quanh khu đồi bỗng nhiên mọc dựng lên những bức tường kết bằng các loại gai nhọn và dây leo. Thoạt tiên là những búi cây lúp xúp cao không quá đầu gối. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc, những búi gai nảy nở như loài tảo, vươn lên ngang đầu người lớn, cành nọ đan xen, kết nối với cành kia. Và cùng lúc, các loài dây leo bất thần từ các xó đất vươn lên ngàn ngàn chiếc vòi xanh đầy lông, cuốn chằng chịt quanh những búi gai khiến cho những bức tường xanh trở nên kín đặc, con mèo cũng không chui lọt. Cu Hoà nhìn kĩ lại, và nó chợt nhận ra khắp bốn bề, nhan nhản các loài gai độc lẫn lá han. Những thứ gai nhọn chỉ cần chích vào da là da lên mủ, còn lá han là thứ lá hễ chạm vào là người sẽ phỏng rộp lên như bị bệnh đậu mùa. Tuyệt vọng, nó la thét kêu cha gọi mẹ. Không một ai nghe thấy tiếng kêu cứu của nó. Nhưng điều kinh khủng hơn là chính lúc ấy bụng nó bắt đầu chuyển động. Nó cúi nhìn xuống, thất kinh vì thấy bụng nó cũng trồi lên trụt xuống, dập dờn như sóng cuộn, hoàn toàn giống bụng con quái vật mà nó vừa chứng kiến. Nó mường tượng rằng bụng mình sẽ nứt làm đôi, từ trong đó sẽ nhô ra một cái đầu giống hệt như đầu của nó; cũng cái cằm chẻ, cũng đôi mắt xếch, cũng cái mũi hếch, và cũng gọi tên là cu Hoà ...Rồi cái thằng Hoà thứ hai kia sẽ quay lại cắn cổ nó giống như con quái vật trên núi, và cuộc giao tranh ắt phải xảy ra ...Nỗi sợ hãi khiến nó hồn xiêu, phách lạc, chạy cuống chạy cuồng, tìm lối thoát. Chính trong cơn sợ hãi ấy, nó biến thành kẻ mộng du ...
Thằng cu Hoà từ bữa đó không dám ngủ với các em cho dù nó là con trưởng và đã mười một tuổi. Bố mẹ nó đành cho nó ngủ chung, nằm giữa. Thêm nữa, suốt đêm, họ phải để ngọn đèn hoa-kì trong góc phòng. Láng giềng tò mò hỏi chuyện chăn gối ra sao thì cả hai người đều phải thú nhận rằng những đêm nóng máy họ phải chờ cho nó ngủ thật say, khêu to đèn cho buồng thật sáng, rồi mới khẽ khàng ôm chăn chiếu xuống nhà ngang― hoạt động cách mạng„...
Người dân quê vốn coi những giấc mơ là điềm báo trước của trời đất hoặc lời đe doạ của quỷ thần. Có giấc mơ báo điềm lành, có giấc mơ báo điềm dữ. Sau các giấc mơ dữ thường xảy ra thiên tai hay địa hoạ. Rồi chúng sinh sẽ phải khốn đốn long đong trong một thời gian dài. Không hiểu ngẫu nhiên hay các đấng thần linh cố ý răn dạy loài người mà giấc mơ mẫu tử giao tranh lại xảy ra ngay sau câu chuyện nhà ông Quảng. Thế là khắp ba thôn, dân Xóm Tiều phu nháo nhác cả ngày lẫn đêm. Có lẽ chỉ trước khi bước vào giấc ngủ là con người có thể nằm bình tĩnh vắt tay lên trán để tự mình suy ngẫm về chuyện đời, còn từ lúc mặt trời lên cho đến lúc tối mịt, dân xã chuyện trò, đấu khẩu, thậm chí cãi nhau kịch liệt xung quanh sự cố này. Trước hết là các buổi làm cỏ sắn. Từng nhóm mang theo ấm nước chè đại để uống chung. Còn đàn ông , phải có ống điếu với bịch thuốc lào; đàn bà con gái có kẹo lạc, kẹo vừng; các bà già có túi trầu têm sẵn. Tối đến, người ta lại túm năm tụm ba, nhưng bây giờ, không phải ở sân nhà ông Quảng cũng không ở sân nhà cô Vui, những người được coi là các nhân vật chính trong ―tấn tuồng thế sự„. Bởi vào đêm ông Quảng trở về, cô Vui cũng trở về. Hai hôm sau, đảng uỷ xã họp dưới sự chỉ đạo của bí thư huyện uỷ. Chủ tịch Quý đang ngồi trong nhà giam tỉnh, chờ xét xử vì tội :
― Lạm dụng quyền chức, bắt giam người vô tội...„ .
Nhìn rõ trăm phần trăm là Quý sẽ mất tuột cả chức tước chính quyền lẫn bên đảng. Hơn nữa, anh ta sẽ bị khai trừ không bảo lưu. Như thế, đảng bộ Xóm Tiều phu phải họp cấp tốc để bầu chủ tịch và phó bí thư mới. Một khi đảng bộ đã quyết, dân chúng cứ việc theo đó mà bỏ phiếu hoặc giơ tay. Trong cuộc họp này, bí thư huyện uỷ đã tuyên bố thẳng thừng rằng bí thư chi đoàn Nguyễn thị Vui đã đóng vai trò xuất sắc trong việc bảo vệ uy tín đảng. Nhờ tinh thần nghiêm khắc của đồng chí Vui trước những hành động lạm dụng quyền lực , trấn áp công dân vô tội của chính quyền xã, mà huyện uỷ đã kịp thời can thiệp, với thời gian nhanh nhất, ngăn chặn những tổn thất đáng tiếc có thể xảy ra. Do đó, huyện uỷ đánh giá rất cao tinh thần trách nhiệm và năng lực điều hành của bí thư chi đoàn, coi như người đảng viên ưu tú nhất, người cán bộ có triển vọng nhất của xã...
Với ngần ấy lời biểu dương của con người quyền lực nhất huyện, đương nhiên cô Vui tức khắc trở thành chủ tịch xã kiêm phó bí thư, trước sự vỗ tay nhiệt liệt và sự hoan hỉ nhiệt liệt của các đảng viên rồi tiếp theo đó là toàn thể dân cư. Sau lễ nhậm chức, có một cuộc liên hoan linh đình. Hợp tác cho phép ngả thịt ba con bò vừa lành vừa què, vì lẽ từ xửa từ xưa, dân Xóm Tiều phu không coi trọng những mâm cỗ chỉ có hai con vật. Cỗ đáng kể chắc chắn ngoài gà, lợn phải có thịt bò. Vào những dịp trọng đại như thế này, chính sách tiết kiệm của nhà nước đành phải cúi mặt giả điếc, giả câm trước truyền thống sâu xa, dài rộng của đám dân thích― khoái khẩu. Ba món được tán thưởng nhất là bò luộc chấm tương gừng, giò bò cuốn tiêu và bò quấn mỡ chài nướng. Khi hàng trăm mâm cỗ đã bày la liệt trong hội trường cũng như ngoài sân, mùi rượu bốc hơi hoà cùng mùi lợn quay, bò nướng thì bầu không khí hứng khởi, say sưa khiến mọi người quên hẳn xuất xứ cuộc liên hoan. Họ cũng không để ý rằng ông Quảng , cô Ngân và bà Tư móm vắng mặt trong suốt hai ngày hội họp lẫn nhậu nhẹt...Vào lúc chén chú chén anh, chén tôi chén bác, chẳng ai dại gì đụng chạm tới những chuyện dễ làm mếch lòng người khác và bản thân họ phải đau đầu. Nhưng tiệc vui mấy cũng có lúc tàn, huống chi đây lại là tiệc mừng cô Vui nhậm chức chứ không phải tiệc mừng thọ cha mẹ, hoặc tiệc mừng con cháu thi đỗ đại học. Người dân Xóm Tiều phu đầy đủ lý do để ngoảnh mặt lại nhìn ―cô Vui "chủ tịch" với con mắt hà khắc sau khi cô đã nhận đủ các thứ thủ tục bàn giao quyền lực, và nghiễm nhiên ngồi vào chiếc ghế xưa nay cậu Quý vẫn ngồi. Vả chăng vào lúc ấy, các món lợn quay, bò nướng lá sả mỡ chài cũng đã tiêu thành phân bón. Thế là, chỉ dăm bẩy ngày sau, khắp các nương sắn, đồi chè; dân chúng đem câu chuyện ― Con gái già Lộn Rồng ra chỉ trích.
Theo lược thuật, Quý đã lấy trộm được một tờ lệnh bắt gái mại dâm ở nhà ông anh họ, con cô con cậu về đằng ngoại. Anh này đang là phó phòng điều tra xét hỏi thuộc sở công an tỉnh. Đấy là tờ lệnh cũ, xếp trong đống tài liệu chờ bỏ vào kho bảo lưu. Những mớ tài liệu bảo lưu này, nếu không cần dùng cho một vụ khiếu kiện ở cấp cao hơn, hoặc một cuộc điều tra chính ngạch, sẽ bị huỷ bỏ hai mươi lăm năm sau. Người anh họ kia hoàn toàn không nghi ngờ gì cậu em chủ tịch xã nên đã để Quý ngồi chờ trong phòng mà đi mua bia và đồ nhắm về thết khách. Ăn cắp được tờ lệnh này, Quý đã dùng hoá chất tẩy xoá tên bị can cùng ngày tháng cũ, điền tên cô Ngân và niên hạn mới cho phù hợp. Như thế, trưởng công an xã không hồ nghi gì khi đọc tờ lệnh trên, với con dấu sở công an tỉnh và chữ kí của cán bộ phòng điều tra xét hỏi. Thêm nữa, vốn là cánh hẩu cùng nhau làm việc từ nhiều năm nay, anh ta sẵn sàng thực hiện một cách hăng hái tất thảy những gì Quý yêu cầu. Do đó mà có cả một tiểu đội du kích ập đến nhà ông Quảng, bắt kẻ ― chuyên lừa đảo đàn ông, phá hoại thuần phong mỹ tục„ tên gọi thị Ngân. Vào chính buổi trưa xảy ra sự việc này, cô Vui tức khắc cưỡi xe đạp xuống tỉnh báo tin cho ông Quảng. Phần tiếp sau đấy, là những gì đã xảy ra mồn một trước mắt tất thảy mọi người...Không cần thêm lời chú giải.
Dân quê vốn ghét những kẻ mưu cao kế hiểm, cho dù chính họ cũng luôn luôn dùng mẹo vặt để kiếm chác những mối lợi cho mình. Đối với họ, kẻ cao mưu luôn luôn là một sức mạnh đen tối có thể tàn phá không chỉ một cá nhân mà là cả một gia đình, đôi khi cả một làng, một xã...Kẻ mưu cao kế hiểm cũng giống như phù thuỷ thời trước, hạng quái nhân dùng bùa phép khiến người ta phải mê mụ đi mà yêu, mà ghét, mà thù, mà làm tất thảy những hành vi ngu ngốc hoặc điên rồ phi nhân tính. Nếu kẻ cao mưu lại là một người đàn bà thì sự kinh sợ và lòng thù ghét sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Bởi người đàn bà sinh ra với hai vú, hai mông. Hai vú là để nuôi con, hai mông là để làm sung sướng đức ông chồng. Đàn bà không nên làm điều gì trái với những thiên chức mà đất trời đã giao phó cho họ. Một người đàn bà nhảy lên cái ghế của các ông chánh tổng, lý trưởng cũ đã là sự nghịch mắt. Nhưng cái con triện này lại nắm được sau khi dính dấp vào một vụ mưu phản, một cuộc đánh tráo cơ hội là thứ quyền lực chịu nhiều sự phỉ báng nhất, nói theo ngôn ngữ cổ :
― Là thứ danh mà chán vạn người nhổ bọt lên trên.
Như thế, nếu cô Vui đủ thông minh, hẳn cô cũng có thể đoán được người ta bình phẩm ra sao sau lưng mình. Nhưng may thay, mọi trí thông minh đều bị giới hạn, và cô con gái ông Đô đang ngây ngất vì hạnh phúc của kẻ cầm quyền, còn chú tâm lo xây tổ, kết bè kết cánh, củng cố chiếc ghế chủ tịch xã... Công việc ấy khiến cô không còn đủ thời gian cũng như sự bận tâm để tìm hiểu những phẩm bình của dân chúng, đám người đang ra sức đào bới những bí ẩn trong con tim cô như những nhà lập pháp đào bới một thây ma để làm rõ một cái chết mờ ám. Cuộc điều tra có tính cách ―"pháp lý nhân dân" cũng giống như tất thảy những sự kiện có tính ―"toàn dân" khác, phổ cập một cách triệt để. Già trẻ, lớn bé, gái trai đều tham dự, mặc dầu những người chính thức nhảy vào cuộc đối thoại chỉ thuần kẻ mày râu :
- Các ông có thấy chúng mình già đời mà ngu dại hay không ?...Cả lũ cả đàn xóm trên xóm dưới đến kéo nhà nó nghe chuyện vợ chồng ông Quảng như đám trẻ đi xem đèn kéo quân mà không biết vì sao nó lại nhiệt tình chào đón đến như vậy.
- Thì ai biết...Tưởng nó mới nổi lên giàu nên thích làm sang, thích sánh vai Mạnh Thường Quân, ganh đua với ông Quảng.
- Xì...xì...Con ấy làm sao mà rộng lòng, hởi dạ được. Bữa trước con cháu nội của tôi bị sốt, tưa lưỡi. Nhà hết mật chạy sang xin, nó cho được đúng hai thìa.
- Ông nói điêu...Ai mà dám giơ tay cho xóm giềng hai thìa mật ?
- Cái chén hạt mít đựng mật hãy còn ở trên tủ nhà tôi, chốc nữa ông sang mà xem .
- Có thế thật. Cô ấy bỗng dưng trở nên hào phóng cũng vì muốn lấy lòng chòm xóm, nhưng cũng còn vì muốn mượn dư luận triệt hạ kẻ địch tình. Chẳng phải tự nhiên công cốc bỏ của bỏ tiền ra, thuê xe về tận làng Khoai điều tra tình cảnh một con đàn bà khác. Nếu là kẻ dưng không ai điên rồ làm như thế.
- Vậy mà hồi đó cứ nghĩ đơn giản là cô ta nghe lệnh cậu Quý .
- Lệnh chủ tịch chẳng to được đến thế nếu không có sự thúc hối tự tâm can.
- Đúng thật, giờ nhớ lại mới thấy mình có mắt như mù. Chính tôi đứng sát cô ta ngày đám tang bà Quảng. Chính tôi thấy cô ta lên thắp hương ba lượt, vái những ba lần.
- Vái ba lần để vong hồn bà ấy ưng thuận cho bước lên giường hợp hôn với ông chồng goá bụa. Còn xóm giềng lẫn người trong họ, ai cũng chỉ một lượt vái là phải phép.
- Rõ rành rành mà chẳng ai để ý, cô ta kín võ thật.
- Cũng chẳng kín võ, nhưng vì chúng ta bị ma che mắt nên chẳng nhìn ra. Tôi đoán chừng là ông Đô phù trợ để cô gái yêu lấy được tấm chồng, hoạ may kiếm được tí cháu. Ngoại tam tuần rồi còn đâu thời gian mà ngóng đợi ?
- Tôi không tin chuyện ma che mắt, nhưng tôi cho rằng chúng ta là những kẻ vô tâm. Còn cô gái già này mới chính là con người mưu lược. Ngẫm đi nghĩ lại mới thấy cô ta chọn ông Quảng mà tấn công là hoàn toàn chính xác. Trong xã này, ông ấy là người thạo đời nhất, ăn cơm thiên hạ bao nhiêu năm trường, đã giàu lại to gan. Phi ông ấy ra, ai dám mó đến cô ta ?
- Đích thị như vậy. Nhưng khéo tính cũng chẳng lại với trời. Trời không cho thì trăm mưu nghìn kế cũng bằng không. Thế gian có câu ― "may hơn khôn" là vì thế.
- Miếng ăn ngỡ đến miệng lại bị rơi nên mới theo thằng Quý trả thù. Cô ta tưởng chắc chắn sẽ bước chân lên cái giường gỗ lim của bà Quảng. Chẳng gì cũng có cơ ngơi toà ngang toà dọc, anh tám lạng, ả nửa cân, nào kém cạnh nhau? Không ngờ có con đàn bà ở tít tắp mù khơi nó bay vèo đến như con chim yến, đậu đúng cành soan của người trong mộng. Thế là tan cuộc.
- Đoạn này chính cô ta vụng tính. Thằng đàn ông đáng mặt quân tử không thèm ngó đến của nả nhà vợ. Chỉ bọn đào mỏ mới nghĩ đến túi tiền. ― "Trai anh hùng, gái thuyền quyên" bậc chính nhân chuộng dung nhan, ngôn hạnh .
- Chí phải, ông Quảng thiếu gì tiền mà phải tìm một con đàn bà giàu có? Ông ta bê một đứa xinh đẹp như tiên, tươi trẻ nõn nà, da thịt thơm phưng phức. Tuổi sáu mươi được như thế chết cũng không còn chi hối tiếc.
- Kết luận lại là cô gái già vụng tính.
- Đừng vội kết luận. Dẫu vụng tính nhưng nó giỏi xoay . Cái đầu nó lắm mưu hơn toàn thể những cái đầu chứa rặt bã đậu của lũ chúng ta cộng lại. Tôi đố các ông xoay chuyển tình thế giỏi như nó. Đang từ phe cậu Quý, nó nhảy một phát thành đồng minh của ông Quảng. Người ta bảo
― "đục nước béo cò" chính là thế này đây.
- Phải công nhận là con đàn bà này khiếp đảm. Ông Quảng kín võ như bưng vậy mà nó biết được thế ông ấy mạnh như chẻ tre, trùm từ huyện đến tỉnh. Ắt hẳn nó phải có tay trong, họ hàng thân thiết ngồi ở đám cầm quyền. Một con đàn bà đang từ Hán chạy sang Hồ, bỏ Tần sang Sở nhanh như lật bàn tay thế cũng đáng gờm mặt.
- Không tóm được củ khoai của ông Quảng thì lại nắm được con triện uỷ ban xã, giờ nó là con đàn bà quyền hành nhất hạng, đứng trên đầu hơn hai ngàn dân Xóm Tiều phu này. Thế chẳng phải là nó thắng một ván to hay sao ?
- Thắng ván to thật. Chuyện này không ai dám chối cãi. Nhưng tôi xin hỏi các ông, cái đầu nó lắm mưu thế thì con ba ba của nó có sỏi bên trong không nhỉ ?
- Có...Chắc chắn là có. Hôm nào nó đi qua các ông cứ thử lắng tai nghe xem, hai hàng sỏi đóng hai bên cái hẽm của nó cọ vào nhau leng keng, lục cục.
- Ông chết nhá. Tối nay tôi về bảo bà ấy là ông chuyên nghiêng đầu giỏng tai nghe con ba ba của cái Vui gióng chuông. Bà ấy véo đứt tai ông là cầm chắc.
- Ôi dào, mách vợ tôi chuyện ấy cũng bằng thừa. Nó biết rằng chỉ nhìn thấy con gái già này là bộ sậu của tôi đã héo rũ lại, kim đồng hồ chỉ số sáu ngay lập tức.
- Cũng tội nghiệp cho cô em, quyền cao chức trọng, nhà to sân lớn thật nhưng con ba ba để mốc thếch, khéo bây giờ gõ kêu công cốc như mõ chùa.
- Láo, sao ông dám ví von thế hả ? Bậy bạ , các cụ vả cho sưng mõm lên bây giờ.
- Ôi xin các ngài đại xá, chúng con vui miệng lỡ mồm...
- Lặng im. Tôi có một câu đố dành cho các ông, kể cả các bà các cô nữa, nếu muốn tham dự. Đố rằng từ giờ trở đi vườn nhà cô chủ tịch Vui sẽ trồng loại cây nào ?
- Sao ông hỏi oái oăm như thế ?...Ai ngồi trong óc nó mà biết được ?
- Thế mà tôi biết đấy, các ông đánh cược cái gì tôi nói cho mà nghe.
- Đồng ý, một bữa rượu với cá rô rán.
- Bủn xỉn thế, không thèm.
- Thêm bữa rượu thứ hai với gà mái tơ hấp, chấm muối lá chanh.
- Chưa đủ.
- Bữa thứ ba với bún lòng mắm tôm, mùi tàu, húng quế.
- Tôi chấp nhận. Giờ, các ông giỏng tai lên mà nghe : Từ nay về sau cô chủ tịch xã của chúng ta sẽ nhổ sạch các loài cây hiện có trong vườn mà chỉ trồng toàn chuối ngốc. Loài chuối ngốc này phải lấy giống tận dưới tỉnh Hưng-yên, còn có tên gọi là chuối tăng sản, hoặc chuối triển lãm, mỗi quả nặng từ nửa cân tới bảy lạng tây, to hơn cái chày giã cua của các bà nội trợ...
Các bà các cô lập tức rú lên như bị rết cắn, hoặc bị dội nước sôi :
- Phải gió cái nhà ông này...
- Đồ đàn ông đểu cáng....Đồ chết giẫm...
- Đồ quỷ, đồ trời đánh thánh vật ...
Rồi họ cười lăn cười lộn, cười ngả cười nghiêng, cười rú lên từng hồi như điên, cười đến bật cơn ho sằng sặc như mắc chứng ho gà, cười đến chảy nước mắt nước mũi ...Như thế, đoạn kết của tất thảy những cuộc bình phẩm bao giờ cũng vẫn là những câu chuyện tưởng tượng lạ lùng và tục tĩu, nơi trí tưởng tượng của người nông dân được xài hết công xuất để dồn trút những ẩn ức trong tâm hồn họ và để bắn loạt đạn hành hình vào kẻ nào đó bị buộc vào cây cọc trước một pháp đình xưa cổ và miên viễn .
Nhưng những câu chuyện vừa nghiêm chỉnh vừa cợt nhả về người đàn bà quyền lực cũng chính là một lối trả thù. Lối trả thù vô thức, xưa cũ như trái đất. Khi một cơn chấn động tinh thần tập thể xảy ra, người ta phải tìm phương thức giải cứu để có thể tìm lại sự cân bằng, để củng cố niềm tin vào bản thể, và sau rốt, để biện minh cho cuộc sống tương lai. Cách tiện lợi nhất là tìm vật hiến dâng một vị thần vô hình vô ảnh, một đấng linh thiêng tối cao đầy quyền năng đủ bùa phép hoá giải mọi tai ương. Người xưa từng bắt những cô gái đẹp nhất vùng ném xuống vụng biển để làm vừa lòng Hải long vương với những tên gọi Thanh long vương, Bạch long vương hay Hắc long vương tuỳ theo vùng biển các vị thần trấn ải. Người Xóm Tiều phu giờ đây không thể bắt con cháu họ ném xuống vực sâu để tế sơn thần nên họ phải tìm cách mang lên dàn hoả thiêu của dư luận một kẻ khả nghi nhất về tư cách. Trong trường hợp này, không có vật thí mạng nào thích đáng hơn cô chủ tịch vừa nhậm chức Nguyễn thị Vui. Giấc mơ của đứa bé thôn Trung thổi một cơn bão khắp vùng, nhưng trước hết là dân trong xã. Một con quái vật khổng lồ giao tranh cùng đứa con vừa chui ra từ lòng nó. Phải chăng đó là hình ảnh biểu trưng cho nỗi bất hạnh mà người ta sợ hãi nhất trên đời: sự vô phúc, sự vô đức, sự bất nhân.
Bất cứ một gia đình nào, dẫu sang hay hèn, giầu hay nghèo cũng đều xem mối quan hệ giữa các thế hệ là nền tảng vững chắc nhất của một dòng tộc. Không có tiền thì không sống được. Cảnh bần hàn là một thứ địa ngục dưới ánh mặt trời, không ngạ quỷ cũng chẳng có lò thiêu nhưng nung nấu con người trong đau khổ. Tuy nhiên, nếu rương hom đầy tiền bạc, mà vợ chồng đánh lộn, anh em vác dao chém nhau để tranh giành phần hơn phần kém thì sự giàu sang ấy cũng được coi là một thứ địa ngục thứ hai. Một địa ngục không kém phần kinh hãi. Tình mẫu tử cũng như tình phụ tử xưa nay vốn được coi như thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong cõi người. Từ thuở đứa bé lọt lòng, người ta đã hát ru:
― Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Câu hát bên nôi ấy sẽ còn lặp đi lặp lại như một điệp khúc bất tận qua suốt tuổi thơ sang đến tuổi trưởng thành. Rồi khi đứa bé ấy đã trở thành một chàng trai hay một cô gái, trong hôn lễ, ngày hạnh phúc nhất của cuộc đời, họ phải quỳ lậy những người đã sinh thành và nuôi dưỡng họ ngay trước bàn thờ gia tiên. Nghi thức ấy biểu lộ sự tôn kính và lòng biết ơn. Nghi thức ấy cũng là lời cam kết của tình hiếu đễ. Thời cuộc đổi thay, các đám cưới dưới chính quyền cách mạng không trầu cau, cũng chẳng còn pháo hồng, khăn lụa. Trai gái vừa liếc mắt đưa tình tối hôm trước, sáng hôm sau đã báo cáo đoàn thể, đảng, đoàn, hay ban phụ nữ xã. Cha mẹ chưa kịp cất nhời, họ đã kéo nhau ra uỷ ban cộp con dấu vào tờ khai giá thú. Mực vừa ráo, tức khắc các đoàn thể đứng lên tuyên bố, diễn ngôn, khuyên nhủ các cặp tân hôn phải đoàn kết, chăm chỉ lao động, hoàn thành mọi nhiệm vụ của nhà nước và gia đình. Sau đó, là kẹo lạc nước chè xanh thay cho cỗ lớn, cỗ nhỏ; những tràng vỗ tay thay cho pháo hồng, khăn lụa. Người ta phải cúi đầu khuất phục quyền lực thế tục. Nhưng những cuộc phục thù rình nép trong bóng tối của lặng câm. Và vào thời điểm cho phép, chúng ắt xảy ra.
Như thế, giấc mơ của đứa bé thôn Trung dội vào tâm hồn những người dân cơn bão của sợ hãi và phẫn nộ. Ngoại trừ những kẻ mất trí, chẳng ai muốn có một đứa con quay cổ lại đâm dao găm vào lưng mình. Người làm cha làm mẹ thường hy sinh không tiếc thân cho các con được ăn, được học, được trở thành một ―ông nọ bà kia hơn hẳn chính họ. Người ta vẫn được dạy dỗ từ bao đời: chỉ lợn mẹ mới táp lợn con, chỉ chó mẹ mới tranh ăn với chó con, loài người không thể hành xử như vậy. Khi đã hy sinh như thế, ắt hẳn họ tự cho phép mình quyền được đòi hỏi nơi những đứa con lòng hiếu đễ. Lô-gic thường hằng của đạo lý lại luôn luôn bị dập vùi bởi một hiện thực phũ phàng. Giấc mơ tình nghĩa vốn dĩ mênh mông như biển khơi, nhưng hiện thực của lòng nhân ái, của sự quên mình chỉ là những dòng sông mảnh mai, những con kênh hẹp. Tự muôn đời, cuộc sống trôi đi như dòng nước, giữa hai bờ của hy vọng và thất vọng, của lòng tin với sự mất lòng tin, yêu thương và oán hận...Giống như trái đất quay giữa mặt trời và mặt trăng, một sự luân chuyển không ngưng nghỉ, một đổi dời bất tận, một xoay vần miên viễn cho đến ngày vũ trụ trở thành đám tro của hỗn mang, trong cuộc trở về cuối cùng. Bởi quy luật của sự luân chuyển không mệt mỏi này, người ta phải cứu vớt niềm tin của chính mình vào những thời khắc hiểm nguy nhất. Không còn niềm tin thì chẳng còn cuộc sống, cho dù là một niềm tin rồ dại. Người dân quê cần phải bảo vệ mái nhà của mình, họ cần tin rằng con cái sẽ biết ơn sự hy sinh của họ, rằng chúng sẽ trở thành những đứa con hiếu đễ để xứng đáng với tất thảy những lao khó, nhọc nhằn ,những hy sinh, tận tuỵ trong ngần ấy tháng năm. Họ cần được bảo đảm rằng một mai đây, khi họ nằm trong quan tài, những đứa con đi sau linh cữu sẽ nhỏ những giọt lệ chân thành vì tiếc thương chứ không phải vì chúng cần diễn màn kịch để che mắt xóm giềng, hay để trả thù lao cho nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc mà họ đã để lại cho chúng. Họ cần được bù đắp lại một cách công bằng, bởi tình yêu cần được đắp đổi bằng tình yêu. Tấn tuồng thế sự diễn ra trong gia đình ông Quảng, thoạt kì thuỷ tưởng như một màn chèo tiêu khiển, dần dà đụng chạm đến những bi kịch vụng lén, kích động những cơn khắc khoải, những nỗi lo âu kinh niên nung nấu sau cánh cửa nhiều gia đình. Đến khi giấc mơ ― mẫu tử giao tranh của thằng cu Hoà thôn Trung xuất hiện thì những cơn day dứt thầm kín trong tâm hồn con người bùng khởi như giông tố chà xát khắp vùng, và người ta đổi tên giấc mơ ― mẫu tử giao tranh thành ― phụ tử huyết chiến để cho gần với hiện thực.
―Phụ tử huyết chiến bởi có những bí ẩn không thể lý giải trong câu chuyện lạ lùng này. Chính trưởng công an xã , sau khi bị huyện hỏi cung vì đã ―thi hành mệnh lệnh một cách cẩu thả, máy móc, không tỉnh táo giám sát kĩ lưỡng đã kể lại rằng khi tới nhà ông Quảng đọc lệnh, yêu cầu cô Ngân chứng minh rằng quan hệ của cô với ông Quảng là hợp pháp, người vợ trẻ của ông đã la lên:
- Chúng tôi có cưới xin hợp pháp. Tôi sẽ đưa tờ khai giá thú cho các ông xem ...
Giọng cô quả quyết. Rồi cô tất tả vào buồng, tức khắc mở khoá chiếc tủ lim ba gian đồ sộ để lục tìm giấy tờ. Vẻ mặt lẫn hành vi của cô khiến cho trưởng công an xã chột dạ, bởi anh ta hiểu rằng nếu quả thực cuộc hôn nhân của họ là hợp pháp thì tờ lệnh truy nã kẻ mại dâm là giả mạo, và trong trường hợp ấy, anh ta sẽ bị kết tội a tòng giả mạo giấy tờ, đàn áp công dân cùng chủ tịch Quý. Tim anh ta đã bắt đầu nhẩy loạn nhịp. Nhưng may mắn sao, càng lục soát, cô Ngân càng tuyệt vọng, và sau rốt người đàn bà hoảng hốt gào lên:
- Ai đã ăn cắp tờ khai giá thú của tôi? Tôi thề với các anh rằng chúng tôi đã đăng kí đàng hoàng ở làng Khoai, chính cậu tôi, chủ tịch xã đứng lên làm thủ tục.
Nhưng vào lúc ấy, mọi tiếng kêu gào, khóc lóc của cô đều vô nghĩa vì trưởng công an xã cũng như đội du kích đều tin chắc mệnh lệnh họ thi hành là chuẩn xác, và nếu đã là một mệnh lệnh chuẩn xác, họ sẽ thẳng tay trừng trị một ― con đàn bà vô đạo đức, phá hoại thuần phong mĩ tục của xã hội.
Điều kì lạ là sau khi huyện thông báo lên công an tỉnh, công an tỉnh phái người về giải quyết tức khắc, lúc cô Ngân được giải phóng khỏi căn phòng tạm giam hôi rích mùi nước đái chuột và đầy dĩn, muỗi ; cũng chính là lúc ông Quảng mang tờ giấy khai giá thú trả lại cho cô vợ trẻ. Rõ ràng là chính ông đã lấy nó chứ chẳng phải một tên trộm vô danh nào đấy. Điều bí ẩn này chắc chắn không một ai dám hỏi, nhưng nó là chủ đề cho tất thảy những cuộc tranh cãi của dân trong vùng. Người thì cho rằng ông Quảng đoán trước sự việc nên đã lừa cậu con trai vào bẫy. Người lại cho rằng ông Quảng mang tờ khai giá thú theo vì e rằng nó sẽ bị đánh cắp và thủ tiêu bởi chính cậu con trai. Chiếc tủ lim ba buồng đồ sộ vốn là vật gia bảo đã qua nhiều đời. Là con trai trưởng nên Quý được quyền giữ một chiếc chìa khoá. Sự cẩn trọng của người cha đã vô tình trùng khít với việc cậu con trai cay cú muốn hạ nhục người mẹ kế chỉ đáng tuổi con gái mình. Có người lại cho rằng mọi sự xảy ra dưới bàn tay của quỷ hoặc thần, rằng không một đứa con tỉnh táo nào có thể hành xử như Quý, cũng chẳng có một người cha bình thường nào nỡ lòng ám hại con mình. Rằng sự việc này đích thị người xưa vẫn gọi là: Ma ám !... Rằng gia đình này có những dây tơ mối nhợ với thế giới của ma quỷ nên luôn luôn xảy ra những sự việc bất thường. Người mẹ bị ma đói nhập hồn, giờ đứa con trai lại bị quỷ mù ám quẻ. Những con người này đều hành động như rồ như dại dưới sự điều khiển của một gã phù thuỷ hiểm ác, hoặc một con quỷ vô hình. Họ chỉ còn là những cái xác biết di động, hoặc những con rối gỗ dưới những sợi dây điều khiển thế giới ma....
Thôi thì đủ loại giả thuyết, đủ mọi chiều phân tích. Cuộc khẩu chiến kéo dài liên miên ngày nọ qua tháng kia. Nhưng một điều tất cả mọi người đều cảm nhận, ấy là nỗi sợ hãi trước một hiện thực quá tàn bạo, một hiện thực khiến cho mọi kẻ làm cha làm mẹ đều chấn động đến tận nơi sâu xa nhất trong cõi lòng. Họ cố dò tìm sự thật .
Một ngày, người em trai ông Quảng bạo gan hỏi anh:
- Thằng Quý bị tù bao lâu theo xét xử ?
- Bốn năm sáu tháng.
- Thế là bây giờ con Vui ngồi chồm chỗm trên ghế của nó.
- Đấy là chuyện của kẻ cầm quyền, chẳng phải việc của chúng ta.
- Nhưng dù sao nó cũng là con anh, và là cháu ruột của em.
- Ai chẳng biết chuyện đó.
- Sao anh không tìm cách nào đấy làm giảm nhẹ sự tình ?
- Chú muốn nói gì ?
- Em muốn nói chẳng lẽ tầm tay dài như anh lại không giữ được nó trên ghế chủ tịch xã ?
- Chú tiếc hả ? Nhưng tôi là cha đẻ của nó, nó còn hà hiếp tôi đến thế, huống chi người dưng?
Ông em không dám nói gì thêm.
Sau đó nhiều ngày, ông ta mới đến nhà Quý, trách mắng đứa cháu dâu:
- Thằng chồng mày ngu hơn chó, sướng chẳng biết đường sướng. Từ khi chúng mày dựng vợ gả chồng, nhà dọc nhà ngang đều do ông bố lo liệu. Chúng mày sinh con đẻ cái, từ đồ ăn thức uống đến quần áo giầy dép lũ trẻ, cũng ông ấy sắm sanh. Cho đến cái ghế chủ tịch, chẳng có ông ấy, đố thằng chồng mày ghé đít ngồi vào được. Có ông ấy, không những cả đàn cả lũ chúng mày mà họ hàng cũng được nương nhờ cây cao bóng cả. Mẹ chồng mày chết rồi, ông ấy muốn lấy ai là quyền ông ấy, phận sự gì chúng mày phá thối ? Đúng là lũ đầu lợn. Bây giờ thằng chồng ngồi tù, con vợ ở nhà chỉ lo hai bữa cơm ăn đã đủ hết hơi, cổ dài như cổ ngỗng. Chúng mày đã thấy sướng hay chưa ?
Đấy là sự thức tỉnh của lý trí cũng như đạo đức. Phải chăng đó chính là bài giảng luân lý cổ truyền ? Nhưng trong cuộc thi điền kinh, đạo đức bao giờ cũng là kẻ chậm chân. Đạo đức luôn luôn là vận động viên cuối cùng về đích.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 23: TRUYỆN XÓM TIỀU PHU (12)
Chủ tịch Quý bị kết án tù ngồi bốn năm sáu tháng.
Mọi người đều biết rõ sự tình. Nhưng sau một năm, người ta đã thấy anh ta trở về. Những ai không lên nương, xuống ruộng mà ở lại làm việc nhà vào buổi sáng hôm ấy, sẽ nghe tiếng gõ móng ròn rã của con ngựa nhà ông Quảng trên đường thôn. Đó là nhịp chân của một con ngựa nòi, lông nâu hồng óng mượt như nhung, bờm dài đẹp như bờm ngựa trong tranh Tàu cổ. Tiếng gõ móng của nó hoà nhịp với tiếng lục lạc nơi cổ, là khúc nhạc quen thuộc đối với dân Xóm Tiều phu, bởi nó gợi lên hơi hướng của cuộc sống náo nhiệt nơi đô thành. Cứ nghe tiếng lục lạc reo là người ta ngóng ra cổng, hoặc qua hàng rào để ngắm con ngựa, và cất tiếng chào chủ nhân. Sớm hôm ấy, họ đều thấy ông Quảng ngồi phía trước, vẻ mặt tư lự, tay lơ đãng ra roi. Phía sau là vợ chồng Quý. Cả hai quắt queo như hai túm giẻ, im lặng như hai mô đất, quay mặt vào nhau. Vẻ im lặng lạ lùng ấy khiến mọi người không dám cất tiếng chào như thường lệ. Họ giả tảng như không nhìn thấy ai, chẳng nghe thấy gì. Nhưng vào buổi tối hôm ấy, người nọ thì thầm với người kia, xóm này loan tin sang xóm khác. Chẳng ai còn vẻ háo hức hồ hởi của những kẻ rỗi việc, tò mò thóc mách chuyện ngoài đường. Cũng chẳng ai còn vẻ nhởn nhơ của kẻ đi xem hát chèo, hay dửng dưng như đứng ngoài lề mọi chuyện. Dân Xóm Tiều phu nhìn vào mắt nhau, với vẻ đắn đo lạ lùng của những người tuy già đầu nhưng chưa đủ khôn lớn, tóc đã muối tiêu mới truy tìm hình ảnh đích thực của bản thân mình :
- Ông bố đã ra tay kéo cậu con trai khỏi cánh cửa ngục tù. Thôi, như thế cũng còn may.
- Cơ sự này chắc chắn cậu ấy sẽ phải mở to mắt mà nhìn ra ngoài để hiểu sự đời, nhìn vào trong tâm để hiểu bản thân. Từ nay về sau ắt biết đường hối cải.
- Nghe đâu cậu ta đã phải quỳ lạy ông Quảng ngay cửa nhà giam tỉnh, vào chính lúc công an đọc lệnh tha trước hạn tù.
Người này nói, người kia lặng im, hoặc nhìn lên trời , hoặc nhìn ra những bờ dậu, hàng cây, với con mắt nửa chăm chú nửa ngơ ngác. Rồi sau những im lặng đầy nghi vấn, người ta thở dài như trút được gánh nặng :
- Sự đời ngàn năm không thay đổi : máu chảy ruột mềm, hổ cũng chẳng nỡ ăn thịt con ...
Có lẽ, đấy cũng chính là lời tự an ủi, một thứ thành trì tâm linh che chắn, phòng ngừa trước những cơn bão có nguy cơ đổ bộ từ một đại dương xa lạ và bất tường vào đất liền, nghiền nát những con tim yếu mềm của họ.
Sự trở về của Quý diễn ra trong im lặng. Anh ta ở nhà một tuần, chẳng bước chân khỏi ngõ. Sang tuần sau, vào một sớm, Quý cùng hai cô con gái vác sọt lên nương dỡ sắn. Đang từ con người quyền lực nhất xã, đi tới đâu cũng nghe người ta cất lời chào trước khi kịp mở mồm ; giờ trở thành kẻ thường dân đã là một thử thách cam go, huống chi lại là một thằng tù được bàn tay của chính cha mình giải cứu. Xóm giềng chắc mẩm mọi sự phải diễn ra như vậy. Do đó, bởi một thứ trắc ẩn xưa cũ đã tồn tại hàng ngàn năm trong các cộng đồng, dân Xóm Tiều phu nhất loạt giả tảng như không biết chuyện gì đã xảy ra, như Quý vừa mới đi xa trở về. Những cuộc trò chuyện diễn ra một cách an lành như cây cỏ :
- A !... hôm nay bố con nhà cậu cũng đi dỡ sắn ?
- Phải.
- Nương sắn bên ấy tốt gấp hai lần nương sắn nhà tôi.
- Cũng tàm tạm, ơn trời.
- Cô Đào cô Mận chăm làm cỏ , sắn năm nay hẳn tốt bột. Đến tết tha hồ tráng miến.
- Vâng. Bọn trẻ nhà tôi thích ăn miến. Mẹ chúng nó tuy vụng dại đủ đường nhưng cũng biết vài mánh trong nghề này.
- Năm nay cậu có tính gây lại đàn ong hay không ?
- Tôi chưa tính. Còn chờ xem sao.
- Nhà tôi cũng vậy. Năm ngoái mất mùa phấn hoa, đàn ong vơi quá nửa.
- Làm nông nghiệp như đánh bạc, phải chấp nhận thiên tai.
- Có câu ca này :
― Mất mùa thì tại thiên tai
Được mùa bởi tại thiên tài đảng ta
Nếu cậu còn là chủ tịch cậy răng tôi cũng chẳng dám nói. Nhưng bây giờ cậu cũng là phó thường dân như chúng tôi. Mọi sự chẳng còn phải giữ gìn.
- Thế a ?
- Bây giờ thì mọi người đều bạo mồm, bạo miệng nói đủ chuyện đời với cậu.
- Thế a ?
- Phải.
- Vậy mà tới giờ tôi mới biết. Câu ấy ca ấy hay thật. Lão nào nghĩ ra đúng là bậc kì tài.
- Cậu nói thật hay chơi đấy ?
- Sao anh hỏi thế ?
- Ồ, tại vì bao nhiêu năm nay ngồi trên ghế chủ tịch, cậu chỉ nghe huấn thị đảng với chính quyền. Những câu hát bậy bạ chẳng lọt tai các vị cầm cân nảy mực.
- Có thế thật. Nhưng vào nhà tù tôi mới biết thật sự cuộc đời. Trong ấy ối thằng thông minh sáng láng gấp vạn lần lũ cấp huyện trên đầu tôi.
- Thật thế a ?
- Sao không thật ?
- Ấy là tôi mớm nhời như vậy.
Thế là từ hôm ấy ―chuyện đi tù của Quý bỗng dưng nhờn như chuyện đùa. Chẳng ai còn mặc cảm, chẳng ai còn nương dè vì sợ đụng chạm đến nỗi đau của người khác. Quý kể khơi khơi chuyện những ―bạn tù với vẻ nhởn nhơ, hãnh diện như gặp gỡ họ là một đặc ân và chính họ là những người thầy đầu tiên dạy cho anh ta bài học vĩ đại về cuộc sống. Dân làng đều thấy rằng Quý đã hoàn toàn trở thành con người khác. Điều ấy, anh ta không che giấu. Chẳng phải một lần mà nhiều lần Quý nói oang oang cho họ nghe :
- Ồ, trước đây cứ tưởng ông phỗng là to, giờ tôi mới biết hòn đá rửa chân ở cầu ao còn to vạn lần hơn ông phỗng.
- Cậu nói bóng nói gió như thế, hoạ chăng có dân đầy bụng chữ mới hiểu nổi; cánh dân cầy chúng tôi mít đặc.
- Vậy tôi giảng cho các ông nghe : Trước đây cả làng cả xóm tranh nhau thi đua, phấn đấu. Người lớn thi đua lao động, tăng sản lượng, vượt chỉ tiêu; trẻ con thi đua nhặt phân trâu, lượm lúa rơi lúa vãi; ở trường thì thi đua học hành, được đứng lên bảng danh dự, được nhận phần thưởng và gài bông hoa vải đỏ lên ngực là tột bậc hạnh phúc. Bao nhiêu năm sống như thế, giờ tôi mới nhận ra đó là những chuyện hão huyền. Đời sống thật sự của chúng ta chỉ quy tụ vào ba cái lỗ, một cái lỗ miệng bên trên, còn hai cái lỗ khác ở trong đũng quần. Chỉ quan tâm đến ba cái lỗ ấy là đầy đủ một kiếp sống.
- Nhưng còn ...
- Chả còn gì hết. Hoặc nếu còn, cũng chỉ là sự phỉnh phờ. Rặt những chuyện phỉnh phờ. Tôi cắt nghĩa cho các ông nghe : Tất thảy chúng ta đều bị triệt sản. Đàn ông thì thắt túi tinh trùng, hoặc dùng bao phòng tránh thai. Đàn bà phải đặt vòng, hết vòng con giun đến vòng tròn như cái nắp. Da dẻ xanh như đít nhái, mặt mày tái mét như trúng gió độc cũng cứ phải tiếp tục đeo vòng cho hoàn thành kế hoạch sinh sản để được nhận cờ thi đua cấp huyện, cấp tỉnh. Trong khi đó những kẻ ra lệnh cho chúng ta triệt sản có chịu thi hành chính mệnh lệnh của họ đâu. Vào trong tù tôi mới biết được sự thật ấy. Vào tù tôi mới biết trong khi dân đô thị ăn sắn ăn khoai, khẩu phần thịt mỗi tháng từ một lạng đến hai lạng rưỡi thì các quan lớn có sổ Tôn Đản tha hồ tọng vào mồm những gì họ thích. Thứ bảy, chủ nhật, toàn dân đi lao động xã hội chủ nghĩa thì vợ con các quan lớn nhảy đầm hoặc vẫy điếm đực vào buồng phục vụ. Tết nào nhà nước cũng yêu cầu dân chúng tiết kiệm trong khi các quan thừa thãi sâm nhung, quế phụ, bếp nhà họ đầy sơn hào,hải vị, hết cháo yến lại đến ba vị đại bổ hầm với sâm cầm. Như thế, không là sự phỉnh phờ thì các ông gọi là gì ?
- Ồ....quả tình chúng tôi không biết.
- Vì thế, tôi mới hiểu rằng bọn người đứng trên đầu trên cổ chúng ta chỉ cốt làm sướng ba cái lỗ của họ. Vậy dại gì chúng ta không làm trơn ba cái lỗ của chúng ta ?
Đến đây thì xóm giềng đều im bặt, phần bởi ngượng nghịu, phần bởi những điều Quý vừa nói quá mới lạ họ chưa biết phản ứng ra sao. Có người cho rằng anh ta nói cà trớn như vậy cốt gây sự chú ý đến ―những bài học trong tù mà quên đi những sự việc tồi tệ anh ta đã làm. Có người lại cho rằng Quý cố tình thổi phồng sự thực để tỏ ra anh ta bất cần đời, anh ta không chút mảy may mặc cảm, rằng chuyện đi tù với anh ta cũng giống như cuộc dạo chơi...
Nhưng hoá ra thiên hạ bé cái nhầm. Vài tuần sau đó, vợ Quý khóc mếu chạy đến uỷ ban xin cô Vui kí lệnh tháo vòng, với lý do ông chồng muốn có con đàn con đống, vì từ ngàn xưa tới nay người ta vẫn cho rằng nhà nào đông con nhiều cháu là ― phúc lộc đề đa; rằng nếu chị ta cưỡng lại ý thích của Quý anh ta sẽ đuổi chị ta ra khỏi cổng ngay tức khắc và đưa một đứa con gái thị thành, trẻ đẹp gấp ngàn lần ― con đĩ Ngân về nhà,...Cô chủ tịch mới hiểu rằng cô ta đang đứng trước một gã Chí Phèo thật sự, rằng ―vua cũng thua thằng khùng nên chẳng dại gì giơ đầu ra đối chọi với ―kẻ vừa thoát khỏi cánh cổng nhà tù. Không hỏi han thêm một lời, cô Vui giơ bút kí đánh xoẹt. Thế là tuần sau, vợ Quý xuống bệnh viện huyện tháo vòng. Buổi chiều hôm ấy, Quý ngồi uống rượu giữa sân, ngật ngưỡng như một lão già bẩy mươi tuổi. Nửa chừng bữa rượu anh ta cất tiếng chửi đổng:
- Con gái già biết thân biết phận cắm mặt xuống mà kí lệnh. Nếu không, tao sẽ cho nó biết thế nào là võ của các ―đại ca trong nhà giam.
Rồi Quý hạch vợ mang thêm rượu, nửa tỉnh nửa say, anh ta bảo hai đứa con gái với cậu con trai rằng:
- Tao bây giờ chẳng đảng bộ cũng chẳng uỷ ban, mọi dây trói đã được tháo cởi. Tao với mẹ mày cứ đẻ tha hồ, bao giờ hết trứng thì thôi. Đến lượt chúng mày cũng vậy ,cháu nội cháu ngoại đối với tao đều là lộc hết. Từ thượng cổ, các cụ đã dạy rồi:― có người là có của. Nhà mình mà đông, nhất loạt đánh một cái rắm cũng làm sập mái nhà chúng nó.
―Chúng nó đây ám chỉ vợ chồng ông Quảng với đứa con trai vừa chào đời, được đặt tên là Quế. Thời gian Quý ngồi tù cũng chính là thời gian cô Ngân mang thai. Người khác mang thai thì ốm nghén vài tháng liền, chẳng nôn oẹ cũng ăn toàn những thứ gớm ghiếc như ổi xanh, vôi sống, ớt tươi, cà đắng...Cô vợ trẻ của ông Quảng càng chửa càng đẹp như hoa mùa xuân, da dẻ láng mượt, hai má đỏ hồng. Khi bụng đã kềnh càng như cái trống mà cô vẫn chạy phăng phăng, vẫn lên nương xuống ruộng, cười ròn như pháo tết, chẳng mảy may tỏ ra mỏi mệt. Đủ ngày, đủ tháng, Bà Tư móm đưa cô xuống huyện đẻ, quay trở về khoe khắp làng trên xóm dưới rằng đứa bé lọt lòng có ba vòng tràng hoa quấn cổ, rằng vừa gỡ tràng hoa nó đã cất tiếng khóc vang khắp mấy gian nhà, rằng tuy là con đầu nhưng nó đã nặng bốn cân rưỡi, dài năm mươi chín phân tây. Với những con số như vậy, nó đích thực là đứa bé lọt lòng lớn nhất trong vùng, không chỉ Xóm tiều phu mà trên toàn huyện.
Ông Quảng đứng chờ vợ ngoài hành lang bệnh viện. Khi mọi việc xong xuôi, ông bước vào đeo lên cổ cô Ngân một sợi dây chuyền mặt đá tạc tượng Phật bà quán thế âm Bồ tát. Tất cả những sản phụ trong vùng sẽ phải ghen tị vì điều này. Vào ngày thằng bé đầy tháng, bà Tư móm đứng lên làm ba mươi mâm cỗ mời họ hàng gần xa. Ông bố bồng đứa bé trên tay thay vì cô vợ trẻ để chào họ mạc, điều ông chưa từng làm đối với những đứa con của người vợ trước.
Họ hàng nội ngoại, xa gần của ông Quảng đều công nhận chưa từng thấy thằng bé nào đẹp như Quế, rằng nó quả là xứng đáng với sự hãnh diện cả gia đình, rằng nếu cha già con cọc mà được như gia đình ông Quảng, hẳn trên cõi đời này sẽ có hàng triệu người mơ tưởng...
Phải chăng những gì xảy ra dưới mái nhà của người cha đã dội đến tai Quý làm con tim thù hận của anh ta nhức nhối. Những lời lẽ nửa tỉnh nửa say không che giấu được nỗi đắng cay độc địa. Người ta hiểu rằng nhà tù chẳng khiến cho đứa con trai tỉnh ngộ mà ngược lại nó càng gia tăng mối hờn oán đối với người cha. Giấc mơ ―phụ tử huyết chiến vẫn tồn tại, không ngừng ám ảnh tâm hồn người dân quê. Vào những đêm tối trăng, dân Xóm Tiều phu ngước nhìn bầu trời mịt mùng mây phủ, khắc khoải buông tiếng thở dài...
Tết năm ấy, Quý gả chồng cho hai cô gái cùng lượt. Lễ cưới diễn ra trong lúc vợ Quý sắp xếp áo quần chuẩn bị xuống huyện đẻ. Cái bụng lặc lè của chị ta đã tới tháng thứ tám. Rồi đứa con thứ tư của họ ra đời khi lễ ―Lại mặt của hai cô chị vừa kết thúc. Đó là một đứa con trai, được đặt tên là Chiến, một cái tên bao hàm đủ sở nguyện lẫn ý chí của ông bố. Chiến vừa được chín tháng, vợ Quý đã mang thai. Năm sau chị ta lại đẻ con trai, bố nó đặt tên là Thắng, cũng lại là một cái tên đầy tính biểu tượng, diễn tả ước mơ của bậc sinh thành. Cùng năm ấy, hai cô Mận và Đào cũng cho ra đời hai đứa con gái. Cô chị đẻ tháng trước, tháng sau tới lượt cô em. Hai đứa bé vừa đầy năm chưa kịp cai sữa, cả hai cô lại đã có nghén, mặt xanh như lá cải, và những đứa trẻ bú sữa độc, đi ỉa chảy cả tháng ròng. Cứ như thế, gia đình này sản xuất liên tục, bất chấp mọi đàm tiếu của làng xóm...Gặp được hai anh con rể yếu bóng vía, tuy bố vợ mất chức nhưng họ vẫn còn e nể, nên giấc mơ « nhà mình đông người, nhất loạt đánh một cái rắm cũng làm sập mái nhà chúng nó » của Quý có cơ trở thành hiện thực.
Tuy nhiên....Tuy nhiên....Bởi sự đời bao giờ cũng khởi đầu bởi hai chữ tuy nhiên...Tuy nhiên, trong lúc thực hiện giấc mộng điên cuồng của mình, Quý không lường nổi những hành trang cần thiết kèm theo một đội quân đông đúc như thế. Gia đình hai chàng rể lại túng bấn vào loại được xếp hạng thường xuyên cứu tế trong xã. Nghèo khổ, nhưng họ có thói vô lo của những người sống được chăng hay chớ, nói như các cụ thuở xưa :
« Được miếng sống ăn cả miếng sống, được miếng chín ăn hết miếng chín. »
Thế nên, tiếng là cưới vợ cho con trai, nhưng những gia đình này chẳng có mảy may trong tay cắc bạc. Từ lễ ăn hỏi, cho đến cỗ « đời sống mới » chỉ kẹo bánh với nước chè họ cũng phải ngửa tay đi vay hàng xóm rồi sau ngày « lại mặt », vợ Quý phải tuồn phong bì cho các cô con gái để các cô trả nợ đậy. Lễ « lại mặt » vừa xong, hai cặp vợ chồng trẻ quay lại nhà bố mẹ vợ vì không có phòng riêng. Ngày hợp hôn, bố mẹ chồng phải nhường chiếc giường độc nhất cho đôi tân hôn, vác chõng tre ra ngoài hè ngủ. Thế là vợ chồng cô Mơ cũng như cô Mận chia nhau năm gian nhà ngang của bố mẹ. Mỗi cặp hai gian, còn lại gian cuối cùng là nơi chất chứa tất thảy những thứ sản phẩm cũng như dụng cụ nông gia. Với thành tích sinh đẻ vượt bực như vậy, gia đình Quý bỗng nhiên rơi theo chiều thẳng đứng từ loại gia đình ngất ngưởng trên đỉnh phong lưu xuống hạng những gia đình bơi lội lóp ngóp trong vũng lội của nỗi bần hàn. Tiền bạc dự trữ tiêu tán nhanh như lá khô mùa đông bị gió cuốn. Sức lực của Quý chẳng mấy khả quan, cái duyên làm ăn của anh ta cũng vậy. Ba năm liền, Quý xoay sở chấn hưng nền kinh tế gia đình. Dưới quyền anh ta, hai chàng rể ngoan ngoãn, bố vợ bảo gì nghe nấy. Nhưng vị gia trưởng chẳng phải người nhiều trải nghiệm trong sản xuất, hai chàng rể vốn dĩ xuất thân từ những gia đình nghèo túng lại càng vô năng. Cả một đống người tụ tập trong ngôi nhà lớn như vậy, lẽ ra phải đem lại một hơi hướng nồng ấm, đầy sinh khí, và thóc lúa cũng như tiền bạc phải được nảy nở dồi dào...Nhưng số phận không mỉm cười với Quý. Chẳng những thế, thần may mắn còn nghiến răng kèn kẹt và hắt nước lạnh vào mặt anh ta. Mấy năm liền, tuy sắn khoai trồng riêng cũng như công điểm lao động cho hợp tác đầy đủ, nhưng những món ra bạc ra tiền Quý lại hoàn toàn thất bại. Mùa hái nấm, chỉ ba người đàn ông hùi hụi lên rừng, còn những người đàn bà hết chửa lại đẻ, con bên nách, con sau lưng, những lo nuôi con đã tàn lực. Việc sấy nấm, bao nấm xưa nay vẫn thuộc về đàn bà vì nó đòi hỏi sự kiên nhẫn và khéo tay, nay chính Quý và hai hàng rể phải đảm nhiệm nên phần bị hỏng khá nhiều. Món ra tiền đáng kể nhất là nuôi ong lại càng thảm hại hơn. Đàn ong nhà anh ta hết bị bệnh « ỉa chảy » lại đến bệnh « rụng cánh » chết dần chết mòn, trong khi nhiều nhà khác mật đặc như keo, đổ đầy chum lớn chum nhỏ. Quý chạy đôn chạy đáo, hết lần mò hỏi han những gia đình nhiều năm trong nghề cho tới công ty ong của tỉnh, nhưng tuyệt nhiên chẳng ai hiểu gì về căn bệnh quái ác này : Những con ong sớm hôm trước còn khoẻ, hôm sau tự nhiên nổi nấm mốc xanh trên lưng. Thứ nấm màu xanh lam giống như màu rỉ đồng chính là một loại kí sinh trùng, chúng ăn nhanh hơn cả tằm ăn rỗi, chỉ nội một ngày chúng đã ăn lan đến cuống chân cánh ong khiến cho con vật khốn khổ rụng cánh, quay tròn như hột lạc trong đõ vài giờ rồi chết. Có một sự rủi ro bí ẩn nào đó xảy ra với gia đình Quý mà nhiều người thì thầm sau lưng anh ta, nhiều người khác sợ đến nỗi không dám nói đến. Thảng có đi qua cổng nhà Quý, họ thấy cả ba gia đình trải chiếu ngồi ăn cơm trên sân, hoàn toàn giống cảnh những gia đình cố nông thời xa xưa, cùng vẻ nhếch nhác, cùng vẻ bất lực và không còn khả năng hổ thẹn. Quãng thời gian ấy, gia đình Quý là gia đình đầu tiên ăn cơm độn sắn trong Xóm Tiều phu. Vào chính lúc đèn măng-xông vẫn thắp sáng choang trên mảnh sân bao la của nhà ông Quảng, nơi xóm giềng vẫn được đãi một cách hào phóng xôi gà lẫn các loại bánh trái. Không ai dám nói một lời. Nỗi hoảng sợ trước một nghịch cảnh khiến những con tim họ vặn thắt và mọi lời lẽ đông cứng trong cuống lưỡi. Kế hoạch « đông con lắm cháu, phúc lộc đề đa » của Quý đã vấp phải bức tường chắn, sự khốn cùng.
Sự khốn cùng là người bạn xấu tính, nhưng là kẻ thù đáng kính trọng. Nó dạy cho địch thủ những bài học mà không trường lớp nào có thể thành công. Xưa nay vốn quen nghĩ rằng « quyền huynh thế phụ », rằng sớm hay muộn, ông Quảng cũng sẽ phải dàn hoà với anh ta để có đứa chống gậy tre, đội mũ mấn, khoác áo sô khi nằm xuống, Quý không mường tượng nổi rằng một ngày, cái người đàn ông anh ta từng gọi là cha ấy, cũng có khả năng nhìn anh ta như nhìn một kẻ qua đường.
Vào một sáng, Quý cùng hai chàng rể lên rừng đốn củi. Trời mới mơ sương, khí núi còn cuồn cuộn bốc trên các khe vực khiến ai nấy sởn da gà. Ba người đàn ông co ro trong những manh áo chưa đủ ấm, người nọ giục người kia rảo chân leo dốc để chống lại cơn giá rét. Đường dốc ngược, lại lắm đá gan gà. Những mảnh đá găm vào lớp đất ẩm sương dễ làm trơn tuột bước chân, nhất là những ai đi dép lốp. Rủi cho Quý, anh ta bỏ đôi giầy vải cũ ở nhà để đi đôi dép cao-su sáu quai cho nhẹ. Như thế, anh ta chính là nạn nhân đầu tiên tuột chân trên con dốc, lăn xuống vực. Đến ngang chừng sườn đá, một bụi gai già, kết chằng chịt những cành khô đã ngăn không cho anh ta rơi tiếp. Nhờ thế Quý thoát chết. Nhưng anh ta bị gãy bốn chiếc sương sườn. Vào lúc nằm chết dí ở bụi gai, chờ hai chàng rể xuống giải cứu, bất chợt anh ta ngước nhìn lên đỉnh dốc. Ông Quảng đứng đó, đang nhìn xuống vực. Trong tích tắc, ánh mắt của họ giao nhau. Lần đầu tiên, đứa con trai hiểu rằng mọi sự đã vĩnh viễn chấm dứt. Anh ta bắt gặp trong đôi mắt người cha một thứ lạnh lẽo rợn hồn. Thứ lạnh buốt của gió bấc tháng chạp. Thứ ánh sáng u ám của ngục luyện tội. Thứ trống vắng của những bãi tha ma. Anh ta rùng mình, vội vàng nhắm mắt lại.
Đận ấy, Quý phải nằm viện hơn hai tháng. Hai tháng ấy, anh ta thấu hiểu thế nào là sự khốn cùng. Thế nào là nỗi nhục nhã khi không đủ tiền viện phí. Thế nào là nỗi bào da, buốt ruột phải bưng bát cơm chan canh rau muống xuông trong khi kẻ khác ăn tô phở đầy tú hụ những thịt gà hay uống sữa bò. Thế nào là cơn rát mặt khi không mua nổi một bao thuốc lá lót tay cho anh chàng y vụ, hay không kiếm nổi túi kẹo làm quà cho đứa con ba tuổi của cô y tá chuyên tiêm thuốc, thay băng. Bốn chiếc xương sườn gãy cũng lâu lành vì ăn uống kham khổ. Khi vợ con nhất loạt bước vào phòng bệnh, anh ta mới có cơ hội nhìn họ từ xa, những kẻ ruột thịt của mình, cái đội quân đông đúc mà anh ta hy vọng sẽ có cơ trèo lên đầu lên cổ loại gia đình « độc đinh », áp đảo những mái nhà « neo sơ, quạnh người, vắng tiếng ». Đội quân ấy, dẫu được đặt tên Chiến và Thắng, chỉ là một mớ người nhếch nhác, còm cõi, sự thiếu dinh dưỡng in dấu lên từng gương mặt. Khi họ sống loanh quanh trong những giải núi trúc của Xóm Tiều phu, nỗi bần hàn không hiển lộ rõ ràng. Bệnh viện huyện, người khắp huyện đến đây. Người đứng cạnh người, gương mặt sát gương mặt, sự so sánh trong một bức tranh toàn cảnh bao giờ cũng là những chứng cớ hiển nhiên, một hiện thực không thể chối cãi.
Sau khi ra viện, Quý triệu tập gia đình, xuống lệnh hưu chiến :
- Thời này nuôi người khó hơn thời trước, chúng mày tạm dừng lại đã. Khi nào gia đình nhà ta vượng lên, lại đẻ tiếp.
- Bố dạy thế nào, chúng con xin thực hành như thế.
Hai cậu con rể ngoan ngoãn đáp. Vợ Quý lẫn cô Mơ cô Mận lặng thinh. Lệnh của bậc gia trưởng được ban ra quá muộn. Vợ chồng Quý đã có ba cậu con trai : Phú, Chiến, Thắng. Vì nghe câu :
― Tam nam bất phú, tứ nữ bất bần
nên họ đẻ tiếp đứa thứ tư. Nhưng lần này lại là con gái, mà lọt lòng được hai mươi ngày cũng chết vì quá yếu. Đứa bé đẻ ra nặng có cân tám, lại bị viêm phổi cấp tính, không trụ nổi. Còn cô Mơ, cô Mận, cô nào cũng ba nhóc bên lưng, với một cái thai bốn tháng trong bụng. Đẻ dày như sung, lại không được ăn uống đầy đủ, mẹ lẫn con đều xanh như tàu lá. Vợ Quý chỉ còn ba mươi lăm cân, da xếp nếp trên cổ. Hai cô con gái mới ngoài hai mươi tuổi mà má đã đầy vết nhăn như những chiếc râu mèo. Cả một đội quân đông đúc, chỉ những lo ăn đã héo ruột, héo gan, còn đâu thời gian lẫn tiền bạc mà chăm chút chuyện áo quần, khăn yếm. Thành ra, mỗi lần nhìn thấy họ,người làng ngao ngán bảo nhau:
- Trông kìa, con cái Mơ cái Mận bây giờ già hơn cô Ngân cả chục tuổi.
- Đích thị. Thế là cháu dâu già hơn bà trẻ cơ đấy. Thật lạ kì, bà trẻ lại càng ngày càng trẻ đẹp nõn ra. Xưa các cụ ví mỹ nhân lộng lẫy như tiên sa. Tiên sa cũng chỉ thế là cùng.
- Họ giàu thế sao không đẻ thêm nhỉ ?
- Nghe đâu cô vợ muốn, nhưng ông chồng lại không. Ông ấy bảo : Một thằng Quế đáng giá hơn mười đứa khác. ― Quý hồ tinh, bất quý hồ đa.
- Ờ, ông ta có lý. Một cục vàng trong tay còn hơn mười hòn chì trong túi.
- Nhà ấy sướng thật, vợ đẹp, con đẹp, ông chồng tuy già nhưng vẫn bảnh bao. Người ta bảo :
« Cơm trắng ăn với chả chim,
Chồng đẹp, vợ đẹp, những nhìn mà no. »
Chẳng ai chối cãi được rằng cô vợ trẻ của ông Quảng đúng là hình ảnh tiêu biểu cho câu ví : « Gái một con trông mòn con mắt. ». Dân quê, tuy một nắng hai sương nhưng lại thờ phụng làn da trắng. Chiểu theo chuẩn mực ấy, cô Ngân là mỹ nhân ngoại hạng vì da cô không những trắng nõn mà còn mơn mởn như da đào khiến thiên hạ tưởng chừng cô đang còn ở tuổi ấu nhi. Ngược lại với làn da non mởn, đôi mắt cô đen như than, nhóng nhánh như sóng nước, với hai hàng mi dài rợp bóng bên trên, khiến tâm hồn chúng sinh tan nát. Đẻ xong, cặp môi cô như đỏ hơn, dầy hơn thời trước, giống trái cây mọng nước, hứa hẹn chất cam lồ của những nụ hôn. Ngực cô cũng nở ra hơn, căng vồng như hai trái bưởi dưới lần áo mỏng. Và cặp đùi cũng như các bộ phận khác trên cơ thể, thảy thảy đều gợi cho người ta cảm giác của một mùa hoa dâng đầy, ngào ngạt hương thơm tình ái.
Trong những ngày lên rừng hái củi hoặc xuống ruộng cầy vỡ, thứ công việc chỉ thuần đàn ông đảm đương, dân Xóm Tiều phu thì thầm vụng lén với nhau :
- Trên đời này chỉ lão Quảng là sướng. Vợ vua cũng chỉ đẹp đến thế là cùng.
- Ờ...xem phim Liên-xô, ối cô đào còn kém nước cô ta. Ông Quảng bỏ tiền bỏ của xây nhà lầu cho bố mẹ vợ cũng phải. Mấy người sinh được mỹ nhân ?
- Nghe đâu cô ấy đã được tuyển vào văn công trung ương rồi đấy.
- Rõ hoài của, giá cô ta vào văn công thì bao nhiêu người được ngắm.
- Vớ vẩn, vào văn công trung ương thì chẳng bao giờ cô ta thèm đặt chân đến nơi khỉ ho cò gáy này ?
- Ờ nhỉ, tôi quên mất.
- Giờ, tôi hỏi các ông một câu: Giá được ngủ với người đẹp như cô ta một lần, rồi sớm mai lên máy chém, các ông có dám hay không ?
- Dám quá đi chứ. Đời người được mấy tấc gang ?
- Ồ không, tôi chẳng dại....Cô ấy đẹp thật. Trước người đẹp thằng đàn ông nào chẳng thèm rỏ dãi, nhưng còn bao nhiêu chuyện phải tính trên đời.
- Chuyện gì ?
- Gia đình, gia tộc, tương lai con cháu, mồ mả ông cha. Ai dại gì mà cúi đầu nghe theo cái con củ ?
Những cuộc đàm thoại như vậy như ngọn gió luồn từ núi nọ qua núi kia, từ vực này bay sang vực khác. Và cuộc sống nơi Xóm Tiều phu như vậy diễn ra trong nhịp điệu bình thản vùng sơn dã. Người ta vẫn thấy chiếc xe ngựa của ông Quảng khi đi, khi về, tiếng lục lạc reo ròn rã trên đường thôn. Mỗi bận ông về, mảnh sân nhà ông lại sáng rực ánh đèn, lại rộn rã tiếng người chuyện trò xen lẫn tiếng đài Sương-mao, khi thì là bản tin, khi thì là tiếng hát lanh lảnh của cô ca sĩ Thương- Huyền :
« Lặng nghe bên bờ suối, có con chim đang chuyền...
Lặng nghe con tim em, tình yêu anh ca hát... »
Mùa đông tàn cất tiếng gọi mùa xuân. Mùa hè chưa qua những làn sương heo hắt đã từ các ngọn núi lan xuống báo hiệu một mùa thu dài đầy mưa bão. Thấm thoắt đến ngày cu Quế đầy năm tuổi, tuổi mà mọi đứa trẻ Xóm Tiều phu phải đến lớp vỡ lòng. Cả xã, chung một trường tiểu học. Nhưng thôn Thượng, thôn Trung, thôn Hạ đều có lớp vỡ lòng kèm theo lớp mẫu giáo riêng. Lớp mẫu giáo lại chia làm hai : lớp bé dành cho trẻ từ ba đến bốn tuổi ; lớp lớn dành cho trẻ từ bốn đến năm. Còn trẻ năm và sáu tuổi đều được tuyển chung vào lớp vỡ lòng, lớp chính thức dạy chữ viết, các con tính đơn giản với bảng cửu chương, chuẩn bị cho năm thứ nhất của trường tiểu học. Như vậy, tất thảy những gia đình có con từ ba đến sáu tuổi ắt phải thuộc con đường dẫn đến lớp học này. Lẽ ra, cu Quế đã phải đến lớp từ lâu, nhưng là con một, quý tử được mẹ lẫn chị Tư móm cưng chiều nên bỏ trốn lớp mẫu giáo. Ở nhà, hai người đàn bà dạy nó chữ cái, đếm các con số, phép cộng, phép trừ sơ giản. Khi nó đã tròn năm tuổi, họ không còn lý do để giam nó trong những vòng tay âu yếm của mình.
- Năm nay, cu Quế phải đến lớp học như mọi đứa trẻ trong làng.
Ông bố ra lệnh.
- Vâng, cháu cũng đã nghĩ đến việc ấy.
Bà Tư móm đón lời.
Cô Ngân lặng thinh, nhưng mở tủ chìa cho ông Quảng xem chiếc cặp da mới tinh, trong đó đã đầy đủ sách, vở, bút, phấn....tất thảy những gì cần thiết cho ngày tới trường của Quế .
Vùng sơn dã, xóm nọ cách xóm kia một quãng đường dài, có khi là một giải núi, không chen chúc như những làng dưới vùng châu thổ sông Hồng hay sông Mã. Trên một vùng dài rộng như thế, các đội sản xuất có thể cả năm không gặp gỡ nhau, nếu chẳng có những ngày họp đại hội toàn xã. Cũng vì vậy mà qua mấy năm liền, kể từ mùa hái nấm đầu tiên chạm trán nhau trên con dốc độc đạo, cô Ngân không còn nhìn thấy vợ con Quý. Bởi từ mùa nấm năm sau, cô nghỉ đẻ và nuôi con. Khi đứa bé khá lớn, đức lang quân ra lệnh :
« Ra tay một lần cho thiên hạ biết mặt, thế là đủ. Chúng ta không thiếu miếng ăn để phải lăn lóc xuống núi, lên rừng ! »
Ngân lặng im. Chính cô cũng không còn muốn nhìn lại những gương mặt thù nghịch. Vào những dịp hội họp toàn xã, họ tìm cách tránh mặt nhau. Ngay đến cả những ngày đội y tế huyện về tiêm phòng bệnh cho trẻ, nhà nọ cũng dò hỏi láng giềng chờ nhà kia ra về rồi mới đặt chân tới. Cô vợ trẻ của ông Quảng sống với hạnh phúc của cô. Gia đình đứa con trai ông sống với những cơn vật lộn trong bão táp mưu sinh và những nỗi niềm riêng của họ. Ngày tiếp ngày, tháng qua tháng, năm rồi lại đến năm...cuộc sống trôi đi như dòng sông lớn cuốn theo nó phù sa lẫn rác rến, bèo bọt. Dường như cô Ngân đã quên cái thời cô mới đặt chân về Xóm Tiều phu, cô đã quên đi những khoảnh khắc kinh hoàng, tàn độc, dường như cô đã quên những con người đứng trong bóng đêm quá khứ của ông chồng, những cái tên gắn chặt với một kỉ niệm xấu xa khủng khiếp. Còn họ, chắc chắn họ nhớ đến cô, vì những kẻ nép mình trong bóng tối thường nhìn rất rõ người đứng giữa vùng ánh sáng.
Rồi, ngày khai mạc lớp vỡ lòng và mẫu giáo cho trẻ em thôn Thượng đã đến. Tất thảy các bà mẹ đều phải dẫn con mình đến nơi ấy, trong cái ngày vô cùng trọng đại với cuộc đời đứa trẻ. Ở đấy, chúng sẽ được học múa, học hát, học vẽ trên cát và trên bảng. Chúng sẽ học những bài đồng dao đầu tiên. Chúng sẽ học những câu thơ đầu tiên mô tả thế giới xung quanh, cái thế giới mà người ta đã đặt chúng vào và chúng phải khám phá để tồn tại...Bởi thế, ai ai cũng hiểu rằng lớp vỡ lòng và mẫu giáo tuy chỉ là một bộ phận độc lập của trường tiểu học nhưng thực sự lại là lớp học quan trọng nhất, khởi đầu cho tuổi thiếu niên. Không phải trẻ con mà chính các bà mẹ mới là những người hồi hộp nhất. Có lẽ, đấy cũng là ngày hạnh phúc, nếu có thể gọi như thế. Ngày ấy, trái tim xốn xang, những người mẹ dắt con bước qua ngưỡng cửa gia đình để gửi gắm vào một mái nhà khác. Lần đầu tiên, họ tách rời những đứa con để giao phó cho người ngoài. Gần giống như chim mẹ đẩy chim con ra khỏi tổ để chim con buộc phải học bay, có một chút xé lòng, có một chút khắc khoải, có một chút đắn đo, và sau cùng, có rất nhiều hy vọng.
Vào cái ngày trọng đại ấy, chẳng ai nhớ rằng cả thôn chỉ có ngôi nhà duy nhất dành cho hai lớp mẫu giáo lẫn vỡ lòng. Và do đó, sự chạm trán giữa những kẻ vốn là cừu thù sẽ không tránh khỏi. Ấy là một ngôi nhà ba gian cao rộng, toạ trên sườn đồi, dưới bóng mát của một cụm du già, bốn mùa xanh rì màu lá, bốn mùa lảnh lót tiếng chim. Phía trước, một mảnh sân rộng và khá bằng bặn, rải sỏi. Chính giữa sân, một vườn hoa tí xíu trồng chen chúc đủ loại hồng gai, cúc tím và mào gà. Xung quanh vườn hoa là sườn đồi rộng, mọc đầy những thứ cỏ gà, cỏ tóc tiên, cỏ gấu, cỏ chuồn chuồn. Giờ ra chơi ,lũ trẻ sẽ tha hồ bò lăn, bò lết. Sườn đồi nghiêng xuống một bờ cây bạch đàn. Bờ cây ấy chạy dọc theo đường thôn, nơi các bà mẹ sẽ từ hai ngả khác chiều đổ tới, hai chiều đó dẫn từ hai khu dân cư thuộc xóm bắc và xóm nam thôn Thượng.
Sáng hôm ấy, cô Ngân cho con ăn sớm hơn thường lệ, rồi tụ tập với những người mẹ trẻ xóm bắc. Hơn một chục bà mẹ, với ngót hai chục đứa bé tạo thành một đoàn vui vẻ. Vừa vượt qua rặng cây, nhìn thấy ngọn đồi lũ trẻ đã nhất loạt chạy lên . Cả bọn vừa chạy vừa la hét. Ngôi nhà trắng với khóm cây du già mời gọi chúng. Trên đó, đã lố nhố những người. Dân xóm nam đi sớm hơn bọn họ. Không gian tràn đầy tiếng nói cười. Hoà vào đó là tiếng chim hót, khúc nhạc rộn ràng làm xanh thêm khung trời xanh ngắt mùa thu.
Như những người mẹ khác, không khí buổi tựu trường khiến Ngân sung sướng. Như họ, cô cũng nói cười xôn xao và đuổi theo đứa con trai của mình. Lũ trẻ luôn luôn nhanh chân hơn các bà mẹ, khi chúng muốn vượt qua những vòng tay giằng trói. Lúc Ngân túm được cu Quế, cũng là lúc cả bọn đã tới sân trường. Trước mặt họ, ngay trước khuôn cửa lớp vỡ lòng, ông giáo Tốn đứng chỉnh tề, kính trên sống mũi, áo sơ-mi gài tận cổ, cuốn danh bạ mở sẵn trên tay. Hai bên ông là hai cô giáo trẻ, cô nào cô nấy diện áo phin hoa, nơ cài trên tóc. Ba người đứng theo đúng đội hình trường học : ông giáo Tốn dạy vỡ lòng, lớp chính giữa. Bên trái là lớp mẫu giáo bé, và bên phải là lớp lớn. Ba lớp ngăn cách nhau bởi những bức tường xây con kiến, quét vôi trắng, trang hoàng bằng những bông hoa vải đỏ. Bức tường chính diện treo tấm bảng danh dự, đề hàng chữ to tướng : « Trò giỏi, bé ngoan. » .
Tất thảy những con mắt của các bà mẹ tập trung vào đôi kính trên sống mũi ông giáo Tốn, nhân vật quan trọng nhất, con người mà họ sẽ kí thác lũ trẻ, người thầy sẽ dìu dắt chúng những bước đầu tiên chập chững vào đời. Ông giáo dạy vỡ lòng từ thuở còn là một chàng trai, từ thời chính quyền còn nằm trong cái tráp của ông lý trưởng, cái thời mà người ta gọi những ai đi làm nghĩa vụ quân sự là « bị bắt lính », và nhà nào càng đông con trai thì càng phải đóng nhiều xuất thuế đinh. Chiến tranh, cách mạng, trường kì kháng chiến, cải cách ruộng đất rồi lại sửa sai, chia ruộng rồi lại thâu tóm đất đai về một mối, thâu tóm về một mối rồi lại phải san sẻ một phần ra « đất phần trăm của gia đình » vì có nguy cơ chết đói....Tất thảy những biến dời ấy không chạm tới được lông chân ông giáo Tốn, kể ra cũng là một sự lạ lùng. Người thì bảo ông ấy ăn hiền ở lành nên thần linh phù trợ, người lại cho rằng thời nào con người cũng sinh con đẻ cái. Ai ai cũng máu đỏ, ruột mềm. Ai ai cũng muốn con mình trở thành người tử tế. Đã muốn thế thì phải biết kính trọng ông thầy. Theo cái chân lý mộc mạc ấy, ngay cả những kẻ ngu dốt, tàn độc và đểu cáng nhất nhảy lên làm « ông nọ bà kia » trong thời cải cách cũng chẳng dám hạ nhục hay hành hạ cái con người được coi như hiện thân của tinh thần trách nhiệm và tình yêu trẻ. Buổi tựu trường hôm ấy, người ta dán mắt vào cặp gọng kính trên sống mũi ông với niềm tôn kính và sự chăm chú tuyệt đối. Ông già mảnh khảnh, nghiêm trang kia chính là người quyết định phần đầu cuộc đời của con cái họ. Ông giáo Tốn chờ cho moị người tề tựu đủ, nhìn khắp bốn bên để kiểm tra lần cuối xem còn sót ai không. Đoạn ông nâng cuốn danh bạ lên cho vừa tầm mắt. Cuộc điểm danh bắt đầu, theo thứ tự chữ cái, khởi từ những đứa trẻ có tên A : An, Anh, Ánh, Ảnh...Ngân biết rõ con cô sẽ xếp vào gần hạng cuối cùng với vần Q. Nhưng cô lắng nghe tên những đứa trẻ láng giềng, cũng với một tinh thần chăm chú bởi chúng chính là những người bạn đồng môn với con mình.
Bất chợt, cô giật nảy mình khi nghe ông giáo già xướng tên :
- Lại văn Chiến.
Một giọng đàn bà lí nhí đáp lại :
- Dạ, cháu có đây
Ông giáo già đọc tiếp :
- Lại văn Thắng.
Đọc xong, ông ngước lên nhìn mọi người, giải thích :
- Trò Thắng tuy đứng ở vần T nhưng gia đình yêu cầu cho được xếp cùng hàng ghế với anh ruột, Lại văn Chiến. Lý do ấy chính đáng, vì thế tôi đã vượt qua thứ tự chữ cái để gia đình được toại nguyện. Trò Thắng có mặt chưa ?
- Dạ, cháu có đây.
Giọng đàn bà lí nhí đáp lại, nhưng chẳng ai nhìn thấy chị ta đâu. Ai đó lên tiếng giục :
- Đưa cháu lên hàng trên. Sao mà luấn quấn vậy ?
Nhưng người mẹ vẫn lặng thinh. Lúc ấy Ngân mới hiểu rằng người đàn bà có giọng nói lí nhí, nép mình sau lưng những người khác chính là vợ Quý. Hai đứa trẻ vừa được xướng tên chính là con chị ta. Cả một đám người trồi lên từ vùng sương mù quá khứ. Cái vùng bóng tối mà cô ngỡ đã quên, giờ quay trở lại. Lại văn Chiến, Lại văn Thắng... Chúng đích thị là những cành nhánh có liên đới đến gốc rễ : Lại văn Quảng...Những cành nhánh ấy giằng néo đến đứa con trai xinh đẹp của cô : Lại văn Quế. Và chắc chắn mai đây những gã đàn ông bé nhỏ mang họ Lại này sẽ cùng chạy nhảy, nhào lộn trên sườn đồi đầy cỏ hay dưới bóng những cây du...Ý nghĩ ấy vừa như hiển nhiên vừa lạ lùng và khiến cô hoang mang trong giây phút. Rồi cô thấy ông giáo Tốn sửa cặp kính trên sống mũi, đưa mắt nhìn quanh :
-Nào, hai anh em Chiến Thắng bước lên hàng trên cho các cô giáo rõ mặt. Hai cháu sẽ cùng ngồi một lớp mẫu giáo lớn phải không ?
- Dạ, thưa thầy cho cả hai đứa vào lớp bé. Thằng anh hơn thằng em có một tuổi rưỡi, con cho nó ở nhà chơi với em rồi cùng đến trường một thể.
- Thôi được, thế cũng tiện. Nào, đưa các cháu lên đây...
Ông giáo già vừa cười vừa đáp. Những người đứng hàng trên lẳng lặng rẽ sang hai bên để nhường lối cho người mẹ dắt hai đứa con từ phía sau bước lên. Lúc ấy, Ngân mới nhìn ra vợ Quý. Ngay tức khắc, một cơn rùng mình như điện giật toàn thân. Trước mặt cô là một người đàn bà héo rũ như nắm giẻ, gương mặt hóp lại như mặt chim với cái cằm nhọn. Hai quầng mắt thâm tương phản cặp đồng tử bạc phếch khiến cặp mắt chị ta giống mắt của kẻ mắc chứng máu trắng trong thời gian hấp hối. Màu da của chị ta gần như màu da xác chết, với những nếp nhăn dài như nan quạt xếp lại hai bên thái dương và dồn từng nhúm dưới cần cổ. Từ trán xuống mang tai lốm đốm những vết sạm nâu. Không ai có thể tin đó là một người đàn bà hơn bốn mươi tuổi. Chị ta còn già hơn cả một người ở tuổi sáu mươi vì phía trên gương mặt tàn tạ ấy lại là một mái tóc xơ xác với những lọn tóc bạc trắng chạy từ trán lên đến tận đỉnh đầu.
Có lẽ Ngân đã thốt lên một tiếng kêu hoặc làm một cử chỉ nào đó khiến mọi người quay lại nhìn cô. Lúc ấy, họ mới nhớ rằng cô là người duy nhất trong xã không chứng kiến sự tàn phá xảy ra trong gia đình Quý. Những người khác đã chứng kiến sự suy sụp ấy từng ngày, từng tuần, từng tháng. Họ nhìn thấy những người đàn bà kiệt lực vì sinh đẻ và đói ăn, những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng bụng ỏng, đít vòn. Những gương mặt tối sạm lần lần cùng năm tháng. Họ không ngạc nhiên bởi sự huỷ hoại của đói nghèo đã diễn ra trước mắt họ như một cuộc trượt dài từ trên đỉnh núi xuống chân núi, một chu trình từ cây cỏ non tháng hai cho đến xác cỏ khô tàn vào tháng chín, tháng mười. Với họ, những hình ảnh ấy đã được tập nhiễm, đã trở thành quen thuộc. Chỉ riêng cô, đứng ngoài hiện thực này.
Khi thấy tất cả mọi người quay lại nhìn Ngân, bắt buộc vợ Quý cũng phải ngẩng đầu nhìn kẻ cừu thù. Hai luồng mắt giao nhau, cô Ngân bật lên một tiếng kêu, không rõ vì kinh hoàng, vì sợ hãi, hay vì động tình thương xót. Hoặc là cả ba thứ cảm giác đó hoà trộn thành một mối xúc cảm bất khả duy danh. Rồi nước mắt trào qua mi. Người đàn bà trẻ mím môi, cố giữ lại cơn thảng thốt, nhưng đôi môi cô run bần bật và sau một cố gắng cuối cùng, tiếng khóc tràn qua mọi ghìm nén, bật thành cơn. Ở đầu bên kia sân, vợ Quý cũng run như con cò chịu bão. Chị ta cũng khóc nức nở, cắm mặt xuống mà khóc, nước mắt chảy dài trên gương mặt rúm lại vì đau đớn và tủi nhục. Ai nấy trân trân nhìn họ. Mắt những người đàn bà đỏ hoe. Vài cô gái sụt sịt chùi mũi. Ông giáo Tốn dừng lại cuộc điểm danh. Những đứa trẻ im lặng sững sờ. Không gian bỗng nhiên chỉ còn tiếng gió. Và trên tiếng gió, tiếng chim hót nhởn nhơ.
Như thế, trôi qua những khoảnh khắc mà tất thảy mọi người đều bối rối. Sau đấy, ông giáo Tốn cất lời :
- Nào, trò Chiến, trò Thắng lại đây.
Khi hai đứa bé rụt rè tiến đến trước mặt ông, ông giào già dắt chúng bước về phía mẹ con cô Ngân :
- Đây là trò Lại văn Quế, các trò là những người có cùng một dòng máu. Từ hôm nay các trò sẽ cùng học dưới một mái trường, cùng chơi trên một sân cỏ. Hãy chào nhau đi !
Ba đứa trẻ chưa hiểu nổi những gì người ta yêu cầu chúng phải làm. Chúng nhìn nhau bỡ ngỡ. Một đứa cao lớn, trắng trẻo, sạch sẽ thơm tho từ đầu xuống chân. Hai đứa kia ốm nhách, gương mặt nháo nhác bần hàn. Lúc ấy, vợ Quý tiến đến, đẩy lưng hai đứa con trai :
- Chúng mày chào chú đi. Nói rằng : chúng con xin chào chú Quế.
***
Sau buổi tựu trường, Xóm Tiều phu sôi động. Nước mắt của hai người đàn bà thù nghịch khơi dậy ngọn gió lành. Phải chăng chúng chính là những dòng suối rửa oán hờn, nơi con người có thể lặn ngụp để tẩy sạch những vết đen trong tâm khảm ? Dân quê vốn không thích những lý thuyết mỹ lệ, nhưng họ chú tâm đến các sự việc xảy ra trước mắt mình. Hiện thực quan trọng nhất với họ là hiện thực được cảm thức bằng giác quan. Điều trước tiên họ thấy là cô Ngân đã đứng ra đóng toàn bộ chi phí học hành cho những đứa con trai Quý. Rồi vào ngày ông Quảng trở về, trong bữa cơm tối gặp gỡ láng giềng như thường lệ, Chiến và Thắng được mẹ chúng sai :
- Vào nhà chào bà trẻ. Rồi bà trẻ cho gì thì mang ra đây.
Hai đứa bé vào bếp còn vợ Quý đứng nép ngoài bờ dậu nhà hàng xóm. Lát sau, chúng quay ra, lễ mễ xôi với gà. Ba mẹ con trở về, như đội quân quay về thành trì với chiến lợi phẩm. Lần thứ nhất còn lúng túng, ngượng ngùng. Lần thứ hai, thứ ba trở đi mọi sự diễn ra như một thứ hiển nhiên tuyệt đối. Gặp người làng người xóm, vợ Quý không chờ những câu hỏi xa, hỏi gần, mà gióng giả nói trước :
- Hôm nay trên nhà ông cháu có liên hoan, bà trẻ nhắn lên lấy phần.
Dân làng mừng cho họ, nhưng người ta không khỏi tò mò. Họ muốn biết phản ứng của bậc gia chủ ra sao.
Lần nào đó, nhân dịp cả xóm cùng lên rừng hái củi, một cô bạo mồm bạo miệng hỏi Mơ :
- Thế xôi gà , bánh trái nhà ông nội, bố Quý có ăn không ?
- Không. Chẳng những không ăn, lần đầu thấy mẹ tôi vác phần lộc về nhà, ông ấy còn ném vỡ tan cái bình tích.
- Sao lại thế ?
- Bởi bố tớ hận, ông ấy chửi : Chúng mày làm nhục ông. Vợ với con toàn lũ khốn nạn, toàn đồ chết giẫm.
- Cho đến tận giờ vẫn thế hay sao ?
- Không. Từ lần thứ hai trở đi, ông ấy không chửi nữa. Nhưng ông ấy vào buồng nằm. Mẹ tớ bảo mọi người không được ngồi sân ăn mà phải chui vào bếp.
- Để làm gì ?
- Để cho ông ấy khỏi ngứa mắt.
- Vẽ chuyện.
- Ai biết được lòng người ?
Cô Mơ kết luận, vẻ bí ẩn. Người ta không thể hỏi thêm điều gì nữa.
Cuối mùa đông năm ấy, Quý bị cảm nhập tâm. Hai đứa con rể phải võng anh ta xuống bệnh viện huyện. Chắc chắn đó là hậu quả của mấy năm quyết chí phục thù, hao tâm tổn sức mà chỉ gặt hái được những thất bại, đắng cay. Cảm cúm là thứ tai nạn mà thảy thảy mọi người đều chạm trán, trừ những ai chân sắt da đồng. Nhưng với người bình thường, khi phải cảm chỉ cần trục xuất gió độc bằng cách cho bệnh nhân nôn, đại tiện hoặc đánh gió, xông hơi, rồi sau đấy cho họ ăn cháo loãng thật nóng và nằm nghỉ. Cảm nhập tâm chỉ xảy đến với những ai đã suy kiệt, cơ thể không còn khả năng chống đỡ sự tấn công của ngọai cảnh. Bị cảm nhập tâm nặng có thể đột tử, nếu nhẹ cũng phải tốt thuốc và bồi dưỡng dài ngày. Buổi trưa Quý ngã bệnh, anh ta vừa đi làm đồng trở về, vừa bước vào giếng dội gáo nước tắm đã lăn đùng ra ngay, toàn thân cứng như đá, da đen tím. Người làng vạch tấm chăn che võng ra nhìn, lắc đầu. Vợ Quý chạy te tái sau, miệng méo xệch, nước mắt chảy dài trên má.
Nhưng chắc hẳn số Quý chưa tận, nên ở dưới viện, anh ta may mắn gặp được một bác sĩ tốt tay nghề và được cứu thoát. Sau ba ngày hôn mê, ngày thứ tư anh ta mở được mắt ra và húp được lưng bát nước cháo. Vợ Quý quay về làng, vì còn một trăm thứ việc phải lo khi ông chồng vắng mặt. Chị ta về buổi trưa, ngay buổi chiều bà Tư móm đã dẫn thằng cu Quế đến cổng, dặn dò :
- Đây là nhà anh Quý, bố thằng Chiến với thằng Thắng. Em cứ đi thẳng qua sân lên nhà trên mà gặp mẹ chúng nó.
Quế bước vào, đi qua sân lên thẳng nhà trên, theo đúng lời chị Tư móm dặn. Ở đó, nó đưa chiếc phong bì dày cộp cho mẹ hai đứa cháu đồng môn:
- Mẹ em bảo đưa cái này cho chị.
Người làng đứng bên ngoài hóng chuyện. Sau cùng, ai nấy đều buông tiếng thở dài :
― Thế gian muôn đời vẫn vậy. Máu chảy ruột mềm...
Và người ta nhìn lên đỉnh Lan Vu, như thầm cầu xin các vị thần linh chứng giám cho sự thanh lọc của cõi người, xin cho giấc mơ ― Phụ tử huyết chiến được hoá giải, xin cho cuộc sống của sơn dân được vĩnh hằng với những niềm tin và những ước mơ an lành lưu truyền tự ngàn xưa.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 24: KÝ ỨC VỐN BUỒN NHỚ VÀ SẦU THƯƠNG CHO CHÍNH NÓ
Khi chủ tịch mở mắt, đã ba giờ chiều.
Ông chưa bao giờ ngủ một giấc trưa dài và nặng nề đến thế. Những giấc mơ ngắn, hãi hùng, xen lẫn những hình ảnh, những ý tưởng còn đọng lại sau câu chuyện về người tiều phu khiến giấc ngủ ấy đẩy ông tụt xuống một vùng sâu. Ông có cảm tưởng vừa tham dự một cuộc nhảy dù đêm mà trong đó ông là gã lính dù nhút nhát bị cưỡng bức lao qua cửa máy bay để buông mình vào một không gian tối tăm đầy hù doạ.
- Thật tồi tệ..
Ông lẩm bẩm rồi bước ra ngoài hiên. Nắng đổ dài quá nửa sân, một thứ nắng trong suốt, vàng nhạt, không mảy may hơi ấm. Những cành mai rung trong gió. Ông ngơ ngẩn nhìn chúng, vẫn như đang chòng chành giữa những cơn mơ vừa qua và hình ảnh mảnh sân chùa trước mắt. Mảnh sân cách ông chưa đầy sải tay, với những hàng gạch vuông, với nắng quái ngã qua mái ngói phía tây. Từ ngôi chùa bên kia sân, tiếng gõ mõ lẫn tiếng đọc kinh vọng ra. Có thể phân biệt giọng của vị sư già và giọng lảnh lói hơn, của sư nữ. Ông lắng nghe hồi lâu tiếng tụng kinh như để tin chắc rằng giấc mơ đã hoàn toàn qua và giờ đây, ông sống trong hiện thực. Cậu lính trẻ phục phịch đang ngủ say trong chiếc võng mắc bên chái hiên đầu chùa, gương mặt đỏ hồng. Tuy còn trẻ, cậu ta cũng đã ngáy, tiếng ngáy khá to. Cả tiếng ngáy ấy nữa, cũng là hiện thực, một hiện thực mạnh mẽ hiển nhiên kéo ông khỏi những giấc mơ miên man, những giấc mơ khiến tâm hồn ông chìm đắm như con tầu bị bẻ hết buồm lái, bị nhấn xuống đáy bùn.
- Ối...Thôi chết rồi...
Cậu lính trẻ đột nhiên vùng dậy, kêu to :
- Xin lỗi, con ngủ quên đi mất.
- Không sao. Chính tôi cũng ngủ quên. Hôm nay thật mát trời.
- Vâng. Xin chủ tịch chờ cho vài phút. Con xin pha trà ngay.
Chàng lính hối hả cuốn võng, rồi đi cắm nước. Phòng quản trị đã thay chiếc ấm điện mới và từ nay cậu ta sẽ không còn phải hì hục đun nước trong gian bếp nhà chùa. Ông nhìn cậu ta, lặng lẽ. Công việc của một ngày quanh đi quẩn lại chỉ thế thôi. Bỗng nhiên, ông nhớ tới tuổi trẻ của mình, không khỏi tò mò :
« Làm sao cậu ta có thể chịu nổi suốt đời thứ công việc tẻ nhạt này ? Một thứ công việc chẳng mảy may thích hợp với tuổi hai mươi ? Phải chăng, vì một niềm sùng kính mà con người phải hy sinh những đam mê khác ? Hoặc chính họ là những người chẳng có đam mê nào đáng giá hơn là đứng trong một đội quân được trả lương để làm một thứ công việc tẻ nhạt suốt cuộc sinh tồn ? »
Nhưng rồi ông vội vã xua đuổi những thắc mắc ấy vì chúng quả là bất tiện. Ông yêu chàng lính trẻ này, có thể là một cảm tình muộn màng và không chờ đón, tuy nhiên nó vẫn luôn luôn là niềm trìu mến đích thực. Ông không muốn có những ý nghĩ xúc phạm đến cậu ta.
- Thưa chủ tịch, mời người vào phòng dùng trà.
- Cảm ơn. Chú pha trà gì vậy ?
- Dạ, trà ướp nhài, như hôm trước.
- Tốt, tôi vào đây.
Ông quay vào phòng, không gian đã thoang thoảng hương nhài. Ấm chè vừa pha toả khói. Rót đầy một chén, ông nhấm nháp từng ngụm nhỏ. Hồi còn ở chiến khu Việt - Bắc, ông cho trồng một bụi nhài ngay sát chân nhà sàn. Bụi nhài ấy mọc nhanh hơn cỏ, chỉ sau một năm đã lan rộng như tấm chiếu đơn. Những chiều hè oi nồng cũng như những đêm mưa rả rích, hương nhài bốc lên ngây ngất. Những bông hoa nhỏ xíu kia, vì sao chúng cho một mùi thơm nồng nàn đến như vậy ? Nhiều đêm, ông đứng bên cửa sổ, nhìn ra khoảng rừng tối đen, thở hít đầy lồng ngực làn khí của rừng đêm hoà với hương nhài. Rồi đến khi có nàng, ông thường gặp hoa nhài hơn, bởi nàng thích cài hoa nhài và hoa ngọc lan trên tóc.
« Ta có nàng trong tay vào năm 1953, khi ấy nàng đã hơn hai mươi tuổi. Từ buổi trưa bắt gặp nàng cùng cô bạn ngồi chia nhau chùm vả trên cây, ta còn phải đợi chờ thêm hai năm nữa. Hai năm trông ngóng, mỏi mòn. Ta đâu có yêu một đứa trẻ vị thành niên ? Về luật đời, ta chẳng mảy may phạm lỗi. Ông lão tiều phu kia còn kết hôn với một cô gái trẻ hơn nàng, cô ta mười tám tuổi. »
Chén trà đã cạn, chỉ sót lại một cánh nhài khô dưới đáy. Chủ tịch chăm chú nhìn cánh hoa héo và chợt hồi nhớ cảm giác ghen tuông của thời đã qua. Ghen tuông, kì cục thay, một thứ yếu đuối bất khả thú nhận.
Ông mường tượng lại không gian lạ lùng đêm ấy, mùi thuốc Ca-ra-ven lẫn mùi thuốc Gaulois ông đốt liên tục thứ nọ xen lẫn thứ kia một cách lộn xộn, và ông cũng hút một cách máy móc, bất tri kì vị. Ông nhớ lại chiếc gạt tàn đất nung đầy ắp đọt thuốc, và mớ tài liệu mà ông lật giở hết trang nọ đến trang kia nhưng không đọc nổi một dòng. Đêm đầu tiên họ làm tình. Đêm đầu tiên tấm thân nõn nà của nàng hiển lộ trước mắt ông, không áo chàm, cũng không áo cánh tân thời, cũng không cả chiếc xu-chiêng may bằng vải phin trắng sợi thưa dếch dác. Chỉ da thịt thuần khiết, vẻ đẹp thuần khiết do thiên nhiên tác tạo. Người xưa bảo : « Trong ngọc, trắng ngà », ông nghe vậy nhưng chỉ tới đêm ấy mới hiểu rõ ý nghĩa từng câu từng chữ. Nhan sắc của nàng đích thực là châu báu. Ông nhớ tiếng nàng cười, dưới ánh sáng mờ mờ của cây đèn nơi góc phòng, hàm răng nàng ánh lên như ngọc. Đấy là khoảnh khắc mà dĩ vãng lẫn tương lai chẳng còn tồn tại, không gian tiêu biến như cõi mộng, và tất thảy những rào cản giữa hai sinh thể rơi xuống. Nàng ở trong ông, tan hoà trong da thịt của ông, nhào quyện trong tâm hồn ông. Mãi mãi. Mãi mãi...
Nhưng cũng thật lạ lùng, vì sao ông lại ghen tuông như vậy ? Trên đường đi của mình, ông đâu thiếu những cuộc gặp gỡ, ông đâu thiếu hơi ấm đàn bà ? Tuy chẳng phải là một gã đàn ông trăng gió, nhưng ông cũng là người từng trải. Vậy mà ông vẫn không tránh khỏi thứ tình cảm thông tục rất đỗi thấp kém này. Sau cuộc làm tình, ông nói với nàng rằng ông cần đọc gấp một mớ tài liệu, rồi ông ra khỏi căn phòng. Nhưng ngồi dưới ánh đèn, ông lật từng trang giấy và mường tượng xem ai là kẻ « đã từng » với nàng ? Ai là người đầu tiên được chiếm cứ tấm thân mỹ miều, tươi thắm ấy ? Ông biết nàng là sơn nữ, cuộc sống của sơn dân phóng khoáng như nước suối, mây rừng. Trai gái đến tuổi trưởng thành được tự do luyến ái. Đối với người châu Á thì dân miền núi chính là thứ người « Âu hoá » trước hết và đầu tiên. Một cô gái khoẻ mạnh, xinh đẹp như nàng, hẳn phải được biết bao chàng trai dòm ngó. Đặc biệt, là những chàng trai đã lớn lên trong cùng một bản, bên cùng một dòng suối, một cánh rừng...
« Ta đã không tránh được thứ tình cảm rất đỗi tầm thường ấy. Cũng thật là khó hiểu, một gã đàn ông đã qua hai mươi năm tuổi trẻ ở phương tây, và người đàn bà đầu tiên trong cuộc đời ta là người tóc vàng, da trắng. ».
Bất giác, ông buông tiếng thở dài :
« Từ cuộc làm tình đầu tiên đến nay đã hơn nửa thế kỉ. Nói một cách chính xác, đã xấp xỉ sáu mươi năm. Không ai đo dược chiều dài của thời gian, vì nó co giãn theo những kỉ niệm của con người.»
Rót tiếp chén thứ hai, ông nhìn thấy người đàn bà đầu tiên trong làn hơi nước bốc trên miệng chén trà.
« Goá phụ. Người đàn bà trong ngõ hẻm. Cô thợ mũ dày dạn và lỗ mãng, người thày tình ái của ta ... »
Gương mặt chị ta giờ đây nhù nhoà như khói, nhưng hơi thở hổn hển và những tiếng hét đứt quãng của chị ta trong những cuộc làm tình không bao giờ ông có thể quên. Họ đều là dân thuê nhà trong một ngõ cụt, sát phố Saint John, nơi một bồn phun nước nhưng chẳng còn nước đứng han rỉ giữa đám bồ công anh già cỗi. Chị ta hơn ông khá nhiều tuổi, chồng làm bưu tá vừa chết được vài năm. Ba đứa con trứng gà trứng vịt suốt ngày bị nhốt trong nhà. Ngày ấy, ông tròn hai mươi. Chắc hẳn, tuổi trẻ tự nó toát ra vẻ quyến rũ giống như một con cầy hương toát ra chất xạ để lôi cuốn bạn tình. Một buổi chiều, người đàn bà goá gặp ông cùng trên đường quay về ngõ nhỏ, nơi ông thuê căn phòng áp mái, còn chị ta sống trong một căn buồng dành cho người ở, thông lưng với một ga-ra cũ. Chị ta làm thợ khâu, trong một xưởng nhỏ sản xuất các loại mũ ngủ. Hình như đấy là nghề cổ truyền của gia đình, và chị ta đã làm thợ từ thuở mười ba . Họ im lặng đi song song với nhau một đoạn đường, rồi đột nhiên goá phụ mỉm cười hỏi ông :
- Sao, công việc tốt đẹp chứ ?
- Cảm ơn , tôi hy vọng như vậy.
Ông trả lời, trong lòng buồn rười rượi vì đã rạc cẳng tìm việc hơn hai tháng mà chưa thấy mảy may tia hy vọng.
- Tốt.
Người đàn bà tiếp lời, sau đấy chị ta hạ giọng :
- Đêm nay, lúc một giờ, cửa nhà tôi mở. Anh đến chứ ?
Ông sững sờ, chưa biết đối đáp ra sao, người đàn bà đã nắm lấy khuỷu tay ông, bóp mạnh và đồng thời lặp lại :
- Đừng quên nhé. Một giờ đêm nay.
Rồi chị ta rẽ vào nhà mình. Ông đi tiếp một đoạn nữa, tới căn nhà cuối cùng trong ngõ cụt, leo lên tầng trời thứ bẩy. Ở đấy, ông uống nước lã và ăn khúc bánh mì khô cứng còn lại từ hôm trước. Nước lã, bánh mì xuông, chẳng bơ sữa cũng không thịt cá, vậy mà máu vẫn rạo rực. Bộ phận cứng nhất trong cơ thể ông không chờ được đến nửa đêm, đã dựng lên như cột buồm khiến ông phải đi đi lại lại trong phòng, chẳng thể làm một việc gì khác. Tim ông đập dồn vì phấp phỏng còn lý trí nhếch mép cười nụ cười cay đắng. Ông đã từng mường tượng, ông đã từng mơ ước, ông đã từng dàn cảnh bao nhiêu lần cho cuộc làm tình đầu tiên của cuộc đời mình, và bây giờ nó đến, trong sự suồng xã của bức bối, bần hàn. Chẳng có công chúa trong mộng, cũng không phải hoàng tử của lòng em. Chỉ đơn thuần là một người đàn bà goá cần lấp đầy giường chiếu. Hồi ấy, tuy trẻ tuổi, nhưng ông cũng đã thầm chua chát cho số phận mình. Ông chưa bao giờ hình dung người đầu tiên chiếm lĩnh tấm thân trai trẻ của ông lại là chị ta, một bà goá gấp đôi tuổi ông và dẫu tóc vàng da trắng nhưng không mảy may nhan sắc. Dầu vậy, ông vẫn chờ đợi với nỗi bồn chồn của kẻ chưa từng biết mùi đời chuẩn bị nếm bữa cỗ đầu tiên. Rồi tới giờ hẹn. Ông đi đến khuôn cửa đã mở sẵn ấy, không nói nổi một lời. Người đàn bà cũng không nói một lời, kéo ông vào căn buồng riêng, chính là chiếc ga-ra cũ được dán giấy hoa loè loẹt bốn bên, được trang bị một chiếc giường cổ , rộng thênh thang, gần như chiếm toàn bộ diện tích căn phòng. Điều ấy khẳng định rằng ông bưu tá phải là người ngoại cỡ...
« Thật lạ lùng, chẳng có gì số phận kiêng dè, chẳng con đường nào mà nó tha dẫn con người bước đến. »
Cũng thật lạ lùng là ông gần như quên gương mặt goá phụ, nhưng lại nhớ như in hình ảnh gian buồng bé nhỏ, chiếc giường cổ lỗ với những cây trụ sắt vĩ đại đội quả cầu bên trên. Người ta có cảm giác rằng chiếc giường vững trãi, đen xì như máy phóng đá này đã tồn tại từ tời trung cổ và còn tiếp tục tồn tại nhiều thế kỉ nữa. Ông nhớ như in tấm vải trải giường kẻ sọc lớn mầu nâu, tấm chăn phủ mầu cà-phê sữa. Ông nhớ cách thức chị ta dạy ông ái ân, hai cánh tay cô thợ mũ nóng rực nhưng các thớ thịt lại mềm nhão và hai bàn tay thô nháp, đầy vết chai khiến nhiều lúc ông đau điếng khi những vuốt ve trở nên điên cuồng. Ông nhớ cử chỉ dứt khoát và đôi khi hung bạo khi chị ta lột phăng chiếc váy ngủ qua đầu, đoạn vung tay ném xuống sàn. Ông nhớ cốc sữa nóng chị ta mời ông uống, tiếng chiếc thìa khua lanh canh trong đêm khuya khoắt khiến ông sợ hãi vì những đứa bé ngủ cách họ có một bức tường...Tất thảy những chi tiết trong bài thực hành tình dục vỡ lòng. Tuổi hai mươi của ông đã được ghi dấu như thế.
« Điều đáng sợ hãi hơn cả chính là lòng ghen tị chị ta khuấy lên trong khu. Lòng ghen tị của những người đàn bà khiến cho đến giờ ta còn hổ thẹn. »
Cái ngõ nhỏ ấy đầy ắp những đàn bà thiếu vắng đàn ông. Nào là vợ lính không đủ tiêu chuẩn đi theo chồng, nào là quả phụ trong những cuộc chiến tranh thực dân liên miên từ châu Phi sang châu Mỹ, nào là đám đàn bà Ý chạy trốn xứ sở của mình, những người phụ nữ tóc đen nhánh thường bị riễu cợt là « bọn Rita... » Có quá nhiều lý do khiến cho những chiếc giường lạnh lẽo. Goá phụ của ông bưu tá đã túm chặt lấy người tình nhân hai mươi tuổi như kẻ chết đuối vớ được mảnh bè. Thoạt tiên, chị ta còn e dè, nhưng sau đó, chị ta cư xử với ông như cai ngục với tù nhân, như nông phu với mảnh ruộng của gã. Rồi những người đàn bà khác, trẻ trung hơn, xinh đẹp hơn, dạn dĩ không kém bắt đầu so gươm với kẻ mau chân chạy trước mình. Họ dấy lên những cuộc tranh chấp ghen tuông quanh chàng trai Á đông tươi dòn như trái táo. Ông hổ thẹn. Ông không thể chấp nhận người ta coi mình như một con mồi. Ông lẳng lặng tìm một căn gác xép ở quận khác. Và một đêm, ông xách hành lý ra đi.
*
- Thưa chủ tịch, người dùng trà xong chưa để con dọn.
- Cảm ơn, tôi xong rồi.
Cậu lính bưng khay trà ra ngoài, và ông quen lệ kéo tập tài liệu xuống trước mặt. Quen lệ, ông lật các trang giấy, trong lúc thầm riễu cợt mình :
« Ta lật những trang giấy này chẳng khác chi lật những trang tài liệu đêm năm xưa. Con người nhiều khi giống như cỗ máy. Những cử chỉ máy móc chiếm một phần lớn thời gian. Cuộc sống thực sự cũng như phần nổi của đảo băng, luôn luôn nhỏ bé.»
Nhưng rồi một ý nghĩ khác ập đến tức khắc, như ngọn triều ném trả vào vách đá :
« Nhưng cái phần bé nhỏ ấy mới đích thực là cuộc sống. Nếu cái phần nhỏ bé ấy chẳng tồn tại, kiếp nhân sinh sẽ chẳng còn ý nghĩa mà chỉ là âm bản của tấm ảnh, nơi sự vật hiện lên dưới dạng các bóng ma. »
Sự so sánh ấy bỗng gợi cho ông nhớ lại căn buồng tối, nơi ông từng sống bằng nghề rửa ảnh, cái nghề buồn chán và bạc bẽo, suốt ngày bị giam cầm trong bóng tối, suốt ngày ngửi mùi muối bạc, vào buổi chiều bước ra khỏi chốn ngục tù bé nhỏ ấy thì mắt loá và lưng đau.
« Ồ, không, căn buồng tối xưa kia là nơi ta tự chọn để kiếm miếng bánh hẩm hiu cho qua ngày. Đây mới chính là tù ngục với cả một đội quân canh giữ. Tại sao ? Tại sao ta để chúng dồn ta đến nông nỗi này ?»
Cuối cùng, ông chẳng thể lãng quên, cũng không có khả năng lẩn trốn. Ông buộc phải quay lại với những giấc mộng hãi hùng vừa trải nghiệm trong giấc ngủ trưa. Ông không thể thoát khỏi nàng. Nàng đang đứng đâu đó, ngay sau lưng ông. Bóng nàng trùm lên ông, trong hình dáng yêu kiều và lạnh lẽo. Ông có cảm giác như nàng vừa bước lên từ vùng băng giá, từ một miền mênh mông tuyết trắng, nơi những dòng sông đóng băng trong suốt như thuỷ tinh; nơi những rừng cây khô trụi in lên bầu trời hoang đám cành đen sì, cong queo như lũ rắn; nơi từng bầy quạ vừa bay vừa thả tiếng kêu ai oán như gióng hồi chuông tập hợp những hồn ma...Lạ lùng thay, nàng chưa từng một lần bước chân qua cõi biên thuỳ, nàng bị cầm tù trong tay áo của ông, nàng dâng hiến cuộc đời cho một hạnh phúc phù dù để sau đó bị ném thẳng xuống địa ngục. Vậy mà trong những giấc mơ của ông, nàng trở thành kẻ đồng hành miên viễn. Bất kể nơi đâu ông từng sống, đều có hình bóng nàng. Ông thấy nàng trên con tầu vượt biển, ông thấy nàng trong con hẻm thành Paris, ông thấy nàng ngơ ngẩn trên những hè phố Hương cảng :
―...Người yêu dấu, biết bao giờ lại trông thấy nhau...‖
Câu hát ấy vang lên giữa thinh không, va đập vào tim ông. Càng ngày, ông càng thấy tâm hồn mình giống như vách núi ven bờ đại dương ngày động bão, nơi những ý nghĩ qua lại, đối chọi không ngưng nghỉ tựa những cơn sóng đập liên hồi vào vách đá, trong một cuộc giao tranh trường kì không phân giải.
― Lẽ ra, ta đã có thể hạnh phúc với nàng. Lẽ ra ta không nên lùi bước trước bọn chúng. Những kẻ đã từng leo lẻo mồm gọi ta là bậc trưởng thượng, là anh cả, và ta đã từng coi chúng như những người đồng chí, những đàn em thân thiết, những kẻ cùng chia xẻ nắm cơm, theo đúng nghĩa của từ copain. Té ra, mọi sự ―đã từng chỉ là những lầm tưởng. Vào một thời khắc nào đấy, mọi giá trị đều lật ngược, tựa hồ ta đã tin tưởng vào những tấm phim âm bản của cuộc sống, cho tới thời khắc chúng hiện hình.
Vào ngày ông đề nghị Bộ chính trị công khai hoá quan hệ của ông với người vợ trẻ, những bộ mặt tươi cười của đám đàn em nhất loạt sa sầm xuống :
- Thưa chủ tịch, lẽ ra người không bao giờ nên đề cập tới vấn đề này. Đó là một tabou, nếu có thể nói một cách chính xác...
Kẻ cất tiếng trước tiên là Thuận, anh ta khá thạo tiếng Pháp, và danh từ tabou anh ta sử dụng chỉ có nửa số người ngồi họp hiểu được thôi. Nhưng những kẻ không hiểu danh từ ấy thì diễn đạt thẳng thừng những ý tưởng của họ một cách thô baọ và xuồng xã.
Tiếp theo Thuận là Sáu. Y giương mắt nhìn ông như tỏ vẻ ngạc nhiên, trong điệu bộ của một vai tuồng , rồi bỗng nhiên nhếch mép :
- Chuyện đàn bà ...Tôi nghĩ rằng chủ tịch nêu vần đề này lên chỉ để làm hài lòng cô Xuân, và đấy là mục tiêu duy nhất. Chắc chắn yêu cầu này do cô Xuân đề xuất...Hoặc có khả năng do gia đình cô ta xúi bẩy. Còn chủ tịch của chúng ta thừa đủ thông minh để hiểu rằng đó là điều không thể chấp nhận.
- Đương nhiên đó là điều bất khả. C’est sur.
Thuận nhấn mạnh, buột miệng buông ra một câu tiếng Pháp, theo thói quen.
Chờ cho cảm giác khó chịu của số người không quen nghe ―ngôn ngữ của kẻ thù trôi qua, Ba Danh lên tiếng:
- Cho dù là cô Xuân, chúng ta cũng không thể khoan nhượng. Người đàn bà chỉ nghĩ tới mái nhà của họ, quyền lợi của bản thân họ, còn chủ tịch phải coi trọng quyền lợi của dân tộc trên mọi thứ quyền lợi khác. Cuộc cách mạng của chúng ta thắng lợi là do toàn dân nhất tề tin tưởng dưới sự lãnh đạo của người. Hình ảnh của người mang lại sức mạnh cho dân tộc. Chúng ta không thể để hình ảnh ấy bị bôi nhọ.
- Thế nào là bôi nhọ ?...Chúng ta không nên dùng những danh từ nặng nề hoặc thái quá.
Tô lên tiếng phản kháng.
Ngay tức khắc, Sáu quay sang áp đảo anh ta :
- Không cần phải kiêng dè, không cần so đo chữ nghĩa. Chúng ta đang đứng trước vấn đề sinh tồn của cách mạng . Lợi ích cách mạng đang bị đe doạ, chúng ta phải tìm mọi cách bảo vệ lợi ích đó. Vì thế, giờ đây chẳng phải lúc chơi chữ hay chọn từ.
- Các đồng chí không nên gay gắt. Đâu sẽ có đó, mọi chuyện sẽ được giải quyết một cách êm thấm với sự đồng thuận của tất thảy mọi người.
Thuận can giải, và anh ta giơ cánh tay lên phác một cử chỉ trịnh trọng như muốn thay lời kết thúc của diễn từ:
- Tôi cho rằng tất thảy chúng ta đều nhất trí : Việc công nhận cô Xuân là điều không thể có, thậm chí không thể nghĩ đến. Tôi hy vọng rằng với tinh thần trách nhiệm cao cả trước toàn thể dân tộc, chủ tịch cần chấp nhận quyết định này. Chúng ta không có con đường thứ hai.
- Chủ tịch là vị cha già của dân tộc.
Sáu tiếp lời, và hai mép y nhếch lên trong một nụ cười thâm thuý:
- Vị cha già dân tộc, là mái nhà che chở cho nhân dân. Từ bao năm nay dân chúng đã quen với hình ảnh này. Chủ tịch cần nhắc cho cô Xuân nhớ lại điều ấy, nếu cô ấy còn tiếp tục đòi hỏi được công khai chấp nhận.
Vào lúc đó, ông thấy lưỡi ông dính bết vào hàm. Mồ hôi ông chảy dọc sống lưng và đôi chân ông lạnh toát như bị chườm nước đá. Những gương mặt quen thuộc bỗng nhiên hoá thành một đám mặt nạ cao-su phập phồng, méo mó, lồi lõm. Lẽ nào ông tìm được sự cảm thông và niềm tin cậy nơi những hình nhân dị dạng kia ?... Những gì ông vẫn tin tưởng đinh ninh chỉ là nhầm tưởng. Cả một bức tường thành sụt lở trong tim. Tâm hồn ông rỗng không, óc não ông tê bại. Ông thấy mình bỗng nhiên trở thành kẻ cấm khẩu. Ông không thể mấp máy đôi môi. Nhưng một khoảnh khắc trôi qua và bản năng thức tỉnh. Một cảnh báo mơ hồ lướt tới khiến ông rùng mình. Ông phải tự trấn tĩnh một hồi trước khi có thể cất tiếng:
- Nếu bộ chính trị đã nhất trí, đương nhiên tôi phải chấp hành. Nhưng các đồng chí đừng quên rằng cô Xuân là người thân thiết của tôi, chúng tôi đã có hai mặt con, và những đứa trẻ ấy là máu huyết của chính tôi.
- Chủ tịch cứ yên tâm. Những người thân của chủ tịch sẽ được cư xử đàng hoàng. Miễn là họ yên tâm sống trong hậu trường của cách mạng.
Người nói lời cuối chính là Thuận, kẻ nổi tiếng chín chắn và nho nhã trong bộ chính trị. Kẻ cũng được tiếng là người đàn ông đạo đức, có nghĩa rằng so với các đồng chí khác anh ta chẳng phải là kẻ đa thê. Thuận chỉ có một người vợ. Với người đàn bà này, anh ta có năm đứa con.
....Ông không còn nhớ đoạn kết của cuộc họp ấy ra sao. Phần cuối của bản án tử hình. Trái tim ông bị đem lên đoạn đầu đài và ở đó lưỡi gươm đao phủ hạ xuống. Dấu ấn sau chót ghi khắc vào tâm hồn ông là cảm thức về sự bất lực của chính mình. Lần đầu tiên, ông chợt nhận ra ông chỉ là một pho tượng gỗ khổng lồ nhưng mọt ruỗng. Những đồng chí thân thiết ẩn núp sau lưng ông để kiếm chác quyền năng. Họ mới thực chất là những ông chủ, những kẻ trục lợi tàn bạo, vô lương. Tất thảy bọn họ đều được sống mãn nguyện cái phần người ở dưới rốn. Hơn phân nửa bọn họ đều có hai vợ và cả mớ nhân tình. Người có vẻ cảm thông nhất với ông chính là Tô, bởi anh ta đã từng hiểu cuộc sống bị thiến hoạn. Vợ Tô vốn mắc chứng hoang tưởng trầm uất từ thời thiếu nữ. Sau khi sinh nở, chị ta trở thành tâm thần phân liệt, phải điều trị tại bệnh viện và nhà an dưỡng dành riêng cho gia đình các uỷ viên bộ chính trị. Ít nhất, Tô cũng đã chịu thiếu thốn gối chăn một thời gian, trước khi anh ta có quan hệ lén lút với một cô đào hát trong đoàn tuồng Liên khu năm và có với cô này một đứa con trai. Nhưng Tô là thiểu số tuyệt đối, thêm nữa bản tính anh ta nhu nhược và cả nể. Suốt đời, Tô là kẻ sắm vai. Anh ta đã thành con rối gỗ từ rất lâu, thành con rối gần như tự nguyện.
Người được tiếng đứng đắn nhất, cao giọng đạo đức nhất, thái độ quyết liệt nhất trong cuộc họp hôm ấy chính là Thuận, kẻ đã từng là cánh tay đắc lực của ông một thời gian dài:
― Nhưng anh ta chưa bao giờ thiếu thốn chuyện gối chăn. Anh ta chỉ có một người vợ, nhưng với người đàn bà này anh ta có năm đứa con, và dù trong chiến tranh hay trong cuộc sống thời bình, đời sống tình dục của người đàn ông này là liên tục.
Ông nhớ lại bữa liên hoan trên chiến khu Việt bắc. Hôm ấy, nhà bếp được lệnh mổ bò. Rượu cần ê hề vì dân bản cung cấp. Sau bữa cơm, mọi người đều chếnh choáng, vui vẻ. Chợt có tiếng la hét, chửi rủa, khóc lóc của một người đàn bà từ khu gia đình vọng tới. Cùng với thứ tiếng động bất nhã và náo loạn của chị ta là tiếng xôn xao, giọng đàn ông xen lẫn giọng đàn bà. Hoảng hốt, chánh văn phòng chạy sang hỏi han. Lát sau, anh ta quay lại báo cáo rằng vợ thủ kho đau đẻ. Người đàn bà này xấu nết nên càng đau, chị ta càng hò tên anh chồng ra mà chửi. Những người xung quanh xúm lại khuyên can. Giờ cơn đau tạm lắng, hội phụ nữ đã cử người dìu chị ta xuống trạm y tế.
Câu chuyện làm bùng nổ những trận cười ròn rã xen lẫn các giai thoại tiếu lâm vừa cổ vừa kim.
Lúc ấy, ông cất tiếng hỏi:
- Ở đây có cô nào chửi chồng khi đau đẻ không đấy ?
- Không có đâu ạ.
Các phu nhân nhất loạt đáp lời. Một người bạo dạn hơn nói tiếp:
- Mà nếu có muốn chửi thì cũng phải nghiến răng chửi thầm cho đỡ tức thôi ạ.
- Cô có lẽ là người thành thực nhất.
Ông mỉm cười tán thưởng, đoạn tiếp tục chọc ghẹo:
- Nhưng tại sao lại bực tức với người chung chăn chung gối ?
- Là vì....vì...
Người đàn bà ấp úng, nửa muốn trả lời, nửa còn dùng dắng. Lúc ấy, ông nghe tiếng Thuận cười phá lên, rồi chính anh ta đáp thay thiếu phụ kia :
- Là vì lúc sướng thì có cả đôi, lúc khổ lại mỗi một thân một mình phải chịu. Đó là cảm thức trước sự bất công của đất trời. Đó là cơn phẫn nộ đòi lợi quyền trước Tạo Hoá.
- Chú quả là người có tài diễn giảng.
Ông lên tiếng ngợi khen, đoạn quay sang vợ Thuận :
- Chú ấy biết nói như thế, hẳn phải biết cư xử như một ông chồng lý tưởng. Tôi nghĩ có đúng không ?
- Dạ ...
Vợ Thuận cũng lại ấp úng như người đàn bà kia, chị ta đưa mắt nhìn chồng và lúc ấy anh ta lại cất tiếng cười ha hả, lần này, với một nỗi khoái trá không che đậy :
- Thưa chủ tịch, trên lĩnh vực này thì người khá ngây thơ. Lý thuyết và thực tiễn luôn luôn luôn luôn là hai đường thẳng song song không bao giờ giao cắt. Nhà tôi vừa mới day dả tôi cả đêm qua vì chuyện phạm luật.
- Phạm luật ? Luật nào ?
Ông cất tiếng hỏi một cách thành thực vì không rõ trong cuộc sống đôi lứa, người ta đề ra những thứ luật gì. Suốt cuộc đời ông, những người đàn bà lướt qua như cơn mưa bóng mây, tạm bợ như quán trọ, mơ hồ như giai nhân trong chuyện Liễu trai, nên thực tình, cuộc sống gia đình đối với ông còn là một lục địa chưa khai phá. Trong khi ông đưa mắt nhìn Thuận thì mặt vợ anh ta đã đỏ gắt như quả gấc chín, còn Thuận đang cười nụ cười mở rộng nhất mà anh ta có thể. Sau đó, anh ta thủng thẳng cắt nghĩa :
- Rất nhiều luật lệ, nhưng chẳng luật lệ nào đứng vững nổi trước tuổi trẻ và những thôi thúc của thân xác. Ví dụ, thời xưa các cụ dạy vợ đẻ xong phải kiêng đủ một trăm ngày, đó là lý thuyết chính thức. Nhưng tôi không tin có ông chồng nào nhịn qua ba tuần lễ. Sau lưng các bà vợ, tôi hỏi vụng mười ông chồng, cả mười ông đều thú nhận là phạm luật. Rồi các bác sĩ đề ra luật : Khi vợ chửa tới tháng thứ chín tuyệt đối cấm đến gần giường, tôi, tôi hành động jusqu’ au bout. Hôm sau cô ấy đi đẻ, đêm trước tôi còn gỡ.
- Anh có thôi đi không, đồ yêu quái.
Vợ Thuận thét lên, có vẻ như sắp khóc vì hổ thẹn. Cả đám người cười lăn cười lộn, vẻ đồng tình ra mặt. Ông vội vã can :
- Thôi, thôi... Khi phụ nữ đã lên tiếng, ấy là mệnh lệnh. Tôi đề nghị các chú chuyển sang đề tài khác.
« Một thời để nhớ, một thời để thương, một thời để thù hận ... »
Một câu văn cũ rích bỗng nhiên quay lại. Ông chợt thấy trong đó những lo-gic thường hằng. Đúng là đã có một thời. Một thời để nhớ.
Một thời đã qua, thời của những kẻ sống trong rừng, hát cùng một khúc quân ca, bước trong cùng một đội hình, chia nhau một bát cơm và cùng có chung niềm tin tưởng. Thời khốn khổ và mộng mơ, khi người ta có thể nói với nhau tất thảy mọi chuyện một cách dễ dàng. Thời mà người ta tưởng chừng tình thân ái là những sợi dây liên kết chặt chẽ, bất chấp mọi ngáng trở, bất chấp thời gian.
« Nhưng từ đâu nảy sinh ra thứ thù nghịch này ? Lòng ghen tị được che giấu hay quyền lực bị tổn thương ?»
Hai giả thuyết ấy đặt ra trước ông như hai ngả đường, ngả nào cũng đầy rắn rết. Bao nhiêu năm đã qua, ông vẫn không hiểu một cách tận tường nguyên nhân sự phản trắc tập thể này. Phải chăng nhan sắc nàng gợi lên trong lòng những người đồng chí của ông mối ghen tuông, hay việc ông yêu nàng khiến cho quyền lực tập thể bị thương tổn. ?
Trước khi gặp Xuân, tổ chức kháng chiến đã quyết định tìm cho ông một người đàn bà, tương lai sẽ là « mẹ già dân tộc ». Việc ông từ chối quyết định của họ , tiếp theo đó mối tình giông bão với người con gái miền núi kia chính là cây búa đập tan cái hình mẫu tượng đài mà những người đồng chí đã dựng sẵn cho ông.
« Nhưng vì sao họ tự phong cho họ thứ quyền hành của ông mai bà mối ? Tất thảy mọi chuyện diễn ra vừa có vẻ như trò chơi ngớ ngẩn lại vừa giống một thứ ma trận bày ra để dẫn ta tới cửa mồ ?»
Ông không còn nhớ chính xác, nhưng vào khoảng mùa đông năm bốn mươi bảy hoặc mùa xuân năm bốn mươi tám, văn phòng lên báo cáo :
- Bộ chính trị đã họp bàn vắng chủ tịch, để quyết định một nữ đồng chí bên hội phụ nữ sang phục vụ người.
- Tại sao không cho tôi biết nội dung cuộc họp đó ?
- Dạ, vì chủ tịch đảm đương trách nhiệm tối cao lãnh đạo cuộc kháng chiến, Trăm công ngàn việc đợi chờ người. Vì thế, chủ tịch chẳng còn thời gian lo chuyện riêng tư. Bộ chính trị phải đứng lên sắp xếp.
- Ồ, nhưng vấn đề tình cảm giữa hai con người không thể giải quyết một cách đơn giản và máy móc như thế. Các chú phân công, nhưng người nữ kia chẳng có chút luyến ái nào thì sự sắp xếp này chính là cực hình đối với cô ta.
- Xin chủ tịch đừng lo, được phục vụ người là vinh dự.
- Nhưng tôi, tôi cũng là một con người, tôi phải xúc động thật sự mọi chuyện mới có thể tốt đẹp.
- Dạ, các uỷ viên bộ chính trị đều nói thực hiện nghị quyết này là để bảo đảm sức khoẻ cho chủ tịch. Theo sách Hải thượng lãn ông nếu âm dương không giao hoà thì mọi chứng bệnh sẽ kéo đến. Sức khoẻ của người chính là vận mệnh dân tộc, tương lai của non sông. Tập thể tổ chức văn phòng có nhiệm vụ chăm lo cho sức khoẻ của người.
- Tôi hiểu, nhưng không thể vì lý do ấy mà giải quyết mọi sự một cách tuỳ tiện.
- Thưa chủ tịch, bên hội phụ nữ đã làm công tác tư tưởng với đồng chí Thu. Đồng chí ấy thuận tình coi việc phục vụ người là phục vụ cách mạng.
- Ồ...
- Thưa chủ tịch, văn phòng được thông báo là bắt đầu từ thứ bảy tuần này.
- Không cần vội vàng đến thế. Mấy năm nay tôi sống chay tịnh có sao đâu ?
Ông đáp, nỗi bực bội xâm chiếm tâm can. Nhưng chánh văn phòng đã vội vã đi ra. Tiếng bước chân anh ta hấp tấp nghiến trên cây cầu thang đầu hồi. Ngay lúc đó, cần vụ bước vào mời ông sang hầm tướng Long đàm đạo. Cuộc gặp này đã vào lịch từ hai tuần trước nên ông lên đường tức khắc, nhưng cảm giác bực dọc vẫn đeo đuổi. Sự khó chịu này gần giống cảm giác bất mãn năm xưa, ông từng có với người goá phụ trong ngõ cụt phố Saint John, khi chị ta săn đuổi và vây hãm ông một cách lộ liễu trước tất thảy láng giềng.
Vừa bước chân vào hầm tướng Long, ông đã hỏi luôn chuyện đó. Anh chàng này giả tảng như không nghe thấy gì, lúi húi pha trà. Rồi lát sau, thủng thẳng đáp :
- C’ est provisoire.
Ông hiểu rằng người ta tìm cho ông một giải pháp tạm thời, nhưng dẫu sao đó vẫn là một sự áp đặt. Ông thấy quyền tự do của mình bị thương tổn.
Cuối tuần đó, vào chiều thứ bẩy, ông chợt thấy bóng đàn bà xuất hiện. Theo thường lệ, cứ thứ bẩy là mọi người rút về khu gia đình trừ đội cận vệ. Lán của họ dựng cách ngôi nhà sàn của ông vài chục bước chân, đứng bên này gọi to bên kia nghe thấy. Ông hầu như đã quên câu chuyện « nữ đồng chí phục vụ cách mạng » nên vô cùng ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà đang trên đường tiến đến khu lán. Lúc ấy, bữa cơm chiều đã xong, bầu trời phía tây chỉ còn lại những ráng mây vàng rực toả thứ ánh sáng không mầu sắc xuống các vòm lá đen thẫm của cây rừng. Trong thứ ánh sáng ấy, và trong không gian hiu quạnh ấy, dáng người đàn bà càng có vẻ yếu ớt, lẻ loi. Ông tự hỏi :
« Ai nhỉ ? Ai có thể đến đây vào lúc này ? »
Về nguyên tắc, đội cận vệ không được quyền tiếp đón người thân trong khu vực cấm. Nếu gia đình lên thăm, họ sẽ được phép nghỉ và gặp gỡ người thân ở khu vực « Trạm trung chuyển » hoặc gọi một cách văn chương hơn : « Nhà hạnh phúc ». Ngôi nhà ấy cách đây ít nhất cũng một dòng suối với hai ngọn đồi. Tò mò, ông tiếp tục nhìn qua khung cửa sổ, theo rõi cái bóng người đang chúi đầu bước. Hình như chị ta còn mang xách vật gì đó khiến dáng đi vừa lật đật vừa nghiêng vẹo. Một dáng đi lao đao, vất vả. Dáng đi ấy gợi nên một thứ tình cảm không chút đáng tôn vinh là lòng thương hại. Lòng thương hại đối với một người đàn ông đã tồi tệ, nhưng với một người đàn bà, sự tồi tệ ấy được nhân hai.
- Ồ, chuyện tầm phào.
Ông tự nhủ một cách khó chịu, vẻ như khó chịu với chính mình. Rồi ông cúi đầu xuống mớ tài liệu. Nhưng một linh cảm mơ hồ mách bảo rằng người đàn bà có dáng đi liêu xiêu kia liên quan tới chính ông chứ không phải với những chàng cận vệ. Lúc ấy, ông mới sực nhớ ra « giải pháp tạm thời » mà tướng Long đã nói, và tức khắc một tiếng kêu thốt lên trong trái tim ông :
- Khốn khổ, đó chính là người đàn bà mà họ đã dành cho ta.
Buông mớ tài liệu xuống, ông ngồi đờ đẫn.
Chắc chắn Hội phụ nữ không còn người nào trông ra hồn mà sống độc thân. Tất cả đều « thuyền có lái, gái có chồng ». Hoa khôi phải kể đến cô Vân, vợ Vũ. Tiếp đến là cô vợ hai của Sáu và cô Tường Vi, chuyển từ đoàn văn công trung ương về. Hai người này được đặt biệt danh là « Nhị vị thục nữ ». Sau đó kể đến « Tam nương thục nữ » cô Lan, cô Huệ, cô Nhi ; ba người đàn bà nổi tiếng khắp chiến khu vì dáng vẻ yểu điệu và tài nội trợ. Những cuộc đón tiếp khách quốc tế, những cuộc liên hoan trọng thể đều phải nhờ đến họ : Họ trưng bầy hoa lá, họ làm bánh trái và các món ăn thị thành, họ dạy các thiếu nữ khác cách trang sức và chính họ cũng là những mỹ nhân trong những bộ áo dài lộng lẫy mà mặc dù cuộc kháng chiến gian nan nhưng họ vẫn cố đem theo. Sau ba mỹ nhân này có thể kể đến vợ Thuận và các phu nhân của chính phủ. Tuy còn đang ở trên rừng nhưng đám nữ nhân này cũng khá đỏm dáng. Người ta cũng chiều chuộng họ mà chuyển một lượng khá dồi dào vải vóc, lụa là, gương lược từ vùng tạm chiếm lên đây , cùng với thứ xa xỉ phẩm dành riêng cho ông :thuốc Ca-ra-ven và thuốc Gaulois.
Về việc này, ông tuyên bố :
« Đấy là thói quen. Ở tuổi tôi, thói quen mạnh hơn người ta tưởng. »
Những người đàn bà dựa vào đấy mà vòi vĩnh :
« Dù ở trên rừng, chúng tôi cũng vẫn là phụ nữ . »
Chính ông ủng hộ bọn họ. Dăm kẻ bực mình nói sau lưng ông :
« Ông ấy đã sống với Tây hai mươi năm, thích uống rượu Tây nên cũng nịnh đầm ...như Tây vậy. »
Vào những buổi liên hoan, ông thấy những người đàn bà kín đáo xịt nước hoa lên cổ áo hay lên những chiếc nơ sa-tanh gài trên tóc. Mùi thơm cũng như nụ cười của họ khiến rừng núi bớt âm u.
Bấy giờ, ông cố điểm lại những người đàn bà từng nhìn thấy, không ai có dáng đi xiêu vẹo kia, cũng chẳng ai tên là Thu...Rõ ràng là tất thẩy đám đàn bà nhan sắc đều đã thuộc phần người khác. Còn lại « nữ đồng chí phục vụ cách mạng » này ắt hẳn là phần xương xẩu nhất còn sót lại trong Hội phụ nữ, là cá thể mà những người đàn ông tuy có thiếu thốn cũng đành quay mặt đi. Điều ấy chẳng còn ngờ vực.
« Dẫu sao cô ta cũng đã đến đây. »
Ông buông tiếng thở dài rồi đứng lên, sửa sang lại quần áo cho chỉnh tề. Lúc ấy, cần vụ bước vào báo cáo :
- Thưa chủ tịch, nữ đồng chí bên hội phụ nữ đã đến.
- Cảm ơn. Chú có thể nghỉ được.
Ông đáp.
Và cậu ta lỉnh đi nhanh như biến.
Đứng nhìn theo chàng trai một cách ngẩn ngơ, ông thầm hỏi :
« Ta sẽ phải nói với cô ta những gì đây, cho đúng phép ? Bởi người đàn bà này không do ta chọn. Nếu là cuộc gặp gỡ bắt buộc của định mệnh thì nó còn tồi tệ hơn nhưng gì đã trải qua với cô thợ khâu Paris. Bởi nó kèm theo một điều kiện tiên quyết khiến cho cả hai bên bắt buộc ngại ngùng : một cuộc làm tình chẳng có tình, cũng không phải sự đồng thuận giải phóng các nhu cầu thân xác mà chỉ đơn thuần là hành động cách mạng. Điều này vừa giả dối, vừa phi nhân. »
Ý nghĩ ấy khiến ông ngán ngẩm. Nhưng ông vẫn nhớ ông là chủ nhà và có một vị khách đang tới. Ông đứng dậy, bước ra đầu hồi, đón cô ta. Người đàn bà, như ông dự đoán, vừa đặt chân lên bậc thang thứ nhất cây cầu thang. Từ trên cao, ông nhìn thấy đỉnh đầu của cô ta trước hết. Một cái đầu nhỏ bé, tóc thưa thớt rẽ sang hai bên, rồi túm lại phía sau bằng chiếc cặp ba lá nhôm sáng loáng.
« Tóc cô ta thưa như tóc một bà già tám mươi tuổi. Thật khốn khổ. Ta chưa từng thấy người phụ nữ nào tóc thưa đến nỗi nhìn rõ cả mảng da đầu. Mà da đầu cô ta không trắng, nó có mầu nâu.»
Ý nghĩ ấy lướt nhanh. Ông nhớ lại thời ở Paris, ông thường gặp những bà lão rụng gần như hết tóc, phơi cái sọ đỏ hồng. Những bà già đã qua từ lâu cái tuổi còn xúc động hay ham muốn ; cũng không đủ khả năng để làm bất cứ việc gì hữu ích nên suốt ngày họ chậm rãi dạo bước trên hè phố hoặc thơ thẩn quanh công viên, quanh các bồn phun nước để ngắm cây cối hoặc cho chim ăn. Họ luôn luôn đội mũ vải hoặc mũ len, chỉ những ngày quá đỗi nóng nực, họ mới lột những tấm lá nguỵ trang xuống, và thiên hạ mới nhìn thấy cái đầu trơ trụi thảm thương của họ : Dấu vết tuổi già, bản án bất khả kháng của thời gian !
« Người đàn bà này còn trẻ, cớ sao cô ta lại rụng tóc nhanh như vậy ? Có thể do khí hậu rừng, do ăn nước suối, do cuộc sống gian lao. Nhưng những điều kiện tồi tệ ấy được phân phát chung cho tất cả. Tại sao những người đàn bà khác vẫn có quyền « phơi mớ tớc dài óng ả », nói theo giọng văn vẻ của một thi sĩ loại ba ?»
Nhưng lúc ấy vị khách đã vượt qua nấc thang cuối cùng, ngẩng đầu lên. Bắt gặp ánh mắt của ông, toàn thân cô ta đột nhiên co rúm. Từ đôi vai hẹp cho đến cặp đầu gối củ lạc đều khép lại trong cơn ngượng ngùng. Không hiểu sao, chính ông cũng ngượng ngùng khi chứng kiến sự sợ hãi không thể che giấu của người đàn bà, và cảm thấy cuộc gặp gỡ này gần như một hành vi tàn nhẫn.
- Thưa chủ tịch...
Môi cô ta lật bật mãi mới buông ra mấy lời ấp úng.
Ông vội đáp :
- Mời cô vào nhà chơi.
- Dạ...
Người đàn bà đáp trong hơi thở hổn hển. Vừa vào nhà, cô ta vội vàng gỡ chiếc túi dết trên vai mắc vào tay ghế, rồi đặt mớ chiếu và chăn vẫn cắp dưới nách xuống sàn. Ông liếc nhìn, thấy ngay một chiếc gối trắng, kẹp giữa một chiếc chăn bông đơn trấn thủ, cả hai được bó gọn trong chiếc chiếu cá nhân, quấn nhiều vòng dây dù :
« Sợi dây kia sẽ được dùng để treo màn cho chủ nhân sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Ắt hẳn tổ chức đã dặn dò cô ta một cách kĩ lưỡng rằng phải mắc chiếc màn ở chái nhà phía trước, nơi được che chắn bởi những tấm mành tre rộng, thả từ áp mái xuống tận sàn. Ở đây, không có chiếc gối thứ hai, không có chiếc chăn thứ hai, không có chỗ dành cho người thứ hai. Thế nên cô ta phải ôm theo đủ thứ. Sự chuẩn bị chu đáo, gọn gàng như tiểu đội đột phá khẩu chuẩn bị bộc phá trước lúc công đồn. Tội nghiệp. »
Ông thầm nghĩ, hình dung cảnh người đàn bà ôm mớ chăn chiếu kia lội qua con suối, vượt qua hai quả đồi :
- Cô mới đi đường, hãy ngồi nghỉ đã.
Ông nói, đoạn đi pha ấm trà mới. Nước đun từ ba giờ chiều không còn đủ độ nóng nên những lá chè nổi lềnh phềnh. Ông phải lắc hồi lâu, nước mới ngả sang màu vàng nhạt :
- Mời cô uống nước. Tôi vừa nhận được đường phèn dân gửi cho.
Ông lấy chiếc bình thuỷ tinh đựng đường phèn Quảng Ngãi, đặt lên bàn :
- Cô ...cô...
- Thưa chủ tịch, em tên là Thu, Minh Thu, bởi bên hội còn có chị Bích Thu nữa.
- A... Hoá ra bên ấy còn cô Bích Thu nữa.
Ông nhắc lại một cách máy móc trong khi cố lục tìm trí nhớ xem đã từng gặp những nữ đồng chí tên Thu lần nào chưa nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy dấu vết. Trong lúc ấy, người đàn bà uống trà. Cô ta có vẻ khát thật sự sau một đoạn đường tuy không phải là quá dài song so với sức vóc cô ta hẳn đã là một cố gắng. Cổ tay cô ta vừa nhỏ vừa gầy giống cổ tay đứa bé, cần cổ cũng phơi những sợi gân dài một cách bối rối vì không thể giấu giếm dưới chiếc cổ sơ-mi cánh nhạn màu xanh lơ. Khi cô ta ngồi trước mặt ông, ông càng thấy rõ lớp tóc mỏng dán vào da đầu, để lộ ra những vệt nâu nhạt. Da cô cũng có mầu nâu, nhưng không phải thứ da bánh mật mà dân gian ca tụng « Da bánh mật, quật chết trâu ». Da cô vừa nâu vừa tái, thứ da thiếu hồng cầu.
Ông không dám nhìn cô lâu, biết cô đang run như giẽ, còn ông, con tim ông tràn ngập nỗi ngao ngán lẫn lòng trắc ẩn. Trắc ẩn cho ai ? Có lẽ sự thương hại này dành cho cả hai phía, người phụ nữ tội nghiệp kia và cho chính ông. Cuộc sống quả là trò đùa tàn nhẫn. Một lớp tuồng bất khả dò đoán. Hoặc là một tai nạn giao thông ?
Quay mặt ra phía cửa sổ, ông nhìn ánh tà dương đang chuyển sang màu tím nhạt , cất tiếng bâng quơ :
- Bên hội phụ nữ có trồng được nhiều rau không ?
- Báo cáo chủ tịch, vườn của chúng em có đủ loại : Rau cải xanh, cải cúc, bắp cải , su hào. Cà tím lẫn cà chua năm nay tốt lắm.
Người đàn bà tội nghiệp túm được câu hỏi vơ vẩn ấy như kẻ đang lạc đường tìm thấy lối ra. Cô ta đáp một cách hào hứng, lưu loát.
- Thế a ? Các cô khá thật.
- Dạ. Các chị lãnh đạo giỏi xoay sở lắm. Chúng em phải cử người xuống tận vùng ráp ranh mua hạt giống rau.
- Thế cô có xuống vùng giáp ranh lần nào không ?
- Thưa chủ tịch...
Cô ta ngước mắt nhìn ông với nỗi hoảng loạn, và tức khắc ông nhận ra sai sót không thể tha thứ của mình. Người được cử xuống vùng giáp ranh, hoặc luồn vào vùng tạm chiếm phải là những người đầy năng lực, ngoài sức khoẻ, sự tháo vát, trí thông minh còn cần đến một ngoại diện hấp dẫn. Đấy là những tiêu chuẩn bất khả đối với người đàn bà đang ngồi co ro trên chiếc ghế mộc trước mắt ông :
- A, tôi hỏi thế thôi. Tổ chức có phân công mới đi được.
- Vâng.
- Tất thảy chúng ta đều phải phục tùng mệnh lệnh của cách mạng, và sự phân công của tổ chức.
- Vâng ạ.
- Cô Thu...
Chỉ chút xíu nữa là ông buông ra một câu hỏi ngu ngốc :― Cô Thu bao nhiêu tuổi nhỉ ?..
Ấy là bởi trong đầu ông đang còn dội lên những câu hỏi thường trực đối với đám nhi đồng: ― Cháu Hồng mấy tuổi nhỉ ? Lại đây nhận kẹo rồi chia cho các bạn; hoặc là :― Cháu Thanh lên mấy nhỉ ? Nhận quà rồi có để dành cho bố mẹ hay không ?Hoặc là :― Cháu Quý năm nay lớn vọt lên đấy, lại đây múa bài con Công cho các chú các bác xem nào.
Những câu hỏi ấy đang còn đóng đinh vào óc não ông bởi chủ nhật trước, ông vừa sang phát kẹo cho lũ trẻ. Chủ tịch hắng giọng giả như một cơn ho làm tắc nghẽn câu nói :
- Cô Thu.....Cô Thu có thường xuyên nhận được tin nhà hay không ?
- Dạ. Nhà em chẳng còn ai ngoài người chị ruột. Nhưng chị ấy đã theo chồng sang đất Thái làm ăn lúc bố mẹ em chết nên không liên lạc được. Đối với em, cách mạng là gia đình.
- Tốt. Cách mạng là gia đình lớn , là mái nhà chung của tất thảy chúng ta.
Ông đáp. Tự thấy mình nhạt nhẽo. Những lời lẽ sáo mòn nhất mà đã từ lâu ông không còn dùng nữa, ngay trong những cuộc họp với đám cán bộ tuyên huấn. Chúng giống bã rau, bã đậu được nấu lại, thứ thức ăn dành riêng cho bò hay lợn. Nhưng người đàn bà lại tỏ vẻ hài lòng. Cô ta ngước nhìn ông, chớp chớp đôi mắt, chẳng rõ để làm duyên hay để biểu thị sự hoan hỉ :
― Cô ta chẳng những xấu mà còn có bộ điệu của một kẻ ngu ngốc. Chắc chắn trong đầu cô ta không có mảy may một ý tưởng nào, ngoài những gì được người khác nhồi nhét cho..
Chân tay ông bỗng rã rời :
― Ta sẽ phải ôm người đàn bà kia hay sao ? Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ phải thực hiện những hành vi tình ái với cô ta ? Điều ấy sẽ không tránh khỏi. Ta cần giải phóng cơ thể khỏi những dồn nén. Ta cần phải giữ trí óc minh mẫn vì cuộc kháng chiến còn lâu dài. Như thế, không có cách gì hơn là phải tiêu diệt những ước vọng của một người đàn ông bình thường. Phải chôn vùi thế giới cảm giác vì ta là hiện thân của tinh thần trách nhiệm. Việc của ta là cáng đáng gánh nặng giang sơn. Nếu thời xưa, đã có kẻ vì trách nhiệm với non sông phải kết hôn với Chung Vô Diệm thì giờ đây, ta cũng phải noi gương cổ nhân mà hành sự.
Nhưng khi mớ lý giáo ấy chấm dứt, tinh thần ông vẫn không mảy may suy xuyển. Ngay cả thứ mà người thường gọi là dồn nén, bình thường vẫn hiển hiện, nhưng lúc này lại biến mất tăm.
― Thật lạ lùng. Bỗng nhiên ta chẳng còn một chút xung năng tình dục. Hoàn toàn rỗng không. Hoàn toàn vô cảm.
Ông biết gã đàn ông nơi bản thể của ông vô cùng cường tráng, và nhu cầu tình dục của gã lớn hơn mức bình thường. Nhiều lần, ông nói thẳng với đám đàn em :
― Tôi chỉ là Cha già từ đỉnh đầu xuống rốn. Còn dưới rốn, tôi vẫn là Anh.
Câu nói ấy được truyền đi như một giai thoại.
Tuy nhiên....Tuy nhiên...
Đứng trước người phụ nữ này, bỗng nhiên cái phần dưới rốn của ông cũng hoá thành Cha già nốt.
Ông sửng sốt :
― Tồi tệ thật. Kim đồng hồ chỉ số sáu. Đó là điều mà chẳng ai ngờ đến. Khi ta sống một mình, nó vẫn hung hăng lồng lộn như con ngựa chiến, vậy mà giờ đây nó lại chụm bốn vó đầu hàng. Kì quái. Chẳng lẽ người đàn bà kia có khả năng tiêu diệt tình dục của bất cứ đối tượng nào trước mặt cô ta ?
Ông thầm hỏi.
Lời giải đáp đến ngay tức khắc :
―Điều ấy chẳng cần hồ nghi. Nếu không, ắt hẳn cô ta đã có chồng. Trên chiến khu, đàn ông đông gấp mười lần đàn bà. Người phụ nữ có quyền chọn bạn tình chứ chẳng phải đàn ông có quyền kén vợ. Rõ ràng là khả năng huỷ diệt ái tình của người đàn bà này rất lớn. Phải chăng đó là cái cớ mà họ chọn cô ấy cho ta ?
Bỗng nhiên, ông giận dữ. Những ý nghĩ rời rạc nện từng nhát búa lên sọ ông:
― Lũ người này tồi tệ thật,
Lý do nào cho phép chúng hành xử với ta như thế ?
Quyền năng nào khiến chúng áp đặt với ta một sự đã rồi.?
Máu dồn lên mặt khiến ông có cảm giác nóng bức. Ông vội rót một chén trà, uống từng ngụm nhỏ, để ghìm cơn giận, thói quen đã có từ lâu. Trong lúc ấy, cô Minh Thu đã uống cạn mấy chén liền, đang ngồi chờ đợi với vẻ nhẫn nhịn của một con chó chầu ngoài sân nhà chủ. Cơn giận dữ khiến ông quên phắt sự hiện diện của người đàn bà bé nhỏ, dúm dó dưới tấm sơ-mi xanh lơ. Cơn giận dữ khiến ông sải những bước dài quanh phòng, tách trà trên tay, mắt nhìn thẳng vào khoảng không gian thù nghịch. Rồi khi ông chợt nhận ra sự bất nhã của mình, ông vội vã quay lại :
- Xin lỗi cô Thu nhé. Tôi đang có nhiều việc phải nghĩ.
- Dạ....Thưa chủ tịch....
Cô ta đáp lí nhí, mặt cúi gằm.
Ông đặt chén trà xuống bàn, kéo ghế ngồi sát người đàn bà :
- Tôi xin lỗi ...Thu nhé....
Ông cố tình xưng hô một cách thân mật. Nhưng chính lúc ấy, con tim ông lại sôi lên vì một cơn cuồng nộ bất thần:
― Tại sao ta phải diễn màn tuồng thảm hại này ? Tại sao ta không nói thẳng cho cô ta biết rằng bộ máy sinh dục của ta giờ đây trở thành vô năng vì nó bị uy hiếp ? Rằng chính cô ta đã tiêu diệt mọi ham muốn nơi người đàn ông. Rằng bất cứ gã đàn ông nào cũng sẽ trở thành kẻ liệt dương hoặc tâm thần khi phải lên giường với cô ta ...
Nhưng trong lúc óc não ông sôi sục những lời rủa xả thì vẻ mặt ông lại nhu thuần như mặt kẻ ngồi thiền, và ông hạ giọng ngọt ngào :
- Tôi thật lòng xin lỗi Minh Thu. Hôm nay, người tôi khó ở. Có lẽ tôi bị sốt từ chiều qua mà chưa kịp uống thuốc.
- Dạ ...thưa....
Người đàn bà lúng búng đáp, mặt càng cúi gằm xuống. Bất chợt, những giọt nước mắt lã chã theo nhau chảy trên sống mũi cô ta. Cô Minh Thu giơ tay áo quệt. Ông vội vã đứng lên, định bụng tìm một tấm khăn tay sạch cho cô. Nhưng rủi thay, chiếc khăn tay duy nhất còn khô ông đang dùng. Những chiếc khác ngâm xà-phòng trong chậu. Ông đành đứng im lặng nhìn người đàn bà tội nghiệp mỗi lúc mỗi nức nở một cách hờn tủi. Vì chẳng mang theo khăn tay, cô cúi xuống, lôi trong túi dết ra một chiếc áo lót, chắc hẳn là áo ngủ, để lau mũi.
― Ta chưa từng gặp người đàn bà nào vô duyên đến thế.
Ông thầm nghĩ, khi nhìn những giọt nước mắt lăn dọc theo sống mũi cô Thu. Một cái mũi nhỏ, đã hớt lại vẹo đầu. Sự lệch lạc của số phận. Đối với người phương Đông tin vào nhân tướng học, cái mũi vừa tượng trưng cho sự nghiệp vừa tượng trưng cho kẻ hôn thú. Người đàn ông nào có cái mũi lệch vẹo ắt hẳn phải lấy thứ đàn bà đần độn, xấu xí hoặc nếu có vài phần nhan sắc thì chỉ là cô đầu, con hát hay gái chuộc từ lầu xanh. Người đàn bà nào có cái mũi lệch vẹo sẽ chẳng thể kiếm được tấm chồng, hoặc nếu có, ắt chẳng phải đấng lang quân tử tế :
― Chắc chắn ta không thể là đấng lang quân tử tế của cô Minh Thu được. Chẳng có đức ông chồng tử tế nào có thể nhìn vợ như nhìn một chiếc bắp cải bầy trong gian hàng thực phẩm như ta lúc này. Những bức tranh tĩnh vật còn khiến ta muôn phần cảm động hơn.
Thời trước, mỗi khi bước chân vào bảo tàng Louvre, ông cảm thấy một mối xúc động lạ lùng khi đứng trước những bức tranh, cho dù ông chẳng được học hội hoạ.
― Nhưng người đàn bà này....quả tình là nỗi bất hạnh, cho chính cô ta và cho ai sẽ phải lên giường với cô ta. Những người khác, có thể lỗ mãng, hung bạo. Có thể ngang ngược, cương cường. Có thể nhu thuận, hiền dịu. Nhưng họ đều toát ra mùi của đàn bà, họ gợi cho người đàn ông niềm hứng khởi. Nếu chẳng phải những đam mê cháy bỏng thì cũng là mối cảm tình nồng ấm. Lỗ mãng như cô thợ khâu mũ, cũng có những dáng nét để người ta xếp cô ta vào phái nữ.
Ông ngẫm nghĩ.
Cô thợ khâu mũ có mớ tóc dầy như bờm ngựa, màu vàng rơm. Khi cô ta thả tóc, tấm lưng được che kín bởi một thác vàng óng ánh. Ông đã từng vuốt ve mớ tóc ấy, tò mò ngắm những sợi tóc loăn xoăn mảnh hơn cả tơ tằm. Một lần, sau cuộc làm tình ông trở về gian gác xép, bất ngờ tìm thấy trong vạt áo mấy sợi tóc của cô. Táy máy, ông thử lấy một sợi buộc vào chiếc đồng hồ quả quýt, rồi đung đưa như đung đưa con lắc, hoàn toàn không ngờ rằng sợi tóc mảnh mai ấy lại có thể treo được một vật nặng hơn nó cả ngàn lần.
Rồi một gương mặt khác, một gương mặt kiêu ngạo với đôi mày xếch quay về. Con tim ông bật lên tiếng chào thầm kín:
― A, chào em...cố nhân.
― A...đó là nàng, người đồng chí!
Người đàn bà đưa mắt nhìn ông đầy hăm doạ, rồi đột ngột cô ta phá lên cười.
Ông mỉm cười theo, vì những cử chỉ ấy đích thực là của cô, người đã từng khiến con tim ông điên đảo, dẫu sự điên rồ ấy cũng chỉ là một cơn sốt chóng qua :
― Chào em, người thân mến, đồng chí thân mến.
Bởi cô đích thị là đồng chí, theo đúng ý nghĩa danh từ chỉ những ai cùng bước chung trên một con đường, theo đuổi chung một mục đích. Gương mặt vuông, tia nhìn vừa quyết liệt vừa thách thức, lời lẽ nảy lửa, thói quyết đoán gần như bạo chúa, tất thảy những nét nổi bật trong tính cách cô, mẫu người tiêu biểu của cách mạng. Cách mạng gầm thét trên hành tinh này bởi có những con người như cô. Những cá thể vừa sáng suốt vừa mù loà, bởi tất thảy sự hăng hái, cuồng nhiệt của họ bị dẫn dắt bởi cảm hứng chiến thắng, cảm hứng chủ đạo của các kiếm sĩ thời xưa khi dấn thân nơi trận mạc. Cảm hứng chiến thắng này là thứ ma lực đưa dẫn họ suốt cuộc hành trình, và họ dấn thân trên mọi nẻo đường tranh đấu, đinh ninh rằng cuộc dấn thân của họ là vì một mục đích chung, nhưng thực chất họ chỉ đi tìm cơ hội làm dịu bầu máu sôi sục của tuổi trẻ, để thoả mãn cơn khát quyền lực, cho dù họ vẫn mượn những mục đích chung để biện minh cho hành động của mình.
― Thôi, không bàn cãi nữa, tôi cho rằng đã đến lúc quyết định.
― Thôi, không lý lẽ dài dòng. Cách mạng đang chờ chúng ta. Giờ là lúc lên đường!
Ông nhớ cách nói nhát gừng của cô, thường là lời cuối cùng của cuộc họp vì những người đàn ông không muốn tranh cãi khi hai má cô đã đỏ rực lên và đôi mắt long lanh giận dữ.
Trong cuộc sống chung ngắn ngủi của họ, cô cũng thường cắt ngang lời ông khi bực tức, với thái độ độc đoán hệt như vậy. Ông nhớ cách cô vung tay lên để biểu thị quyền uy tối thượng của mình, cách cô chồm đến hôn ông thay một lời xin lỗi khi nhận ra mình sai. Và cách cô làm tình. Bao giờ cô cũng là người đi trước, và cô thường cưỡi lên ông với vẻ khoan khoái của một kị sĩ lành nghề trên lưng con tuấn mã trung thành .
― Ồ, ngay cả với cô ấy nữa, ta cũng tìm thấy những nét đáng yêu. Khi cô ấy bực tức mím môi lại, nốt má lúm đồng tiền hiện lên khiến cho những lời lẽ áp đặt kia hoá thành trẻ thơ và ta không thể phản kháng. Sau khi tuyên bố những lời lẽ quá khích hay bày đặt ra những chương trình bạo động, cô ấy biết cách rút lại các ý kiến sống sượng của mình bằng cách phá lên cười. Nụ cười thành thực ấy vừa như tự riễu cợt mình vừa như để xin lỗi người khác và sau rốt, xí xoá đi mọi chuyện.
Trong lúc ông chìm đắm với những hồi ức, cô Minh Thu đã nén được cơn nức nở. Cô ngồi thẳng lưng lên, môi mím chặt. Gương mặt cô không còn thảng thốt hay sợ hãi mà trở nên lầm lì. Bàn tay cô vẫn giữ khư khư chiếc áo lót, đã bị vo viên thành một nắm và chắc chắn ướt đầm nước mắt. Không nhìn ông, cô nhìn thẳng vào bức tường đối diện được dựng thuần bằng gỗ.
Lúc đó, bóng tối bắt đầu tràn ngập. Chủ tịch chợt sực tỉnh, lên tiếng:
- Cô Minh Thu đã bình tâm chưa ?
- Thưa chủ tịch, tôi đã bình tâm.
- Tốt lắm. Chờ tôi thắp đèn. Như thế, chúng ta sẽ thoải mái hơn.
- Vâng.
Ông hơi ngạc nhiên vì giọng nói của cô thay đổi. Nó có vẻ rắn rỏi, dứt khoát thậm chí bất cần đời. Ông thắp một lúc hai ngọn đèn, đặt lên bàn :
- Cô Minh Thu đã muốn đi ngủ chưa ?..
- Thưa chủ tịch, giờ ngủ của tôi là tám rưỡi.
- Tốt lắm. Tôi có thể tìm ra thứ gì đó để đãi khách bây giờ. Ít ra, tối nay cũng là tối thứ bẩy.
Ông đi tìm thứ gì đó khả dĩ đãi khách, nhưng trong tủ của ông chẳng có gì hơn ngoài thuốc lá, và hộp sữa Con chim.
Trong khi ông đi đục hộp sữa, cô Minh Thu đã ra đầu hồi lấy thêm củi chất vào bếp lửa. Lúc nhìn thấy người đàn bà ôm mớ củi quay vào, lòng ông chợt nhen lên một mối động tâm. Một thứ tình cảm phức tạp và mơ hồ tràn ngập tâm hồn ông. Có lẽ đó là sự thương cảm, nỗi buồn, niềm hoài nhớ những hạt mầm hạnh phúc vừa nẩy nở đã nhanh chóng chết thiêu chết rụi trong một cuộc sống lênh đênh , đầy biến động và gian khổ. Cũng có thể đó là sự thấu hiểu cõi người, sự thông cảm trước tha nhân, kẻ cũng bị kết án chung thân bất hạnh như ông, dẫu rằng nguyên cớ khác nhau.
Hoặc có lẽ ....bởi sương đêm bắt đầu toả vào không gian hơi lạnh. Cảm thức về nỗi mịt mù của trời đất đã khơi dậy những mù mịt trong cõi tâm linh ? Có lẽ, và có lẽ...
Ông không còn biết nữa, nhưng khi người đàn bà khom lưng xuống chất củi vào bếp, đoạn vươn cần cổ gầy gò ra thổi lửa khiến những đốm than hồng bay tứ tung, ông bỗng thấy thương cô ta như thương một kiếp đoạ đầy. Ông đưa cốc sữa cho cô Minh Thu và nói :
- Cô uống sữa đi. Rồi tôi đưa đèn cho mắc màn. Hy vọng rằng lần sau, tôi hết sốt, tình hình sẽ khá hơn.
Lần sau, ấy là thứ bẩy tuần sau.
Ông trở về sau một quãng đường dài khảo sát địa hình chiến dịch. Quần áo ông lấm lem bụi đường. Mồ hôi đọng khiến da râm ran ngứa ngáy. Lần ấy nữa, ông cũng quên rằng đây là ngày thứ bẩy, cái mốc thời gian quy định để có một người đàn bà đến phục vụ ông dưới danh nghĩa phục vụ cách mạng. Thành ra, khi đặt chân lên cầu thang bập bùng ánh lửa, ông thốt lên tiếng hỏi :
- Cậu nào trên ấy đấy ?..Sao đốt lửa sớm làm vậy ?
Không ai trả lời.
Cậu cần vụ ghé tai ông, thì thầm :
- Có lẽ đó là người bên hội phụ nữ.
- A...
Ông sực nhớ . Cậu cần vụ hỏi luôn :
- Con có cần ở lại chuẩn bị nước tắm không ạ ?
- Có chứ.
Ông đáp thẳng thừng vì cậu ta vẫn chuẩn bị nước nóng cho ông tắm từ lâu nay. Chiếc nồi đun nước khá to, bằng đồng nặng chịch, và thùng gỗ chứa nước cũng rất lớn, tay trai tráng mới có thể vần đi vần lại. Sau hai ngày đi đường, được tắm sạch sẽ, được thay đồ mới đối với ông là hạnh phúc. Một hạnh phúc bé nhỏ, song le vẫn là hạnh phúc.
Khi họ vào nhà, cô Minh Thu đã ngồi bên bếp, hí hoáy đan. Cái tư thế tuyệt đối cổ điển của một người vợ chờ chồng. Ông cảm thấy vừa hẫng hụt, vừa khó chịu nhưng vẫn phải tươi cười đáp lại lời chào của người đàn bà. Cậu cần vụ săm sắm bước vào gian nhà tắm, đoạn quay ra :
- Thưa chủ tịch, đã có nước nóng trong đó. Bây giờ, con chỉ lo chuẩn bị quần áo cho người là xong.
- Cảm ơn.
Ông quay lại hỏi người đàn bà :
- Chiếc thùng cao thế, làm sao cô vần nổi ?
- Dạ, em làm được.
- Cảm ơn...Nhưng lần sau cứ để cho cần vụ làm. Cậu ấy còn đang tuổi bẻ gẫy sừng trâu.
- Thưa vâng.
Ông bước vào phòng tắm, trút bộ quần áo đầy bụi lẫn mồ hôi, bất giác buông tiếng thở dài. Ngoài kia, cậu lính trẻ đã rút lui, tiếng chân bước trên cầu thang vọng lại. Khi cậu ta đã đi xa, chỉ còn lại là tiếng lửa reo, tiếng nhựa gỗ sôi bọt xèo xèo và tiếng than nổ lép bép. Trong cái không gian quen thuộc của ông, lâu nay chỉ mình ông ngự trị giờ có một người đàn bà xa lạ đang ngồi gẩy từng mũi len. Điệu bộ lóng ngóng kia chứng tỏ cô ta chưa bao giờ cầm kim đan, và đây là bài học vỡ lòng nữ công của mấy chị lãnh đạo. Họ dàn cảnh. Đạo diễn nghiệp dư và diễn viên đặc biệt tồi. Ông thấy tội nghiệp cho họ, cho cô Minh Thu, cho chính ông.
― C’ est la vie. Toujour meme comédie !
Gáo nước đầu tiên bất cẩn dội vào mắt khiến mắt ông cay xè. Ông vội lau mắt bằng chiếc khăn khô, tự nguyền rủa mình lơ đễnh. Rồi chờ cho cơn đau dịu đi, ông mới tiếp tục tắm, vừa tắm vừa nhớ lại lời hứa với người đàn bà. Có vẻ như tình hình không sáng sủa hơn. Nhất là sau một chặng đường dài mệt nhọc :
« Gay go thật. Số phận không mỉm cười với cô ta. Người đàn bà này sinh ra vào giờ nào mà xúi quẩy đến như vậy ? »
Ông thầm nghĩ. Và một nỗi sợ hãi thực sự khiến ông hốt hoảng :
« Nhưng ta không thể đẩy cô ta vào sự tủi nhục đến hai lần. Dẫu sao cô ta cũng là một con người, một người đàn bà. Sự nhục nhã có thể buộc con người tìm đến cái chết ... »
Thời trẻ, ông đọc không ít những chuyện hậu cung. Ông thuộc không ít những cái chết bởi chén vàng đựng thuốc độc, bởi đoản đao cắt họng, hay lụa trắng treo thây lơ lửng trên lầu. Từ hoàng hậu, phi tần , tới cung phi, nữ bộc...biết bao người đàn bà đã tìm cái chết để rửa mối nhục thất tình ...Mà đa phần họ đều là những mỹ nhân. Cô Minh Thu chẳng phải là mỹ nhân, đã đành, nhưng lại nhận sứ mạng « phục vụ cách mạng ». Mặc cảm ắt sẽ tăng lên theo cấp số nhân. Chẳng cần giầu trí tưởng tượng cũng biết rằng sau buổi tối thứ bẩy tuần trước, cô đã phải thú nhận với cấp lãnh đạo : « Báo cáo, tôi chưa hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. ». Các bậc liền chị đã họp bàn, tìm biện pháp giúp đỡ đàn em suốt một tuần lễ. May mắn cho họ là ông đi khảo sát địa hình chuẩn bị chiến dịch nên họ có cơ dàn cảnh : « Nàng chuẩn bị nước thơm cho chàng tắm và ngồi đan bên bếp lửa... ».
Thật tội nghiệp cho kiếp người !
Nhưng cho dù than thở cho ông hay cho cô ta, ông vẫn không quên rằng lát nữa, ông sẽ phải « động phòng », theo lối nói cổ. Mà cái phần dưới rốn của ông vẫn chưa chịu ngẩng đầu lên. Nỗi lo thất bại chen lẫn nỗi lo sợ trước những phản ứng có thể xảy ra đối với kẻ bị làm nhục khiến ông mất bình tĩnh. Nhưng chính lúc ấy, những thao tác của sự kì cọ đem lại cho ông giải pháp xưa cũ nhưng luôn luôn hiệu nghiệm. Ông tự ve vuốt mình. Trong bóng tối, chỉ có ông với ông thôi. Những động tác quen thuộc giúp cho ông trở nên cân bằng và bình tĩnh. Ông mường tượng lại người đàn bà dâm dục nhất ông từng gặp trong đời, cô nàng mắt xếch. Ông mường tượng cảnh cô cưỡi trên bụng ông, da thịt cô, hơi thở của cô , mái tóc đen óng như than xoã trên vầng trán, lấp lánh dưới ánh đèn..
Và tuổi trẻ của ông quay trở lại...
*
Tiếng chuông điện thoại réo inh ỏi khiến ông giật mình, bừng tỉnh cơn suy tưởng. Ông định đứng lên nhưng cậu cần vụ đã chạy vụt vào phòng, nhấc máy :
- Thưa chủ tịch, thủ trưởng Vũ.
- Cảm ơn, cậu để đó cho tôi.
Ông cầm ống nói áp lên tai, nghe hơi thở khúc khắc ở bên kia đầu dây :
- Chú làm sao vậy ? Viêm phế quản à ?
- Không, em vừa bị cảm chiều qua.
- Cẩn thận. Dẫu chú trẻ hơn tôi nhiều, nhưng cũng đã qua tuổi tráng niên. Chớ đùa với Tạo hoá.
- Em biết. Anh Cả có khoẻ không ?
- Bình thường. Sau khi chú về, tôi cho người mang thêm ít tiền phúng gia đình tiều phu. Họ chuẩn bị phong bì quá sơ sài.
Ông nghe tiếng cười của Vũ bên kia đầu dây, rồi tiếng đáp :
- Chúng ta luôn luôn quên những tiểu tiết. Chúng ta luôn luôn lơ đãng trước những con tính cụ thể. Nhưng chính các thứ tiểu tiết, và những bài tính tầm thường kiến tạo nên đời sống.
- Nhất trí. Dạo này chú có khuynh hướng trở thành triết gia của chủ nghĩa thực nghiệm. Liệu chú có tính chuyển sang ban tuyên huấn hay không ?
- Ấy chớ.
Ông nghe Vũ cười phá lên với vẻ riễu cợt quen thuộc :
- Ấy chớ, xin anh Cả tha cho em.
Ông cũng cười, và tức khắc chuyển đề tài :
- Hà nội thế nào ?
- Ngày mai sẽ có gió mùa đông bắc. Anh đừng quên trời sẽ còn rét khá lâu.
- Tôi không quên : Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba là rét nàng Bân.
- Vâng. Chính thế nên em phải gọi điện cho anh. Gió bấc về, trên ấy sẽ rét trước. Anh chớ đi dạo trong rừng, bất thần mưa ập xuống dễ bị cảm hàn.
- Tôi sẽ nhớ.
- Em phải đi ngay bây giờ. Họ vừa báo có cuộc họp đột xuất trong văn phòng trung ương, kèm theo bữa ăn tối...Chắc ăn xong sẽ họp luôn...
Anh Cả nhớ giữ gìn.
- Chú cũng vậy. Cho tôi gửi lời thăm cô Vân. Chú thật may mắn có được cô ấy, vừa đẹp người vừa đẹp nết.
- Ô....cảm ơn anh.
Vũ đáp với giọng chế riễu ông chưa từng biết đến và nhắc lại bên kia đầu dây nói :
« Anh Cả gửi lời khen ngợi em, bậc kì nữ đẹp cả người lẫn nết. »
Rồi tức khắc, người đàn em quay lại nói với ông :
- Em đi đây.
Ông nghe tiếng dập máy khá lạ lùng bên kia đầu dây. Một mối ngờ vực lướt qua. Nhưng ông không thể giải đoán.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 25: KÝ ỨC (2)
Hà nội trở rét. Gió mùa đông bắc lại về.
Những hàng cây thẫm lại trong giá buốt và mặt hồ Tây xao xác muôn triệu lằn sóng. Rặng bằng lăng ven hồ tím màu tím cô liêu. Người đi đường hối hả bước thật nhanh qua đường Cổ Ngư, vì ngại những cơn gió mênh mông tung hoành trên mặt nước. Nhưng ngay lúc đó, những cặp tình nhân vẫn ngồi tình tự ven hồ, mặt quay về hướng gió.
Vũ đưa mắt liếc nhìn họ và thầm nghĩ :
« Nào ai biết những kẻ đắm say kia sẽ sống được bao lâu cơn mơ tình ái ? Nào ai biết năm nào, tháng nào, ngày nào họ sẽ phải khóc hối tiếc vì cơn say đắm hôm nay ? »
Những cặp trai gái co ro ôm nhau trong những tấm áo mưa trong suốt, một thứ thành trì quá mong manh để chống lại gió lạnh tháng hai. Đi hết đường Cổ Ngư, ông tìm một quán nước chè chén, loại quán nước bình dân « một thứ tư thương » cỏn con thảm hại được phép hành nghề trong nền kinh tế triệt để nhà nước hoá. Quán chè này được che chắn bởi những tấm pan-nô cũ nát, dán chằng chịt nhật báo cũ. Nồi hãm chè xanh được ủ trong chiếc dành lớn, lót rơm. Chén sành sứt mẻ, cáu đen cắn chè, đặt lộn xộn trên một chiếc khay lớn, cũng bẩn thỉu không kém. Nhưng dường như hình dạng cùng khốn và bần tiện lại thích ứng với cái xã hội ông đang sống. Bởi nó không gợi nên sự ghen tuông. Bởi nó chỉ có thể gợi nên sự thương hại hoặc ghê tởm. Những thứ được coi là bệnh hoạn hay đáng sỉ nhục trong một xã hội phồn vinh lại tương thích với xã hội này. Đã từ lâu, những ngờ vực đó day dứt ông.
- Dựa xe vào cột đèn và khoá lại. Cẩn trọng là mẹ thành công.
Một giọng sỗ sàng, đầy trịch thượng vang lên. Hoá ra ông lão bán chè chén đã nhìn thấy vị khách lạ nên cất tiếng chỉ dẫn :
- Bác không nhìn thấy chiếc cột đèn kia hay sao ? Để xe ở đấy tôi mới trông được.
Vũ ngẩng lên nhìn quanh quất một hồi mới nhận ra cây cột đèn đứng bên kia đường, nhưng bị che chắn bởi một chiếc xe bò, chất đầy rau muống, bó nào bó nấy dài thượt. Ông dắt xe sang bên kia hè, dựa sát vào xe rau muống, rồi cẩn thận khoá lại.
Ông lão bán hàng chăm chú theo rõi mọi cử chỉ của ông, với vẻ tò mò không đậy điệm. Rồi chờ khi ông bước vào quán, ngồi yên vị trên chiếc ghế dài , tựa vào tấm pan-nô tránh gió, ông lão mới cất tiếng hỏi :
- Bác uống gì, chè xanh hay chè mạn. Hoặc muốn làm ly rượu trắng, tôi cũng có.
Vũ ngạc nhiên :
- Quán nước chè cũng bán rượu ?
- Sao không ?
Ông lão hỏi lại với vẻ thách thức chen riễu cợt :
- Ông tưởng người ta chỉ cần chè mà không cần rượu ? Ông tưởng hễ nhà nước cấm cái gì là người ta phải triệt tiêu thứ ấy hay sao ?
- Tôi không nghĩ đơn giản thế. Nhưng ...
Ông lão cất tiếng cười khà khà :
- Nhưng tôi thấy bác có vẻ tử tế nên mới nói vậy. Nếu là kẻ khác, ắt tôi sẽ uốn lưỡi theo chiều khác.
Vũ cũng bật cười theo :
- Cảm ơn. Bác thấy tôi có vẻ tử tế thật sao ? Nhưng như thế nào gọi là tử tế ?
- Người tử tế có nghĩa là họ không thuộc phường đểu cáng, họ không thể làm những hành vi phản trắc hèn hạ...Ví như những kẻ đến đây lạy lục, xin xỏ tôi bán rượu cho uống. Uống xong rồi, chưa kịp đái chúng đã đi báo công an.
- Rồi sao ?
- Rồi sao ?
Ông lão lặp lại với nụ cười khẩy, đầy vẻ khinh miệt:
- Nhưng công an cũng thế thôi. Khối thằng quen uống rượu. Giá rét thế này tợp một ngụm rượu còn ấm bụng hơn húp bát cháo mậu dịch loãng như nước ốc. Thế nên có vờ vĩnh tịch thu bình rượu của tôi thì ba ngày sau cũng phải trả lại. Có điều khi họ trả thì chỉ còn lại vỏ bình. Tôi tiếp tục gọi người dưới quê đem rượu lên. Mọi sự lại như thường.
Nói tới đó, ông lão cúi xuống lôi từ dưới gầm chõng ra một chiếc thúng phủ kín bao tải. Lật chiếc bao tải lên, ông chỉ cho Vũ chiếc bình đựng rượu cổ lớn, men xanh ngọc :
- Ông đã nhìn thấy chưa ? Nếp cái hoa vàng loại thượng đẳng nhé.
- Cái bình đẹp thật.
Vũ trầm trồ :
- Bình đẹp thế này chắc rượu ngon. Tôi phải xin một chén cho ấm dạ.
- A ha....
Ông lão cất tiếng cười hào sảng khiến chòm râu rung lên bần bật :
- Bình đẹp chưa chắc rượu đã ngon, cũng giống như tốt nước sơn chưa hẳn là gỗ tốt. Nhưng rượu nhà tôi thì chắc chắn phải ngon.
Nói đoạn, ông cúi xuống, mở chiếc hộp gỗ lớn quai đồng, lấy ra chiếc chén sứ sạch bóng, và rót một chén rượu đầy đưa cho Vũ :
- Nếm đi. Rồi sẽ biết thế nào là rượu !
Vũ cầm chén rượu, bâng khuâng. Chiếc chén sứ men lam vẽ phượng, miệng bịt đồng này chính là loại chén xưa kia cha ông thường uống rượu. Chiều chiều, sau khi chăm sóc vườn cây, cha ông đặt chiếc khay đồng nhỏ lên sập. Trên khay, một bộ độc tửu, gồm một chén, một bình rượu nhỏ xíu và một đĩa đồ nhắm. Cụ ngồi ngắm trời đất, nhâm nhi trong lúc chờ bữa cơm tối với gia đình.
- Nào, nhắp thử xem tôi nói thật hay nói bỡn!
Ông già chủ quán giục. Vũ đưa chén rượu lên môi. Mùi thơm của nếp cái thấm đượm vào khứu giác trước khi ông đụng lưỡi vào chất nước của thần Lưu Linh. Mùi thơm ấy gọi đến hương thơm ngày mùa, thứ hương thôn dã nồng nàn của cánh đồng thơ ấu, nơi những lượn sóng vàng tràn phủ lên mặt đất, vây quanh những khuôn làng xanh thẫm luỹ tre, nuốt chửng những dòng mương lăn tăn ánh bạc và ca hát rì rào trong gió. Những cơn gió ngày mùa, ngay chúng cũng tẩm đượm hương thơm. Ông uống một ngụm rượu và cất lời khen:
- Tuyệt vời, tôi chưa từng uống loại rượu nào ngon như thế.
Ông lão hỉ hả :
- Tôi biết ngay mà, chưa một ai dám chê thứ rượu này. Chính người làng tôi nấu đấy. Nhưng cả làng cũng chỉ riêng gia đình cụ cử Khái là đạt đến mức sành điệu thôi.
- Ngon thật.
- Bao nhiêu đợt càn đi, quét lại. Hết du kích đến công an bủa vây tịch thu đồ nghề ném xuống sông. Một nửa làng sạt nghiệp. Nhưng số còn lại vẫn sống, sống chui sống lủi nhưng vẫn sống. Thiên hạ còn kẻ muốn uống rượu, người nấu rượu ắt còn.
- Cụ nói thế mà không sợ hay sao ?
- Tôi đã bảo tôi thấy bác là người tử tế tôi mới nói thật. Còn kẻ khác ắt tôi đổi chiều lưỡi. Cũng như thứ rượu này.
Nói tới đấy, ông cụ lại lôi ra một chiếc thúng khác chỉ cho Vũ xem : Bên trong đó là một thùng nhựa cũ được rửa sạch và đựng rượu.
Vũ sửng sốt kêu :
- Chết nỗi, sao cụ lại đựng rượu bằng thứ thùng nhựa này, như thế độc lắm ?
- Người nào của nấy. Với bác tôi mời rượu thượng hạng, uống bằng chén phượng xanh. Với kẻ khác tôi chỉ bán thứ rượu này và uống trong chén mẻ. Cổ nhân dạy ― Người ba đấng, của ba loài.
- Nhưng ...
- Xưa kia khác, thời nay phải khác. Bác không nhận ra rằng cuộc thế đã lật nhào hay sao ? Tôi trưng bày bình đẹp, chén đẹp ra để lũ khốn nạn tố cáo rằng tôi là thành phần nghi vấn, là phần tử chống đối cách mạng à ?
- Vâng, giờ thì tôi hiểu...
Vũ chậm rãi đáp, và một nỗi đau từ từ ngấm vào tâm hồn ông cùng chất rượu :
― Nếu uống chén phượng xanh mà trở thành kẻ bị nghi vấn thì chính cha ta cũng thuộc về những phần tử nghi vấn hay chống đối. May mà ông cụ đã mất trước ngày bị cùm trói bởi cái cuộc cách mạng mà chính đứa con yêu đã dấn thân vào.
Ông uống ngụm rượu cuối cùng, đưa trả chiếc chén cho ông lão. Ông cụ tức khắc cất nó vào chiếc hộp gỗ, bởi lúc đó một người khách mới bước vào.
- Rét quá, bố già ...cho chén rượu.
Người khách xoa tay, nói. Anh ta đứng chứ không ngồi, chiếc mũ đại cán vẫn chụp trên đầu, bộ dạng như kẻ chạy thợ thuê cho công trường hay nhà máy. Chẳng những anh ta xoa hai tay vào nhau lia lịa mà đôi cẳng chân anh ta cũng rung rung liên hồi khiến tấm thân lắc lư một cách kì cục.
Không ngẩng đầu lên, chủ quán đáp :
- Ờ, rét thật.
Vẻ như nhắc lại một điệp khúc. Đoạn ông cụ rút thùng nhựa, rót rượu vào chiếc chén cũ trong đám chén sứt mẻ, đen xì cắn chè.
Khách tợp một hơi cạn, đoạn chìa chiếc chén ra :
- Chưa mùi mẽ gì, cho tôi chén nữa.
- Ồ, rét tháng hai mà rét gớm rét ghê...
Ông lão đế theo và rót chén rượu thứ hai.
Vũ lẳng lặng nhìn họ, và lẳng lặng theo đuổi những suy tư của ông :
― Chúng ta làm cách mạng để giải phóng con người, nhưng rút cuộc cả xã hội chỉ còn là một tấn tuồng thảm hại, trong đó người lương thiện và trung thực chẳng còn đất sống...Kẻ tồn tại được ắt phải gian manh, phản trắc. Hoặc ít nhất, người dân thấp cổ bé họng như ông lão này, phải coi lối sống hai mặt như một thứ áo giáp tuỳ thân. Thời ta còn thiếu niên, con người không xấu xa dường này. Chính xã hội mới đẩy họ xuống dốc.
- Thôi, chào bố già nhé. Mai con ghé qua trả tiền.
Người khách nói to, đoạn đặt chiếc chén rỗng xuống chõng, đi ra.
Vũ chờ cho anh ta đi xa, lên tiếng :
- Khách của cụ toàn uống rượu chịu như thế hay sao ?
- Không phải chịu, mà là quỵt. Nó nói vậy nhưng chẳng bao giờ trả một xu.
- Tại sao vậy ?
- Ồ, rõ ra bác chẳng phải người hay lê la ở quán xá. Vừa thoạt nhìn thấy bác tôi đã đoán rồi. Thằng ấy thời Tây gọi là anh-đi-ca-tơ. Mình không thí cho nó vài chén, nó lại kiếm chuyện bẩm báo với mấy lão ở đồn công an, rách việc.
- Ồ... Vũ buột tiếng kêu. Ông lão đắc ý gặng hỏi :
- Tôi đã bảo bác chẳng phải người quen lê la quán xá. Điều ấy đúng hay không ?
- Cụ đoán chính xác. Tôi vốn chẳng nhiều thời giờ để rong chơi. Hôm nay đau đầu quá nên mới tìm lối đi giải khuây.
- Thế đấy! Đời mà. Ai chẳng có những chuyện đau đầu, đứt ruột.
Ông lão hạ giọng an ủi, và một vài giây sau,chừng như muốn bộc lộ sự cảm thông một cách hiệu nghiệm hơn, ông nói tiếp :
- Bác có nhắp thêm một chén nữa không ? Lần này, tôi đãi.
- Cảm ơn cụ, tôi vốn không phải người mạnh rượu, dù rượu ở đây là tuyệt hảo.
Vũ đáp.
Ngay lúc ấy, ông thấy vợ dắt xe lên hè. Từ xa, ông đã thấy bà xanh xao, và vì trời rét, bà choàng một chiếc khăn len lớn màu lam khiến gương mặt bà càng thêm rầu rĩ. Vũ đứng lên:
- Trời rét thế này, em ra đường làm gì ?
Bà ngước nhìn ông lặng lẽ và trách móc.
Ông lão chủ quán, dường như đoán trước tình cảnh của họ, liền nói :
- Bác gái đưa xe cho bác trai dắt sang bên kia hè. Để ở đấy, tôi bảo đảm không trộm cắp nào dòm ngó nổi.
- Cảm ơn cụ.
Vân trả lời và đưa xe cho chồng. Rồi bà ngồi vào quán, rùng mình liên tục bởi gió lạnh. Chủ quán vồn vã mời :
- Bác dùng một chén vối hãm gừng cho ấm bụng.
- Cảm ơn cụ. Ở đây còn có cả nước vối hãm gừng ?
- Có đủ. Bởi tôi nhiều khách quen. Các bà ấy chỉ chuộng nước vối hãm gừng thôi.
Nói đoạn, ông cụ lại cúi xuống chõng, kéo ra một chiếc hộp khác, trong đó đựng những chiếc chén gốm nâu sậm, điểm hoa văn màu vàng ốc. Lúc ấy , Vũ đã quay trở lại, ngạc nhiên vì thấy cụ chủ này giống một nhà ảo thuật với đủ loại thùng, hộp giấu dưới gầm chiếc chõng tre. Ông cười :
- Cụ còn có bao nhiêu thứ hộp nữa để đựng các loại chén khác nhau ?
- Tôi đã nói với bác rồi : Quý nhân phải xứng với quý vật. Người đẹp thế kia ai nỡ bán nước trong chén sành ?
- Ồ, cụ quả thật là người lịch lãm.
- Ông quá lời khen. Tôi chỉ là kẻ chân đất, được đẻ vãi trên đê Yên phụ. Cha mẹ tôi không giầu, nhưng cũng đủ tiền cho tôi học qua xép-ti-phi-ca. Song le người ta đã bảo. Dẫu không thanh lịch, cũng người Tràng an.
Ông cụ cao giọng gần như ngâm nga, gương mặt đầy kiêu hãnh. Vân cất lời :
- Chắc thời trẻ bác phải là người đa tài lắm.
- Ồ, không dám. Bác quá khen. Nhưng quả tình là thời tráng niên tôi cũng chẳng đến nỗi nào....Pas mal.
Ông cụ lại nói tiếng Pháp khiến cho cả hai vợ chồng Vũ kinh ngạc. Vũ mỉm cười :
- Cụ vẫn nhớ được tiếng Pháp ? Thật kì lạ, những người cùng thời với cụ có bao nhiêu chữ nghĩa đều đã giả thầy.
- Già nửa thế kỉ rồi còn gì, óc đã cùn, lưỡi đã nhụt...Nhưng vẫn còn vài chữ lõm bõm sót trong đầu. Giống như mầm rau muống ruộng tháng giêng...Chả vì họ vẫn đe doạ tiếng Pháp là ngôn ngữ của kẻ thù, nên tôi chơi ngông, thi thoảng nói dăm ba tiếng, xem họ làm gì tôi ?
- Cụ không sợ người ta mách lẻo hay sao ?
- Mách lẻo mấy bình rượu thì tôi còn phiền chứ mách lẻo mấy cái tiếng Tây giả cầy này thì tôi chẳng coi ra gì. Tôi đâu phải quan chức nhà nước mà sợ liên luỵ. Đã là thằng đít đen ngồi bán nước ở vỉa hè, hạng lê dân xếp ở tận cùng đáy vực rồi, còn chỗ nào thấp hơn mà lo rơi xuống ?
Ngừng lời, ông cụ lại mỉm cười, nụ cười dân ven đô.
Rồi cả ba người bất đều im lặng, mỗi người theo đuổi ý nghĩ của riêng mình.
Lúc đó, một người đàn bà rất trẻ nhưng đã to béo, da đỏ au au bước vào. Chị ta đon đả cất tiếng chào mọi người rồi quay lại hỏi chủ quán :
- Ông lão dọn hàng đều như vắt chanh. Trời rét thế này sao không quấn chăn mà ngủ cho sướng ?
- Ngủ được như chúng mày hoạ có là trai tơ, chẳng còn là ông lão.
- Là ông lão nhưng còn khối bà lão dòm ngó đấy. Chỉ nội làng Yên phụ tính sơ sơ cũng đã có bẩy bà.
- Thui cái mồm mày đi, quen thói nói láo.
- Ông thui mồm cháu, lấy ai hót cho ông vui ? Lấy ai mang bánh dầy, xôi nén của mấy bà nạ dòng đang cố sức ve ông cho ông xơi hàng ngày ?
Nói xong, người đàn bà cười ré lên tinh quái khiến cả ông chủ quán lẫn vợ chồng Vũ cũng phải cười theo. Những múi thịt rung rinh trên tấm thân vạm vỡ, mặt đỏ tưng bừng trong một nỗi vui sướng mộc mạc, người đàn bà khiến cho ngôi quán nhỏ ấm lên. Dứt cơn cười, chị ta rút ra chiếc khăn tay lau mồ hôi lấm tấm trên trán và nói :
- Con đi đây. Chiều thằng bé ghé qua ông cho cháu ăn cơm với.
- Cứ yên tâm mà đi, không phải dặn.
Ông cụ mắng.
Người phụ nữ trẻ lại nhoẻn miệng cười :
- Dạo này ông lão hách ghê. Mới hai tuần vắng ― các nàng hỏi han đã đâm ra cấm cảu.
Nói xong, không chờ cho ông cụ phản ứng, chị ta quay lại chào:
- Hai bác ở chơi nhé. Em xin kiếu.
Rồi, cũng không chờ họ đáp lời chị ta te tái chạy sang hè bên kia ,nhấc càng chiếc xe bò rau muống đẩy xuống lòng đường. Sau khi đã quay xe ngược về phía Quảng bá, chị ta phăm phăm kéo xe đi.
Vũ nhìn theo :
- Người phụ nữ này khoẻ thật, và chắc hẳn là người rất tốt bụng.
Ông lão đáp :
- Trông mặt đã bắt hình dong. Tươi cười như thế nhưng goá chồng đúng năm hai mươi tuổi. Một mình nuôi ba đứa con. Chẳng việc gì từ nan. Làm quần quật như trâu từ lúc tinh mơ cho tới lúc tối đèn. Vậy mà chẳng bao giờ hé miệng thở than một tiếng.
- Vì sao chồng chị ta chết trẻ như vậy ?
- Cả hai đứa đều là người làng tôi, chơi với nhau từ thuở mặc quần thủng đít, lớn lên vừa đủ mười tám tuổi là kết hôn. Đẻ sòn sòn năm một. Đến khi con vợ mang thai đứa thứ ba thì thằng chồng nhập ngũ. Chưa kịp đặt chân vào chiến trường, vừa vượt qua biên giới Lào-Việt đã bị bom dập chết rồi.
Ông lão ngừng lời, cúi xuống tự rót cho mình một chén trà mạn và uống ừng ực như muốn nuốt trôi một nỗi niềm.
Vũ im lặng hồi nhớ tấm Pan-nô treo trên ngã ba đường Quảng bá :
― Anh Cả có lý khi cho rằng cuộc chiến tranh này rồi sẽ là sự hối tiếc lớn nhất của lịch sử. Rằng nỗi thất bại cay đắng nhất trong cuộc đời ông cụ là không thể ngăn cản nó. Đối với ông cụ, cuộc chiến tranh này hoàn toàn giống như cuộc trảm quyết dưới hình thức phanh thây. Nó chính là bốn cỗ xe ngựa oan nghiệt của định mệnh, và dân tộc này là kẻ bị phân thây.
Bỗng nhiên, tiếng còi xe vang lên dập dồn, inh ỏi ngoài phố. Vũ bước khỏi quán, đưa mắt nhìn. Hoá ra một đoàn xe quân sự đang bị cản lại vì đám xe thồ chở vôi sống dựng kềnh càng ngay trên lòng đường. Những người phu thồ hẳn đang dừng ở quán chè nào đó làm ngụm rượu cho ấm bụng, nghe tiếng còi ô-tô liền vội vã bước ra đẩy xe vôi lên vỉa hè. Giây lát sau, đoàn xe được giải phóng ầm ầm phóng qua, xe nào xe nấy trùm kín dù nguỵ trang trên lần mui bạt.
Ông lão chủ quán đưa mắt nhìn theo làn bụi tung bay trên đường phố, bảo vợ chồng Vũ :
- Hai bác chẳng thể ngồi đây lâu, nơi quán xá ồn ã ô hợp lắm. Chỉ lát nữa đám thợ xây, thợ mộc sẽ ghé vào. Tốt nhất là tôi dọn cho hai bác ấm chè nóng với cái hoả lò vào gian nhà sau. Tôi chẳng nhiều tiền nhưng nhà đất thì khá rộng.
- Cụ đúng là người vừa giầu tình vừa chu đáo. Chúng tôi chẳng biết nói sao cho đủ lời cảm ơn.
- Không cần khách khí. Tôi cũng chẳng mấy khi gặp được người đáng để nói những lời tự ruột gan mình.
Ông lão đứng phắt dậy với vẻ nhanh nhẹn ngoài lứa tuổi. Sau khi chuẩn bị khay chè mạn, ông cụ đưa cặp khách quý ra phía sau :
- Bố mẹ tôi để cho tôi cả mảnh vườn trên ngàn mét đất, tưởng tôi con đàn cháu đống, sau này sẽ dựng thêm nhà. Các cụ chẳng ngờ tôi có số độc thân, nội mấy gian nhà các cụ để lại đã mệt công chăm sóc.
Ông giải thích, khi đưa họ đi qua ba gian nhà trên , rồi qua một mảnh sân lát gạch lá nem tới ba gian nhà sau, quay thẳng ra hồ Tây. Đây chỉ là nơi uống trà hay ngắm cảnh. Gian chính giữa đặt bể thả cá vàng, bên trên có hòn non bộ lẫn cụm si cảnh.
- Ồ, sân rộng nhường kia sao cụ chẳng đặt bể cá bên ngoài ?
Vũ cất tiếng.
Ông cụ đáp :
- Tôi biết đặt bể cá ngoài sân là thuận mắt, nhưng hàng xóm có con mèo ma. Bất cứ bể cá vàng nhà ai đặt ngoài sân nó cũng lẻm sạch.
Vũ chưa từng nghe chuyện mèo bắt cá cảnh bao giờ, nhưng ông không dám hỏi thêm. Cụ chủ quán đặt khay trà lên chiếc bàn thấp, kê giữa hai chiếc ghế bành :
- Các bác ngồi đây, có thể vừa ngắm cảnh hồ, vừa trò chuyện. Ở đây kín gió, nhưng tôi sẽ mang cái hoả lò nhỏ vào vì trời rét. Ngoài quán, tôi còn chiếc lớn hơn để đun nước pha trà.
Ông cụ quay đi rồi lát sau mang chiếc hoả lò đỏ rực than đặt trước mặt họ :
- Chừng hai tiếng nữa, có đứa bán rong bánh dầy, xôi nén, các bác có cần tôi gọi nó vào đây.
- Dạ, cảm ơn cụ. Như thế này đã là quá đầy đủ. Lát nữa, nếu đói bụng chúng tôi sẽ cầu cứu.
Vũ đáp.
Ông cụ vừa mỉm cười một cách toại nguyện, vừa giơ tay gãi chòm râu dài tới ngực. Chờ cụ đi khuất, Vũ bảo vợ :
- Bây giờ, là chuyện của chúng ta. Một khung cảnh thơ mộng như thế này mà phải nói những chuyện buồn, kể cũng là đáng tiếc.
Vân im lặng xoay sở trong chiếc ghế bành quá rộng. Sau rốt, tìm được chiếc chăn nhỏ cuộn lại để lót lưng, bà dựng nó áp sát vào lưng ghế, rồi ngồi tựa lên đó. Vũ đưa mắt nhìn những vết thâm hiện lên dưới mắt vợ :
- Có chuyện gì khẩn cấp để em tìm anh vào lúc trời rét mướt thế này ?
- Em là vợ anh, thế chưa đủ hay sao ?..
Bà hỏi vặn lại, giọng thách thức.
Ông không trả lời, quay nhìn ra hồ. Từ cuộc nói chuyện ở bãi ngô ven sông Hồng trở lại, họ không còn nằm chung giường. Ông dọn xuống tầng dưới, làm việc trong phòng khách và ngủ trong phòng trẻ con vì chúng đã quay lại nơi sơ tán. Nhưng một lần, nhìn thấy ông nằm trên chiếc giường của Trung chứ không phải giường của con trai họ, bà đã hét lên :
― Em biết vì sao anh phải nằm trong chiếc giường ấy. Anh có cách giải thích nào khác khi một người cha không chọn hơi ấm của chính con mình ?
Ông đáp lạnh lùng:
― Vì nó chẳng có hơi ấm mà chỉ có mùi hôi.
Bà không thể cãi vì Vinh mắc bệnh hôi nách, thứ bệnh di truyền từ bà Tuyết Bông tới cậu Tùng rồi đến con trai họ. Không những hôi nách mà còn mồ hôi dầu. Cứ qua một ngày không tắm là các nếp áo đều khét, bết đen bụi bẩn. Tuy nhiên, để tránh những cơn ghen bệnh hoạn của bà, ông cho người đem về nhà một chiếc giường bạt gấp. Từ đó, đêm đêm ông ngủ trong góc phòng khách, với tấm màn xanh cũ quây lại hình thước thợ che chiếc giường tạm bợ. Như thế, chỗ ngủ của ông sơ sài như nơi qua đêm của một thứ khách từ quê ra, hoặc của một gã lính nghỉ phép đột xuất.
Còn lại một mình, bà đã treo tấm màn đăng-ten đẹp nhất với những hình thêu Uy-kơ-ren nổi tiếng thay cho tấm màn xanh. Bà cho thay chiếc đèn cũ bằng chùm đèn lộng lẫy nhất gửi mua ở Mạc-tư-khoa. Bà tậu một bộ sa-lông giống hệt sa-lông trong phòng khách sứ quán Liên-xô. Bà cũng cho người mang về chiếc Ra-đi-ô hiệu Ri-gông-đa, với những đĩa nhạc của giới sành điệu. Rồi bà sắm một chiếc tủ kính mới, để trưng bày các loại ly cốc pha-lê Bô-hêm-me, các loại tách chén sứ Tàu, men mỏng như giấy lụa, có thể nhìn thấu chất nước đựng bên trong. Đối diện với chiếc tủ ấy là một búp-phê đồ sộ, trong đó bày các loại bánh kẹo lẫn các loại rượu nước ngoài, những thứ hàng được xách tay từ Mạc-tư-khoa, Pra-ha hay Bou-đa-pet, nơi chốn đáng thèm muốn nhất của đám nhân viên bộ ngoại giao, và là đồ xa xỉ tuyệt đối bất khả hình dung với mấy chục triệu dân đen đang hàng ngày xếp hàng đong gạo mốc. Căn phòng ngủ của bà không đủ sức chứa quá nhiều thứ, bà lấn chiếm luôn căn buồng làm việc cũ của ông, bằng cách cho thợ đục rộng gấp đôi khuôn cửa, thay cánh cửa gỗ lim bằng tấm bình phong mặt đá. Sau cuộc cách mạng ấy, căn phòng ngủ của bà không còn là nơi ngủ mà đã thành phòng khách lộng lẫy, sáng trưng, đầy vẻ mời mọc. Đêm đêm, bà bật ngọn đèn chùm ba tầng, thứ đèn chỉ dành cho đại sảnh, để ngắm bóng mình phản chiếu trên những ô cửa kính. Hoặc bà mở hết cỡ những đĩa nhạc, rồi nằm lên giường bịt tai lại cho khỏi đứt màng nhĩ. Khi thấy những ô cửa sổ hàng xóm lần lượt mở ra, và những cái đầu thò ra khỏi các ô cửa đó nhìn về phía căn nhà của bà với nỗi căm ghét không che đậy, bà lại sợ hãi tắt vội đi. Tất thảy những gì bà làm để khiêu khích ông đều vô hiệu. Có lẽ tình yêu của ông dành cho bà đã chết. Nó chết đuối ở sông Hồng. Giờ đây nó chỉ còn là một thây ma thối rữa dưới đáy phù sa. Nhưng ngược lại, bà không thể không yêu ông, nói cho đúng hơn, bà không ngừng yêu ông bất chấp mọi sự ngang trái đã xảy ra giữa hai người. Có thể là những ngang trái ấy còn khiến bà yêu ông hơn nữa, cảm thấy thiếu ông nhiều hơn nữa. Sự hung bạo và khốc liệt của thứ ái tình này là nỗi bất hạnh. Bởi ở tuổi xế chiều lẽ ra người ta phải sống với nhau bằng một mối tình êm ả, xe kết từ những tháng năm quá vãng.
Nhiều lần, bà tự nhủ :
― Ta đã có tất thảy. Chỉ còn một việc ta chưa dám làm mà thôi. Hãy thử xem sao.
Nhưng mới chỉ nghĩ đến điều ấy, mặt bà đã nóng bừng vì hổ thẹn. Cái điều bà muốn thử, chính là cung cách mà bà thường cao giọng phỉ nhổ, ấy là lối sống của con mẹ Tư hàng cá, nổi danh không chỉ những trong đám quan lại mà còn khắp các phố phường.
Tuy nhiên, bà không ngờ rằng ông, thờ ơ với tất thảy những trò bà đã làm, lại chính là người đầu tiên nói thẳng ra sự thật. Một bữa cơm trưa, họ lẳng lặng ngồi ăn, mỗi người nhìn đi một hướng, như tất thảy những bữa cơm từ ngày họ ly thân, ông bất chợt quay lại bảo bà :
- Em đã làm đủ thứ...Còn khâu cuối cùng, sao không hoàn thành cho trọn bộ ?...
- Anh muốn nói gì ?
- Anh không phải kẻ tò mò, nhưng vì còn bỏ sót một cuốn sách trong ngăn kéo đầu giường nên sáng nay bắt buộc phải trèo lên lấy. Anh thấy em đã có một phòng khách giống hệt phòng khách của con mẹ Tư hàng cá. Vậy còn việc cuối cùng, sao không thử nốt ?
- Anh muốn sỉ nhục em hay sao ?
Bà hét lên.
Ông đáp thản nhiên :
- Trên đời này chẳng ai làm nhục nổi ai. Chỉ có con người tự bôi nhọ bản thân họ mà thôi.
Bà không thể nói thêm, nhưng con tim công phẫn :
« Ai cũng chỉ có một cuộc đời. Tội gì không hưởng. Chỉ có những kẻ ngu ngốc hoặc thui chột điều gì đó nơi bản thân mới không tìm cách sống. »
Rồi sau đó, bà tự nhủ :
« Ta sẽ làm ! Ta sẽ làm ! lúc ấy chớ có kêu than... »
Và bà hình dung căn phòng khách lộng lẫy của mình sẽ dập dìu lũ trai tơ, sẽ vang lừng tiếng nhạc, rượu đỏ và sâm-banh sẽ tuôn như suối. Cuộc hành lạc không chỉ còn trong phim ảnh mà sẽ xảy ra dưới ánh đèn chùm.
Những cuộc trả thù tưởng tượng như thế chỉ sống được đôi ba khoảnh khắc, bởi sau đó, bà tự nhìn thấy mình trong vai người đàn bà xấu xí sa đoạ kia, và hình ảnh ấy khiến bà buồn nôn. Bà quay trở lại địa ngục của bà, một tình yêu bất khả vãn hồi và bất khả quên lãng.
- Em uống trà đi cho ấm.
Thấy vợ lặng thinh, Vũ rót nước đưa cho Vân. Bà đón chén nước trên tay ông, chẳng nói lời cảm ơn cũng chẳng chối từ, đưa lên miệng uống từng ngụm lớn. Ông tự rót cho mình chén thứ hai, rồi cũng uống trong lặng lẽ. Trước mặt họ, hồ Tây trải một màu xám bạc. Không mảy may bóng du thuyền. Chỉ có đám thuyền chài đang bập bềnh trên làn nước, trong cuộc giành giật khắc nghiệt với mưu sinh. Gió dữ, những vàng lưới vừa tung lên gió đã thổi dạt vào lòng thuyền, khiến những con thuyền chao đảo, mũi chúi xuống như sắp bị nhấn chìm. Người ta lái thuyền lượn theo vòng tròn để gỡ lưới và tránh gió. Cứ như thế, cuộc sống tiếp tục. Vũ ngắm nhìn cảnh tượng ấy, thầm hỏi :
― Nếu như ta sống cuộc đời của người dân chài kia, liệu ta có sung sướng, hoặc ít ra có được thanh thản hơn không ?
Nhưng những câu hỏi như thế chẳng bao giờ tìm được lời giải, nên ông lại tiếp tục uống cạn chén trà và nhận thấy Vân đang nhìn mình:
- Nước trà đổ vào ống tay áo anh rồi kìa. Vải ấy không tẩy được đâu. Tẩy là rách.
- Xin lỗi...Anh không để ý.
Ông đáp, và nói thêm :
- Em quả là người chu tất...về phương diện vật chất.
- Còn về phương diện tinh thần, em là con số không, là kẻ tồi bại. Có phải đó là điều anh muốn nói hay không ?
Bà vặn lại, quắc mắt nhìn ông với tư thế của kẻ sẵn sàng lao vào cuộc đấu. Nhưng trong lúc ấy, mặt bà lại tái nhợt và tim đập liên hồi. Ông nhìn bà, với một chút bỡ ngỡ, một chút ngại ngần, và không tránh khỏi, một chút thương hại :
- Anh có cần nhắc lại câu nói chiều qua không ? Chiều qua, chính em cũng có mặt lúc anh đang nói chuyện trong phòng khách. Ông cụ chúc mừng anh vì có được người vợ như em, vừa đẹp người vừa đẹp nết. Em biết rằng từ hồi trên chiến khu cho tới tận lúc này, ông cụ vẫn là người ngưỡng mộ em một cách thành thực.
Bà đỏ mặt, không đáp.
Ông nhắc lại :
- Hay em nghĩ rằng ông cụ làm ngoại giao ?
Bà im lặng.
Ông tiếp :
- Em không dám trả lời vì em biết rằng điều ông cụ nói là hoàn toàn thật bụng. Danh hiệu ― Hoa khôi chiến khu― lẫn ― Mỹ nữ Hà thành― chính ông cụ đặt cho em chứ không phải ai khác. Điều ấy đúng hay sai ?
Bà không đáp.
Ông cười :
- Hôm qua, anh nhắc lại lời khen ngợi ấy vì chính ông cụ yêu cầu. Ông cụ gởi lời thăm em.
- Nhưng anh đã nhắc lại một cách mỉa mai. Anh biết rõ điều đó.
Bà vùng lên phản ứng sau một hồi lâu lặng lẽ. Và ông mỉm cười :
- Anh đã nói rồi, chẳng ai có thể làm nhục được con người trừ bản thân họ. Cũng chẳng ai mỉa mai được kẻ khác nếu bản thân sự thật không bao hàm một thứ mỉa mai.
Mặt bà trắng bệch. Rồi sau khoảnh khắc dùng dằng, bà cúi đầu nói lí nhí :
- Em cũng biết vậy. Vì thế em mới lên đây tìm anh.
- A...a...ra thế...
Ông buông tiếng kêu, một tiếng kêu hững hờ, gần như vô nghĩa. Trong lúc ấy, mắt ông vẫn không ngừng chăm chú theo rõi đám thuyền chài, mỗi lúc mỗi lướt ra xa, trên mặt nước lô nhô sóng bạc.
― Anh ấy chẳng còn đoái hoài đến ta. Anh ấy không còn yêu ta nữa, dù đôi chút.
Bà thầm nghĩ, và trong cơn tuyệt vọng, bà bất thần hét lên :
- Anh là người chồng tồi tệ. Tại sao anh không quay lại nhìn em ? Ít nhất em vẫn đang ngồi trước mặt anh, đang nói chuyện với anh. Một thứ lịch sự cỏn con cũng chẳng còn.
- A...ra vậy...
Ông ngạc nhiên quay lại nhìn bà :
- Nào, bây giờ anh quay lại nhìn em, anh cố gắng lịch sự cho vừa ý em và cố bắt chước một người thanh nhã...Như vậy đã được chưa ?
Bà không trả lời. Và ông nói tiếp :
-Giờ anh đang chăm chú nghe em. Em bắt đầu chứ ?
- Anh không thể bỏ được kiểu nói như vậy hay sao ?
- Chính anh cũng không hiểu mình bắt đầu lối nói như vậy từ lúc nào. Nhưng có lẽ nó đã trở thành thói quen khó sửa.
- Anh Vũ, chúng ta đã từng sống với nhau vô cùng hạnh phúc. Anh không tiếc những ngày ấy hay sao ?
- Anh tiếc vô cùng, nếu em muốn biết sự thật. Anh tiếc và anh khổ tâm nhiều gấp bội phần những gì em có thể tưởng tượng. Nhưng anh không thuộc loại người có thể giả vờ quên, giả vờ mù và giả vờ điếc. Đấy có lẽ chính là đầu mối mọi sự bất hạnh dưới mái nhà mình.
- Em vẫn luôn luôn yêu anh. Nếu không, mọi sự đã khác.
- Anh biết. Cảm ơn em.
Ông bất giác cất tiếng cười :
- Nhưng giờ đây, em có thể làm tất thảy mọi điều, kể cả rập khuôn lối sống của con mẹ Tư bán cá. Anh không can thiệp. Em có quyền tự do hành động theo sở thích...
- Anh không chịu hiểu sự thật. Anh không thay đổi, dù đã gần nửa thế kỉ trôi qua.
- Sự thật nào ?
- Sự thật là anh luôn luôn nhìn cuộc sống theo lối của riêng anh, chỉ riêng anh thôi. Nhưng cuộc sống vận hành theo con đường của chính nó, và vì thế lúc nào anh cũng là người phải hứng mũi chịu sào, lúc nào anh cũng phải đứng nơi đầu sông, cửa bão.
- Anh rất tiếc, nhưng con người anh là do bố mẹ anh sinh thành, tu dưỡng. Khi gặp em, anh đã thành niên, anh không thể thay đổi cho vừa khẩu vị của em.
- Bộ máy nhà nước này có vài trăm người ngang cấp với anh. Chẳng ai phải gánh chịu những nhọc nhằn thua thiệt như anh.
- Em có thể tự giải phóng em khỏi những ràng trói với anh. Em đủ tài lập lại một cuộc sống mới.
- Nhưng mà em yêu anh.
Bà lại hét lên, nước mắt lưng tròng :
- Tại sao ? Tại sao anh không chịu hiểu cái điều đơn giản ấy ?
Vũ im lặng. Một câu hỏi len lỏi trong đầu ông :
― Khi người đàn bà yêu, họ tin rằng họ đủ quyền làm mọi sự, kể cả những trò rồ dại nhất, phi đạo lý nhất. Tất thảy đều nhân danh tình yêu. Liệu đấy có thật sự là tình yêu hay chỉ là cuộc tìm kiếm những thoả mãn quyền năng tinh thần và sự lấp đầy các khát khao thể xác bằng phương tiện được chọn lựa ? Tình yêu, có lẽ là danh từ hàm hồ nhất, bị lạm dụng nhiều nhất và dung chứa nhiều ẩn số nhất trong từ điển của nhân loại.
Vân khóc. Bà rút khăn tay xì mũi trong lúc ông kiên nhẫn xoay chiếc chén rỗng trong lòng tay. Chỉ còn tiếng gió hú trên mặt hồ. Mỗi cơn gió quạt, chiếc lò than lại hồng rực lên, nổ lép bép. Những viên than quả bàng cháy đỏ, gần như trong suốt. Hơi ấm lan toả, vây quanh họ. Vũ cúi nhìn chiếc hoả lò, chờ đợi. Nhưng vì vợ ông khóc khá lâu nên ông tự rót cho mình chén trà nữa.
- Em đã nguôi cơn chưa ?
- ...
- Chúng ta đã già, không cần la hét như vậy. Anh không muốn cụ chủ quán cho rằng chúng ta là những kẻ đầu óc bất thường.
- Em chỉ muốn một điều thôi. Điều duy nhất em muốn là chúng ta hãy thương yêu nhau như ngày xưa. Như thời xưa. Như chúng ta đã từng sống.
- Anh cũng muốn vậy. Nhưng thời gian không quay trở lại. Thời gian có quy luật riêng của nó, cũng như em vừa nói, cuộc đời chỉ đi trên con đường tự nó vạch lối mà thôi.
- Em có thể làm mọi điều anh muốn, miễn là anh yêu em như xưa.
- Cảm ơn...Nhưng anh tin chắc rằng em chỉ có thể làm mọi điều theo ý em, và vì em...
- Anh muốn nói tới căn phòng khách tầng trên.?..Em có thể cho thợ hốt hết mọi thứ đổ ra bãi rác ngay ngày mai...
- Điều ấy chỉ gây thêm tai tiếng. Em từng biết thiên hạ nhìn những người đàn bà kiểu đó ra sao .
- Vậy anh muốn em làm gì ?
- Anh không thể muốn, vì điều anh muốn với em là bất khả.
- Bất khả là vì anh luôn luôn nhìn sự vật ngược chiều với tất thảy mọi người. Hồi trên chiến khu cũng đã như vậy. Điều mà tất cả mọi người cho là đương nhiên, anh quyết liệt phản đối. Điều mà mọi người cho là bất khả, anh tìm cách làm cho bằng được.
- Anh chẳng hiểu em muốn nói gì ? Thực tình là chúng ta gần như không còn nói một ngôn ngữ chung. Kì quái! Em thử cắt nghĩa xem sao ?
- Anh đừng vờ vĩnh.
Bà lại bắt đầu to tiếng. Ông quay nhìn về phía sau để bà dè chừng cụ chủ quán có thể nghe rõ cuộc cãi vã của họ. Bà ngừng lời, uống nốt chén trà nguội để lấy lại bình tĩnh. Đoạn bà tiếp tục :
- Hồi trên chiến khu mọi người đều hài lòng với việc chọn cô Minh Thu cho chủ tịch. Một mình anh phản đối quyết liệt cho đến phút cuối cùng. Một mình anh bỏ phiếu bầu cô Thanh Tú. Anh còn nhớ cuộc đi tuyển quân dưới mấy tỉnh đồng bằng hay không ? Chính anh Sáu đã ra chỉ thị ấy để mọi sự trót lọt.
- Anh nhớ. Ngay hồi ấy anh đã hiểu rằng người ta cố tình đẩy anh đi vắng để làm mọi điều họ muốn.
- Nhưng đó là việc riêng của tổ chức, việc của ông cụ. Đâu phải phận sự của anh ?
Ông đưa mắt nhìn vợ, như nhìn một người đàn bà xa lạ đến từ xứ sở nào đó, từ sa mạc Sa-ha-ra hay quần đảo Ăng-ti-bê chẳng hạn. Và bà đỏ mặt lên trước cái nhìn của ông. Bà lặp lại, vẻ ít tự tin hơn :
- Đấy là việc của tổ chức. Em nói như vậy là sai hay sao ?
Ông chậm rãi hỏi :
- Này Vân, nếu anh chột mắt, anh vẩu răng, anh lùn một thước như những chú lùn hề xiếc. Liệu em có yêu anh, có lấy anh không ?
Bà im lặng.
Ông nhìn bà chăm chú và hỏi tiếp :
- Hoặc nếu anh mắc chứng bạch tạng, anh bị bệnh còi xương, anh có những bàn tay bàn chân sáu ngón, liệu em có lấy anh không ?
Bà không trả lời, quay mặt nhìn ra hồ Tây.
Ông tiếp tục cuộc dồn đuổi :
- Anh vẫn nhớ kỉ niệm ngày đầu. Khi anh gặp em, cô nữ sinh phố huyện đứng tựa lưng vào cửa, đôi mắt mơ màng, cuốn ―Thằng gù ở nhà thờ Đức bà trong tay. Có lẽ anh đã yêu em khởi từ hình ảnh đó. Giờ anh hỏi, nếu anh chính là thằng gù Qua-si-mô-đô, liệu người đẹp Tố Vân có bằng lòng làm vợ anh hay không ?
Bà tiếp tục nhìn ra hồ, không đáp.
Và ông hỏi tiếp :
- Những điều em không muốn, tại sao em bắt người khác phải chịu ? Tại sao em áp đặt sở thích độc ác của mình lên một người tử tế với em như ông cụ ? Phải chăng chính em đã gợi ý cho bà hội trưởng tiến dẫn cô Minh Thu ôm chăn chiếu đến nhà sàn ?
Vân quay lại, nhìn chồng, và trả lời, với vẻ hồn nhiên xen lẫn ngạc nhiên :
- Bởi anh Sáu mời em lên, hỏi ý kiến. Bởi mọi người đều đồng tình với gợi ý của em. Bởi ông cụ chẳng phải là người bình thường. Anh không nhận ra điều ấy hay sao ?
- Ông cụ là chủ tịch nước. Ông cụ là linh hồn của cuộc kháng chiến. Còn gì nữa ?...
- Ông cụ là cha già của dân tộc...Anh đã quên danh vị ấy.
- Thì sao ?
- Anh hỏi ngớ ngẩn. Đã là cha già dân tộc, ông cụ không thể sống như những người bình thường...Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt chứ ? Anh là người học hành thông minh như thế, sao cái điều cỏn con cũng không hiểu nổi ? Anh Sáu và bao nhiêu người khác nữa đã từng hỏi em như vậy ?
- A...a...a...
- A ...a...a...a...a...a...a...
Tiếng sấm nổ bùng trong đầu ông. Không chỉ một hồi mà là liên hồi. Những chuỗi sấm rền vang như những hồi sấm định mệnh nổ ngày tận thế. Vũ có cảm giác rằng hàng nghìn chuỗi mìn dây đã được gài đặt trong óc não ông, giờ đây, khi trái mìn đầu tiên bùng nổ, chính tiếng nổ của nó kích thích trái mìn thứ hai. Cứ như thế phản ứng dây chuyền tiếp tục.
Trong cơn giông, những tia sét bao giờ cũng bừng lên trước khi tiếng sấm xuất hiện. Phản ứng ấy xảy ra đối với ông, theo chiều ngược lại. Những tiếng sấm nổ ra trước, sau đó mới tới những chùm lửa điện sáng loà. Bầu trời quá vãng được rọi chiếu bởi những làn ánh sáng chói chang. Tất thảy sự vật hiện lên rõ ràng đến từng nét cắt, như núi non hiện lên nơi chân trời trong vắt mùa thu, như vườn tược hiện ra khi sương mù bị quét sạch dưới cái nắng chói chang tháng sáu.
― Giờ ta mới hiểu thứ lô-gic của người đời , đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt. Đã được phong thánh, đã là cha già dân tộc thì không được quyền hưởng hạnh phúc bình thường. Vì thế mà họ ấn cho ông cụ cô gái già quá lứa, người đã được kêu gọi gả chồng khắp lượt, như thể kêu gọi cuộc quyên góp làm từ thiện, từ thành đoàn đến các hội đoàn khác mà không ai chịu rước đi cho. Cô gái già, ba mươi tám cân, ba mươi tư tuổi.
Tại sao họ không nghĩ rằng ông cụ chính là một quân vương ? Một vị vua thời xưa có quyền được thoả mãn mọi nhu cầu thân xác, thậm chí đến mức tàn bạo và phi lý. Nếu ông cụ có một người vợ trẻ, đó cũng chỉ là một hưởng thụ quá đỗi khiêm nhường ?
Tại sao họ không nghĩ rằng nếu ông cụ được hưởng một chút hạnh phúc cỏn con thì thể chất lẫn tâm hồn ông cụ càng hoàn hảo và như thế, có thể đóng góp nhiều hơn cho dân tộc ?
Tại sao họ có thể tự cho mình quyền hành hạ một cách biển lận con người mà họ phải núp sau lưng để tìm được sự trợ giúp tinh thần cũng như sự thụ đắc quyền lực ?
― Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt...„
Chính trong cái lô-gic này biểu thị sở thích độc ác của nhân loại. Một sở thích ẩn chứa tính đố kị lẫn thói ghen tuông. „
Một nghi vấn chợt đến. Ông quay lại nhìn vào mắt bà :
- Giờ anh đã hiểu mọi sự. Ngày ấy anh đã tin một cách thành thực rằng em cũng xuống núi làm công tác địch vận trong lúc anh vắng mặt trên chiến khu. Giờ anh biết rằng em không đi đâu hết. Em đã ở lại để hoàn tất vai trò cố vấn, để dồn bằng được cô Minh Thu đến ngôi nhà sàn của chủ tịch. Bởi nếu em không chớp thời cơ để đặt mọi người vào thế đã rồi, ắt thành đoàn sẽ cử cô Thanh Tú sang ?
Bà không đáp, nhưng cái nhìn của bà thú nhận sự thật.
Ông hỏi tiếp :
- Em đã tập thói nói dối từ bao giờ ?
Bà quay mặt đi.
Ông hỏi tiếp :
- Tổng kết lại, cuộc đời em có bao nhiêu lần dối trá ? Bao nhiêu lần kể từ ngày em khôn lớn ? Bao nhiêu lần kể từ ngày chúng ta thành vợ thành chồng ?
- ....
- Bây giờ anh mới hiểu rằng anh chính là một thằng ngu ngốc. Nhưng chưa hết. Sau anh, còn một người khác nữa cũng thậm ngu. Chỉ thậm ngu mới có thể đem lòng tin yêu và ngưỡng mộ một kẻ nhẫn tâm với mình như vậy. Ngay tối nay, anh sẽ gọi điện cho ông cụ, nói trắng ra rằng : Anh Cả ơi, anh chớ tưởng anh là người khôn ngoan, chín chắn. Anh không biết rằng anh chính là một thằng ngu, đại đại ngu.
Vân cúi mặt xuống, hai gò má trắng xanh.
Rồi những giọt nước mắt lần lượt chảy dài trên gương mặt đẹp một cách tàn héo của bà. Những nếp nhăn hiện lên sau đuôi mắt. Những chuỗi nếp nhăn ngắn hơn nhưng đậm hơn xếp hàng quanh làn môi xưa kia hồng thắm nay tái nhợt dưới lớp son màu mận già.
Còn ông, ông khép chặt hai vạt áo vì rõ ràng một cơn xốc tinh thần kéo theo cả một cơn đau thể chất. Bỗng nhiên, cả vùng ngực lẫn thượng vị của ông đau quặn từng cơn. Ôm bụng, ông nhớ lại gương mặt bà mẹ , thời ông vừa phải lòng Vân. Dạo ấy, cha ông có vẻ thản nhiên hơn nhưng mẹ ông tỏ ra nhớn nhác thật sự. Ông thường bắt gặp hai người thì thào to nhỏ. Những cuộc trò chuyện ấy tắt ngấm khi ông xuất hiện. Rồi vài tháng sau, mẹ ông mới lựa lời thủ thỉ :
― Con ơi, người xưa dạy: Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống. Cô Tố Vân tuy dung nhan xinh đẹp, vẻ ngoài giống ông giáo Lương nhưng chưa biết được tâm tính sẽ ra sao? Việc dạy dỗ con cái trong nhà phần lớn do người làm mẹ. Bậc làm cha giống như cây cột lớn chỉ lo việc nâng nóc nhà cho vững mà thôi. Người như bà Tuyết Bông khó có thể đẻ ra một cô gái tử tế. Không chỉ mình mẹ mà các bà láng giềng cũng đều để ý rằng cô Tố Vân không giao du với ai xinh đẹp. Cô chị họ Hiền Trang vừa đẹp vừa giỏi giang hễ đến gần là cô ấy tỏ vẻ khó chịu lảng đi ngay. Cô Hiền Trang kể với người nhà rằng Tố Vân tuyên bố chỉ chơi với ai vừa xấu xí vừa ngu ngốc hơn cô ấy, giống như chọn cái nền để làm cho mình được nổi bật lên. Còn trẻ tuổi mà đã ích kỉ như vậy hẳn là người độc bụng.
Lúc ấy, ông đã tìm mọi lý do để thuyết phục gia đình. Lúc ấy, ông đang si mê. Tất cả những kẻ si mê đều mù. Giờ, ông hiểu rằng mẹ ông hoàn toàn có lý. Rằng vợ ông đã cố tình xúi bẩy mọi người chọn cô Minh Thu, và tìm mọi cách đẩy bật cô Thanh Tú cho bằng được. Vân hành động theo bản năng vị kỉ : Cô ấy muốn tôn tạo nhan sắc mình bằng hình ảnh nhem nhuốc của những người đàn bà xung quanh. Điều khốn nạn hơn cả là những kẻ khác cũng có cùng một sở thích độc ác như vậy :
―Đã no phần xôi thì phải thôi phần thịt. Người đàn bà này vừa mở mắt cho ta. Sau hơn ba mươi năm chung sống giờ ta mới nhìn rõ chân tướng con người mà ta vẫn coi là vợ.
Tim ông cuộn lên những ngọn sóng lừng. Ông cảm thấy đầu và cơ thể mình như đang tách làm đôi, cả hai phần đều dập dềnh như hai con thuyền bị dồi trên đỉnh sóng. Trong cơn chòng chành ấy, không hiểu vì sao gương mặt tươi cười của chủ tịch trở về. Đấy là hình ảnh trong đêm liên hoan mừng chiến dịch biên giới, ông cụ nâng chén chúc tụng mọi người, và nói lời sau rốt :
- Xin chúc mừng toàn bộ cơ quan, trước hết là những người đàn ông có vợ đẹp. Theo tiêu chuẩn ấy chú Vũ sẽ phải uống cạn ba chén rượu đầy.
― Thật cay đắng. Chính ông cụ là người đầu tiên phong vương cho nhan sắc của cô ta. Ông cụ không ngờ rằng vì những lời khen hào phóng ấy mà ông cụ bị hại. Người ta đầy đoạ ông cụ một cách ngấm ngầm và đầy mưu tính.
Ghìm giữ một cơn đau, ông ngẩng lên nhìn bà, cười :
- Lạ lùng thay số phận. Sao em không lấy Sáu. Em chính là kẻ tâm đầu ý hợp nhất với y ? Mai mỉa thật. Vì sao em lại chọn anh ?
- Vì em yêu anh. Vì em chỉ yêu anh thôi. Nếu không mọi sự đã...
- Nếu không giường chiếu đã sẵn sàng, và các cuộc làm tình sẽ đầy đủ tiện nghi nhất xứ sở, dù trong thời bình hay thời chiến. Anh nói có đúng không ?
- .....
- Nhưng sự trớ trêu của số phận là thường thường những kẻ có sở thích độc ác lại khó kết đôi. Bởi họ muốn bảo đảm tính độc quyền. Bởi họ muốn bảo đảm sinh mệnh cho chính họ. Với kẻ đồng mưu, họ chỉ có thể kết hợp tạm thời, còn nơi hậu trường, họ cần chọn những kẻ hiền lành ngu ngốc cho an toàn vì cuộc sống vốn lâu dài và nhiều biến động. Đó chính là lý do khiến em chọn anh, để mà yêu. Cũng tương tự như Sáu, y không chọn em mà chọn người đàn bà khác.
Bà im lặng.
Và ông chậm rãi nói tiếp, buông từng lời như muốn nghe chính những vọng âm tiếng nói của mình :
- Hơn ba mươi năm để hiểu một con người. Quả là trò chơi cay nghiệt của Tạo hoá. So với lịch sử, ba mươi năm chỉ là chớp mắt. Nhưng đối với cõi người, coi như đã cạn một kiếp nhân sinh.
Bà nhìn vào mắt ông, thấy nỗi tuyệt vọng thăm thẳm trong đôi mắt ấy...Đôi mắt người đàn ông của bà, người bà không ngừng yêu, không ngừng thèm muốn, không ngừng ước ao được sở hữu và ngự trị một cách tuyệt đối. Tháng năm không làm thay đổi những đường nét thanh tao trên gương mặt ông. Những lao lung chẳng hạ gục được con người này mà càng ngày càng đem lại cho ông vẻ đẹp. Có thể chính ông chẳng để ý đến vẻ đẹp ấy. Nhưng bà, bà đọc được nó một cách rõ ràng qua những ham muốn không ngưng cạn của chính bà và qua ánh mắt những người đàn bà xung quanh.
- Anh không còn yêu em nữa ?
Bà cất tiếng hỏi, dù biết nó lạc lõng. Nỗi lo sợ trước một sự tan vỡ hiển nhiên khiến bà mất trí khôn :
- Anh chẳng còn yêu em nữa ?
Bà lặp lại lần nữa, cao giọng hơn, với một nỗi nôn nao điên cuồng và một cơn khắc khoải bất khả che giấu.
Có vẻ như ông không nghe thấy những câu hỏi của bà...Có vẻ như ông đang sống ở một cõi nào khác. Hồi lâu, ông quay lại nhìn bà một cách mơ hồ như nhìn bức ảnh cũ hay thứ đồ vật nhỏ nhoi mốc thếch mà người ta lôi từ trong rương ra sau bao nhiêu năm quên lãng :
- Này Vân, có bao giờ em tự vấn lương tâm ?
- Anh muốn nói gì ?
- Anh muốn biết rằng em có tự hỏi em về những gì em đã làm là thiện hay là ác ? Có bao giờ em thấy lương tâm không yên ổn ? Hoặc em chẳng bao giờ có khái niệm về một thứ gọi là lương tâm ?
- Em không biết. Em sống như mọi người. Những người đàn bà khác hành động ra sao em hành động như thế.
- Dối trá. Những người đàn bà khác không thể ngồi trong phòng của Sáu trò chuyện, bầy mưu tính kế hết giờ nọ qua giờ kia. Những người đàn bà khác không biết mua chuộc và điều khiển bà Hội trưởng Hội phụ nữ bằng những mánh khoé vặt. Những người đàn bà khác cũng không được ông cụ phong danh ― "Hoa khôi chiến khu" hay ― "Mỹ nữ Hà thành".
Em không trả lời anh nữa. Anh không có quyền chất vấn em. Đây chẳng phải nhà giam Hoả Lò.
Bà cau có, nhưng hai cánh mũi đỏ hoe và những cơn nức nở đã rình rập sẵn. Bà hiểu rằng bà thua cuộc. Người đàn ông ngồi trước mặt bà chẳng còn đứng trong vòng phấn định mệnh đã được vạch ra từ cuộc hôn nhân. Ông ấy đã bước qua vòng phấn đó. Bước qua một cách rứt khoát. Bước qua vĩnh viễn. Không mảy may nuối tiếc. Cuộc truy đuổi của bà là uổng công... Nhưng lòng ham muốn của bà vì thế lại tăng lên ngùn ngụt. Giống loài sói rượt mồi, bà không bỏ dở cuộc săn. Bà cất tiếng ho, lấy khăn tay che miệng. Bà cần phải tìm một phương cách nào đấy, hiệu quả hơn. Ngoài kia, những con thuyền vẫn lướt bình lặng trên mặt hồ. Sóng lao xao. Gió lao xao. Nơi đây, gió không thể lọt vào vì lưng tường quay ra hướng bắc. Lò than vẫn đỏ rực trước mắt họ. Nhưng bà vẫn phải cất tiếng ho. Cơn ho bà rặn ra không che được mắt ông, cũng chẳng khiến ông động tâm, ít nhất là vào lúc này.
Chẳng thèm quay lại nhìn bà, ông cất tiếng :
- Bây giờ anh mới hiểu vì sao bao nhiêu năm chúng ta lận đận trong chuyện sinh con. Người đàn bà như em không thể làm mẹ. Bởi nếu em có con gái như những người đàn bà khác, chính em sẽ ghen với con em khi nó tới xuân thì, giống như mụ hoàng hậu dì ghẻ trong chuyện cổ tích ghen tuông và truy đuổi nàng Bạch Tuyết. Mẫu người đàn bà như em đã có tự ngàn xưa.
- Anh không cần nói thêm nữa. Đủ rồi.
Bà vặc lại. Nhưng ông không ngừng lời. Bà chẳng còn quyền lực đối với ông. Ngọn bùa yêu danh tiếng của bà đã hết quyền phép. Bà hoang mang cúi nhìn những ngón tay ngà ngọc của mình đeo lủng liểng các loại nhẫn, dáng nét còn thanh tao nhưng da đã nhăn mốc từng đám và nổi đầy vết đồi mồi. Trong lúc đó, ông tiếp tục trút nốt cơn uất hận :
- Có điều, những người đàn bà như em lại thiếu óc thực tiễn. Chẳng thứ nhan sắc nào tồn tại mãi với thời gian. Cái còn lại lâu bền nhất với con người, chính là tình yêu và tinh thần đạo đức.
- Đạo đức ?
Bà cất giọng cười khẩy, mặt bỗng nhiên bừng bừng như lửa :
- Người đạo đức nhất trên đời này là mẹ anh . Sao anh không ngủ với bà ấy đi ?
- A...a...a...
Ông há hốc mồm, một cử chỉ vô thức. Ông không điều khiển nổi mình. Hình như ông định cất tiếng kêu. Hình như ông định nói điều gì đấy. Nhưng một ngọn triều đen thẫm, cao lừng lững như bức tường thành , đột nhiên dựng đứng trước mặt ông, giống ngọn triều biển Quảng Ninh năm xưa, đêm bão lớn. Ngọn triều hung hãn đó bổ chụp xuống đầu ông, nhấn chìm ông dưới vực đá...
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 26: KÝ ỨC (3)
Khi Vũ tỉnh dậy, ông nằm trong bệnh viện Việt-Xô.
Ấy là giờ cơm trưa nên bệnh nhân ở tất cả các giường đều ngồi dậy chờ người nhà lấy xuất ăn về. Chiếc tủ của ông chất đầy những thứ hoa quả, bánh trái, tất thẩy đều bắt đầu héo úa bởi chưa ai đụng đến.Vũ thấy đầu nặng như đá đè. Ông cố gắng quay sang hai bên để cho các cơ bắp ở cổ mềm trở lại. Những động tác ấy khiến ông đau nhói :
― Ta già rồi...Cơn đau này quật ngã ta.
Ông thầm nghĩ nhưng vẫn tiếp tục cử động một cách kiên nhẫn. Người bệnh nằm đối diện nhìn ông :
- Bác đã tỉnh hẳn rồi chứ ? Chúc mừng nhé.
- Cảm ơn...Tôi nằm bất động mấy ngày rồi ?...
- Ba ngày rưỡi. A, phải...Bốn ngày chẵn cả thẩy. Bác nhập phòng trưa thứ bảy tuần trước. Hôm nay là thứ tư, mười một giờ rưỡi ngày thứ tư.
- Ở đây các bác đếm từng giờ ?
- Bệnh viện cũng tựa như nhà tù, một ngày dài hơn thế kỉ. Bác chưa từng nằm dài hạn bao giờ nên chưa biết.
- Thú thật. Đi thăm mọi người, tôi đã từng. Nhưng chính tôi, đây là lần thứ nhất.
- Tôi cũng nghe nói vậy.
Ông ta cất tiếng cười :
- Cứ ở đây vài tuần rồi sẽ rõ. Trước nghe thiên hạ doạ : ở trong ấy một ngày dài hơn thế kỉ, chẳng tin. Vào đến đây là chân lý sáng tỏ ngay.
- Ra thế...
Ông cũng bật cười. Ngay cái cười cũng khiến các cơ mặt vừa đau vừa co cứng. Nhưng dẫu sao, ông cũng đã tỉnh. Cơ thể ông chưa thể bị huỷ hoại trong giây phút. Đấy là phần thưởng bù trả cho một cuộc sống thanh sạch, điều độ và những bài tập khí công thường xuyên. Ông đưa hai bàn tay lạnh cứng lên xoa vào nhau, chờ cho chúng ấm nóng rồi bắt đầu đưa lên xoa cổ :
― Ta không thể chịu thua trước khi chống cự lại. Tuổi già, ta chấp nhận ngươi nhưng với tinh thần chủ động. Ta không thể là đầy tớ của ngươi.
Bác sĩ phụ trách bước vào phòng. Một người đàn ông trạc tứ tuần, trầm tĩnh và mệt mỏi. Anh ta bước tới gần giường ông, mỉm cười :
- Chúc mừng bác.
- Chúc mừng anh.
Ông vui vẻ đối đáp :
- Tôi sống được là nhờ anh nên phải chúc mừng anh. Như thế chính xác hơn.
- Không hẳn thế. Bác có một thể chất vững trãi nên bình phục nhanh. Nếu là người khác ắt ...
- Nếu là người khác ắt bỏ mạng ?
- Tôi không định nói thế. Nhưng nếu là người khác rất dễ có những tổn thất lâu dài.
- Ví như đứt mạch máu não, biến chứng tê liệt toàn thân hay bộ phận, ít nhất cũng nghoẹo cổ, méo mồm, v...v...Đúng không ?
- Bác thuộc các hội chứng như người trong nghề .
- Tôi có đọc sách y. Không nhiều nhưng cũng tạm đủ những kiến thức sơ giản. Tôi mở được mắt là biết mình gặp may. Như các cụ dậy : gặp thày gặp thuốc. Nói thêm lời nữa người ta dễ cho là khách sáo nhưng dẫu sao tôi vẫn phải nói : Cảm ơn anh. Cảm ơn anh vô cùng.
- Không có gì. Đó là phận sự của chúng tôi.
Bác sĩ có vẻ hơi bối rối. Anh ta vội chào ông rồi bước ra khỏi phòng. Lát sau, một cô y tá đi đến :
- Hôm nay bác uống sữa. Ngày mai cũng vậy. Từ thứ sáu trở đi chế độ ăn uống sẽ thay đổi tuỳ theo tình hình sức khoẻ. Bác sĩ nói rằng có thể bác muốn ăn cháo ngay trong ngày hôm nay nhưng như thế bất lợi.
- Cảm ơn. Tôi sẽ chấp hành mệnh lệnh. Các anh các chị không phải băn khoăn.
- Giờ tôi pha sữa cho bác nhé ?
- Không cần. Tôi chưa thấy đói. Lát nữa, tôi sẽ tự phục vụ mình.
Cô y tá bước đi. Ông tiếp tục xoa và lắc cổ. Một nguyên tắc ông đã thực hành từ thuở trai trẻ và chưa bao giờ vi phạm : Không đói thì không ăn. Vả chăng, những ngày ông mê man, người ta đã liên tục tiếp các chất nước khoáng, đường và đạm nên ông không có cảm giác thiếu hụt. Chỉ một sự tê cứng ngự trị toàn thân. Điều ấy khiến ông khó chịu. Ông bắt đầu cuộc chiến đấu. Nhưng dầu ý chí của ông mạnh mẽ, cơ thể ông chưa thể kham nổi cuộc đọ sức quá sớm. Chỉ hai mươi phút sau, tay ông đã rã rời và ông chìm vào giấc ngủ mới. Lần này, ông ngủ một mạch tới chín giờ tối mới thức dậy, thấy cơn đói đang bào dạ dầy. Ông ngồi lên, tuy có một thoáng lao đao nhưng sau đấy mọi cử động trở lại chính xác và chắc chắn. Ông đứng dậy, pha sữa uống, vừa uống vừa lắng nghe cơ thể hồi dần, nghe hơi ấm lan toả từ lồng ngực cho đến chân tay, nghe máu luân chuyển trong huyết mạch, một cảm thức mới mẻ ông chưa từng biết bao giờ : sự hồi sinh !
- Tôi là láng giềng của bác. Bác có nhớ ra tôi không ?
Có tiếng ai đó cất lên bên tai ông. Ông quay lại, thấy một người đàn ông ăn bận chải chuốt, đứng tựa lưng vào tường, nhìn ông với đôi mắt ấm áp, tươi cười.
- Hình như...
Ông đáp với vẻ bối rối, cố lục tìm trong trí nhớ cái vẻ đỏm dáng kia, cái mốt của những năm bốn mươi, đầu dợn sóng và cổ áo sơ-mi sáng màu bên trong bẻ ra che chiếc áo khoác ngoài màu đặc biệt sẫm :
- Thú thực, vừa quên vừa nhớ...Tuổi già mà ...
Ông đáp, một lần nữa cố lục tìm trong dĩ vãng hình ảnh người đàn ông phương phi, tóc chải kiểu Yve Montand, đôi mắt chạy ngang, sống mũi đều và một cái miệng đỏ hồng, môi cong cong, chắc chắn là loại đàn ông lắm điều, bẻm mép.
- Tôi là Trần Phú, nhưng không phải Trần Phú tổng bí thư đảng hồi tiền khởi nghĩa mà là người khoèo chân sang võng của bác năm bốn mươi bẩy, trong cuộc chỉnh huấn tại bản Nậm Mài. Bác đã nhớ ra chưa ?
- A...a ....giờ thì tôi đã nhớ ra. Bởi anh tự xưng là láng giềng, tôi cứ lục tìm mãi danh sách người quen trong cái phố huyện xưa, nơi chôn rau cắt rốn.
- Nằm sát nhau suốt hai tháng như thế, võng sát võng, chân cọ vào chân, còn hơn là láng giềng chứ. May mà tôi lẫn bác đều không phải người đồng tính, nếu không ắt xảy ra chuyện.
- Đúng thế thật.
Ông xác nhận và bật cười.
Anh chàng Trần Phú hỏi :
- Bác còn mệt lắm không ?
- Đỡ rồi.
- Ngồi cho thẳng lưng rồi cố gắng xuống giường đi lại vài bước. Sau mấy bước đầu tiên, bác sẽ muốn đi một vòng quanh hành lang và tốc độ cứ thế mà thăng tiến. Đấy là cách tốt nhất để giúp máu lưu thông. Bác sẽ hồi sức rất nhanh, tôi tin như vậy.
- Cảm ơn. Tôi cũng hy vọng được như thế.
Ông đáp và đưa mắt tò mò ngắm nhìn anh ta :
- Còn anh, bí quyết nào khiến thời gian không chạm vào anh được ?... Từ đấy đến đây đã hơn hai mươi năm, sau giây phút bỡ ngỡ, tôi thấy anh gần như vẫn giữ được phong độ cũ.
- Tôi thay đổi khá nhiều. Hơn hai mươi năm đâu phải là chốc lát. Anh không nhìn thấy cái bụng tôi sao ?
Nói tới đây anh ta vạch áo Blu-dông lên cho ông xem. Ông thấy bụng anh ta rất đỗi bình thường. Rất đỗi bình thường ngay cả với một người đàn ông tuổi bốn mươi. Ông bảo :
- Tôi không thấy gì. Nhiều lắm là vòng bụng tám mươi. So với mọi người, nó vẫn là con số lý tưởng.
- Ồ, không ....Tôi không thể chấp nhận được. Bác nhớ ngày xưa tôi nổi danh khắp chiến khu là ― Trần Phú eo ếch, vòng bụng sáu mươi chẵn, không hơn một ly. Bụng tôi còn nhỏ và săn hơn cả bụng mỹ nữ.
- Anh điên sao? Hơn hai mươi năm rồi còn gì ?
- Vấn đề là chúng ta kém nên mới để mình tàn phế theo thời gian. Tôi biết có ông cụ ngoài tám mươi da vẫn không nhăn, vòng bụng vẫn sáu mươi tám, không suy suyển.
- Tám mươi mà da không nhăn ? Anh cường điệu. Xin lỗi, tôi không tin nổi.
- Anh phải tin. Rồi anh sẽ phải tin. Tôi lý giải cho ngay đây : Các mỹ nhân vẫn giữ nhan sắc bằng cách xoa mặt. Mát-xa là biện pháp giữ nhan sắc lẫn sức khoẻ cổ truyền. Ở Ba-Tư, người ta bán hàng trăm loại dầu thơm khác nhau cho các phòng tắm phục vụ khách, đương nhiên khách chỉ có thể là vương tôn, vọng tộc hoặc các thương nhân giàu có. Thế nhưng chính mát-xa cũng không thể chống được sự nhăn da bởi khi thao tác, người ta phải kéo da qua lại theo chiều ngang, nghĩa là buộc thớ da giãn nở. Khi đã giãn nở, ắt nó phải biến hình. Vì thế, biện pháp mát-xa tuy khiến cho máu lưu thông, da tươi khoẻ hồng hào nhưng vẫn tiếp tục làm hình thành các nếp nhăn. Để chống lại nhược điểm này, người ta phải tìm đến một phương pháp mới.
- Lý thuyết của anh xem ra chừng hấp dẫn. Tôi bắt đầu tò mò rồi đây.
Ông vừa nói vừa cười, một nụ cười vừa cởi mở vừa đầy tinh thần cảnh giác. Trần Phú cũng cười :
- Anh chưa tin đâu. Nhưng anh tin hay không tin đối với tôi cũng vậy. Tôi chẳng phải thằng Sơn Đông mãi võ bán thuốc ế giữa chợ để moi trong túi anh mấy đồng tiền ?Tôi chỉ hành động theo đúng phương châm :Thấy điều gì tốt đẹp mà chẳng nói cho mọi người cùng hay chính là kẻ biển thủ, cũng như thấy cái hố giữa đường không kêu to cho thiên hạ biết là kẻ có dã tâm.
- Ồ....Đừng đao to búa lớn như vậy...Nào, anh hãy nói về biện pháp của ông lão tám mươi mà da chưa hề nhăn kia.
- Ông lão ấy chính là trưởng môn phái Nhất nam. Nhà ông cụ ở sát gò Đống Đa. Nếu anh muốn, hôm nào tôi sẽ dẫn đến thăm, tiện thể xem đám đệ tử của cụ biểu diễn. Tôi tin là anh sẽ mê môn võ này tắp lự. Còn về phép giữ da cho khỏi nhăn, biện pháp của ông cụ vô cùng đơn giản : Tát !
- Tát ?...
Ông gần như không tin vào tai mình nữa:
- Anh nói gì ? Tát ?
- Tát !
Trần Phú khẳng định một cách lạnh lùng :
- Tát...Nghĩa là tát. Người ta chẳng thể tìm ra từ nào khác để diễn tả cái động tác : Tát...
- Tát ? Tôi không hiểu ?
- Tát, nhưng không phải tát quân thù, tát nảy đom đóm mắt, tát sặc máu mũi máu mồm, tát sái quai hàm rơi răng cửa. Không phải tát để cho người bị tát phải chịu thương tổn hoặc toi mạng. Cùng là tát, nhưng động tác vừa đủ cho máu huyết tuần hoàn, chống lại sự lão hoá, nhưng vẫn giữ được nguyên hình dạng cũ của làn da. Đây, tôi làm mẫu cho anh xem.
Dứt lời, anh ta giơ hai bàn tay cùng một lúc tát lên mặt, trước hết là hai hàm rồi những cái tát nhịp nhàng lan dần dần lên hai gò má, hai thái dương và sau rốt hai bàn tay cùng hội tụ trên trán :
- Bốp, bốp, bốp, bốp, bốp....
Ông không thể ngăn anh ta lại, vừa sửng sốt vừa bối rối trước cuộc thị phạm đầy hào hứng kia, một lát sau ông mới hạ giọng thì thầm :
- Thôi, thôi. Tôi hiểu rồi. Chúng ta không nên làm ảnh hưởng tới những người xung quanh.
Anh ta lập tức hạ giọng thì thầm theo:
- Bác để ý làm quái gì mấy cái xác chết di động ấy ? Muốn sống cho vui vẻ, coi như họ không tồn tại trước mắt mình.
Ông kinh hoàng vì lối nói ngang ngược của anh ta nên vội vàng đứng lên, dù động tác ấy khiến ông hơi choáng váng :
- Chúng ta ra hành lang. Tôi thử xem sao.
Ông vội nói.
- Tốt, để tôi dìu bác đi.
Trần Phú đáp đoạn đưa tay ôm vòng lưng ông. Tay anh ta ấm nóng, rắn chắc, báo hiệu một cơ thể còn vững vàng. Ông thấy dễ chịu khi đi bên cạnh con người này, một cảm giác an toàn và ấm áp. Họ đi dọc hành lang. Cùng với những bước chân, trí nhớ của ông dần le lói ánh hồi quang của những đêm rừng hơn hai mươi năm trước. Ngày ấy, anh chàng sĩ quan Trần Phú loẻo khoẻo, tuy đã nổi danh là bậc chỉ huy đầy triển vọng nhưng suốt ngày chỉ ham làm dáng khoe eo ếch trước đám lính. Hễ anh ta ngồi đâu là lính xúm đen xúm đỏ ở đấy, há hốc mồm nghe anh ta nói chuyện. Chẳng ai biết chính xác những câu chuyện ấy nhưng chắc chắn đó là thứ chuyện tếu táo, bởi sau một hồi yên lặng lại thấy cả đám rú lên cười, cười bò lăn bò toài, cười như mắc chứng động kinh tập thể, cười như lũ điên. Cấp trên, tuy vô cùng tín nhiệm anh ta về kinh nghiệm trận mạc song cũng đầy hồ nghi vì tính cách kì quái của gã trai Hà thành.
Hồi ấy, ban ngày họ phải tham dự các cuộc chỉnh huấn. Ban đêm, lên võng rồi nhưng Trần Phú vẫn không chịu ngủ, thò chân sang khoèo chân ông khiến ông buộc phải chui đầu khỏi màn để nghe anh ta thì thầm đủ loại chuyện tiếu lâm rồi cả hai lấy tay bụm miệng lại cười rinh rích...Ngày ấy, họ là những chàng trai...Giờ, tuổi xuân chỉ còn là hoài niệm ...Hẳn Trần Phú cũng đang nghĩ ngợi điều gì đó nên cái miệng muôn đời tép nhảy của anh ta cũng ngừng hoạt động. Cứ thế, họ im lặng đi mấy vòng quanh hành lang rồi ngồi xuống chiếc ghế dài :
- Bác đã mệt chưa ?
- Lúc đầu, hơi choáng váng. Nhưng sau khi đi hết vòng đầu lại thấy bình thường.
- Như thế là tốt. Cơ thể bác sẽ bình phục một cách hoàn hảo.
- Ai bảo anh thế ?
- Bác sĩ.
- Bác sĩ trưởng phòng ? Người buổi sáng vừa gặp tôi ?
- Đích xác. Bác đã gặp may. Đó là người có tay nghề cao nhất viện. Chính anh ta ra chỉ định kéo dài thời gian hôn mê của bác một cách nhân tạo. Như thế, tránh được khả năng chịu đựng các di chứng đồng thời cơ thể cũng hồi phục nhanh hơn. Tôi theo rõi nhịp thở của bác khi chúng ta đi , và tôi chịu anh chàng này là lão luyện.
- Tôi thấy anh cũng lão luyện không kém....Anh có học y hay sao ?...
- Không. Nhưng tôi đọc. Tôi là giám đốc nhà xuất bản văn hoá thông tin. Vì thế, tôi buộc phải đọc. Vả chăng, khi ta tiến đến tuổi già, sớm hay muộn, muốn hay không bệnh tật cũng sẽ kéo đến. Tốt nhất là phải hiểu chúng trước khi lũ khách không mời này đột nhập vào nhà.
- Anh chuyển ngành từ hồi nào vậy ?
- Tắp lự. Ngay sau ngày giải phóng thủ đô.
- Nhưng...
Ông định hỏi rồi bất chợt ngưng lại. Thời quen biết ông , Trần Phú đã là tiểu đoàn trưởng 5O7, tiểu đoàn quân khu thủ đô. Anh ta được đánh giá là một trong những sĩ quan nổi trội nhất, vì vốn kiến thức, óc sáng tạo và khả năng linh cảm khác thường. Với dáng điệu mảnh dẻ của gã trai Hà thành và cặp môi đỏ như son, vừa bẻm mép vừa đa tình, anh ta khiến biết bao cô nàng chết mê chết mệt đã đành, nhưng cũng thuộc loại chỉ huy được tín nhiệm, có thể bảo lính nhẩy vào lửa mà không sợ phản ứng. Tại sao anh ta lại giã từ quân đội một cách uổng phí khi sự nghiệp đầy hứa hẹn ? Vũ tự hỏi. Nhưng rồi, ông tự biết rằng có những sự thật nằm bên ngoài thứ lô-gic thông thường. Và thứ lô-gic thông thường mà số đông chấp nhận lại dung chứa những phi lý khi ta nhìn từ hướng khác.
Có lẽ, cũng phải trả giá khá đắt ông mới hiểu điều này.
Dường như đoán được những ý nghĩ thầm kín của ông, Trần Phú ngoạc mồm ra cười :
- Bác nuối tiếc cho sự nghiệp quân sự của tôi, đúng không ? Vì rằng đám lính dưới quyền tôi giờ này đã nhất loạt đeo lon tướng ? Trong khi tôi chỉ là anh cán sự văn hoá quèn, chẳng thứ bộ trưởng đã đành, cũng chẳng leo lên nổi chức cục,vụ ? Nhưng đấy chính là tự do của tôi, sự lựa chọn của tôi. Khi đất nước lâm nguy, vì phận sự của công dân tôi đành cầm kiếm. Nhưng trận mạc đã xong, tôi trả lại cho người khác giữ, sự nghiệp của võ quan chẳng phải thứ tôi ham. Giữa mũ mãng cân đai và sự thanh nhàn, tôi chọn vế sau.
- Trước đây, có thể tôi còn băn khoăn, nhưng giờ tôi hiểu là anh có lý.
- Cảm ơn, cái lý của tôi có thể là sự phi lý đối với kẻ khác. Cũng ví như những lời lẽ của tôi có thể làm chướng tai kẻ khác, đám người cùng phòng với anh chẳng hạn. Nhưng cuộc đời chẳng quá dài để khiến ta phải chiều lòng tất thảy chúng sinh.Ta cứ làm điều ta muốn miễn đó chẳng phải những hành vi phi đạo đức hay phi nhân. Nào, tôi tháp tùng anh về phòng. Giờ anh uống thêm cốc sữa nữa rồi đi ngủ. Tôi cam đoan rằng ngày mai anh sẽ ăn được cháo thịt.
Họ về phòng. Ông ngoan ngoãn uống đầy một cốc sữa nóng trước khi đi ngủ. Và quả thật, giấc ngủ của ông viên mãn. Sáng hôm sau, khi ông tỉnh dậy đã thấy Trần Phú đang đấu hót với bác sĩ trưởng phòng ngoài hành lang. Cả hai đều có vẻ hào hứng. Hẳn ông thầy thuốc vừa kinh ngạc vừa thú vị vì gặp được một con bệnh thuộc lòng như cháo chảy mọi ngón nghề của mình. Thấy ông tỉnh giấc, họ quay lại:
- Xin chúc buổi sáng tốt lành.
Trần Phú lên tiếng trước. Bác sĩ mỉm cười tiếp theo :
- Hôm nay bác sẽ ăn cháo thịt. Xin chúc mừng vì bác chuyển giai đoạn dinh dưỡng nhanh gấp bội những người bình thường.
Ông cũng cười, đáp :
- Hẳn là anh bạn tốt bụng của tôi đã đề nghị thầy thuốc cho tôi được leo thang ?
- Không. Chẳng ai có quyền đề nghị. Chỉ định chuyên môn bao giờ cũng độc đoán. Nó chỉ tuân theo những nguyên tắc nghề nghiệp thôi.
Bác sĩ trả lời đoạn giơ tay chào ông rồi vội vã ra đi vì người ta đang gọi anh ta dồn dập từ phía cuối hành lang. Trần Phú vào phòng, trước những ánh mắt hoặc gườm gườm hoặc ghẻ lạnh của đám người xung quanh. Nhưng anh ta tỏ vẻ phớt lờ. Bước tới đầu giường Vũ, anh ta lục soát đống cam, chuối và các loại bánh kẹo chất chồng trên chiếc tủ nhỏ :
- Bác không nên dùng những thứ này...Để tôi đem phân phát cho mấy phòng xung quanh. Tuy gọi là viện Việt-Xô, chuyên dành cho cán bộ cao cấp song cũng ối người chẳng đủ tiền mua hoa quả. Còn những gói bánh này nữa, đem làm từ thiện được rồi; tuổi bác không nên ăn loại bánh kẹo ―quốc doanh. Tôi có thể san sẻ cho bác phần bánh của tôi.
Nói xong, không chờ ông đáp lời anh ta quay quả bước khỏi phòng rồi lát sau trở lại với chiếc làn nhôm. Bỏ tất thảy đám hoa quả, bánh trái vào làn, anh ta mang đi không nói thêm nửa lời. Ông cũng không dám nói gì, lẳng lặng pha sữa uống, thầm ngượng ngùng vì ánh mắt theo rõi của đám người xung quanh. Nhưng cảm giác đói đã trở lại với tốc độ ngựa phi nước đại khiến ông bình tâm. Vừa uống sữa, ông vừa nhìn những vòm cây đung đưa ngoài trời, tưởng như mình đang ở một miền đất lạ, nơi ông chưa từng đặt chân tới và do đó, nó cắt rời với thế giới ông từng sống, nó là sự gián đoạn vĩnh viễn với những ngày sau lưng ông, nó là lục địa mới vừa được mở ra cùng một lần với cuộc trở về từ cõi chết.
Sau bữa cơm trưa, Trần Phú quay trở lại, với một làn đầy hoa quả mới. Anh ta xếp chúng một cách thứ tự lên chiếc tủ đầu giường :
- Anh bắt đầu ăn cháo mặn có nghĩa là anh có thể dùng tất thảy những thứ hoa quả này, chẳng cần kiêng cữ. Còn đây là bánh Phơ-lăng và Ma-đơ-len, chính tay cô em gái tôi làm. Anh có thể ăn kèm khi uống sữa hoặc trà nóng.
- Cảm ơn. Nhưng tôi thật khó nghĩ khi anh quá tốn kém.
- Ồ không. Không quá tốn kém như anh tưởng. Tất cả do em gái tôi chuẩn bị. Tôi vốn được chiều từ nhỏ, dù gia đình khá đông. Thôi, anh nghỉ trưa đi, mai sẽ gặp lại.
- Để tôi đưa chân anh, tiện thể vận động cho sảng khoái.
- Nhất trí.
Khi họ đã ra cầu thang, ông ghé tai anh ta nói nhỏ :
- Những người quanh giường tôi đều nhìn anh với con mắt lạ lùng. Vì sao vậy ?
- Vì sao ?
Trần Phú hỏi lại với giọng ngạc nhiên :
- Anh không hiểu được điều đơn giản ấy hay sao ?
- Thú thực. Tôi không hiểu. Tôi cũng không thể giả vờ làm ra hiểu khi lòng tôi còn đầy thắc mắc. Xin anh thứ lỗi.
Trần Phú quay sang nhìn ông chăm chú, dường như bối rối, dường như cảm động. Đoạn anh ta hạ giọng :
- Nếu người khác đặt câu hỏi này tôi sẽ cho rằng anh ta đóng kịch ― con nai già ngơ ngác. Nhưng với anh, tôi tin đấy là câu hỏi thực tình. Có thể vì sự thơ ngây này tạo nên phẩm chất của anh, và có thể vì thế mà chúng tôi yêu anh, coi anh là người anh hùng cuối cùng của thời đại...
- Ồ...
Giờ, lại đến lượt chính ông bối rối. Ông không quen nghe người ta bầy tỏ tình cảm trực tiếp như thế bao giờ. Trần Phú tiếp tục chăm chú nhìn ông như nhìn một bức tranh trong phòng triển lãm, rồi anh ta cất tiếng:
- Anh không biết rằng xã hội của chúng ta là xã hội phân cấp một cách quyết liệt và dã man cho dù nó vẫn thường xuyên được quảng cáo là bình đẳng, tự do và dân chủ.? Ngay ở đây, người ta cũng vẫn phân hạng, và nhòm ngó nhau theo tiêu chuẩn cấp bậc. Đám người cùng phòng với anh đều là chuyên viên bậc tám, bậc chín, nghĩa là bậc tót vời trong hạng ngạch chuyên viên. Trong khi đó, tôi chỉ là cán sự sáu, vừa đủ ngót nghét nhận sổ vào đây điều trị. Bởi vậy mà họ coi thường tôi. Nhưng trong khi họ vênh váo vì cấp bậc thì về mặt nhân dạng họ chỉ là một đám xác chết biết đi. Anh đã để ý cách họ khua thìa khoắng bát cháo hay họ xêu từng hạt cơm bỏ vào mồm hay chưa ?
- Chưa. Thú thực tôi chưa dám nhìn thẳng hoặc trò chuyện lâu với họ vì ngại.
- Vì sự có mặt của tôi. Và vì họ nhìn tôi với con mắt ác cảm nên anh cũng tự thấy họ không thể có thiện cảm với anh?
Ông mỉm cười thay cho lời thú nhận. Tức khắc Trần Phú cũng cười phá lên :
- Tôi biết ngay mà. Tính anh vốn cả nể. Bản chất anh nho nhã thanh lịch hơn tôi, cho dù tôi gốc trai Hà thành còn anh là dân tỉnh Bắc. Nhưng trong tôi luôn có một kẻ bất cần, một thằng khiêu khích. Đối với hạng người dở dói như vậy, tôi xem như đám nộm bằng giấy bồi. Tôi dìm thói hợm hĩnh của họ chết sặc trong vũng bùn ghen tuông. Anh xem đây...
Trần Vũ vén ống tay áo để cho ông nhìn thấy cánh tay anh ta còn nổi vồng bắp thịt, da đỏ au phủ đầy lông :
- Họ hơn tôi bao nhiêu cấp bậc nhưng cẳng chân họ không nhỉnh hơn cánh tay tôi. Cùng một năm sinh nhưng hai hàm răng họ là của giả trong khi tôi mới rụng một chiếc răng số tám. Buổi sáng, tôi xơi vèo bát phở với hai cái đùi gà trong khi họ khua thìa trong bát cháo loãng ngoét. Buổi trưa tôi chén hai bát cơm đầy với cá nhà kho trong khi họ nhai mãi không hết xuất cơm thịt bò xào dai nhoách của bệnh viện. Đó, chính là lý do mà họ nhìn tôi với những cặp mắt ghen tức nếu không muốn nói thẳng là căm thù. Con người luôn luôn như vậy, muôn kiếp như vậy, cho dù họ đã đứng sát cửa mồ. Anh chẳng cần phải bận tâm. Thôi, anh về phòng nghỉ trưa đi. Mai tôi sẽ đến.
Trần Phú giơ tay chào ông rồi xuống cầu thang. Đúng là anh ta mới chỉ đủ quyền nhận sổ vào viện này, nên phải ở khu nhà cuối cùng, nơi dành cho những bệnh nhân xoàng nhất, không được quyền ưu đãi về thuốc men cũng như chế độ phục vụ. Nhưng những bất lợi về địa vị xã hội lại khơi gợi cho con người này tính vui vẻ bất tận và sự hả hê mà anh ta tìm được trong trò chơi khiêu khích. Tinh thần lạc quan là vũ khí đích thực của anh ta. Ông nghe tiếng gót giầy của Phú nện trên cầu thang một cách nhẹ nhõm, và cùng nhịp chân bước, tiếng hát anh ta khe khẽ vọng lên:
― Rồi sóng sẽ xoá đi tất thảy trên bờ cát
Dấu chân xưa của các lứa đôi và những cặp tình nhân...
Bài hát của những năm bốn mươi. Những chàng sinh viên mơ mộng và những cô nàng thướt tha áo trắng. A! Tuổi trẻ của ông. Bóng ma của nó theo về cùng bài ca cũ. Nhưng ông lập tức xua đuổi chúng bởi một nỗi sợ hãi bóp nghẹt con tim :
― Không!...Không!...Không!...
Ông vội vã trở lại phòng, lên giường nằm hòng kiếm giấc ngủ nữa nhưng giấc ngủ không tới. Sau cùng, ông đành tung chăn ngồi dậy. Người bệnh nằm đối diện với ông mở mắt ra :
- Bác chịu thua, không ngủ được ?
- Vâng.
- Tôi cũng vậy. Không ai thắng được tuổi già.
- Vâng.
- Anh chàng bảnh trai bạn của bác tối nay có đến chơi không ?...
- Không. Anh ấy hẹn ngày mai.
- Anh ta không nhớ tôi nhưng tôi biết anh ta rất rõ.
- Thật vậy sao ?
- Trước đây tôi từng là đồng cấp khi anh ta cầm quân 507.
- Rồi bao lâu sau bác mới chuyển ngành ?
- Tôi không chuyển nhành. Tôi vẫn phục vụ trong quân ngũ cho tới tận giờ.
- Ô...Vậy sao ?
- Bác muốn hỏi vì sao tôi lại lạc vào đây mà chẳng điều trị ở viện IO8, đúng không ? Bởi tôi ở đây cũng giống như con ngựa lạc sang chuồng dê vậy ?
Ông ta nhắm mắt lại. Đôi môi khô thâm xì vừa co vừa giãn trong một nụ cười nhăn nhó và chua chát :
- Bởi giám đốc viện ấy là kẻ thù sinh tử của tôi. Tôi không thể đem thân vào đấy để nó thịt tôi như thịt một con gà.
Vũ lặng thinh, không biết nói gì hơn. Nụ cười nhăn nhó vẫn đọng trên môi người bệnh, khiến mặt ông ta giống chiếc mặt nạ bằng sáp.
Hơi thở ông ta dập dồn và có những tiếng khò khè rất mạnh kèm theo. Thi thoảng, những tiếng khò khè ấy kết thành chuỗi nhất loạt trút ra như gió rít, một thứ âm thanh ma quái.
― Tất thảy đều dẫn tới cái kết thúc. Mọi ngả đường đều dẫn tới một nơi cuối cùng. Nhưng ngay trong hành trình tiến về cõi chết, con người cũng vẫn sống với những ân oán của họ, những giằng trói không thể nào tháo cởi.
Ông nghĩ, khi nhìn con người tội nghiệp kia.
Rồi ông rón rén đứng dậy, đi ra ngoài. Chính lúc ấy, người bệnh lại cất tiếng dù đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Sau một hồi khò khè, giọng anh ta xìu xuống như bánh mì gặp nước :
- Bác nói với Trần Phú rằng anh ta chính là kẻ khôn ngoan và may mắn. Anh ta biết sống đúng cuộc sống của anh ta.
- Vâng, tôi sẽ nói.
- Chớ kể gì về tôi...Cứ bảo rằng một sĩ quan đồng cấp nhắn như vậy.
- Vâng.
- Rằng tôi chúc anh ta càng về già càng vui vẻ.
- Vâng.
- Tôi ...cũng chúc bác được như vậy...
- Cảm ơn.Tôi không may mắn có được cuộc sống vô tư như anh bạn kia.
- Tôi biết....Tôi biết...bác là ai....
Ông ta ngừng lại để thở vì một chuỗi tiếng khò khè lại dồn đến và cái khí cụ ma quái trong lồng ngực ông ta rít lên từng hồi. Lát sau, ông ta nói tiếp:
- Nhưng dù sao....tôi cũng vẫn chúc bác....được hạnh phúc.
Một nụ cười nhăn nhó và chua chát lại xuất hiện trên đôi môi đen tím của ông ta khiến Vũ ái ngại. Ông hỏi :
- Bác có cần tôi đi gọi bác sỹ trực phòng không ?
- Cảm ơn. Tôi biết bệnh của tôi. Bác cứ ra ngoài mà dạo chơi cho thanh thản. Đi đi.
Ông không biết làm gì hơn là đi ra hành lang một cách vội vã. Một cách vội vã, ông xuống cầu thang rồi ra giữa sân bệnh viện, đứng như bức tượng, mắt dán vào những bóng cây như tìm nơi trú ẩn cho tâm hồn đang run rẩy của mình. Nỗi sợ đang dồn đuổi ông:
― Ồ, mấy ngày trước, không hiểu bộ dạng ta có thảm hại như họ hay không ? Ôi, nếu ta cũng có gương mặt vàng xám như sáp ong bẩn, nếu miệng ta cũng há hốc ra như mồm cá ngão chết trên mẹt hàng cá, nếu hai bên mép ta cũng chảy dãi dớt như những kẻ nằm cùng phòng ? Chao ôi, kinh khủng thay cho kiếp người !
Ý nghĩ ấy khiến ông rùng mình liên tục. Những cơn rùng mình làm sởn gai ốc, thật giống cơn rùng mình khi nhiễm lạnh hoặc khi nghe chuyện ma quái :
― Ta cần một cuộc sống lành mạnh và hữu ích. Nếu mai đây, khi ý trời không thuận, ta sẽ tìm đến cái chết một cách thanh thản. Như thế, là cuộc giải phóng tối ưu.
Trước mặt ông, hàng cây đứng la đà trong nắng. Thuần là cổ thụ. Những cây sấu già, những cây xà cừ và những cây bằng lăng hoa tím. Chúng mọc chen chúc nhau, chẳng ra hàng lối nhưng tạo thành hòn đảo giữa khoảnh sân mênh mông. Hẳn là khối diệp lục phì nhiêu này từng cứu vãn nhiều người bệnh trong những cơn khủng hoảng tâm lý, như nó cứu vãn ông vào chính lúc này.
Vũ ngồi xuống ghế, nhắm mắt lại để nghe tiếng lá xạc xào và tiếng chim chành choẹ nhau. Bất chợt, một vật gì đó ướt nhão rơi toẹt vào mặt ông, ngay chính mũi. Ông mở choàng mắt ra và hiểu rằng một con chim hỗn xược nào đó vừa ỉa đúng mặt mình. Ông lục túi, tìm khăn lau bãi cứt chim. Lúc ông đang cắm cúi lục soát, một bàn tay đã chìa ra trước mặt ông, với một chiếc khăn tay :
- Anh hên đấy. Chim ỉa đúng đầu đúng cổ là có lộc. Chẳng lộc to như tiền tệp vàng khối thì cũng lộc nhỏ như gói bánh, hòn xôi.
Không ngẩng đầu lên, ông vội túm ngay lấy chiếc khăn, vội vã lau mặt :
- Anh tìm ở đâu ra thứ lý thuyết ấy ?
- Thứ lý thuyết ấy có lâu rồi, đại huynh ạ.
Một giọng lạ hoắc cất lên khiến Vũ vội vã ngẩng đầu : Trần Phú không đến một mình mà với một người đàn ông khác. Chính vị khách này vừa cất lời đối đáp ông :
- Đại huynh không biết từ xưa dân chúng đã tin rằng nằm mê thấy phân là có lộc ?
- Cũng đôi lần tôi nghe nhưng không để ý.
Vũ đáp.
Người đàn ông kia ngoác miệng cười, miệng anh ta rộng mênh mông, kéo đến tận hai mang tai khoe ra hai hàm răng vàng khè khói thuốc, đôi mắt hấp háy sau cặp kính cận dày. Gương mặt đen đủi, chẳng có một đường nét khả dĩ vậy mà vẫn toát ra một vẻ hấp dẫn, một thứ hấp dẫn khó cắt nghĩa. Anh ta tiếp tục diễn giảng ý kiến của mình :
- Bởi chúng ta là dân trong xứ trồng lúa nước, nên buộc phải hiểu hàm ý biểu tượng của những giấc mơ phân.
Ông cười. Lúc ấy, Trần Phú mới giới thiệu :
- Đây là anh Trần Vũ, người anh hùng của thời đại...Còn đây là bạn tôi, nhà văn Lê Phương. Chúng tôi cùng bỏ nhà đi theo cách mạng năm bốn mươi lăm, lúc ấy vừa tròn hai mươi tuổi.
Họ bắt tay nhau rồi Trần Phú đề nghị đi đến căng-tin bệnh viện, nơi khả dĩ có đủ bàn ghế ngồi và có thứ để giải khát. Ba người đi hết khoảnh sân là đến căng-tin, một gian nhà rộng thênh thang, vài chục dẫy bàn ghế xếp hàng chờ khách nhưng thực khách lưa thưa chỉ dăm bẩy người, người nào cũng có vẻ đăm chiêu, hờ hững. Họ chọn chiếc bàn ít bụi nhất, phỏng chừng như thế, vì nó được kê gần quầy bán hàng, cũng sát khuôn cửa sổ. Khuôn cửa này mở ra mảnh vườn phía sau viện, tuy nhỏ nhưng cũng xanh rờn bóng cây me, cây dâu da lẫn cây hoa sữa. Quầy bán hàng vắng tanh. Trần Phú đứng giữa khuôn cửa, cất tiếng :
- Này !... Các em bán hàng ơi .
Chẳng thấy ai đáp. Anh ta lại cao giọng hò :
- Này, các nàng căng-tin ơi.
Cũng chẳng ai trả lời. Anh ta phải gần như hét lên :
- Này, căng-tin bệnh viện đâu rồi ? Ai ? Ai bán hàng ở đây ?
Lúc đó, một ông khách đang ngồi ăn bánh rán khuyên :
- Bác phải ra giữa sân mà gọi....Mấy con bán hàng đang đú đởn trong phòng bảo vệ kia kìa ...
- Cảm ơn.
Phú đáp, đoạn anh ta rảo bước qua sân, đến chính giữa cửa phòng bảo vệ mà hỏi :
- Ai bán căng-tin ở đây ? Chúng tôi chờ nửa tiếng rồi.
- Đây ! Chúng em đây ...
Hai ba cô tranh nhau đáp rồi cả đám chạy nhao về phía căng-tin, vừa chạy vừa cười rinh rích. Trần Phú quay lại, giọng không còn cợt nhả mà đầy vẻ khó chịu và đe doạ :
- Nhanh tay lên. Hai phin cà-phê và một ấm trà loại một. Tôi sẽ bỏ qua cho các cô chuyện này.
- Cảm ơn thủ trưởng ạ....Chúng em xin lỗi ạ ...
Mấy cô gái đáp, không còn cười mà bắt đầu sợ hãi. Một cô vội vã lấy giẻ ra lau chiếc bàn họ đang ngồi. Cô thứ hai pha trà và cô thứ ba đổ cà-phê vào phin.
Lúc ấy, Trần Phú ngồi vào bàn :
- Anh Vũ đã nhìn thấy chưa ?
- Tôi có thấy.
- Không hiểu cái ông Trần Phú bí thư đảng cộng sản kia nếu còn sống, ông ta sẽ nghĩ gì về cái tình cảnh này ?
- Thôi, chuyển đề tài.
Lê Phương gàn :
- Chui vào loại đề tài này là chui vào sừng trâu. Một đường hầm không ánh sáng. Bởi chẳng cứ Trần Phú mà biết bao nhiêu con người tài cán hơn ông ta cũng không thể hình dung nổi cái xã hội mà họ tạo ra sẽ mang gương mặt nào. Cách mạng bao giờ cũng là một cuộc hoài thai mà đứa bé ra đời nếu chẳng phải quái thai thì cũng hoàn toàn khác với giấc mơ hay trí tưởng tượng của những người tác tạo nên nó. Chúng ta trở lại với cuộc sống nhỏ bé của mình. Hôm nay là một ngày vui, bởi anh Vũ chính là người mà lâu nay tôi thầm muốn gặp mặt. Câu xưa là « danh kì thanh, tướng bất kì hình »
- Ồ ...Tôi không dám.
- Khi xưa tôi đọc « Một anh hùng thời đại » của Léc-mông-tốp, biết đây là thứ tiểu thuyết- tự truyện, và nhân vật chính rất đẹp trai. Giờ gặp anh, tôi thấy anh cũng đẹp trai như vậy.
- Ồ, các anh quá khen. Tôi đâu phải tài tử điện ảnh ?
Vũ đáp, cảm thấy hai mang tai nóng rần vì ngượng.
Trần Phú lẫn Lê Phương chăm chú nhìn ông như những gã buôn đồ gỗ ngắm một cái tủ khảm trai đủ long, ly, quy, phượng, rồi cả hai cùng ngoác miệng cười :
- Thật sung sướng thay cho ai được làm vợ anh. Một người đàn ông đẹp trai dường ấy mà còn thẹn đỏ tai vào tuổi ngũ tuần.
- Ồ...
Vũ chẳng biết nói năng ra sao. Hai gã đàn ông này lạc từ một miền xa lạ tới, ngôn ngữ của họ, cách biểu đạt của họ, và những ý tưởng của họ, tất thảy đều lạ lùng với ông, với thế giới của ông, thế giới của những con người nằm trong guồng máy quyền lực. Ông đành lái câu chuyện sang hướng khác :
- Đêm qua tôi cứ nghĩ mãi. Hà nội bé như thế vậy mà vì sao sau hơn hai mươi năm chúng ta mới gặp lại nhau, kể từ ngày ở bản Nậm Mài ?
- Vì chúng ta đã rẽ sang những ngả đường khác nhau, và những ngả rẽ ấy càng ngày càng cách xa theo năm tháng. Rồi chúng ta lại gặp nhau ở đây, vì đây là trạm trung chuyển giữa cuộc sống và cái chết. Tất cả những kẻ bước chân vào đây là những kẻ đã được thần chết điểm danh từ xa. Họ cố kéo dài được chút nào hay chút ấy trước cuộc đầu hàng vĩnh viễn.
Trần Phú đáp, bộ điệu hớn hở của anh ta khiến ông phì cười :
- Tôi trông anh giống một thương gia chuẩn bị cưới vợ bé hơn là người chuẩn bị đi đến nghĩa trang.
- Chính xác một nửa. Tôi vào đây vì u tiền liệt tuyến. Bác sĩ đòi mổ nhưng tôi không chịu. Tôi kết hợp uống thuốc với dùng các thực phẩm có dược tính, ví như cà rốt sống, mộc nhĩ, cà chua sống. Đặc biệt phải loại trừ thịt, dù thịt lợn hay thịt bò. Thi thoảng được phép ăn gà vịt, với điều kiện lọc bỏ da và mỡ. Thực phẩm chủ yếu của tôi là cá đồng, tôm sông. Đương nhiên những thứ này do gia đình cung cấp. Qua bốn tháng xét nghiệm lại, phần u đã teo hai trăm gờ-ram. Giờ tôi cố công tìm một em xinh tươi, có khả năng khiến tôi « hoạt động cách mạng » một cách phi thường. Nếu được như vậy, ắt mọi thứ u đều tan biến.
- Tôi nghĩ là anh nói cho vui ...
Ông đáp. Lúc ấy Lê Phương xen vào :
- Anh có lý của anh và Phú có lý của nó. Bởi quan niệm sống của chúng ta khác nhau, nghiệm sinh cũng khác nhau nên niềm tin cũng khác nhau...Nhưng nếu anh chẳng còn nhớ ca dao, tục ngữ, tôi xin biếu anh câu này :
« Thông đái, ngon cơm. »
- Tôi cũng đã từng nghe, nhưng quên sạch. Các anh tài tình thật, làm sao mà những câu tục ngữ cổ xưa ấy còn đọng lại trong não đến tận bây giờ ?
- Bởi chúng tôi sống với chân lý của đám dân đen. Chân lý của dân đen là món hàng tồn kho nhưng không bao giờ mốc. Khi cần thiết, người ta có thể móc chúng ra và đem xài tức khắc, chẳng cần nấu nướng hay thêm hành thêm tỏi. Theo chân lý ấy, nếu đời sống tình dục của người đàn ông được hưng phấn, chính nó sẽ mang lại khả năng tái thiết những bộ phận bắt đầu lão suy.
- Ồ, chân lý của anh nguy hiểm thật. Nó sẽ xui khiến những người đàn ông bỏ gia đình để lao vào những cuộc phiêu lưu tìm hưng phấn.
- Chính xác như vậy. Nhưng không chỉ đàn ông mà cả đàn bà, vì hai nửa âm dương luôn luôn bình đẳng trước quỷ thần về khả năng phạm tội. Vấn đề phải tính ở đây là những trường hợp cụ thể và những nhân cách cụ thể. Không có mẫu số chung cho toàn thể nhân loại trong cuộc truy tìm hạnh phúc. Cũng không có một hằng số cho các cuộc phiêu lưu. Điều cốt yếu là .....
Lê Phương ngừng lời, rút trong một túi áo ra chiếc tẩu to đùng, trong túi áo bên kia gói thuốc lá rời sợi sẫm, rồi từ từ nhồi thuốc vào nõ tẩu. Vũ nhận ra rằng anh chàng nhà văn này có lối nói chuyện theo kiểu chương hồi, nghĩa là anh ta luôn luôn bắt mọi người chờ đợi. Chắc hẳn gã đàn ông xấu xí này đã quyến rũ không ít đàn bà với lối nói duyên dáng bẩm sinh. Ông cười :
- Anh bắt đầu khiến tôi tò mò rồi đây.
- Tôi tiếp tục.
Lê Phương đáp, nhưng anh ta còn rề rà châm lửa, rề rà rít thuốc, rề rà nhả khói...và khoảng thời gian chùng chình ấy khiến ông nghe rõ tiếng ong bay ngoài vườn, rù rì trên đám me xanh.
« Không chỉ đàn ông mà cả đàn bà, vì hai nửa âm dương luôn luôn bình đẳng trước quỷ thần về khả năng phạm tội. Sao đến tuổi này ta mới biết ? Moị sự quá muộn màng. »
Ý nghĩ ấy đưa ông trở lại với hình ảnh người đàn bà của ông : Tố Vân ! Lần đầu tiên, kể từ lúc ông bừng mắt tỉnh cơn hôn mê, cái tên ấy quay trở lại.
« Không....Không ...Không .... »
Ông chối từ quyết liệt vì cảm thấy giông bão sắp nổi lên quanh mình, và ông có nguy cơ bị cuốn vào luồng gió dữ.
Quay đầu lại, ông buộc mình tập trung vào cuộc đối thoại với nhà văn :
- Rồi sao nhỉ ? Tôi đang chờ anh đây.
Lê Phương nhe răng cười :
- Nhưng người đứng đắn như đại ca, nghe làm gì những lý thuyết xằng bậy của lũ đàn em, lũ đực rựa ưa rong chơi trên cõi đời ?
- Vì sao lại phân biệt đối xử như thế ?
- Vì đại ca thuộc loại người lo những việc quốc gia đại sự, chúng em là bọn chỉ thích sống cuộc sống riêng của mình. Chúng em e rằng những lời lẽ buông tuồng của bọn em khiến đại huynh không chấp nhận nổi. Ồ, tôi đã nghe mãi những chuyện tiếu lâm của anh Phú trên rừng năm trước. Có cớ gì mà phải kiêng dè ?
- Vâng. Nhưng hơn hai mươi năm đã qua và thời gian phân cách.
- Quả vậy.
Bất giác, ông buông tiếng thở dài rồi chậm rãi nói tiếp :
- Thời gian phân cách con người, không riêng ai mà cho toàn nhân loại. Nhưng dẫu sao, chúng ta vẫn còn những giá trị chung ; lòng tốt chẳng hạn, hoặc tình bạn, hoặc tình quyến luyến trong gia tộc...Những thứ tình cảm ấy không thể tiêu tán theo thăng trầm của thời cuộc và thời gian...
- Vâng.
- Những lúc khó khăn nhất trong đời, tôi đều cầu cứu người anh trưởng. Ông ấy có thể hiểu tôi ngay trong im lặng. Ông ấy sẵn sàng ghé vai gánh gánh vác gia đình, để tôi được cất bước thênh thang.
- Vâng.
Vũ ngừng lại vì chợt nhận ra rằng ông đang ngỏ nỗi lòng trước hai gã đàn ông mà một người đã quên lãng hơn hai mươi năm và người kia vừa gặp mặt chưa đầy nửa tiếng. Đó là điều ông chưa từng làm. Nâng tách trà lên, ông uống liên tục từng ngụm nhỏ để che cơn bối rối. Và rồi, ông cất tiếng hỏi :
- Còn anh, anh vào đây chữa bệnh gì ?
- Tôi ?
Anh chàng nhà văn hỏi lại, rồi lắc đầu cười :
- Tôi chẳng có bệnh gì mà nếu có bệnh tôi cũng chưa đủ tiêu chuẩn vào đây.
- Anh nói gì ? Anh tham gia cách mạng từ năm bốn mươi nhăm, cùng lần với anh Trần Phú ?
- Vâng, nhưng tôi không đủ tiêu chuẩn để vào đảng. Đã không là đảng viên thì chắc chắn mãn kiếp cũng không được bổ nhiệm vào một chức vị ra hồn. Chẳng những thế, tôi lại can tội luôn luôn yêu các cô nàng xinh tươi. Đối với tôi, đảng cao quý trên lý thuyết, còn các em xinh tươi thì tuyệt vời trên phương diện thực tiễn. Tôi vốn không thích « Thả mồi bắt bóng ». Tôi chọn giá trị thực mà sống, còn đảng vĩ đại, tôi xin nhường cho người khác hưởng.
Nói tới đây, cả hai gã đều cười ha hả. Ông buộc lòng phải cười theo, lòng hồ nghi chẳng biết hai gã đàn ông chớt nhả này nói thật hay nói đùa. Chừng như hiểu được sự phân vân của ông, Trần Phú đỡ lời bạn :
- Lê Phương nói đúng đấy, nó chưa đủ tiêu chuẩn cán sự năm để vào đây chữa bệnh. Nhưng ngày nào cậu ta cũng đến thăm tôi. Nhiệm vụ duy nhất phải hoàn thành là « Nâng cao tinh thần cho đội bạn ». Chi bộ đảng của các anh ít nhất cũng có ba người. Chi bộ của chúng tôi chỉ có hai, thành lập từ năm bốn mươi nhăm đến nay nhưng đặc biệt vững bền, chưa ai đâm dao găm vào lưng ai cả.
- Chính xác như vậy...
Lê Phương khẳng định, tiếp lời anh bạn vàng với điệu bộ quen thuộc của một cặp bài trùng, kẻ tung người hứng :
- Tình đồng chí của chúng tôi không dựa trên lý thuyết vĩ đại « liên hiệp vô sản toàn thế giới ». Chi bộ của chúng tôi dựa trên nền tảng của những thứ tương liên tầm thường vụn vặt, những tình cảm cỏn con.Ví dụ, hồi còn ở trên rừng Việt bắc, nếu gia đình gửi tiếp tế ra thì dù nhiều dù ít phải chia đều làm hai nửa, từ tiền bạc cho tới quần áo,thuốc men. Gặp khi đau ốm thằng nọ phải cõng thằng kia, dù có chảy mồ hôi bẹn, có còng sống lưng cũng phải rán chịu. Còn trong hoà bình, dựa vào nhau mà « tác chiến »
- Tác chiến ?
Thấy vẻ thắc mắc của ông, cả hai đưa mắt nhìn nhau tủm tỉm cười. Rồi, Lê Phương quay lại bảo Trần Phú :
- Đại huynh không có chút khái niệm nào về ngôn ngữ của đám « rong chơi giữa cuộc đời ». Thôi, âu cũng là dịp giải trí cho bậc cao nhân trong lúc anh ấy buộc phải nghỉ ngơi, tôi sẽ bật mí những bí mật cỏn con trong cuộc đời cỏn con của chúng ta. Cậu bằng lòng chứ ?
- Được. Chi bộ thông qua nghị quyết .
Trần Phú đáp và bộ mặt hớn hở mãn kiếp của anh ta đỏ rực lên vì vui thú. Lê Phương rút tẩu thuốc khỏi miệng, đặt một cách cẩn trọng xuống chiếc gạt tàn bằng gốm rồi nói :
- Bọn chúng tôi không được may mắn như anh, hoặc những người đàn ông như anh, chiếm được một nàng tiên xinh đẹp và mãn nguyện cho đến phút chót cuộc đời. Vợ chúng tôi, hoặc nói cho đúng hơn là « những bà lão khả kính sinh ra đám con của chúng tôi » lại luôn luôn có niềm tin vững chắc rằng chúng tôi là những thằng tù chung thân, chung thân dưới quyền cai quản của họ, giống như cái tràng kỉ gụ hay chiếc tủ chè gia bảo đặt năm này qua tháng khác trong nhà. Vì coi chúng tôi là những thứ đồ vật như vậy, nên họ có thể tuỳ tiện phơi ra ngày này qua tháng khác những thứ của nả họ với sự bình tâm của Bao Công Đại nhân trước giờ phán quyết.
- Phải nói cho rõ ràng. Anh Vũ không hiểu « những thứ của nả » là cái gì đâu.
Trần Phú chêm vào.
Nhà văn gật đầu, đôi mắt hấp háy :
- Những thứ của nả này là những thứ phụ tùng đã bị cũ nát. Chắc rằng đại huynh đã từng thấy những ngôi nhà bị trốc vôi tường, dột mái, sụt lở hay gãy kèo gãy cột. Hãy hình dung con người cũng như những ngôi nhà bị bom dội, bão đánh hay thời gian huỷ hoại. Xin đại huynh bỏ qua cho những ngôn từ dung tục này. Nhưng khó có thể tìm những danh từ xác thực hơn để thay thế. Những thứ của nả của các bà là những cặp vú sệ, những cặp mông nhão chảy xuống tận đũng quần, những cặp mắt chẳng còn chút long lanh nào mà chỉ thấy ghèn với nhử. Tóm lại, tất thảy những thứ mà nàng thơ nhìn thấy sẽ bỏ chạy mất dép còn hoạ sĩ tiếp kiến sẽ phải cúi xuống giả bộ mắt loà. Ấy là chưa kể các bà còn xài những thứ áo quần lố lăng hay dơ dáy.
Tới đây, anh ta e hèm hắng giọng như điệu ca sĩ sắp lên sân khấu rồi cạn chén cà-phê. Ông bật cười vì biết rằng anh ta chuẩn bị cho phần chính của câu chuyện, cái phần được mệnh danh một cách điệu đàng là « những bí mật cỏn con của những cuộc đời cỏn con ». Nhưng nhà văn lại đặt chiếc chén rỗng xuống bàn, quay sang bảo bạn :
- Bảo chúng nó pha phin khác đi mày. Cà-phê này còn thua nước giặt tất. Nền ẩm thực cổ truyền của chúng ta đã bị phá huỷ vì thứ mậu dịch quốc doanh này.
- Ờ... Tởm thật.
Trần Phú đáp đoạn anh ta quay lại bảo mấy cô gái bán hàng :
- Pha cho tôi phin cà-phê đúp rồi tính hai lần tiền. Giống như sáng hôm qua.
- Thưa thủ trưởng, có ngay ạ ...
Một cô bẻo lẻo đáp. Hai cô kia hí hoáy chuẩn bị nước sôi và cà-phê. Lê Phương quay lại nhìn Vũ với cặp mắt tươi cười :
- Chắc chắn những điều tôi sắp nói sẽ là thứ bị cấm kị trong môi trường của đại huynh, và cũng chắc chắn là sau những lời tự thú này, chúng tôi sẽ trở thành lũ vô đạo đức trước mắt bậc chính nhân quân tử.
- Ồ ....Chớ nên rào đón như vậy. Mỗi người có một cuộc sống riêng, chẳng nên ví ai với ai.
- Cái bất tiện nhất cho chúng ta là con người khác nhau, hoàn cảnh sống khác nhau nhưng hệ thống giá trị quy chiếu lại chỉ có một. Mà hệ thống giá trị này lại được áp đặt bằng luật pháp và quyền lực, buộc mọi người phải tuân theo. Như thế cũng giống như đặt một cái giường chuẩn rồi bắt mọi người phải nằm vào đó, phải cố vừa vặn với cái giường ấy bằng mọi giá...Có lẽ anh không nhớ rằng thời trung cổ, người ta dùng chiếc giường bằng sắt để tra tấn và hành hạ tù nhân, hễ người nào dài quá khổ thì bị chặt chân, còn kẻ nào lùn nằm không kín giường sẽ bị căng tay chân về hai phía...Nhưng thôi, dẫu sao chúng ta cũng đang ngồi trong căn phòng này, được hưởng sự yên tĩnh này, trong cuộc hội ngộ được chờ đón từ lâu. Dù có bị sụt giá hay lên giá trước mắt anh, đối với tôi cũng chẳng có gì quan trọng.
Dứt lời, anh ta lại nhoẻn miệng cười đoạn giơ tay vẫy đám nhân viên bán hàng. Các cô hối hả bưng cà-phê ra. Lần này, khói bốc lên đã có chút hương vị. Hai anh bạn vàng xì xụp uống cà-phê nóng trong khi ông nhâm nhi tiếp cốc trà. Không hiểu vì sao, ông thấy lòng nhẹ nhõm khi ngồi trước hai gã đàn ông bẻm mép này, một cảm giác đã từ lâu biến mất. Có chút gì đó gợi cho ông những cuộc chuyện gẫu thời trai trẻ, một chút hàm hồ, một chút hồ hởi, một chút hóm hỉnh. Và không mảy may ngụ ý hay mưu tính nào ẩn náu phía sau.
- Chà....Thế này mới tạm gọi là cà-phê. Nhưng nếu so với cà-phê của Hà-nội xưa thì chỉ đáng gọi là nước rửa chén.
- Nếu nói tới thời xưa thì suốt ngày chỉ có ngồi than thở : Bao giờ cho đến ngày xưa ? Bánh cốm ngày xưa, mứt sen ngày xưa, chè tàu ngày xưa. Nhưng thôi, đừng nói nữa anh Vũ đau lòng. Anh ấy là một trong những tác giả hăm hở nhất đã tạo nên cái xã hội này.
- Đúng, tôi cũng đau lòng thật. Nhưng tôi đang chờ câu chuyện « đi tác chiến » của hai anh.
- Đây, tôi xin hầu anh tức khắc. Chúng tôi vốn là những kẻ tầm thường, ham sống cuộc sống bình thường, nên luôn luôn nghe theo tiếng gọi của cái thứ mà anh vừa nói là nguồn hưng phấn mới. Tâm hồn chúng tôi chia làm hai nửa, một nửa dành cho những nghĩa vụ, và nửa kia chúng tôi dành riêng cho bản thân. Phải làm sao cho lương tâm không bị cắn rứt nhưng cũng không thể để cho tâm hồn ủ dột mốc meo. Vì thế, cuộc sống của chúng tôi là một chuỗi những mưu mẹo để cân bằng hai vế của phương trình. Tiền lương hàng tháng, các phúc lợi xã hội, chúng tôi đem nộp đều đặn cho vợ, bởi đó chính là người chăn dắt đàn con và cai quản mái nhà. Nhưng các khoản thu nhập khác, chúng tôi gọi là « quỹ đen » để giành cho các cuộc rong chơi. Để chuẩn bị cho các cuộc rong chơi này, buộc phải làm quen với toàn bộ hệ thống các nhà nghỉ, nói đúng hơn là phải tìm mọi cách kết thân với đám cán bộ quản lý các nhà nghỉ, từ núi xuống biển, từ đồng bằng ngược lên thượng du...Việc này, chúng tôi gọi là « cài đặt hệ số an toàn », điều kiện cần nhưng chưa đủ. Muốn đủ, còn phải có trong tay một mớ lệnh điều hành khống chỉ. Khi vào việc, chỉ cần điền lên đó ngày, tháng và một chữ kí bí ẩn như rồng bay phượng múa là xong. Điều may mắn là cả hai bà vợ chúng tôi đều thiếu chỉ số thông minh, đọc thông quốc ngữ nhưng không đủ trình độ để phân biệt các nét chữ thật giả hoặc các loại lệnh công tác khẩn thật hay khẩn vờ. Cả hai điều kiện tiên quyết này do Trần Phú đảm nhiệm vì cậu ta là đảng viên, và dẫu sao cũng có quyền chức hơn tôi.
- Trong trường hợp này thì đảng là hữu dụng.
Trần Phú đế thêm vào một cách khoan khoái :
- Và mỗi lần hành sự tôi lại buộc Lê Phương ca bài « Nhớ ơn Đảng đời đời » Đảng ở đây chẳng phải một khái niệm mơ hồ mà là chính tôi. Tôi phải mất bao nhiêu công sức ngồi họp chi bộ, chịu đựng sự buồn thiu buồn thối hoặc những mưu toan đấu đá, giành giật bẩn thỉu trong những cuộc tụ tập đó.
- Đúng rồi, ăn quả phải biết ơn kẻ trồng cây. Tôi đã ca cái điệp khúc này hơn hai mươi năm ròng, và hy vọng sẽ còn được ca tiếp. Bây giờ, tôi sẽ kể cho anh nghe những thú vui cỏn con của những gã đàn ông coi cuộc đời này là cuộc rong chơi, một hành trình không ngưng nghỉ từ tuổi thành niên cho đến chiếc quan tài. Ngoài phần nghĩa vụ với vợ con, công việc, đôi khi một ngọn gió mới thổi tới, một bóng hồng bỗng nhiên lạc vào cuộc đời chúng tôi, một em xinh tươi nào đó đang phòng không ôm gối, hoặc đang sùi sụt khóc vì thất tình, hoặc đang nổi máu giang hồ muốn bứt khỏi cái lồng thép của gia đình vì chán một anh chồng yếu gân cốt hoặc vì không chịu nổi sự đàn áp của một bà mẹ chồng phù thuỷ. Tóm lại, trong tất thảy những trường hợp ấy, các quân tử như chúng tôi đây sẵn sàng giúp đỡ. Nếu cánh én xinh tươi bay tới đậu trên vai Trần Phú thì tôi sẽ là người viết và kí lệnh :
« Điều hành đột xuất đến nghiên cứu chương trình N, A, Z.. ; » . Hoặc là :
« Làm báo cáo tường trình chi tiết về các lễ hội dân tộc, trong sự hợp đồng với viện dân tộc học.»
Và ngược lại. Bao giờ cuộc thám hiểm cũng phải có hai người. Tôi vác ba-lô đến nhà Trần-Phú cho vợ con anh ta thấy rõ ràng là hai bậc gia trưởng đang lên đường làm nhiệm vụ. Chúng tôi ngồi ăn bữa cơm cuối cùng trước lúc ra đi với vẻ trịnh trọng như lính cảm tử Nhật uống chén rượu « quyết tử » trước khi xích chân vào máy bay lao thẳng xuống phi hạm Mỹ...
Tới đó, Trần Phú đột ngột cất tiếng cười sằng sặc. Rồi lát sau, vừa lau nước mắt anh ta vừa hỏi bạn :
- Mày có nhớ hồi đi Tam Đảo không ?
- Nhớ. Nhớ như ngày hôm qua.
Lê Phương đáp, đoạn quay sang Vũ giải thích :
- Đấy là một kỉ niệm thuộc loại « không thể nào quên » Bận ấy, có một em nữ diễn viên tập sự bị đuổi khỏi đoàn vì tội không chồng mà chửa. Chẳng hiểu duyên cớ nào hoặc do ai mách bảo mà em tìm đến nhà tôi, khóc lóc. Tôi hoảng hồn vì lúc ấy đã hơn mười giờ. Chỉ một tiếng sau vợ tôi và hai đứa con sẽ về nhà ăn bữa cơm trưa, nếu họ thấy nàng khóc trên vai tôi ắt hẳn là mâm cơm sẽ bay ra sân, và sau đó là những ồn ào náo loạn khác. Nhưng tôi cũng không thể buộc nữ nhân xinh đẹp như thế ra khỏi nhà một cách thô lỗ. Nghĩ mãi không ra giải pháp mà kim đồng hồ cứ phóng như bay, sau cùng hoảng quá tôi đành chở em đến vườn hoa, mua kem cho em giải khát, rồi phóng đến nhà Trần Phú. Đứng dưới cổng, tôi gọi với lên gác hai:
« Phú, mặc quần áo đi ngay.Thằng Đoàn chết rồi. » .
Nhưng chẳng phải Trần Phú mà là vợ nó thò cổ ra :
« Chết sao nhanh thế ? Chiều qua lão ấy còn ngồi đây uống rượu đến sẩm tối mới chịu về ? »
« Tôi không biết, vừa nghe báo tin nó chết tôi liền chạy đến đây. »
Nói xong, tôi tắc cả họng, chẳng hiểu sao lại bịa ra một chuyện rồ dại như vậy. Nhưng lúc đó, tôi nghe trên nhà tiếng vợ Phú thúc chồng mặc quần áo và rồi tiếng chân nó chạy huỳnh huỵch xuống cầu thang. Hai thằng vừa nhìn vào mặt nhau đã phá lên cười, chẳng ngờ vợ Phú cũng le te chạy xuống. Tôi chỉ kịp kêu :
« Vợ mày kìa ! »
Rồi còng lưng cúi gập đầu xuống bụng, tôi rặn ra một tràng ho như nổ cổ nổ họng. Từ cười đổi sang ho, lại trong tư thế cúi gần như gập đôi người, ho giả bỗng hoá thành ho thật. Tràng ho nọ tiếp tràng ho kia, cứ thế tuôn ra không thể kìm chế. Nước mắt tôi chảy ràn rụa, và khi tôi đứng thẳng lên, hẳn là tôi có bộ mặt của một kẻ đích thị mắc chứng ho gà. Tôi phải rút khăn tay lau nước mắt. Đứng trước tôi, vợ Phú cũng khóc sùi khóc sụt :
« Bao giờ đưa đám bảo em nhá. Lão ấy khoẻ như voi mà chết nhanh đến như vậy. Chẳng ai biết được mệnh trời.»
« Được rồi, cô cứ lên nhà, cơ quan định đưa ma ngày nào tôi sẽ rủ cô đi. »
Tôi nói, đoạn bảo Phú ngồi lên xe rồi phóng đến vườn hoa. Dọc đường, Phú chửi :
« Tiên sư thằng điên , sao lại bịa ra một lý do quái gở đến thế ? »
Lúc đó tôi cũng ân hận vì Đoàn là bạn chung thuỷ từ thời thơ ấu của Trần Phú nhưng gặp lúc bối rối nên chẳng thể sáng tác ra màn kịch nào thích hợp hơn. Bởi muốn kéo ai đó tức khắc ra khỏi nhà, chỉ viện đến tai nạn hoặc cái chết của người quen thân mới có thể bảo đảm trăm phần trăm thành công. Vì vậy, tôi bảo Phú rằng, trước hết hãy cứu nguy cho tôi đã, rồi sẽ giải quyết việc khác sau. Đưa anh bạn vàng đến vườn hoa, tôi giới thiệu với người đẹp rằng đây mới chính là bậc quân tử có thể dang tay che chở cho nàng. Đoạn bỏ mặc hai người ngồi tìm hiểu lẫn nhau, tôi phóng về nhà vừa đúng lúc bữa cơm, bà lão khả kính thân sinh ra các con tôi đã gườm gườm nhìn lên cây kim chỉ giờ của chiếc đồng hồ. Nếu tôi chậm chân mươi phút nữa ắt là nước tương nước mắm phải đổ ra mâm và tiếp theo là phần trình diễn những khúc ca dai như chão.
Vũ bật cười, ông bị cuốn vào câu chuyện một cách bất ngờ, và có thể do bản tính thật thà, ông đâm ra lo thay hai gã đàn ông đàng điếm :
- Thế rồi anh giải quyết ra sao về cái chết bịa tạc kia ?
- Ồ, non cao phải có đường trèo chứ. Sau bữa cơm, chờ cho vợ đi làm, con đi học, tôi liền ngồi vào bàn viết bức thư ngắn cho vợ Phú, trong đó nói rằng có một sự nhầm lẫn đã xảy ra. Người anh họ dưới quê tên là Toàn vừa chết nhưng khi nhận điện tín tôi hoảng hốt trông gà hoá cuốc nên đọc nhầm thành Đoàn. Tóm lại, mọi sự đều yên lành, chỉ có riêng tôi phải về quê đưa đám. Viết xong, tôi phái cậu đàn em trong xưởng phim tôi đang công tác mang thư tức khắc đến nhà Phú.
- Chịu các anh thật.
- Tôi đã nói trước rằng những người mũ cao áo dài như các anh lo việc đại sự. Còn chúng tôi chỉ có mấy thứ mẹo vặt để rong chơi mà chẳng làm tổn hại đến ai.
- Thế cô diễn viên bất hạnh kia sẽ được giải quyết ra sao ?
- Nàng kết Phú. Vậy nàng sẽ trở thành người tình của cậu ta trong thời gian họ còn duyên còn nợ. Việc nàng tìm tôi là nhầm lẫn, ví như con cừu lạc vào chuồng vịt, bởi nàng mê những gã đàn ông cao, to, bóng mượt. Người tình cũ của nàng, tác giả cái thai trong bụng nàng cũng là một gã đẹp mã và bạc tình như Sở Khanh. Tuy nhiên, con người không thay đổi. Nếu tiêu chuẩn cái đẹp đã được định vị một lần thì nó sẽ vĩnh viễn ngự trị như một thứ hình mẫu kêu gọi và dung chứa tình yêu. Theo quy tắc ấy, nàng sẽ chọn Phú. Bởi Phú đẹp trai hơn tôi nhiều nên chẳng những lần ấy mà trong những cuộc phiêu lưu sau này của chúng tôi, em nào thích kẻng trai sẽ thuộc về quyền cai quản của nó. Còn tôi, vừa nhỏ con vừa xấu xí nhưng giỏi hót, em nào thích bùi tai sẽ ngả vào vai tôi. Ấy là sự phân phối theo định luật « lực hấp dẫn tự nhiên ». Chín năm trường kì kháng chiến đã dậy chúng tôi tinh thần yểm trợ tác chiến và khả năng nhường nhịn lẫn nhau. Giữa hai chúng tôi truyền thống ghen tuông, đố kị nổi tiếng của dân Việt nam không tồn tại. Cái thứ « dân tộc tính » đó nằm ngoài khuôn khổ tình bạn của chúng tôi. Chính vì thế, hơn hai mươi năm qua chi bộ này tuyệt đối vững chắc...Sự vững chắc của tình bạn tựa trên nguyên tắc dung chứa và bổ sung lẫn nhau. Phú đẹp trai, tôi xấu xí đen đủi. Nó hào phóng vì xuất thân là cậu ấm Hà nội, tôi keo kiệt « Ăn tép ỉa ra tóc, có chín xu đổi lấy một hào » vì bố mẹ chết sớm, thân tự lo thân từ thuở lên mười. Nó sạch sẽ hơn cả lũ đàn bà đỏm dáng, ngày nào cũng tắm như vịt bất kể mùa đông hay mùa hè ; đi đâu thì chải chuốt trước gương, rồi dí mũi vào cổ áo nách áo hít đi hít lại xem có thơm tho hay không bởi lỡ may giữa đường gặp em nào ngả đầu vào tựa vai đấng anh hùng thì không phải ngất xỉu vì hôi hám. Tôi ngược lại, không thích tắm. Mùa đông một hai tháng không mò vào buồng tắm lương tâm cũng không bị cắn rứt mà linh hồn cũng không đau khổ. Mụ vợ tôi thi thoảng không chịu nổi lại đổ canh riêu cua hay canh thịt lên người tôi để tôi buộc phải tắm.
Vũ không nén nổi bật lên cười và hỏi :
- Thế nếu bà ấy đổ nước rau muống luộc hay canh xuông lên người ông thì ông không chịu bước vào buồng tắm hay sao ?
- Không ! Nước rau muống luộc cũng như nước lã, tôi thay áo là xong. Các vị lãnh đạo thường tự tuyên truyền rằng trong nhà tù đế quốc, họ cương quyết không khai các cơ sở cách mạng. Tôi nghĩ rằng mười ông nói chưa chắc tin được một ông. Còn tôi, tôi cương quyết hơn nhiều : nếu không thực sự bẩn và nhu cầu tắm chưa trở thành cấp bách, tôi không tắm. Bây giờ, để thoả mãn cơn tò mò của anh, người chẳng có mảy may khái niệm nào về những cuộc đời nhỏ bé tầm thường của lũ rong chơi, tôi xin kể nốt hồi cuối. Chúng tôi dẫn em diễn viên xinh đẹp bụng to kia đến nhà nghỉ Tam Đảo. Ở đó, em đóng vai hiền thê của Phú, còn tôi rủ tay giám đốc nhà nghỉ đi săn gà gô ở các vùng rừng lân cận. Qua ba tuần, tay giám đốc này chết mê chết mệt vì đủ loại tiếu lâm. Đêm nào gã cũng dính vào tôi như sơn, ăn tối xong còn pha đến hai ấm chè để ngồi hóng chuyện. Sang tuần thứ tư, đã đến lúc sắp hết hạn « công tác », tôi mới ngỏ lời nhờ gã giúp cho cô em xinh đẹp vào viện huyện nạo thai. Anh ta hăng hái nhận lời tức khắc. Sáng hôm sau, ô-tô nhà nghỉ chở Trần Phú và phu nhân rởm đến bệnh viện huyện giải quyết nỗi buồn, với lý do « nhỡ kế hoạch ». Tóm lại, mọi sự được thu xếp hoàn hảo. Khi chúng tôi quay về Hà-nội, em gái xinh tươi đã cất tiếng cười khanh khách, chẳng còn vẻ tuyệt vọng và hoảng loạn như ngày leo lên căn gác nhà tôi. Rồi sau đó ba năm.
- Cậu nhầm rồi, hơn bốn năm chứ. Nói chính xác là bốn năm hai tháng.
- Ờ, lâu quá nên tôi chẳng còn nhớ chính xác. Bốn năm sau, chúng tôi giúp cho em được tuyển vào đoàn kịch nói tổng cục chính trị. Trong môi trường mới, em gặp được ý trung nhân, một diễn viên xoàng nhưng là người chồng lý tưởng. Trước ngày em lên xe hoa, chúng tôi tổ chức bữa cơm tiễn biệt. Một bữa ăn thịnh soạn nhất có thể có được trong điều kiện sống thời đó. Bữa cơm ly biệt nhằm liệt kê lại những kỉ niệm lần chót như người ta kiểm nghiệm lại mớ quần áo của thây ma lần chót trước lúc đóng hòm. Đôi giọt lệ ngậm ngùi nhỏ xuống và vài lời cảm ơn nồng thắm. Sau đó, đường đời lắm nẻo, nàng ra đi, bóng hồng biền biệt. Còn chúng tôi, quay về với những lão bà khả kính thân sinh ra đám con mình.
Nhà văn ngừng lời, đưa tay sửa cặp kính trên sống mũi rồi hỏi Vũ :
- Sao, anh đã bao giờ nghe những câu chuyện nhảm nhí như thế này chưa ?
- Ồ...thú thực là chưa.
Vũ lúng túng đáp, rồi thú nhận :
- Trong cơ quan của chúng tôi, những sự việc như thế buộc phải đưa ra chi bộ kiểm điểm và cán bộ buộc phải nhận kỉ luật.
- A...ha ...ha...
Cả hai gã đều cất tiếng cười như đập pháo. Rồi Lê Phương lau nước mắt và hỏi ông :
- Vậy những người chịu thi hành kỉ luật có bao giờ dám há mồm ra đề nghị chi bộ kiểm điểm các cấp lãnh đạo cao hơn không ? Bởi ai cũng biết rằng quá nửa số uỷ viên bộ chính trị có hai vợ. Còn bí thư Ba Danh chẳng những hai vợ mà còn một bầy cung phi dưới danh nghĩa y tá. Liệu khi kiểm điểm các đồng chí của mình, anh có nghĩ đến những người cùng phạm một thứ khuyết điểm, cứ coi là như thế, thậm chí còn trầm trọng hơn, sự tái phạm còn nặng nề hơn nhưng vì họ đứng ở vị thế cao hơn, quyền lực mạnh hơn nên họ nghiễm nhiên được tha bổng hay không ?
- Có chứ ! Tôi có nghĩ. Nhưng tôi là kẻ đơn thương độc mã và lực bất tòng tâm.
Ông đáp, không khỏi buông tiếng thởi dài. Và Lê Phương tiếp lời :
- Còn cái guồng máy khổng lồ kia, cái guồng máy quyền lực cứ tiếp tục quay, tiếp tục nghiền nát biết bao con người, với tất cả thói đạo đức giả và sự bất công của nó ?
Ông không biết trả lời ra sao nên đành im lặng. Nỗi ngao ngán tràn ngập tâm hồn. Những điều gã đàn ông đen đủi xấu xí này vừa nói đâu có mới lạ đối với ông ? Ông đã từng nghĩ thầm nghĩ vụng. Nhưng ông chỉ nghĩ một cách lén lút vì không dám và không muốn tin đó là sự thật.
Chẳng lẽ tuổi thanh xuân của ông và của bao người khác dâng hiến cho cách mạng để cuối cùng phải chấp nhận một kết quả thảm thương như thế hay sao? Chẳng lẽ máu của bao nhiêu người đổ xuống, vàng bạc tài sản của bao nhiêu kẻ hảo tâm đóng góp để cuối cùng tạo dựng nên một chính thể đê tiện và phi nhân như vậy ? Sự đê tiện và phi nhân đó, ông từng biết nhưng ông vẫn muốn tin rằng nó chỉ dành riêng cho một số người trong guồng máy quyền lực. Bởi cuộc cạnh tranh quyền lực từ cổ chí kim và cho đến vĩnh viễn muôn đời vẫn là cuộc đấu tàn khốc nhất trong kiếp nhân sinh, nó tước bỏ mọi phẩm chất tốt đẹp chỉ còn để lại cho con người sự tham lam ô nhục, sự mưu toan đểu cáng và những cuộc trình diễn thói độc ác. Nhưng dẫu sao, ông vẫn không muốn chấp nhận rằng toàn thể cái xã hội mà ông đã đặt biết bao kì vọng lại là xã hội vô đạo đức, lưu manh. Dẫu sao, nó vẫn là canh bạc mà ông cũng như bao nhiêu người cùng thời đã đặt cược toàn bộ cuộc đời. Dẫu sao, nó vẫn là tạo phẩm chung, một cuộc hoài thai tập thể. Không người mẹ nào muốn công nhận rằng mình đẻ ra một quái thai...
Giờ đây nghe chính những hồ nghi ấy thốt ra từ cửa miệng một người xa lạ, kẻ vừa gặp mặt vài giờ, ông hiểu rằng những gì ông còn ngờ vực một cách sợ hãi trong những đêm mất ngủ đã được công chúng coi như sự thực hiển nhiên. Và ông, giống như kẻ trú ngụ trong cung cấm, chỉ có thể nhìn thấy loạn quân khi thành đã vỡ và lửa cháy bốn bề.
Cúi xuống nhìn những ngón tay mình một cách vô thức, Vũ nhận thấy những chiếc móng đã dài mà chưa được cắt, ông giơ lên gẩy móng nọ vào móng kia. Nhà văn nhìn cử chỉ đó, tủm tỉm cười đoạn tiếp lời :
- Giờ anh hiểu vì sao chúng tôi chọn kiếp sống của những kẻ rong chơi, hài lòng cuộc đời cỏn con với những vui thú cỏn con. Đấy là cũng là một cách mà cổ nhân gọi là ở ẩn. Bởi ngay sau ngày giải phóng thủ đô, chúng tôi biết rằng đại sự hỏng rồi, rằng thuyền tình đã vỡ, rằng ước mộng đã tan. Ngày lên đường kháng chiến, tất cả mọi người đều có chung một giấc mơ. Cách mạng, đối với một xã hội trì trệ, hoặc một dân tộc nô lệ là cơ hội thanh lọc vĩ đại, là cơn bão quét sạch rác rưởi và đem lại sức sống mới mẻ, mạnh mẽ. Vì thế, người ta mới chấp nhận chết vì nó. Người ta chết vì non sông, nói đúng hơn, vì một tương lai tươi sáng. Những cuộc cách mạng thật sự bao giờ cũng giải phóng sức sản xuất và nới rộng vùng đất cho tự do. Nhưng cuộc cách mạng này, ngoài cái phần đã làm được là giải phóng dân tộc, nó chẳng những không đem lại tự do, cũng không mở rộng được sức sản xuất mà ngược lại nó thiêu huỷ toàn bộ những giá trị văn hoá đã vĩnh định của dân tộc, nó phá huỷ luôn sức sản xuất. Cải cách ruộng đất chính là cuộc tàn sát có hệ thống và quy mô tầng lớp nông dân có năng lực. Như thế, về phương diện xã hội, cuộc cách mạng này chỉ làm một việc ghê tởm là lật nhào lớp bùn dưới đáy ao lên mặt nước. Và cùng với thứ bùn đó là xác cóc nhái chết cùng mọi thứ rác rưởi lẫn rong bèo.
Anh ta ngừng lời. Ông cảm thấy như vừa bị ai tát một cú nổ đom đóm mắt. Một cái tát không kiêng dè. Một cái tát tàn bạo. Nhưng người đàn ông kia đâu có định nhằm vào cá nhân ông ? Anh ta tuyên bố một sự thật. Sự thật đó cũng chính là giá treo cổ đối với tuổi trẻ của anh ta, và của bao nhiêu chàng trai khác đã chết oan cho ảo vọng. Bởi khi nói lên điều đó mắt anh ta buồn đến thế. Bởi những nếp nhăn hằn trên gương mặt anh ta một cách sầu thảm khi anh ta không cười. Phải chăng những câu chuyện bông lơn nhảm nhí kia cũng chính là một cách để lãng quên đi mối thất vọng lớn lao ? Mối thất vọng của toàn dân tộc !
Cả ba người đều im lặng. Những người khác đã rút đi từ lâu. Chỉ còn lại ba cô bán hàng đứng hí hoáy nhổ lông mày, cô nọ vành mặt cô kia ra mà thực thi cuộc làm đẹp. Họ hồn nhiên coi như trên cõi đất này không có ai. Trần Phú ngứa mồm bảo :
- Ba con bé kia chắc mới từ quê lên. Bọn mình ngồi đây chút nữa chắc chúng nó vén áo lên nhổ lông nách.
- Ồ, không loại trừ khả năng đó. Vì họ chẳng có nhu cầu làm duyên làm dáng hay chơi trò thẹn thùng trước mặt ba lão già.
- Không lẽ bọn mình đã thật sự biến thành giẻ rách hay sao ?...
- Cũng chưa đến nỗi, nếu nhận định một cách khách quan. Hàng hoá hãy còn xài được nếu gặp các mợ nạ dòng ba, bốn chục. Nhưng đây toàn lũ trẻ nõn ra ; mười sáu mười bẩy là cùng. Tuổi đó là tuổi con cháu chúng ta.
- Ôi, tuổi già ! Tuổi già xồng xộc đến sau lưng. Này anh Vũ, anh có cảm thức ra sao đối với tuổi già ?
- Tôi chấp nhận và chung sống hoà bình với nó, trong chừng mực còn có thể.
- Đấy là cách ứng xử khôn ngoan.
Trần Phú nói đoạn đứng lên trước :
- Sắp tới giờ cơm chiều, bệnh nhân phải trở về phòng thôi. Lê Phương tháp tùng anh quay lại khu điều trị. Tôi thanh toán xong sẽ đuổi theo hai người.
Khi ông cùng anh chàng nhà văn bước ra sân, nghe tiếng Trần Phú oang oang bảo mấy cô bé :
- Này, làm đỏm làm dáng thì phải tìm nơi tìm chốn. Đây có phải phòng triển lãm đồ nghề phụ nữ đâu ?
Chẳng nghe thấy tiếng ai trả lời. Hẳn là mấy cô gái kia sợ đến tắc họng. Lát sau, Trần Phú đã đuổi kịp hai người. Họ thong thả quay trở lại khu nhà dành cho cán bộ cao cấp rồi chia tay ở chân cầu thang :
- Chúc đại huynh mau lành bệnh. Hôm nay, thấy mặt người anh hùng, tôi hoàn toàn thoả mãn.
Nhà văn nói lời cuối.
Khi Vũ quay lại phòng, gặp đám y tá xúm quanh bác sĩ trực, một phụ nữ đãy đà trạc ngũ tuần. Họ mang máy hô hấp nhân tạo đến cho người bệnh nằm giường đối diện với ông. Mặt anh ta xám ngoét, mắt nhắm nghiền. Cặp môi mím lại chỉ còn là một vệt thâm. Vũ bước vào vừa đúng lúc y tá chụp mũ thở ô-xy lên mặt người bệnh. Ông lẳng lặng lách sau lưng họ về giường mình
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 27: KÝ ỨC (4)
Trời lại mưa, cơn mưa thẹn thùng của mùa xuân.
Những làn mưa thưa hạt, rắc lổ đổ xuống mặt đất một cách e dè rồi sau đó tắt ngấm. Gió từ phía biển Đông cuốn lên đuổi những làn mây lang thang qua khung trời hoang vắng. Mây tím màu hoa cà khiến ông nhớ tới vườn cà quê hương, một quê hương quá đỗi mờ nhạt xa xôi chỉ còn lại vài hoài niệm mún manh và huyền hoặc. Rồi màu mây tím ấy lại gợi cho ông những cánh đồng miền Provence, nơi người ta trồng cỏ thơm lavande để làm nước hoa và xà-phòng. Lần đầu tiên đứng trước cánh đồng mênh mông màu lơ tím, tâm hồn ông tê dại đi vì vẻ đẹp của xứ người. Và ông thầm khóc trong tim :
― Ôi, bao giờ những cánh đồng xứ sở, những miệt đồi mênh mông nắng cháy miền Trung có thể khoác được tấm áo choàng mỹ miều kia ? Ôi, bao giờ những người dân cày quê ta có được vẻ mặt thanh thản như những người nông dân xứ này khi bước trên đất đai của họ ? Ôi, bao giờ những đứa bé chăn bò quê ta có thể ăn mặc chĩnh chện như đứa bé chăn bò đang rong ruổi dưới bóng những hàng bạch dương kia ? Bao giờ và bao giờ ?
Bao nhiêu tháng năm, tim óc ông sôi sục vì câu hỏi ấy. Bao nhiêu tháng năm, ông bị ám ảnh bởi một biểu tượng song trùng, một sự so sánh đau đớn bất khả nguôi dịu, bất khả quên lãng: những đôi chân mang giầy da tất ấm của những người nông dân Pháp đặt bên cạnh những đôi chân nứt nẻ, móng đen xì bùn phèn, với những ngón chân choẽ toác ra vì ngàn năm phải bấm xuống ruộng bùn của dân cày Việt nam. Cặp hình ảnh này theo đuổi ông như hình với bóng, trong những cơn mơ chính ngọ, trong những cơn thổn thức nửa đêm, khi ông ngồi trong nhà tù cũng như khi ông ngồi trên khán đài danh dự. Dân tộc đau khổ của ông. Số phận cay nghiệt mà tạo hoá đã dành cho họ. Bao nhiêu giọt nước mắt ông đã nhỏ vì cái số phận cay nghiệt ấy. Tất cả những gì ông đã cố sức làm, trong hy vọng can trường là cải tạo nó.
― Ta yêu dân tộc của ta như vậy, tại sao họ chẳng yêu ta ? Tại sao họ không thể thí cho ta chút hạnh phúc cỏn con, tầm thường như mọi kiếp nhân sinh khác ?
― Ồ, dân tộc, đó là một khái niệm trừu tượng, một đám đông vô nhân dạng, tiếng ồn ào của một biển hơi thở, sự va đập trong phút chốc của con sóng thời gian. Kẻ ngăn cấm ngươi sống cuộc sống đích thực của con người chính là các đồng chí thân thiết của ngươi, và trước hết là chính ngươi, bởi ngươi đã trót đóng vai ông thánh.
― Nhưng dân tộc của tôi nhỏ yếu, để khích lệ niềm tin và sự can đảm nơi họ, liệu tôi có thể làm gì khác ?
― Ngươi đã chọn lối đi dễ nhất, tương hợp nhất với tầm vóc trí tuệ dân tộc của ngươi, và vì thế ngươi phải trả giá. Trò chơi làm thánh không mới lạ gì trong lịch sử con người. Bệ thờ nào chẳng trang trí bằng những đoá hoa giả, dù bằng bạc, bằng đồng trong thời quá vãng hay bằng các loại nhựa dẻo và kim cương nhân tạo ngày nay. Nhưng mọi trò chơi đều phải trả giá. Trên cõi đời, chẳng thứ gì được cho không.
Người đối thoại với ông hạ lời cuối, với nụ cười riễu cợt trên môi. Đoạn ông ta biến đi theo làn gió. Một cơn gió xuân ẩm ướt mang theo hơi lạnh khiến ông rùng mình. Ông đưa mắt nhìn theo kẻ khinh bạc kia, dường như ông ta đến từ lối rẽ bên trái ngôi chùa, bước qua mảnh sân với vườn mai. Rồi ông ta biến đi cũng theo ngả ấy. Cái gã đàn ông giống ông như tạc, nhưng với làn da xanh màu lá chuối non và cái nhìn đầy vẻ khinh khi.
- Thưa chủ tịch, mời người vào nhà kẻo lạnh.
Cậu lính to béo đã tiến sát lưng ông, cất tiếng đột ngột khiến ông giật nẩy mình.
- Được, tôi vào đây.
Ông đáp, có chút tức giận mà không dám bộc lộ. Dù muốn hay không, ông cũng bị kiểm soát từ mọi phía. Không một phút được tự do. Cuộc đời ông là của dân tộc. Sức khoẻ của ông là của dân tộc. Thời gian của ông cũng là của dân tộc. Không còn gì riêng cho ông nữa sao ? Cuộc chơi này thật cay nghiệt !
- Boong...boong boong...
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Chuông chùa bỗng đổ hồi dồn dập, ròn rã.
- Boong...boong...boong...
Ông quay lại hỏi cậu cần vụ :
- Sao hôm nay nhà chùa gióng chuông nhiều như vậy ?...
- Con quên không thưa với người rằng hôm nay đích thân sư cụ chủ trì lễ giải oan, tẩy trần cho ông Quảng. Nhà chùa sẽ kéo chuông và tụng kinh nhiều hơn thường lệ. Xin chủ tịch thông cảm.
- Chúng ta trú ngụ ở đây là đất nhà chùa. Họ có quyền làm những gì họ muốn.
- Dạ...Nhưng dẫu sao ...
- Hôm nay làm lễ gì, tôi chưa nghe rõ ?
- Dạ, lễ rửa oan, tẩy trần cho người đã khuất....Ông tiều phu dưới xóm đã chết được bốn mươi chín ngày rồi ạ.
- Đã bốn mươi chín ngày rồi ? Nhanh đến thế ?
- Dạ. Hôm qua chủ tịch xã lên tận văn phòng đề nghị anh Lễ cho phép gia đình ông Quảng được lên đây cúng. Khi nào họ lên, đại đội sẽ tăng cường bảo vệ.
- Ra thế...
Ông buông một tiếng hững hờ :
― Đấy chính là việc của họ. Tăng cường bảo vệ để làm gì ? Chắc hẳn để ta khỏi ngã trước nàng vợ goá của ông tiều phu. Còn những người dân quê kia liệu có nhu cầu gì để ám hại một ông chủ tịch ?
Ý nghĩ thầm kín ấy chạy qua óc não ông, vừa như sự riễu cợt lại vừa như lục vấn.
- Mời người dùng trà cho nóng.
- Cảm ơn.
- Chú kê cái ghế xích-đu ra gần cửa cho tôi...Ở đó, tôi có thể đọc báo bằng ánh sáng tự nhiên.
- Dạ, đúng vậy. Hôm nay không có mặt trời.
Cậu lính thật thà đáp rồi loay hoay mang chiếc xích-đu ra kê sát cửa. Ông vừa uống trà vừa nghĩ rằng lát nữa, ông có thể nhìn rõ bầu đoàn thê tử của người tiều phu, trước hết là đứa con trưởng. Câu chuyện này đã trở thành nỗi ám ảnh thường xuyên kể từ khi ông biết. Nỗi tò mò khôn cưỡng khiến ông nảy ra nhu cầu ngắm những nhân vật đích thực xoay quanh tình sử của cặp vợ chồng chênh lệch, trớ trêu này. Một nụ cười riễu cợt khác lại nảy sinh :
― A, ngươi thèm khát được thấy mặt đám người này vì họ là tấm gương phản chiếu lại cuộc đời của chính ngươi. Một sự phản chiếu gần như tuyệt đối nhưng theo chiều ngược lại. Bởi gã tiều phu chẳng đóng vai ông thánh, gã sống đúng thân phận con người. Gã là kẻ chiến thắng trên mọi nỗi bất hạnh đã trải nếm, còn ngươi, ngươi là kẻ chiến bại dưới bóng quyền lực và vinh quang. Một kẻ chiến bại câm lặng và thảm hại.
- Thưa chủ tịch, như thế này đã được chưa ạ ?...
- Lui về phía sau một chút nữa là được. Không nên để họ thấy mặt tôi, như vậy phiền cho cả đôi bên.
- Dạ.
- Hình như có tiếng cậu Lễ ?
- Thưa chủ tịch, chính xác như vậy. Anh Lễ đưa quân lên tăng cường đấy ạ. Sau đội tăng cường mới đến gia đình người tiều phu.
- Bảo cậu Lễ là tôi đang đọc tài liệu, cứ việc bố trí người bên ngoài, không cần vào đây bẩm báo với tôi.
- Dạ.
Chàng lính béo liếc lần cuối xem chiếc ghế kê đã thuận hay chưa rồi đi ra đón đội tăng cường. Ông cầm tập tài liệu ra xích-đu ngồi, trong tư thế tiện lợi nhất để có thể quan sát đám người sẽ đi qua mặt ông trước khi vào chùa chính.
Không gian ngào ngạt mùi nhang. Tiếng gõ mõ vang rền khi hồi chuông ngưng lắng. Ông nghe tiếng bước chân đám lính, rồi họ xuất hiện ngay trước hành lang xếp thành một hàng rào. Tất cả nghiêm trang như những pho tượng gỗ, mặt hướng ra ngoài, lưng quay lại phía căn phòng của ông, nơi cánh cửa nửa khép nửa mở để che khuất người ngồi trong. Chừng như Lễ biết ý ông nên đã đứng ở một góc khuất nào đó. Sự vắng mặt anh ta khiến ông dễ chịu hơn.
- Boong...boong...boong....
- Boong...boong...boong...boong...boong...
Tiếng chuông lại gióng lên để làm hiệu cho đoàn người bước tiến vào chùa. Sư nữ bước ra sân, hai tay chắp hình búp sen đón khách. Người đầu tiên ông nhìn thấy chẳng phải là một thành viên trong gia đình kẻ tiều phu xấu số mà là một sư bác, chắc chắn ngoại ngũ tuần. Theo sau ông ta còn hai sư nữa rồi mới tới người con trai trưởng của ông Quảng. Chủ tịch nhận ra anh ta tức khắc ngay từ cái nhìn đầu tiên và có đôi phần thất vọng. Trên phương diện hình thức, anh ta chẳng gây được chút ấn tượng nào. Một gã đàn ông nhỏ thó, vai lệch, gương mặt nhọn hoắt, không gợi lại chút xíu hình ảnh người cha cũng chẳng có một hạt cỏn con sự quyến rũ nam tính. Anh ta bận quân phục thu-đông cũ, thứ y phục thông dụng của đám cán bộ xã. Anh ta chẳng có râu hùm, cũng không có hàm én, nhưng ngay cả dáng đi cũng lạ kì, dáng đi của anh ta giống hệt dáng đi của những người đàn bà mà đa phần trong số họ phải chấp nhận kiếp cô đầu hay kĩ nữ. Vừa vặn vẹo như rắn trườn vừa nhón gót như loài chim sẻ. Tuy nhiên, với bộ dạng sầu khổ và èo ọt, con người anh ta vẫn toát ra một sức mạnh âm hiểm rất khó miêu tả hay cắt nghĩa. Chủ tịch bất giác buông ra một tiếng : A!...
― Đây chính là con người kiểu mẫu của thứ xảo võ, lối đánh trông tưởng chừng như múa lượn nhưng toàn nhằm vào hiểm huyệt của đối phương. Khi xuống đòn, họ có thể kết thúc đối phương một cách bất ngờ. Nói cách khác, đây là thứ đô vật không bao giờ bước lên võ đài, là kiếm sĩ không xuất hiện lúc thanh thiên bạch nhật mà chỉ quật đổ đối phương bằng cách đứng rình trong bóng tối để đâm họ từ phía sau lưng. Kiểu người này chẳng bao giờ lùi bước trước bất cứ trở ngại nào để đạt được tham vọng của mình, bất chấp lương tri cũng như bất chấp sự khinh bỉ của tha nhân. Nhưng thần hộ mệnh của Quý không đủ quyền năng để giúp anh ta thành công, nên cuộc chiến đấu của kẻ thất phu chỉ tạo ra một đàn những đứa trẻ thiếu dinh dưỡng lẫn sự chăm sóc.
Ông thầm nghĩ vì đã thấy đội quân ấy đi sau vị gia trưởng, tất cả đều chít khăn tang trắng thay cho khăn sô, sắp hàng theo thứ bậc. Tiếp theo gia đình này là một đám ông bà già; chắc họ là bà con gần gụi của kẻ đã khuất. Cuối cùng là mẹ con cô vợ trẻ với một thanh niên bảnh bao mà ông đoan chắc là chàng sinh viên tên Quỳnh. Đám người không gây ấn tượng nào đặc biệt.
Chủ tịch bất giác nhắm mắt. Nỗi ám ảnh khiến ông quay lại với hình ảnh người con trưởng, lúc này đã vào hẳn trong chùa :
― Một đứa con èo ọt thảm thương như thế mà quyết liệt chống lại cha, hòng dùng vị thế của mình bắt ông ta làm nô lệ ? Phi lý thay cõi đời. Một kẻ sống trong vòng bảo hộ của bậc gia trưởng nhưng lại muốn thực thi quyền năng của y trên chính ông ta, phải chăng đó là sự điên rồ có tính cá biệt hay là nguyên lý chung của muôn loài, tất cả những đứa con cần phải giết cha và những con thú lớn khôn cần phải cắn chết đám thú già để tìm thực phẩm ? Nếu vậy thì khoảng cách giữa con người với muông thú đâu có xa ?
Ngoài sân, chuông gióng giả vang lên, hồi nọ ngưng lắng hồi kia lại tiếp diễn khiến những vọng âm reo như sóng trên khắp các giải núi và không gian chùa Lan Vu ngập tràn một sắc thái thần diệu. Sân chùa vắng tanh vì đoàn người đã vào hết bên trong, chỉ còn lại mớ lá vàng rải rác. Chủ tịch nhìn lên khoảng trời lơ vừa ló rạng sau cơn mưa xuân, tìm lời giải đáp. Nhưng lời giải không tới. Bởi ông không có kinh nghiệm trực tiếp. Bởi ông yêu cha ông, và ông không có nhu cầu cạnh tranh quyền lực hay tiêu diệt kẻ đã sinh thành mình. Ông cũng không tin nhu cầu ấy là phổ biến cho toàn nhân loại :
― Phải chăng vì ta đã giã từ gia đình quá sớm, và ta luôn thiếu vắng người cha, nên trong tim ta ông chỉ là mong mỏi và buồn nhớ ? Nhưng còn hàng triệu người khác vẫn sống với cha mẹ họ một cách an lành? Bi kịch kiểu gia đình kẻ tiều phu kia lần đầu ta mới nghe và mới thấy. Có những đứa con hiếu đễ và những đứa con ngỗ ngược, vô ơn. Nhưng vì dục vọng mà biến thành kẻ cừu thù huyết chiến với bậc sinh thành hẳn chỉ là những cá nhân đặc biệt. Nếu phụ tử tình thâm mà còn những kẻ như vậy thì kể làm chi lũ khác máu tanh lòng ?
Sau cùng, ông nhận thấy ông đã quay lại với cái ngục luyện tội quen thuộc, cái pháp đình mà nơi ấy, ông vừa là quan toà vừa là người biện hộ.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh tập thể đã vang lên. Hôm nay, ba vị sư dưới núi được phép lên đây để hỗ trợ sư cụ và sư nữ. Tiếng mõ vọng nhịp nhàng điểm xuyết tiếng ngân nga vang rền của chuông bát, hoà lẫn tiếng đọc kinh. Đám người bên kia chùa đang sống cuộc sống của họ, niềm tin của họ. Họ tin chắc rằng trời phật, các đáng thần linh tối cao hiểu được những ước nguyện chân thành ấy, rằng những gì họ đang làm giờ đây là để giải đi những oan khuất cho người đã chết, để xoá đi những lỗi lầm của ông ta, để hoàn lại danh dự bị vấy bùn và những thua thiệt phải cam chịu trong câm nín. Và sau rốt, để con đường dẫn tới cõi cực lạc đón nhận kẻ đã từ bỏ cõi trần. Còn ông, ông sống với niềm tin nào bây giờ ?
Một cơn đau chạy dọc sống lưng, khiến hai đùi ông tê lạnh. Chủ tịch khép chặt cánh cửa, quay vào buồng trong. Ông đi nằm. Chưa bao giờ ông đi nằm vào giờ này trừ những trận ốm. Hôm nay, ông không ốm nhưng ông muốn đi nằm. Ông thấy bại hoại. Một sự bại hoại cả phần xác lẫn phần hồn. Ông không thể và cũng không còn muốn giữ đúng những chuẩn mực sinh hoạt của một bậc quân vương. Ông chẳng còn muốn đóng vai một người lãnh đạo có sức khoẻ vô biên, làm việc như cỗ máy không han rỉ
― Suốt đời ta đã phải chèo chống, phải cố gắng hành xử cho thật giống máy inoc. Nhưng con người không thể là cỗ máy. Con người phải han rỉ với tháng năm.
Ông thầm nghĩ, nhưng trước khi nằm xuống vẫn liếc nhìn chiếc đồng hồ treo tường và trải qua một thoáng chùng chình vì đồng hồ mới chỉ chín giờ rưỡi sáng :
― Có ích gì vào lúc này, tinh thần gương mẫu của ông vua già bị giam hãm ? Thôi, hãy chấp nhận thực tế là cõi người hữu hạn và sức người chẳng phải là dòng sông không cạn kiệt với thời gian. Ta đã ngoại thất tuần, ở tuổi này chớ nên bám vào ảo vọng. Suốt đời ta đã hy sinh vì những giấc mơ lớn, những giấc mơ người ta thường gọi là lý tưởng, là mục đích cao thượng. Suốt đời ta quay mặt về phía thánh đường nơi con người dâng hiến tuổi trẻ cũng như sinh mệnh một cách vô tư. Nhưng sau rốt, ta mới nhận ra rằng lý tưởng ấy cũng chỉ là ảo vọng. Nó giống như lâu đài huyền bí đứng trong sương mù bên kia bờ sông quyến rũ những kẻ đứng bên này. Người ta xuống thuyền để bơi sang. Nhưng khi cập bến, thuyền nát ván rơi mà chẳng thấy lâu đài cũng không gặp châu báu. Chỉ đơn thuần là một bãi đất hoang trên đó, ngoài những đống đổ nát là trăm nghìn mảnh thuỷ tinh vỡ phản chiếu ánh cầu vồng.
Ý nghĩ ấy khiến tay chân ông bủn rủn còn tâm hồn ông vật vờ như đám xác phù du bập bềnh sóng đánh. Ngay tức khắc, một cơn giận bùng lên, ông lại cao giọng tự xỉ vả mình :
― Ồ, chớ nên bị lung lạc bởi những ý tưởng bi quan như vậy. Chớ nên dẫm lên vết chân của đám hư vô chủ nghĩa. Ngươi có muốn quay lại thứ chủ nghĩa đó hay không ? Hay ngươi muốn theo dòng tu loã thể, sống cuộc sống của cỏ cây và muông thú ? Với ngần ấy thời gian, cách mạng đã tiến trên một đoạn đường dài. Chấp nhận hay không chấp nhận, sự thật cũng bày tỏ trước mắt ngươi như năm ngón tay trên một bàn tay đang xoè ra trước mắt. Đích sở thị, chúng ta đã có một đất nước độc lập, chúng ta có quốc kì, có chính phủ, có quân đội, hiện thực của những giấc mơ dài dặc được nuôi dưỡng trên chiến khu.
Gã đàn ông có nước da nhợt nhạt màu xanh nõn chuối chợt quay lại, đứng tựa lưng vào tường và nhếch mép mỉm cười :
― Nhưng chính phủ để làm gì, quốc kì để làm gì khi những người dân còn sống lầm than hơn thuở trước ? Guồng máy quyền lực này có ích gì nếu nó chỉ dùng để bảo đảm lợi ích cho một số ít ỏi trong khi nó đè nén toàn thể dân chúng và đẩy họ vào những cuộc tàn sát tập thể mà cuộc tàn sát tự nguyện lớn nhất chính là cuộc chiến tranh này ? Những đồng chí của ngươi mơ ước một khải hoàn môn lớn hơn nữa để làm vinh danh chúng. Chúng mơ ước một cuộc chiến tranh vĩ đại hơn. Danh từ vĩ đại là con điếm vĩnh hằng tồn tại, vĩnh hằng lừa mị chúng sinh. Cả ngươi nữa, ngươi cũng đã từng bị nó huyễn hoặc. Vì muốn là bó đuốc dẫn đường cho dân chúng, vì muốn là con người vĩ đại, bậc quốc trưởng vĩ đại, ngươi đã tự nguyện đóng vai ông thánh. Và ngươi đã hại nàng, một người đàn bà ngây thơ, hoàn toàn tin cậy nơi ngươi, điều này ta nói đúng hay sai ?
Ông không dám trả lời. Ông không đủ can đảm để trả lời. Kẻ khiêu khích chẳng còn cười mỉm mà nhún vai một cách khinh bỉ. Sau khi ném cho ông cái nhìn hạ cố gã bước qua đầu ông đi ra ngoài qua lối cửa sổ.
Chủ tịch chợt thấy sống mũi cay xè :
― Trời đất ơi, cớ sao ta dễ chảy nước mắt thế này ? Bệnh già chăng, hay vì cơn cớ nào khác nữa ? Một người đàn ông không nên khóc dễ dàng như vậy. Ta đã đổi thay, ta đã đổ đốn ra tự lúc nào ?
Ông tự rủa xả một cách dữ dội, nhưng nước mắt cứ chảy, từ từ lăn xuống hai thái dương rồi chui vào đám tóc. Và bên tai ông, câu hát quen thuộc của chàng bác sĩ vang lên :
― Người yêu dấu ơi...
- A ha ha ha ...
- A ha...ha...ha...ha...ha...ha...ha...
Những tràng cười khành khạch cất lên một cách hỗn xược và ngay tức khắc ông nhìn thấy gương mặt to tròn, má xệ, cằm xệ của chủ tịch Mãn. Ông ta hiện lên trong quầng sáng màu tro tím, nước da xanh vằn vện như da tắc kè. Vởi vẻ vui thú đặc biệt, ông ta ngắm nhìn ông như tuồng đứa bé quan sát con dế mèn. Chủ tịch nổi giận lên tiếng :
- Tại sao ông đến đây, thưa chủ tịch ?
- Ý ngươi nói ta là vị khách không mời mà đến, đúng hay chăng ?
Ông ta vặn lại.
Chủ tịch lặng im.
Chủ tịch Mãn tủm tỉm cười :
- Sao không trả lời thẳng thắn ? Đây đâu còn là cuộc cờ thế sự, là võ đài ngoại giao mà phải diễn trò ? Ta với ngươi âm dương cách biệt, dù muốn hay không cũng chẳng có ảnh hưởng đến nền chính trị của hai lân bang. Vả chăng, ngươi giờ đây khác nào Na-pô-lê-ông trên đảo, còn lý do chi để giữ gìn ?
- Tôi không quen, thưa chủ tịch.
- Ồ, ngươi lịch sự lắm, thứ lịch sự của bọn da trắng. Nhưng ta và ngươi vốn xuất thân là kẻ quê mùa, ta ở Hồ nam và ngươi ở Nghệ An, cái tỉnh nghèo mạt rệp, nơi dân cày nhai khoai khô trừ cơm, còn khốn khổ hơn cả đám dân Hơ-mông làm bánh ngô hay nấu cháo ngô. Đã là dân quê thì cứ ứng xử theo gốc rễ của mình, phô trương làm chi thứ lịch sự học mót ở xứ người ?
- Xin ngài chuyển đề tài cho, thưa chủ tịch.
- Ta không chuyển đề tài thì ngươi làm gì được ta ?
- Thưa ngài, chớ quên rằng ngài là khách.
- Ô , ta đã quên từ lâu sự phân ngôi chủ khách, dù ta vẫn diễn trò ngoại giao. Đối với ta, tất thảy ngoại nhân hiện diện trước mặt ta đều là những con mồi trong cuộc đối đầu với chúa sơn lâm.
- Tôi biết ngài vẫn tự coi mình là chúa sơn lâm thực sự còn Mỹ cũng như các nước phương Tây chỉ là đám hổ giấy. Vậy nếu tin ở sức mạnh của bản thân, tại sao ngài không trực tiếp đảm nhiệm cuộc chiến tranh này ?
- Ngươi nhầm, nếu quả thực Mỹ và bọn quỷ da trắng phương Tây đều là hổ giấy thì can cớ chi ta lại để cho lũ chư hầu phương Nam khởi sự cuộc chơi ? Ta chưa nuốt được bọn da trắng vì trong thâm tâm , ta hiểu chúng chính là những con mồi quá to đối với họng của ta. Ngươi đã đọc chuyện Trăn nuốt gỗ chưa ?
- Nước tôi nhỏ, dân tôi nghèo, tôi chưa hề có ý định trở thành trăn nên tôi không quan tâm đến chuyện nuốt kẻ khác.
- Đó chính là điều ngu xuẩn thứ nhất của ngươi. Đã làm vương mà chỉ bó gọn ý tưởng trong một giấc mơ thì không xứng đáng đặt đít ngồi lên ngai báu. Giấc mộng vương giả phải khác giấc mộng lương dân. Không có con đường trung dung giữa kẻ cầm quyền với đám người bị trị. Vì cốt cách như vậy nên ngươi bại trận. Cũng vì cốt cách như vậy nên ngươi bị điều khiển bởi đám lâu la của mình. Cổ nhân nói ― Quần hồ đánh bại mãnh hổ là như thế.
- Đám quần hồ đó hành động dưới sự chỉ dẫn của ông. Vì lòng khát khao vinh quang làm mờ lương tri và chọc mù mắt họ. Vì u mê tăm tối họ đã bị phỉnh nịnh bởi mớ danh từ hào nhoáng của các bậc đàn anh nên nhất quyết lao vào cuộc chiến tranh này bằng mọi giá. Họ tin vào lời khích lệ của ông ― Đánh Mỹ đi, đó chỉ là một con hổ giấy....
- A...ha...ha...ha...Ngươi khá lắm! Xưa nay ta vẫn cho ngươi là tên tiểu tốt đáng gờm nhất ở phương nam. Ức đoán của ta không lầm. Linh cảm chưa bao giờ lừa bịp mà trái lại, luôn luôn là kẻ tôi đòi cần mẫn. Ngươi khá lắm! Ta xác nhận rằng ngươi đáng mặt quân tử. Chỉ tiếc thay, ngươi thiếu chữ thời. Xưa nay, đàm luận về các bậc anh hùng thế nhân thường thiên về chiến tích. Ta thực tế hơn, ta tin ở mệnh trời. Trời không phù trợ ngươi. Hoặc nói cho đúng hơn, mệnh ngươi yếu hơn mệnh của ta nên ngươi không thắng nổi ván bài này. Đấy là thứ xưa nay cổ nhân vẫn quy cho định mệnh. Mệnh trời xui khiến nên ngươi có mắt như mù, trông gà hoá cuốc, ngươi giao quyền bính vào tay những kẻ phản trắc. Vì mệnh trời xui khiến nên lũ lâu la của ngươi tin vào những lời ta nói như tin vào bậc thánh nhân. Nhưng đá tảng dẫu có sơn trắng cũng không biến thành bông, hộp các-tông dù có hình vuông cũng không biến thành gạch. Ta, muôn đời chỉ là vua bắc triều, và bờ cõi của ngươi muôn đời chỉ là cửa thềm để dân con những tỉnh phía nam Trung hoa mượn tạm tiêu dùng những khi cần thiết. Giải đất cỏn con mà các ngươi gọi là giang sơn gấm vóc chỉ là một quận huyện lơ láo, mà chúng ta sớm hay muộn cũng phải thâu về. Bây giờ, ngươi đã hiểu rằng cuộc chiến tranh này là một trong những cuộc chơi hay nhất đời ta, một cuộc chơi nhẹ nhàng, không tốn kém. Trong cuộc chơi đó, thậm chí ta cũng chẳng cần đào mưu tính kế mà chỉ lặp lại một trong ba mươi sáu phương sách cổ xưa :
- Vâng, điều ấy tôi biết từ khởi thuỷ. ― Toạ sơn quan hổ đấu chẳng phải là phát minh của chính ông nhưng ông mượn của cổ nhân cũng đã nhiều lần. Thời chiến tranh Nhật - Trung, các ông gõ mõ khua chiêng mồm kêu― Kháng Nhật, cứu nước nhưng quân đội của ông nép ở đường biên để bảo toàn lực lượng, bỏ mặc cho quân Quốc dân đảng đối đầu với phát xít. Thực chất, ông mượn tay Nhật để tiêu diệt địch thủ chính trị của mình. Chờ khi đại chiến kết thúc, quân đội được bảo toàn của ông dồn sức tiêu diệt quốc dân đảng. Giờ đây, không những dân tộc Trung hoa mà hơn một nửa thế giới tưởng rằng công diệt phát xít là của các ông. Nhưng lịch sử không viết một lần như những dòng chữ khắc trên bia mộ. Mọi trò lừa đảo sớm hay muộn rồi cũng bị phơi bầy. Hậu thế có quyền viết lại lịch sử, và quyền lực này nằm ngoài tầm tay với của ông.
- Hậu thế ? Ta chưa nhìn ra gương mặt hậu thế. Ít nhất là vào lúc này. Cái bóng của ta sẽ trùm lên đất nước Trung hoa một cách lâu dài.
- Ông cần thiết vinh quang như một kẻ đốt đền ? Ông tạo dựng vinh quang bằng mọi phương thức giả mạo ?
- Chỉ có những kẻ ngu mới chơi một cách thật thà trong canh bạc chính trị. Tại sao ngươi tỏ tường mọi sự mà ngươi không bắt chước nổi ta ?
- Bởi vì tôi là tôi và ông là ông, thưa chủ tịch, không ai đổi được chỗ cho ai, cũng không ai dạy khôn được cho ai vì thế nhân là khác biệt. Tuy nhiên, tôi biết rằng cuộc chiến tranh này là trò chơi độc ác nhất của số phận, và nếu nó là hình phạt phân thây thì trong bốn cỗ xe ngựa, cỗ xe hung hăng nhất đã được điều khiển bằng bàn tay của chính ông.
- Ngươi biết. Ta xác nhận điều ấy. Nhưng ngươi chỉ biết khi đã bị trói chặt chân tay. Ngươi biết khi ngươi chỉ là thây ma sống, kẻ làm vua mà không còn quân tướng là hình nộm được trang điểm mà thôi.
- Cuộc đời tranh đấu của tôi chưa dạy tôi đủ kinh nghiệm để phán đoán và xử trí mọi tình thế.
- Ta cho rằng ngươi cũng khá đủ kinh nghiệm, nhưng điều yếu kém nhất của ngươi chính là vị thế dùng dằng giữa phương đông với phương tây. Cái thế lưỡng phân này đã gieo trong ngươi thứ mầm của sự tự huỷ diệt. Trước hết là ảo thức về dân chủ , thứ bánh mì của bọn quỷ trắng. Nguyên nhân cội rễ sự thất bại của ngươi chính là ở đó. Ngươi là gã học trò ngoan của phương tây trong khi lũ bộ hạ tay chân ngươi lại là dân bản xứ. Vì thế cùng một lần chúng ngờ vực ngươi thân Pháp và lợi dụng nguyên lý biểu quyết đa số của phương tây để cột trói ngươi như lái lợn trói con lợn trước khi chọc tiết. Dòng máu phương đông chảy trong huyết mạch lại kêu gọi ngươi quay về ngôi miếu cũ, trong đó mấy ngàn năm các nho sinh hương khói xì xụp trước môn bài Đức trị. Ngươi quên rằng chưa ai từng thấy mặt Nghiêu Thuấn trên cõi đời này. Hai hình nộm đó chính do người cầm quyền tạo ra để răn dạy lũ sai nha và thuần hoá chúng sinh. Ngươi áp dụng tinh thần xả thân vì nghĩa, hy sinh vì ích lợi tập thể nên ngươi phải tuân phục lũ đàn em như một thằng ngốc. Ngươi quên rằng người phương đông ăn cơm bằng đũa và phân ngôi vua tôi một cách rạch ròi. Giữa vua tôi không thể có bình đẳng cũng không có tin cậy. Chỉ có sử dụng và không sử dụng mà thôi. Danh từ ―đồng chí ta mượn ở phương tây để điều khiển lũ quần thần và dân đen theo đúng cách bọn phù thuỷ điều khiển âm binh bằng phép thuật. Nó là vỏ trái cây, là bóng ma nhưng ngươi tin nó là ruột quả, là người thật. Cái chết đến với ngươi chính do sự nhầm lẫn này.
Ô...đồng chí ! Danh từ mỹ miều của mấy thằng rậm râu bày đặt.
Ngươi đã thấy ta hành xử ra sao với cái lũ ta gọi là đồng chí hay chưa ?
Ta rút máu trong huyết mạch chúng ra như nông phu tháo nước ruộng. Ta lấy máu chúng để rửa những bậc thềm dẫn lên ngôi báu bởi màu đỏ là màu của quyền lực và vinh quang. Không có gì tượng trưng cho màu đỏ đẹp hơn là máu người. Những kẻ đứng bên tả hay bên hữu một vị vua luôn luôn là đao phủ dự phòng của chính ông ta. Phải biết cách giết chúng trước khi chúng kịp rút dao khỏi ống tay áo. Nói cho chính xác hơn, phải biết giết chúng ngay khi chúng chưa kịp nghĩ tới việc giấu dao vào trong tay áo. Đó là nghệ thuật cai trị đã được chứng nghiệm mấy ngàn năm. Là một vị vua phương đông mà ngươi không hiểu điều luật ấy. Ngươi muốn xây dựng đất nước theo hình mẫu phương tây, nên giao việc cắt đặt nhân sự vào tay kẻ khác. Ấy là tự giao gươm cho lũ cừu thù. Trong cuộc chơi quyền lực tình máu mủ còn chẳng thể tin cậy, huống chi người dưng ?
- Về điều này có thể là ông đúng...
- Không phải có thể mà là đúng. Đúng, với nghĩa khẳng định. Ngươi chớ dùng dằng trong cõi đỏng đảnh của ngôn từ. Thế nhân thường phải trả giá rất đắt cho sự hiểu lầm chữ nghĩa. Còn ta, ta sẽ phải hiểu ra sao sự nhầm tưởng của ngươi ?
- Hoặc tôi thiếu kinh nghiệm hoặc tôi thiếu thông minh. Hoặc trong tình thế riêng biệt của đất nước tôi, khó tìm được giải pháp khác.
- Ngươi khá thông minh nếu nhìn một cách đại thể. Nhưng ngươi ngu đần khi lẫn lộn giữa thật và giả, giữa sự đóng trò và sự nhập vai. Làm vua chính là cuộc sắm vai lớn nhất giữa sân khấu cuộc đời. Nhưng phải có ý thức là mình đang diễn. Và cái ý thức đó phải được duy trì, bảo dưỡng thường xuyên như con người phải thường xuyên chăm sóc bản thân phần hồn cũng như phần xác. Cái khốn nạn của ngươi chính ở chỗ ngươi có máu kép hát, đôi khi ngươi khóc ngươi cười thật sự, có nghĩa là ngươi nhập thân thật sự vào nhân vật. Bởi thế, ngươi chẳng thể chơi đến cùng vai diễn của đấng quân vương. Bây giờ, ta sẽ giải thích cho ngươi nghe sự khác biệt giữa một ông vua với một thằng kép hát. Vua diễn trò nhưng luôn luôn ý thức đó là vai diễn, bất kì lúc nào ông ta nhấc chiếc mặt nạ lên, ném nó vào tủ là ông ta có thể làm mọi điều theo ý thích, thậm chí trái ngược hoàn toàn với vai diễn, nhưng bắt quần thần và dân chúng phải coi đó là sự đương nhiên. Càn Long là ví dụ sáng tỏ nhất trên phương diện này. Ông ta cực thông minh, văn võ kiêm toàn, chữ viết đẹp như có tinh hoa tiên cốt, thơ cao sang như ngọc bích trân châu. Ông ta dạy dỗ quần thần và dân chúng đủ tứ thư ngũ kinh lẫn các cẩm nang đạo đức khác. Nhưng đó là lúc sắm vai làm vua. Trong khoảnh khắc, ông ta có thể gỡ cái mặt nạ quân vương xuống, ném vào bất cứ xó xỉnh nào, và sống đích thực con người của ông ta. Ngươi còn nhớ tích ông ta đá hoàng hậu đến xảy thai ngay trên thuyền rồng, trước mắt triều thần văn võ ?
- Tôi nhớ.
- Ngươi còn nhớ cuộc tình của ông ta với Hoà Khôn ?
- Đương nhiên, tôi nhớ.
- Tốt lắm, vậy ngươi có nhớ Hoà thân đã từng bày mưu sát hại thái tử Phúc Khánh mấy lần hay không ?
- Hai lần, nếu tôi không nhầm.
- Đúng, hai lần và nếu không có sự trì độ dai dẳng của tể tướng Lưu gù thì vị đông cung thái tử này đã hoá thành cát bụi. Vậy mà Hoà Khôn vẫn được trọng dụng, tài sản riêng của ông ta lớn hơn cả kho báu quốc gia. Điều đó chứng minh rằng lòng sủng ái của Càn long với Hoà Khôn còn lớn hơn sinh mạng đông cung thái tử và lợi ích của non sông. Mà Càn Long chắc chắn chẳng phải kẻ nhu nhược hay hão huyền mơ mộng. Vậy lý do nào khiến cho ông ta hành động như vậy, nếu không vì thoả mãn lòng dục ? Nếu không vì muốn ve vuốt no nê cái thân xác chứa đựng linh hồn của đấng quân vương? Là kẻ lưỡng dục, Càn Long ham mê một lần cả trai lẫn gái nhưng ta cho rằng trong thực tiễn khuynh hướng đồng tính mạnh hơn, cốt yếu hơn. Bởi thời ấy, kẻ đồng dục thường bị riễu cợt khinh bỉ nên ông ta mới dựng một loạt cung điện cho phi tần quanh khu thượng uyển để che mắt thiên hạ. Giá như triều đình hạ lệnh thả đám phi tần cung nữ này cho về quê lấy chồng ắt hẳn hai phần ba bọn họ vẫn còn trinh. Thế đấy, ngươi hãy mở to mắt mà nhìn trò chơi của bậc quân vương. Chẳng riêng Càn Long, vua chúa thời nào cũng vậy.
- Tôi biết. Và ông chắc chắn là kẻ kế thừa xuất sắc truyền thống này.
- Ngươi đánh giá ta quá thấp, nói cho đúng hơn ngươi nhìn ta với con mắt hỗn xược. Tính hỗn xược của bọn chư hầu Bách Việt vốn có từ xưa. Ngươi cần hiểu rằng ta không phải kẻ kế thừa mà là người sáng tạo. Ta cười khẩy trên lối xài mỹ nhân tốn kém mà ít hiệu quả của đám vua chúa xưa. Ta chẳng cần xây lầu son, gác tía. Ta không cần trình duyệt các phí tổn cho lũ yếm thắm quần hồng. Dồn tụ chúng vào một xó, lũ mèo cái sẽ cào cấu lẫn nhau và phá hoại giấc ngủ an lành của ta. Dinh thự của ta di động. Một con tầu khiêm cung trên đất liền thuận tiện ngàn lần hơn chiếc thuyền buồm xa xỉ trên mặt đại dương vì nó xuyên lục địa. Đất nước rộng dài, giang sơn mênh mông, đi đến đâu ta tuyển phi tần ở đó. Không phải thứ gái đã hai mươi như sơn nữ của ngươi mà thuần loại đào tơ từ mười hai tới mười sáu. Càng trẻ tuổi, nguyên khí càng tươi tốt. Ta lấy lại tuổi trẻ và bồi dưỡng nguyên khí của ta nhờ những đứa trẻ dạy thì này.
- Vâng...
Chủ tịch nhếch mép cười :
- Tôi biết câu nói nổi tiếng của ông : ― Ta rửa bộ phận sinh dục của ta trong bụng họ.
- Cái gì là bộ phận sinh dục ? Ngươi quả là kẻ sính danh từ của bọn mũi lõ mắt xanh ? Ta vốn là dân Hồ Nam, ta thích nói theo giọng của nông phu bản địa :―Ta rửa con cặc của ta trong những cái hẽm của bọn gái non cho nó được dồi dào nhuận khí.Thế đấy ,ngươi đã nghe rõ chưa ?
Dứt lời, ông ta cất tiếng cười bỡn cợt và thách thức, đôi mắt nhỏ hấp háy bắn lên những tia lửa tinh quái. Chủ tịch nhìn rõ hai hàm răng đều tăm tắp vàng khè. Ông lặng im không đáp. Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch Mãn hắng giọng nói tiếp :
-Bẻ nhuỵ xong, ta trao lại các― nữ đồng chí này cho đám quan sở tại giải quyết. Họ buộc phải cho chúng tăng lương, kết nạp đoàn hay đảng, nếu chưa có việc thì thâu nhận vào công trường nhà máy, nếu muốn đi học các giảng đường sẽ mở sẵn cánh cửa đón chào. Nếu đứa nào yểu mệnh chết, đó là sự rơi rụng của một trái đào trong rừng đào Vân nam. Đứa nào may mắn hứng tình và hân hạnh mang hạt giống của ta, nó sẽ được trọng dụng và đứa trẻ sẽ được bí mật nuôi dưỡng rồi gửi vào vườn trẻ Trung Nam hải. Sao, ngươi đã thấy tư chất kẻ sáng tạo trong ta hay chưa ? Ngươi đã thấy trò chơi của ta hay hơn lối chơi của Càn Long chưa ?
Dứt lời, ông ta lại cất tiếng cười ròn rã.
Chủ tịch lặng im nhìn người đối diện. Những lăm thịt tràn đầy trên chiếc cổ áo kiểu Tôn trung Sơn của ông ta cũng vằn vện như da tắc kè khiến người ta liên tưởng tới một đống bột nhão mốc. Khuôn ngực ông ta căng đầy dưới áo. Nhưng từ phần bụng trở xuống, chỉ còn là đám sương. Hồi nhỏ, ông nghe người làng nói rằng ma không bao giờ có chân. Chúng đi lướt trên cỏ và chỉ hiện hình từ phía gối trở lên. Giờ, ông thấy điều đó là chính xác. Điều lạ lùng là trong thực tế ông vua phương bắc đang còn sống, đang điều khiển cuộc hành quyết các quần thần ; vậy mà ông ta luôn hiển hiện trước mắt ông dưới ảo dạng của hồn ma, dù trong giấc mộng canh ba hay giấc mơ chính ngọ. Tiếng cười của ông ta vang lên những âm thanh vừa chói vừa xỉn, nếu người ta thể hiện bằng màu sắc thì nó sẽ là màu sắt đen trộn rỉ đồng. Không hiểu vì đâu, tiếng cười của chủ tịch Mãn khiến ông buồn. Vẻ kiêu mạn của ông ta cũng không còn làm ông tức giận. Lần đầu, ông cảm thấy một nỗi buồn vô căn cứ, một nỗi bâng khuâng kì dị như khi đọc truyện Liễu Trai. Chủ tịch Mãn chừng như cũng ngạc nhiên khi thấy ông im lặng. Ông ta hạ giọng :
- Sao ? Ngươi tiếc thời đã qua hay ngươi hối tiếc những việc đáng lẽ phải làm ?
- Không. Mọi sự hối tiếc đều vô dụng.
- Vậy ngươi nghĩ gì ?
- Tôi nghĩ rằng âm dương cách trở, ông đã cất công đến thăm dù là cừu thù giờ cũng thành khách quý. Nhưng mọi lời khuyên trên đời đều vô giá trị. Bởi con người khác biệt nhau.
- Đúng, con cừu gặm cỏ còn chim ưng xé mồi. Nhưng đã là bậc cai trị thì dù thống lĩnh một vương quốc lớn hay coi sóc một hòn đảo nhỏ cũng đều phải quan tâm tới nghệ thuật cai trị. Ngay lũ mọi châu Phi cũng còn biết cách nắm vương quyền. Ngươi, thông minh hơn chúng ngàn lần, cớ sao để bọn lâu la dồn đến nông nỗi này, đó là điều khiến ta muốn biết ?
- Ông chẳng còn việc gì làm dưới U tỳ quốc hay sao ? Vả chăng, thân nhân những kẻ bị ông sát hại trên đất Trung Hoa giờ này đâu đã mất hết trí khôn hoặc mắc chứng mất trí nhớ. Ông tin rằng họ sẽ mãi mãi im lặng trước mấy chục triệu thây ma oan uổng kia sao?
- Tin hay không tin, điều đó có gì quan trọng ? Cuộc chơi đã xong, các quân cờ đã xếp vào hòm. Giờ, ta đi tìm miền đất khác. Ngươi chính là một trong những đối tượng khiến ta thú vị. Mọi sự thú vị đều kèm theo nỗi tò mò. Vả chăng, Trung hoa và Việt nam từ ngàn xưa đã là những anh em cừu thù, ta và ngươi cũng vậy.
- Tôi thấy ông cũng khá thành thật.
- Âm dương đôi ngả, ván bài ngoại giao không còn hữu ích.
- Nếu đã xác nhận quan hệ anh em - cừu thù, cớ sao ông còn đến đây ?
- Ngươi đặt một câu hỏi ngu ngốc, chính vì là anh em- cừu thù nên ta mới đến đây.
- Để đặt dấu nhấn trên quyền lực của ông, để chứng minh rằng vai diễn quân vương của ông là xuất sắc, để nói rằng suốt đời ông ông đã thoả thuê no nê trên đủ mọi phương diện và thân xác ông bao giờ cũng được đặt trên bệ thờ cao hơn lợi ích của giang sơn. Và chính vì thế, ông không dừng tay trước bất cứ cuộc huỷ diệt nào. Cũng chính vì thế, ông trở thành kẻ cầm lái vĩ đại. Bởi dân tộc ông quen chiêm ngưỡng những vĩ nhân đứng trên các khải hoàn môn xây cất bằng xương người. Rằng người ta cần phải đứng trên các bệ cao, nên xương người chất càng cao càng hoàn mỹ. Và sau cùng, đó chính là cách thức tốt nhất để giáo huấn cho những kẻ muốn làm vua ?
- Đích thực là như vậy. Lần này, ngươi thông minh xuất sắc. Ta đến đây để khuyên giải ngươi hay làm nhục ngươi, hiểu theo cách nào cũng được ! Bởi muôn đời ngôn từ vẫn chỉ là gái hồng lâu, quân tử Nam kinh hay quân tử Bắc kinh đều nhảy được vào giường. Ta đến đây để dạy ngươi rằng vai diễn quân vương khác biệt một trời một vực với sự nhập thân của thằng kép hát. Lẽ ra ngươi nên học nghề sân khấu, hoặc nên lui về cuộc sống êm ả của chúng sinh với giấc mơ « Một túp lều tranh hai trái tim vàng ». Làm vua, nghề này đòi hỏi cách xử thế khác. Hai điều cốt tuỷ mà những kẻ cầm vương trượng không bao giờ được quên. Điều thứ nhất là phải biết trút tinh dịch của mình ra một cách hoàn hảo. Ấy là phép vệ sinh thân xác không thể thiếu để giữ óc não sáng suốt, máu huyết lưu thông. Điều thứ hai là phải biết rút máu kẻ khác để tưới những bậc thềm cung điện vì máu người là thứ nước duy nhất có thể dùng tưới mảnh đất trồng loài cây đơm trái quyền lực và vinh quang. Ngươi có thấy loài cây nào không được tưới tắm mà đơm cành kết trái được không ?...Hai nguyên tắc vàng để bảo dưỡng thân tâm và bảo trì ngôi báu. Hai nguyên tắc ấy vua chúa từ thượng cổ tới nay đều biết ứng dụng. Vậy mà ngươi không làm nổi. Tồi tệ hơn, ngươi làm ngược lại. Đấy là sự nhầm lẫn lớn nhất trong đời ngươi. Sự nhầm lẫn này không chỉ tiêu diệt sự nghiệp của ngươi mà còn đẩy ngươi vào cảnh tù đầy. Tù đầy trên cả hai phương diện, thân xác ngươi bí bức khí huyết ứ trệ, tinh thần ngươi u ám khắc khoải vì ở trong thế bị dùng. Bọn lâu la của ngươi đã từng mượn nhà an dưỡng Quảng Châu để trói cẳng ngươi ở đó. Nếu ta chưa nhầm, ngươi đã yên vị chừng sáu bảy tháng, đã bắt đầu quen lại thông thổ, đã bắt đầu thích món ăn sở tại, thích nhìn gái đẹp sở tại. Cớ sao chúng lại rời chuyển ngươi về đây ?
Ông im lặng.
Một luồng khí trắng đục phả từ phía bóng ma bay về phía ông khiến mặt ông tê lạnh, nhất là hai gò má. Chủ tịch Mãn thấy ông không đáp lời thì cười và nói tiếp :
- Ồ, mà ta hỏi đùa đấy thôi. Ngươi làm sao biết nổi ?Tấm thân cá chậu chim lồng.
Rồi lắc đầu như tỏ vẻ thương xót, ông ta giơ tay vẫy chào và biến mất.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 28: KÝ ỨC (5)
- Cốc cốc cốc...
Tiếng gõ mạnh vào cánh cửa khiến ông giật mình. Hai cây kim trên mặt đồng hồ treo tường đã chập lại trên con số mười hai :
― Đã đến giờ cơm trưa „
Ông nghĩ, và lên tiếng :
- Tôi đang nhức đầu. Các chú cứ để cơm ngoài bàn rồi về đại đội.
- Dạ...
Có tiếng đáp khẽ khàng. Sau đó, tiếng cánh cửa sập lại. Chủ tịch tiếp tục nằm nhưng cảm thấy bồn chồn. Mươi phút sau, ông vùng đứng lên, lau mặt và bước ra ngoài. Mấy chiếc phích điện ủ cơm và thức ăn để trên bàn, nhưng nhóm cấp dưỡng lẫn bác sĩ vẫn đứng ngoài hành lang. Họ chưa dám xuống núi mà tụ tập phía sau đội lính gác, ngắm cảnh chùa. Bên kia sân, tiếng mõ, tiếng chuông bát lẫn tiếng đọc kinh vẫn vang lên không mệt mỏi.
Chủ tịch bước ra ngoài :
- Sao các chú không quay xuống núi ? Lát nữa cận vệ sắp cơm cho tôi cũng được...
- Thưa chủ tịch, chúng con phải hoàn tất nhiệm vụ của mình.
- Thôi được, nếu thế vào sắp cơm cho tôi rồi dọn đi cho tiện. Hôm nay, quả tình tôi không thấy đói.
- Thưa người, hôm nay nhà bếp nấu món cà bung và hoa bí xào mà người vẫn thích. Chủ tịch cố gắng ăn cho hết phần cơm.
- Được rồi...Tôi sẽ cố.
Ông đáp, đoạn đứng nhìn người lính sắp bày thức ăn trên chiếc khay lớn hình chữ nhật. Khi đã xong xuôi, anh ta chúc ông ăn ngon miệng và lui ra. Ngồi xuống trước khay thức ăn, ông nhớ lại lời chủ tịch Mãn :
― Ngươi quên rằng người phương đông cầm đũa và phân biệt ngôi thứ vui tôi một cách rạch ròi.
Cầm đôi đũa mun lên, ông ngắm nghía như lần đầu nhìn thấy chúng :
― Có nghĩa gì, sự khác nhau giữa những con người cầm đũa , cầm nĩa và ăn bốc ? Có nghĩa gì sự phân biệt giữa các thói quen ?
Ý nghĩa ấy lướt qua ông hờ hững, vô cảm như một gương mặt xa lạ và tẻ nhạt. Ông bắt đầu gảy những sợi rau tía tô rắc trên bát cà bung.
Trước kia, ông đặc biệt thích ăn món này. Hồi dạy học ở Phan Thiết, ông có một người hàng xóm lấy vợ Bắc kì, chính người đàn bà này đã cho ông nếm món cà bung. Đấy là người nội trợ theo đúng nghĩa, sống với khát vọng duy nhất là chăm sóc chồng con và vun vén ngôi nhà của mình. Ông chồng là thương gia sành sỏi trên đường sắt Bắc-Nam, quanh năm ăn cao lâu, tiệm khách với bạn buôn cũng như chủ đại lý nhưng vẫn một niềm thán phục tài nấu nướng của vợ. Chính chị ta vạch cho ông cái chân lý cay đắng này :
― Muốn nói rồng nói phượng thì cứ việc nói, nhưng đã nghèo mạt rệp thì làm sao có được món ăn ngon?
Rồi, chị lại cất cao giọng :
― Nhưng giàu cũng chưa hẳn đã biết đường ăn uống. Vàng bạc đầy rương cũng có khi ăn thùng uống vại, hoặc phí phạm đồng tiền mà chỉ chuốc về những thứ tạp nham.
Những lời lẽ thẳng thắn ấy vô tình làm ông tủi hổ khi nghĩ rằng thứ cà lẫn nhút mà dân quê ông lấy làm hãnh diện chẳng qua chỉ là cảm thức tự ti nguỵ trang của cảnh đói nghèo. Vợ người thương gia cũng mở mắt cho ông thấy khẩu vị con người là khác nhau do tập tục và văn hoá. Chị ta dạy ông cách nhận biết một món ăn ngon. Một con cá xẻ đôi đưa cho hai người đầu bếp khác nhau, chế biến khác nhau, gia vị khác nhau có thể đưa tới hai hiệu quả khác biệt. Kỉ niệm về món cà bung là một trong những kỉ niệm vĩnh định thời trai tráng, gắn liền với mảnh đất Phan thiết, với những sườn đồi rậm rì cây cỏ và những tháp Chàm cô liêu trên cồn cát đỏ rực ánh dương.
Một chiều, hết giờ dạy ông trở về nhà cùng lượt với vị thương gia khả kính. Chưa kịp tới xóm trời bất thần đổ mưa. Cả hai buộc phải tạt vào hành lang một ngôi nhà nguyện. Họ vốn là những người láng giềng nhưng chưa bao giờ cùng ngồi một nơi, cùng nói một chuyện. Quan hệ chỉ khuôn định trong những lời chào hỏi lịch sự bên ngoài hàng rào. Cơn mưa ấy chính là cơ hội để họ trò chuyện với nhau. Vị thương gia kia tỏ ý quyến luyến. Khi mưa tạnh, trời đã xẩm tối, ông ta cất tiếng:
- Có thể là tôi quá sỗ sàng, nhưng nếu được xin mời anh sang dùng cơm tối....Một thân trai loay hoay nấu nướng xem ra bất tiện.
- Cảm ơn ông.Tôi vốn đã quen cuộc sống độc thân.
- Ồ không!
Ông ta nằn nì :
- Tôi cũng đã từng sống như anh trước khi lấy vợ. Nhưng chúng ta là láng giềng. Anh một nghề, tôi một nghề, không có gì liên luỵ đến nhau, anh không tranh mối hàng của tôi, tôi cũng không nhằm cướp việc của anh. Nếu chúng ta trở thành thân tình thì hay lắm.
Ông cười thầm vì chưa từng thấy ai đi buôn mà nói năng một cách "thẳng như gậy tre" theo kiểu đó. Nhưng cũng chính vì thế mà ông có cảm tình với người láng giềng và nhận lời. Trở về nhà, ông cất dọn đồ đạc, thay quần áo rồi sang bên nhà vị thương gia. Ông ta đã đứng chực ở cổng, người ở gái đang cho đứa con nhỏ nhất của ông ta ăn cơm trong sân. Chủ nhân mời ông vào nhà và họ ngồi vào bàn tức khắc :
- Đây chỉ là bữa cơm thường. Vì tin rằng ông dễ tính nên chúng tôi mới dám mạo muội mời ông sang. Có gì sơ xuất, xin ông thứ lỗi.
Ông láng giềng nói. Đoạn gọi vợ ra :
- Mợ nó không cần phải lo lắng quá. Hôm nay là bữa cơm nhạt kết giao. Vài bữa nữa ta sẽ làm tiệc thết khách cũng chưa muộn.
Ông lặng thinh nhưng nghĩ thầm :
― Cơm nhạt mà như thế này cũng đã hơn hẳn mâm cỗ ngày tết quê ta.
Chiếc bàn mặt đá của vị thương gia hình rất rộng, nhưng chỉ có ba thực khách. Trên chiếc ghế trống còn lại, chủ nhân đặt một bình hoa xum xuê cắm cúc đại đoá trắng kèm cây lưu ly. Bình hoa vĩ đại đó cao non một thước và có vẻ trang trọng hơn là sự hiện diện của một quan khách. Nó khiến cho gian phòng sang trọng và đem lại cảm giác thoải mái cho mọi người. Trên mặt bàn, bà chủ đặt liễn cơm sứ trắng ủ trong dành vào một góc, góc đối diện là bình rượu thập toàn đại bổ của đức lang quân. Những món ăn bày chính giữa bàn. Vừa nhìn chúng ngay tức khắc nước bọt ông trào ra liên tục. Ông xấu hổ nuốt nước bọt một cách thầm lén nhưng không có cách nào cưỡng chế thứ dịch vị phản thùng này. Nó không ngừng tuôn tràn, bởi hương vị và màu sắc những món ăn không ngừng kích thích. Thoạt tiên, là một con gà giò hầm quỳ trong thẫu, thứ gà ri nhỏ nhưng da mỏng tang, vàng ươm mỡ và bốc mùi thơm của nấm hương tươi. Nấm hương, để nguyên cái, xếp xung quanh con gà như những cánh hoa cúc, tầng tầng lớp lớp chen chúc nhau. Rồi tiếp đấy là món cá cam, đặt trong chiếc đĩa mênh mông, sâu lòng. Cá để nguyên con, nhìn vào chúng như thấy cả biển khơi lẫn các vàng lưới vì cá tươi nguyên, mắt còn đen nhánh, da óng ánh sắc cam. Lũ cá như đang bơi giữa nước sốt trong suốt, lấm tấm điểm ớt đỏ lẫn rau mùi thái vụn. Ông chưa thấy ai làm được món cá cam như vậy, bởi khi ăn, hương vị cam thấm vào khứu giác lẫn vị giác. Vừa nhận thấy chất thịt ngọt lừ của loài cá biển, vừa nhận thấy vị vỏ cam và nước vắt của trái cam. Mọi thứ mùi vị đều rõ rệt, rạch ròi, nhưng hoà quyện vào nhau mà ớt đỏ với rau mùi là những chất gia cố khiến các hương vị kia thêm nổi trội. Ông nhớ rằng tối hôm đó, tuy đã hết sức cố gắng tự kìm giữ, nhưng ông đã ăn món cá cam nhanh như húp cháo. Tuy trong lòng có đôi phần hổ thẹn nhưng sau rốt ông đã tự an ủi mình :
― Nữ thực như miu, nam thực như hổ. Ta đang tuổi tráng niên.
Món thứ hai ông cũng ăn một cách vội vàng hào hển là món cà bung tỏi. Ở quê ông, người ta chỉ quen ăn cà muối xổi hoặc muối chườm. Cà muối xổi thay rau bởi vùng đất ấy rau rất hiếm. Nếu không muối xổi thì họ sẽ luộc dở sống dở chín để chấm nước mắm ớt xanh hay mắm ruốc, thứ nước chấm mặn se lưỡi và cay trào nước mắt. Cà muối chườm là thứ gia bảo của tất cả những loại dân cầy nghèo khổ, không chỉ ở miền Trung mà còn ở cả xứ Bắc. Có câu ca dao riễu cợt đám phú ông tiện tằn bóc lột những chàng rể tương lai:
― Năm năm làm rể chưa qua
Mẹ em đã tốn hết ba vại cà
Giếng đâu thì dắt anh ra
Kẻo anh chết khát vì cà nhà em
Bữa cơm hôm đó dạy ông rằng người ta có thể chế biến thứ rau này một cách hoàn toàn khác, không còn một chút vị hắc đậm của những món cà nơi quê ông. Món cà bung hôm ấy là thứ hỗn hợp tuyệt vời gồm những miếng đậu mềm nõn rán vàng, thịt rọi rán cháy cạnh rồi thái khẩu, cà chua bột chín đỏ như son cho nước sốt sóng sánh nổi đầy sao mỡ, còn cà chắc chắn đã được ngâm kĩ theo công thức nào đó khiến cho những miếng cà trở nên trắng và thấm đầy mùi vị của các loại rau thơm khác nhau : tía tô, lá lốt, hành tăm. Thêm vào đấy, ê hề tỏi, cả tỏi chiên lẫn tỏi sống. Tỏi chiên chắc chắn để xào cà từ khởi thuỷ, còn tỏi sống dành nêm vào phút chót trước khi múc món ăn đặt lên bàn.
Sau này, trên những con đường của số phận, ông đã từng dự nhiều đại tiệc với những món ăn của các dân tộc từ đông đến tây nhưng chưa ở đâu ông tìm thấy loại thức ăn đứng giữa món canh với món xào, chẳng thể liệt kê được vào loại nào nhưng cho hương vị ngon lành như món cà bung tỏi của người đàn bà ở tỉnh Phan thiết.
- Thưa chủ tịch, mời người dùng cơm kẻo nguội.
- A...
Ông giật mình. Nhóm lính làm bếp đứng ngoài cửa sổ vẫn theo rõi ông :
- Tôi ăn đây.
Ông đáp rồi gắp một đũa cà bung như cái máy. Ông ngửi thấy mùi tỏi, mùi lá lốt lẫn tía tô. Ông cũng ngửi thấy mùi đậu rán, mùi thịt cháy cạnh, mùi cà tím xào mỡ. Nhưng tất thảy những mùi vị ấy không còn giống như những mùi vị ông từng biết thuở xưa. Chúng chỉ còn là những cái bóng mờ nhạt của mùi vị. Nước bọt không tiết ra, và miếng ăn trở nên nhạt nhẽo. Hương vị thơm tho quyến rũ không còn nữa. Không còn nữa tuổi trai tráng. Không còn nữa những chân trời mời mọc. Không còn nữa niềm tin. Và như thế món cà bung cũng không còn tồn tại. Chỉ còn lại trước mặt ông, trong chiếc đĩa viền chỉ vàng sang trọng này bóng ma của nó. Bóng ma của bữa ăn tối Phan thiết năm xưa.
- Thưa chủ tịch, món cà con nấu có vừa hay nhạt ạ ?
- Vừa, vừa lắm. Cả độ mỡ xào cũng vừa vặn, không nhiều không ít.
Ông vội vã đáp lời, vội vã nuốt, vội vã gắp tiếp gắp cà thứ hai, cố tình chọn mấy nhân tỏi trắng và rau thơm để người đầu bếp yên lòng. Thức ăn mắc trong họng nên ông phải dùng nước canh chiêu cho nó trôi xuống. Người đầu bếp vẫn theo rõi ông qua khuôn cửa sổ một cách chăm chú và thành kính. Ông cố gắng kết thúc bát cơm, chọc đũa sang đĩa thứ hai, lượm mấy nụ hoa bí đỏ xào nhấm nháp như để hoàn tất những thủ tục của một cuộc trình diễn rồi buông đũa :
- Các chú dọn đi cho tôi. Cơm hôm nay rất ngon nhưng tôi không được khoẻ. Có lẽ do nhức đầu. Nhiệm vụ của các chú đã hoàn thành xuất sắc. Chỉ có phần tôi là kém thôi. Nhưng tuổi già là thứ không ai tránh khỏi.
- Thưa chủ tịch, người chưa dùng hết một phần ba xuất cơm.
- Khi nào đến tuổi tôi, các chú sẽ hiểu.
Ông nói, phác một cử chỉ vừa để trấn an nhóm cấp dưỡng , vừa để kết thúc câu chuyện. Bác sĩ biết ý, bước vào chuẩn bị thuốc uống cho ông. Anh ta mở va-ly đồ nghề ra đong đếm, thêm vài ba viên thứ này, bớt vài ba viên thứ kia. Sau rốt, anh ta nhìn nắm thuốc trong lòng tay một cách cẩn trọng trước khi rót nước cho ông chiêu. Xong xuôi, cả bọn rút lui để cần vụ mang cho ông khay trà. Đám lính tăng cường buổi sáng đã được xuống doanh trại ăn cơm, tốp khác vừa lên thay thế.
Bên kia chùa, tiếng đọc kinh vẫn vang lên không ngưng nghỉ. Họ không dừng lại ăn bữa trưa. Nghe nói trước đây, Phật và các đệ tử của ông chỉ ăn ngày một bữa, sau giờ ngọ :
― Tại sao họ có thể chịu đựng suốt đời một chế độ dinh dưỡng khắc nghiệt như vậy mà vẫn mạnh khoẻ ? Nếu ta không nhầm người sáng chế ra tôn giáo này thọ đến tám mươi. Nguồn năng lượng nào bồi bổ cho họ ngoài sức mạnh của niềm tin ?
Ông tự hỏi nhưng tức khắc xoá đi câu hỏi đó vì biết nó nằm ngoài vùng tri thức của mình. Tiếng chuông bát ngân nga điểm nhịp cho những giọng đọc kinh khiến ông quay về với thực tại. Dàn hợp xướng kia là bản kinh cầu hồn cho một kẻ làm cha bị tấn công bởi chính đứa con mình. Nó được tấu lên một cách thực sự bởi những ăn năn hối lỗi của đứa con phản trắc hay chỉ là thứ trò diễn cho hợp với phong tục và thói quen ? Và nếu người cha kia không chết đột ngột bởi tai nạn, nếu ông ta vẫn sống với đầy đủ sự cường tráng của thân xác cũng như sự minh mẫn của trí não, liệu đứa con có bày tỏ lòng sám hối hay không ?
― Dường như câu trả lời sẽ là: "Không"
Ông nghĩ tiếp :
― Than ôi, câu trả lời đã sắp sẵn trong óc não, bởi thế sự đặt bày.
Rồi đột ngột, một nỗi tò mò ập đến :
― Liệu khi ta chết, lũ đồng chí phản nghịch kia có khóc không nhỉ ?
Ông hình dung đám người ấy đứng trên khán đài của quảng trường Ba đình, ắt hẳn là mọi sự phải diễn ra như thế. Trên đầu họ nào cờ rủ, nào chân dung ông viền khăn tang đen, nào những khẩu hiệu thống thiết và hoành tráng, đại loại như :
― Đời đời thương tiếc chủ tịch, người cha già vĩ đại của non sông.
― Chủ tịch sẽ sống mãi trong lòng chúng ta.
Hoặc là :
― Đất nước còn, dân tộc còn, tư tưởng của chủ tịch còn là kim chỉ nam soi đường cho tất cả.
Có thể là tất thảy những mỹ từ hào nhoáng nhất sẽ được sử dụng để ca ngợi công đức của ông. Mỹ từ là thứ ít tốn kém nhất, chúng đề nghị rất nhiều nước bọt nhưng rất ít đức độ lẫn trí thông minh. Thêm vào các mỹ từ, hẳn họ sẽ sử dụng âm nhạc, vì âm nhạc xưa nay vẫn là thứ bùa mê hiệu nghiệm. Đã sẵn bản : "Hồn tử sĩ" Liệu họ sẽ tìm thêm những bản nhạc cổ kim nào để làm mùi mẫn đám quốc tang ? Làn thảm chẳng ? Hay Sa lệch chênh ? Khúc Nam bình hay khúc Nam ai ? Lý chiều chiều hay hát dặm xứ Nghệ ? Ô, xứ sở của ta quá sẵn những khúc hát bi thương để tiễn biệt những kẻ chầu trời.
Bỗng nhiên ông thấy hiển hiện trước mắt ông tấn tuồng hài hước của thế sự, và hình dung đám người đứng trên khán đài trong tang lễ ông sẽ nhất loạt đưa khăn tay lên để lau những giọt nước mắt dù thật hay vờ :
― Chúng sẽ buộc phải làm như khóc và trong thâm tâm chúng vang lên tiếng nghiến răng trèo trẹo : Sao bây giờ mày mới chịu chết, lão khọm già kia ? Bọn ta đã mất bao nhiêu công dàn dựng để tống tiến ngươi sang cõi khác mà cái mạng sống dai nhoách của ngươi vẫn kéo cho đến tận phút này. Quả là một cuộc chịu đựng quá sức.
Nhưng cũng có thể chúng sẽ khóc thật.
Những giọt nước có hoà muối sẽ tuôn ra một cách thật sự từ mắt chúng, bởi chúng khóc trước cho thân phận của mình. Bởi chúng biết rằng chắc chắn sẽ có ngày chúng xuống tuyền đài, nơi hội ngộ cuối cùng của kiếp nhân sinh. Điểm hẹn chung cuộc mà chẳng kẻ nào có thể trốn thoát. Ở nơi đó, chúng sẽ phải đối mặt với ta.
Ý nghĩ ấy khiến ông ngao ngán lắc đầu. Nhưng ông vội vàng chiêu một ngụm nước trà vì sợ đám lính canh bên ngoài nhìn thấy. Họ sẽ cho rằng ông đã đánh mất tự chủ, trở thành con bệnh già. Thuở trước, nhiều lần ông gặp trên đường phố Paris những người già vừa đi vừa lẩm bẩm hoặc cười một mình, ông thầm nghĩ :
― Tội nghiệp thay cho tuổi già.
Giờ đây, sự thương hại đó có thể dành cho chính ông?
Một tiếng cười câm nín vang lên trong tâm tưởng :
― Giá như ta có thể cười một mình, lẩm bẩm một mình như họ?...Nhưng điều tệ hại là ngay thứ tự do ấy ta cũng chẳng có. Điều tệ hại hơn nữa là trí nhớ của ta không hành trình cùng với tháng năm, nó không chịu chìm đắm trong sương mù, nó không chịu nhạt phai cùng tuổi tác. Hình phạt lớn nhất đối với con người là cái thân xác già nua của họ lại chứa đựng một trí nhớ quá sắc bén.Trí nhớ buộc ta phải sống trong một địa ngục thường hằng. Trí nhớ là kẻ dựng nên một pháp đình miên viễn. Trí nhớ là kẻ đồng hành không thể lẩn tránh cũng chẳng dám khước từ. Nếu ta không còn trí nhớ, có thể cuộc sống sẽ nhẹ nhàng hơn chăng?
Ông cúi xuống uống tiếp ngụm trà thứ hai, nhìn chất nước màu vàng ốc sóng sánh lưng chén, giống hệt màu món cà-ri đã ăn trước khi rời Quảng Châu. Nhà an dưỡng Quảng châu, cuộc nghỉ ngơi được bố trí lớp lang như một vở chèo hiện đại. Suốt thời gian ông ở đó, nhà bếp chỉ làm những món ăn Việt nam và Trung quốc. Nhưng bữa cuối cùng, bỗng nhiên người đầu bếp Tầu nổi hứng nấu một món ăn Ấn độ đãi ông khi ông ta biết ông sắp ra đi. Đó là sự bí ẩn của ngẫu nhiên. Bữa ăn rất ngon. Khi bước lên máy bay ông vẫn nhớ mùi vị đặc biệt của thứ bột ca-ri lẫn thứ dầu gia chế vào gạo. Chúng khiến cho màu sắc của món ăn thật đẹp. Một màu vàng nhuyễn mịn và óng ánh. Màu sắc ấy gợi sự ấm áp hoặc niềm vui.
Máy bay chở ông trở về Hà nội buổi tối hôm ấy là máy bay trực thăng quân sự. Họ nói với ông rằng cần phải dùng trực thăng, bay thật thấp để tránh lưới cao xạ phòng không. Chiến tranh thường tạo ra trò đùa của sự nhầm lẫn. Muốn bảo đảm tính mạng cho ông, người ta buộc dùng thứ máy bay cổ lỗ, xộc xệch như cỗ máy khâu Xanh-de được lưu giữ trong những gia đình thợ may từ thế kỉ mười chín nhằm tránh cho ông một cái chết không mong muốn bởi chính những người lính của mình. Ông mỉm cười :
- Sống chết của nhân gian, sổ thiên tào đã ghi sẵn. Tổ chức quyết định ra sao, tôi chấp thuận như vậy.
- Thưa chủ tịch...
Người phi công lộ vẻ áy náy, anh ta định nói điều gì đó nhưng lại thôi. Ông nhìn người lính, ngay tức khắc cảm thấy tin cậy :
- Tôi đã từng ngồi xe trâu kéo. Cưỡi máy bay của chú giờ đây cũng đã là sang. Chẳng cần băn khoăn nhiều.
- Thưa vâng.
Anh ta đáp rồi ngồi vào ghế lái.
Bốn người cần vụ tháp tùng ông ngồi bốn góc theo quy định. Cuộc bay bắt đầu. Khi máy bay vừa lên đủ độ cao cần thiết trên vùng trời Quảng châu, nó đã lúc lắc chồm nẩy như cỗ xe trâu lăn trên đường núi sụt lở. Không khí chao động xung quanh tựa hồ muôn đợt sóng liên tục bổ xuống, nhào trộn với những đám mây. Đêm đen như mực. Ông không thấy gì ngoài một không gian đen mù mịt, không trăng không sao. Cứ như thế họ lặng lẽ bay qua vùng tiếp cận. Nhưng bắt đầu từ lúc máy bay vượt qua biên giới, những làn đạn phòng không túa lên, cày chi chít những rạch lửa đỏ. Mỗi lúc, những đường lửa đạn mỗi thêm chằng chịt. Ông biết rằng họ đã lọt vào vùng trời khống chế bởi cao xạ pháo miền đông bắc, kéo dài từ Lao cai cho đến Quảng Ninh. Người phi công đưa máy bay luồn dưới đám lửa đỏ. Vẻ mặt căng thẳng khiến đôi mắt anh ta như lồi hẳn lên. Mồ hôi anh ta chảy thành dòng lũ lượt sau gáy, thấm ướt đẫm cổ áo quân phục. Mồ hôi cũng nhỏ xuống từ đôi bàn tay. Ông vẫn nhớ hình ảnh đôi bàn tay đó, chúng to dày vững chãi, với đám lông trên mu và trên đốt cuối cùng của các ngón. Ông nhớ rằng ông đã nhìn vào đôi bàn tay ấy, gần như không rời mắt. Những người lính cũng vậy. Họ cũng không thể làm gì hơn là thở một cách hồi hộp và dán mắt vào đôi tay cầm lái của phi công. Sinh mạng cả sáu người phụ thuộc hoàn toàn vào chúng. Đấy là chuyến bay dài nhất trong đời ông. Mỗi phút trôi qua, là một phút hồi hộp lắng nghe tiếng động cơ già nua xọc xạch trong cuộc vận hành khốn khổ và khắc khoải chờ xem điều gì có thể xảy đến ngay phút sau. Mỗi phút trôi qua, người ta biết rằng mạng sống của mình còn thêm một phút và phập phồng vì không hiểu nó còn tiếp tục đứng vững hay không. Ông đã già, cuộc đời đối với ông chẳng bao lăm ý nghĩa. Nhưng người phi công và bốn cậu lính trẻ măng, trong số ấy có những đứa râu chưa kịp mọc. Họ không dám nói gì nhưng ông biết cơn sợ hãi kiến tất cả dường như hoá đá.
Sau cùng, người phi công thở một hơi dài và chỉ cho ông thấy cầu Long biên. Ông nghiêng đầu nhìn qua ô kính, thấy cây cầu quen thuộc hiện ra trong vùng sáng mờ nhạt của thành phố thời chiến tranh. Không ngoảnh lại phía sau, người phi công lên tiếng :
- Báo cáo chủ tịch, vài phút nữa chúng ta sẽ hạ cánh.
Lưỡng lự đôi chút, anh ta nói thêm :
- Nếu không có gì đặc biệt.
Ông đáp :
- Có hay không có sự cố đặc biệt cũng chỉ một người giải quyết được. Trên chiếc máy bay này chú là người cầm lái chứ không phải tôi.
- Vâng.
Người lính đáp, mắt vẫn nhìn thẳng về phía trước. Ông nhìn rõ những đường gân phập phồng một bên cổ anh ta, trong gờ sáng rọi lại từ phía trước. Cũng lúc ấy, máy bay bắt đầu lượn vòng tròn. Những người lính ngồi quanh ông vừa thở phào một hơi giờ lại bắt đầu sợ hãi. Cơn khắc khoải của họ nhiễm đầy không gian chứa trong khoang máy bay hẹp. Họ dán mắt vào đốm lửa phản chiếu trên đôi mắt người cầm lái. Và hơi thở của họ phả từng làn hơi nóng sực quanh ông.
Máy bay lượn tiếp vòng thứ hai, rồi vòng thứ ba.
Im lặng đè nặng lên không gian. Nhưng thật lạ lùng là cùng lúc đó, một sự thanh thản bất chợt đến với ông kèm theo nụ cười dí dỏm :
― Sau cùng, mọi cuộc chơi đều đi đến kết thúc. Ít nhất, người ta cũng thấy được màn chót của tấn tuồng. Phải chăng đó cũng là điều hữu ích?
Người phi công đột ngột quay lại nhìn thẳng vào ông, sau khi đã đưa máy bay lượn ba vòng liền trên bầu trời thành phố :
- Thưa chủ tịch, đèn ba-li đặt sai vị trí.
- Chú chắc chắn là như vậy ?
- Thưa chủ tịch, trăm phần trăm.
- Điều đó có nghĩa gì ?
- Điều đó có nghĩa là nếu chúng ta hạ cánh theo ánh sáng của đèn ba-li đặt sẵn, máy bay sẽ rơi chính giữa hồ Định Công.
Ông lặng im, gần như nghe rõ nhịp đập rối loạn trong lồng ngực bốn người cần vụ trẻ. Ngừng lại vài giây, ông cất tiếng hỏi :
- Chú vào nghề đã lâu ?
- Thưa chủ tịch, chưa hẳn là lâu nhất nhưng mọi sân bay trên đất nước con đều thuộc như lòng bàn tay.
Anh ta đáp với vẻ quả quyết của một người có bản tính thận trọng và ý thức trách nhiệm. Ông hài lòng vì ngay lúc đầu đã đặt niềm tin vào con người này, một người lính trong trăm vạn người lính mà ông mới gặp lần đầu. Ông mỉm cười, đáp :
- Thời xưa những người thợ dệt giỏi dệt gấm trong bóng tối. Họ chỉ cần nghe tiếng thoi đưa và tiếng đập nhịp của guồng sợi mà biết mọi điều xảy ra. Triều đình tuyển chọn thợ dệt đặc biệt tinh xảo cho hoàng cung cũng nhờ phương pháp này. Thứ đó người ta gọi là thủ thuật thử thách bản lĩnh nghề nhiệp. Tôi thấy chú là người lái giỏi. Vậy chú cứ hành xử theo bản lĩnh nghề nghiệp của chú.
- Thưa vâng.
Người phi công đáp. Anh ta hoàn tất nốt vòng lượn thứ tư rồi bắt đầu cho máy bay hạ xuống chính tâm một khoảng không đen kịt. Đôi mắt anh ta phản chiếu lửa đèn, hắt lên những đốm sáng li ti. Cặp hàm vuông, gần như bạnh thêm ra trong sự tập trung cao độ. Đột nhiên, bàn tay người cần vụ ngồi bên trái ông túm lấy cánh tay ông, xiết chặt lại trong một cử chỉ vô thức nửa như muốn tìm nơi ông sự trợ giúp lại nửa như muốn che chắn bảo vệ ông trước hiểm nguy. Những ngón tay cậu ta rắn như đinh khiến ông đau điếng nhưng ông nín thinh chịu đựng. Rồi cuộc hạ cánh hoàn tất. Họ nghe rõ tiếng càng máy bay chạm đất, cảm nhận sự va đập cuối cùng. Tất cả xảy ra trong đêm đen.
Người phi công quay lại hỏi :
- Thưa chủ tịch, chúng ta cứ để đèn hay tắt đèn ?
- Cứ để đèn cho sáng.
Ông đáp.
Liền lúc ấy, giống như phép thuật của quỷ hoặc thần, cả một toà nhà sáng trưng hiện lên trước mắt họ. Toà nhà trung tâm khu sân bay quân sự. Tất cả các khung cửa kính đều sáng loá nhưng không thấy bóng ai. Do linh giác xui khiến, ông quay đầu nhìn về hướng dãy đèn ba-li của sân bay, bắt gặp ánh mắt người phi công cùng lúc. Dãy đèn ấy đặt dọc hồ. Một máng sắt sơn đen dài ngăn ánh sáng tiếp cận với mặt nước. Thời khắc mà họ nhìn rõ cảnh tượng đó cũng chính là thời khắc cả dãy đèn phụt tắt như những ngọn lửa ma trơi. Đồng thời, khuôn cửa lớn của toà nhà trung tâm sân bay mở rộng. Từ trong đại sảnh bước ra một nhóm người. Tất cả có tám nhân mạng. Ba Danh, Sáu, bốn cận vệ và hai người nữa, chắc chắn là cán bộ lãnh đạo phi trường :
― Họ sẽ chết nay mai, những kẻ xấu số này. Bốn cận vệ sẽ bị tiêu diệt tức khắc. Còn hai sĩ quan của trường bay? Cuộc sống của họ sẽ kéo dài một ngày hay hai ngày, ba ngày hoặc đủ một tuần lễ ?„
Ông thầm nghĩ và bất giác rùng mình. Lúc ấy, đèn trên sân cỏ cũng theo nhau bật sáng. Người phi công hỏi :
- Thưa chủ tịch, con có thể tắt động cơ được chưa ?
- Được. Đã tới lúc làm điều đó.
- Vâng.
Anh ta đáp và thi hành mệnh lệnh.
Thang máy bay được chuẩn bị do chính các sĩ quan phi trường. Ông bước xuống, lần lượt bắt tay hai người đàn em thân thiết :
- Chúc mừng anh Cả trở về .
- Xin chào chủ tịch, phong cảnh lẫn con người đất Quảng châu hữu nghị có làm người hài lòng chăng ?
Ông cười :
- Ồ, tôi rất hài lòng, tôi vô cùng hài lòng. Xin cảm ơn các chú.
Và cuộc sống lại tiếp diễn bình thường.
Nhiều ngày sau đó, tâm trí ông quẩn quanh bởi hình ảnh người phi công lái trực thăng. Chắc chắn anh ta đã bỏ mạng cùng với bốn cậu cận vệ trẻ măng kia. Không bao giờ ông gặp lại bốn chàng trai ấy nữa. Đội cận vệ của ông thường xuyên thay đổi nhân sự, nhanh hơn gió thay mùa. Còn người phi công tài năng kia ? Anh ta là ân nhân cứu mạng đối với ông. Một trong số những gương mặt ám ảnh ông gần như thường trực. Gương mặt ấy là tấm gương phản chiếu một sự thật chua chát: Ông là kẻ vô năng đối với tất cả những người đã gia ơn cho mình.
― Ta là kẻ vô năng nhất trong tất cả những kẻ vô năng. Ta là kẻ chịu ơn bội bạc nhất trong những kẻ bội bạc. Đó là một sự thật mà thế gian không tin nổi. Đó cũng là nỗi nhục nhã mà ta chẳng dám thú nhận với ai.
***
Vũ khoác áo, bước ra hành lang.
Ở đó, ông ngồi trên chiếc ghế gỗ dài, lắng nghe một cách ơ hờ những tiếng động vẳng lại. Khoảng năm giờ sáng, người bệnh nằm đối diện với ông tắt thở, sau một tuần sống cuộc sống nhân tạo. Ông ta tắt thở ngay khi máy hô hấp vẫn vận hành. Bác sĩ trực phòng gọi nhân viên dưới nhà xác cùng với cán bộ quản lý nhân sự lên làm thủ tục để chuyển tử thi đi. Những người bệnh khác ngọ nguậy cổ như những con sâu để quan sát mọi sự. Cặp mắt họ lơ láo, thất thần. Nỗi kinh hoàng khiến những gương mặt vốn đã bợt bạt trở nên vô khí sắc. Một người kéo chăn che kín đầu và lát sau tấm vải lót chăn thấm ướt. Ông ta khóc vụng bên trong. Bầu không khí đó làm Vũ ngột thở nên ông khoác áo, lẳng lặng đi ra.
Hành lang vắng ngắt, chỉ những ngọn đèn dọc tường hắt xuống dãy ghế sơn xanh. Sự vắng vẻ lẫn yên tĩnh tạm thời làm nhẹ lòng người. Tựa lưng vào ghế, Vũ đưa mắt nhìn bức tường đối diện và cứ ngồi như thế hồi lâu, không nghĩ ngợi gì. Lát sau, khuôn cửa rộng trổ ra khu vườn chính của bệnh viện dội lại tiếng chim. Vậy là bình minh đã tới. Chim chóc bắt đầu cuộc sống thường hằng của loài chim. Sau khúc dạo đầu của vài ba con chim cần mẫn nhất là bản hoà tấu của tất thảy các giống chim hội tụ trên vòm cổ thụ. Bản hoà tấu bất tận của đất và trời.
« Duyên cớ gì khiến ta chú tâm đến tiếng chim hót ban mai ? »
Vũ tự hỏi, bởi những năm ở rừng Việt bắc, tiếng chim hót chẳng khiến ông quan tâm đến thế, dù nơi đó chim chóc là một phần cuộc sống chiến khu. Không tìm thấy câu trả lời nên ông nhắm mắt lại, tiếp tục nghe tiếng ríu ran, tiếng líu lo, tiếng thánh thót, tiếng sửng sốt thất thần, tiếng trầm tĩnh rời rạc hay tiếng hối hả tươi vui mà bất khả phân biệt tên gọi của các loài. Ông không thể phân biệt đâu là tiếng hoạ mi, tiếng sơn ca, tiếng vàng anh, tiếng chích choè, tiếng sáo sậu, tiếng sẻ di hay sẻ đồng. Không, ông sẽ hoàn toàn tuyệt vọng nếu muốn trở thành người nuôi chim hay dạy chim chuyên nghiệp. Nhưng ông say mê hoà điệu của tất thảy các giọng hót, bởi chúng đem cho ông niềm vui sống lạ lùng mà mọi thứ giải trí khác đều bất khả.
Đúng lúc ấy, chiếc xe lăn chở tử thi trùm kín vải trắng từ từ tiến đến. Người đẩy xe là nhân viên nhà xác, một người đàn ông to lớn, gương mặt sưng vù như mắc chứng phù thũng bởi tiếp xúc quá nhiều với các thây ma. Đôi mắt anh ta đờ đẫn, nửa như đang nhìn, nửa như đã bất động. Da mặt anh ta cũng vậy, nó có màu vàng ệnh của xác chết. Theo sau anh ta là vài nhân viên hành chính và y tá. Cô bác sĩ trực đứng lại một mình cuối hành lang, nhoài qua khuôn cửa nhìn xuống vườn cây. Hoặc cô ta tìm hơi lạnh của sương mai, hoặc cũng như ông, nghe chim hót. Giờ, Vũ đã hiểu, cơn cớ nào dẫn đến sự chú tâm quá mức của ông tới tiếng chim lúc rạng đông. Lần đầu tiên chính là buổi sáng nghe tin Xuân bị giết. Dưới bóng các vòm lá sấu và mít, ông bất thần đứng như tượng để nghe chim hót, mặc dù người lái xe đã nổ máy dưới lòng đường. Chỉ là một khoảnh khắc, nhưng khoảnh khắc định mệnh. Những con vật nhỏ bé kia không biết rằng chính chúng đã đem cho ông sức mạnh; chính chúng là chiếc phao cứu nạn vào giây phút ông cảm thấy sắp chìm.
Giờ này là lần thứ hai.
Lần này là cái chết của một kẻ xa lạ, nhưng nó đến vào chính lúc ông đang bị uy hiếp. Bởi ông đang ở trong cơn chấn động cả tâm thần lẫn thể xác. Bởi môi trường gợi nên cảnh chìm tầu trong khi ông đang là con thuyền bị sóng đánh tròng trành. Ông buộc phải truy tìm cứu cánh. Nhưng lần này, ông ý thức rõ ràng một sự tìm đến chứ không phải là sự bắt gặp ngẫu nhiên.
« Ta tìm đến khúc nhạc này như kẻ chết đuối nắm lấy mảnh bè mà thần hộ mạng ném xuống. Tiếng chim hót, vẻ đẹp bất tử của thiên nhiên. Phải chăng ngươi là kẻ đồng hành không bao giờ phản trắc, là nơi tựa đỡ không bao giờ sụt lở đối với con người ? »
Cô bác sĩ trực tiến lại phía ông, sau khi đã nhoài người khỏi khuôn cửa sổ khá lâu để hít thở. Đêm lao động căng thẳng còn lưu lại những nếp nhăn trên trán . Lần đầu ông chú ý đến cô ta : một nhan sắc bình thường, dấu vết của cuộc sống thôn dã còn in khá đậm. Cô ta có dáng đi tất bật, thân lao về phía trước, hai đuôi tóc tết sam đánh lúc lắc theo bước chân. Đến trước mặt ông, người đàn bà dừng lại, tươi cười cất tiếng :
- Chào bác, công việc của chúng tôi khiến bác mất ngủ ?
- Tôi còn rất nhiều thời gian để ngủ bù. Bác sĩ không cần lo.
- Hôm nay cơ quan và gia đình có vào thăm bác hay không ?...
- Có chứ. Như thường lệ. Cảm ơn bác sĩ.
Cô ta mỉm cười, nhưng sau đó giơ tay che miệng ngáp rồi đi.
Người đàn bà này vừa được chuyển từ một quân y viện sang nên chưa đủ thời gian nắm vững hoàn cảnh các con bệnh. Cô ta không biết rằng ngay lúc ông nhập viện, bác sĩ trưởng khoa đã yêu cầu vợ ông không được vào thăm ông như thân quyến những người bệnh bình thường khác. Bởi cuộc đối thoại với bà chính là nguyên nhân gây nên cơn chấn động tâm thần dữ dội, kèm theo sự tăng huyết áp và co giãn vành mạch đột ngột, vượt qua mọi lô-gíc bình thường của bệnh học, dẫn đến cơn ngất xỉu của ông. Người ta buộc phải coi bà như tác nhân gây bệnh. Do đó, cuộc tiếp xúc giữa họ cũng phải chờ chỉ định của thầy thuốc. Vũ cảm thấy dễ chịu. Ông tự do. Thời gian đầu, dường như ông không còn mảy may lưu luyến đến gia đình. Ngay tên bà ông cũng quên. Hình ảnh của bà mất tăm tích. Nhan sắc mặn mà thuở xưa trở thành vô hình vô dạng trong lỗ hổng đen ngòm của trí nhớ. Có lẽ cơ thể ông phải sản sinh ra những phản ứng tích cực để tự bảo toàn.
Nhưng hôm nay, khi chiếc xe tang đưa kẻ xấu số khuất rồi, chợt một nỗi âu lo ập tới :
― Nếu ta ra đi đột ngột, liệu Vân và những đứa trẻ sẽ ra sao ?
Ý nghĩ ấy vừa tới, ông đã tự cười mình :
― Ta lại nhớ đến cô ấy. Đó phải chăng còn là tình yêu hay chỉ đơn giản là tinh thần trách nhiệm ? Hoặc chính xác hơn là một sự lạc hướng tâm lý : ta nhớ cô ấy như nô lệ nhớ chủ nô, như kẻ mắc chứng khổ dâm nhớ kẻ bạo dâm, như kẻ bị hành quyết nhớ đến gương mặt tên đao phủ. Một sự tưởng nhớ bệnh hoạn. Nó chứng thực con người vốn dĩ là con vật bị điều khiển bởi thói quen.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương
Chương 29: KÝ ỨC (6)
Ông vùng đứng lên, đi dọc theo hành lang vì cảm thấy nếu còn ngồi lại, ông sẽ bị đè bẹp bởi sự khinh bỉ của chính mình. Vừa đi, ông vừa đưa mắt nhìn xuống sân viện. Chiếc xe chở người chết đang vượt qua sân chính để tiến về phía nhà xác, một khối bê-tông trắng cao ngất, vuông vắn như hộp đựng bích-quy nằm khuất sau khu nhà mổ. Trên những chiếc ghế đá dài xếp quanh các bồn hoa, đã lác đác có người ngồi. Hoặc là những con bệnh sắp bình phục ra ngắm cảnh để tránh không khí ngột ngạt trong các phòng điều trị. Hoặc là đám người nhà bệnh nhân ra nhấm nháp bữa ăn sáng của họ, thường là chiếc bánh mì rắc muối hoặc gói xôi. Thấm thoắt ông đã vào đây đã trọn hai tuần, bắt đầu quen với nhịp điệu cuộc sống mới, hiểu rằng khả năng thích ứng của con người lớn hơn họ vẫn tưởng. Mấy ngày đầu, sau khi được giải phóng khỏi cơn hôn mê nhân tạo, ông hồi phục rất nhanh, cũng căm ghét rất nhanh cuộc sống của con bệnh. Các loại mùi khác nhau của thuốc tiêm cũng như thuốc uống, mùi hôi hám của những cơ thể đau ốm, bạc nhược; mùi thuốc tẩy trùng trong phòng tắm và phòng vệ sinh. Gương mặt của những người bệnh, đa phần gợi đến những chiếc mặt nạ bằng sáp ong hay vải liệm hồ bột. Những ánh mắt khi lờ đờ như mất hết sinh khí, khi bày tỏ sự cầu khẩn quỵ luỵ, khi ánh lên vẻ tò mò hay nỗi tuyệt vọng, khi bộc lộ sự thèm muốn hay ganh ghen... Một thế giới tâm lý gớm nghiếc khiến ông ghê tởm. Nhưng dần dà, vì bắt buộc phải chịu đựng nó, ông tìm được những kẽ hở mà ở đó, ông có thể thở hít, có thể tự cứu vãn và gạt đi những ý nghĩ u sầu. Ông tự so sánh mình một cách hài hước với những kẻ sống dưới hầm sâu hay địa đạo, dán mũi vào lỗ thông hơi để tìm ô-xy và hương vị của bầu trời. Cái phao cứu hộ lớn nhất của ông chính là vườn cây trung tâm viện. Vũ có thói quen lượn quanh khu vườn bất kể giờ nào rảnh rỗi. Ngay cả lúc trời lất phất mưa, ông cũng lững thững đi quanh các bồn hoa, ngửa mặt nhìn vòm cây xum xuê, tìm bóng chim và nghe tiếng kêu chành choẹ của chúng. Trong túi ông lúc nào cũng dự phòng vài chiếc khăn tay vì ông là nạn nhân thường trực phải hứng chịu các bãi cứt chim. Ông hài lòng vì đã biến thành một cái đích thuận tiện để lũ chim thải bã, chẳng phải vì ông tin vào lý thuyết ― "thấy phân là có lộc" như những người dân quê, nhưng vì ông muốn gần gũi một thế giới sống động đầy cảm hứng. Thế giới ấy tồn tại ngay giữa các khu nhà ảm đạm trong đó đầy ních kẻ sống dở chết dở hoặc các thây ma. Thế giới chim chóc ấy là trạm trung chuyển giữa một bầu trời cao rộng với ông, con người đang quay cuồng trong cơn bão tâm tưởng. Tiếng hót của loài vật bé nhỏ này là tiếng nói của thiên sứ, quà tặng của vị thần bảo mệnh, chiếc bè được chúa Trời ném xuống một cách bí ẩn trong cơn hồng thuỷ vô hình này.
Những cuộc lượn chơi ấy khiến ông quen với một số bệnh nhân có tâm trạng gần như ông, họ cũng bám lấy khu vườn như bám lấy mảnh thiên đường còn rớt lại. Mọi người chạm trán nhau, cúi chào nhau một cách thân thiện và lặng lẽ, rồi đường ai người nấy đi. Khi mỏi gối chân chồn, Vũ lại tìm đến căng-tin, ngồi vào góc bàn sát cửa sổ trông ra mảnh vườn sau của bệnh viện. Ở đó, ông nhấm nháp một ấm trà với một chiếc bánh trong vài ba giờ liền, lắng nghe tiếng ong rù rì sau lưng, nghe mấy cô gái bán hàng chuyện gẫu hoặc tán tỉnh các chàng trai trong đội bảo vệ bệnh viện. Đấy là thời khắc yên tĩnh nhất cho phép ông đối thoại với chính mình.
Cuộc sống, lý tưởng, công việc, gia đình, những con đường đã đi qua, những đoạn đời đang đợi chờ phía trước.
― Phải chăng đại cuộc đã hỏng rồi ?...
Câu hỏi ấy quay vòng như bánh xe luân hồi trong óc não. Câu nói nhẹ nhàng như rỡn cợt của gã đàn ông đeo đôi kính cận dày như trôn chén kia chính là bản án tử hình: Thuyền tình đã vỡ, ước mộng đã tan ? Cuộc cách mạng mà cả dân tộc dấn thân sau rốt chỉ là sự khuấy đáy bùn để làm nổi lên xác thuỷ tộc lẫn rong rêu thối rữa ? Làm sao có thể chấp nhận nỗi đắng cay này ? Biết bao sinh linh đã nằm xuống ? Biết bao đời trai bị đốn như những thân cỏ tháng giêng bị cắt ngang bởi lưỡi hái của tử thần? Biết bao và biết bao?
Nỗi ngờ vực càng ngày càng có nguy cơ trở thành lời khẳng định.
Ông tự thán âm thầm :
― Chẳng phải vì ta xiêu lòng bởi hai gã đàn ông bẻm mép mà vì sự thật đã hiển lộ từ lâu nhưng không ai đủ can đảm đương đầu. Những kẻ đứng ngoài ngoài guồng máy quyền lực chắc chắn phải có cái nhìn khách quan. Có lẽ do thân phận của họ, hoặc nói chính xác hơn do lựa chọn rong chơi mà họ nhìn thời cuộc một cách tỉnh táo. Ta không thể chối cãi rằng đa số những kẻ đứng quanh ta chính là đám cóc nhái chốn sình lầy.
Cùng với ý nghĩ cay đắng ấy, lướt qua một chuỗi dài những gương mặt của đám người chen chúc đứng cùng ông trên khán đài quyền lực. Cái guồng máy nhà nước này đầy rẫy những quân vô lại, những bọn chôm chỉa cướp giật, những con điếm hạ cấp....Tất thảy loại người được gom chung vào một danh từ : bọn vô sản lưu manh. Vì vừa vô sản vừa lưu manh nên chúng hoàn toàn bị điều khiển bởi một niềm say mê bạo liệt, niềm say mê này cho phép dung chứa tất thảy mọi hành động tàn bạo, mọi biện pháp phi nhân tính. Sức mạnh nội tại tiềm tàng trong chúng: Khát vọng quyền lực. Sự tham lam buông thả vô cùng vô tận nảy sinh trên gốc rễ đói nghèo. Nhu cầu không nguôi dịu của một cuộc trả thù vô thức do những khổ đau, thua thiệt, căm giận, thù oán tích tụ trường kì qua năm tháng.
Kỷ niệm về hội nghị 9 chưa phai. Bởi nó đánh dấu bước ngoặt định mệnh của dân tộc cũng như sự ngã ngựa của con người khoác tấm áo bào đẹp nhất.
Buổi sáng ấy oi nồng, oi nồng như bầu không khí bao trùm hội nghị. Mặc dù những chiếc quạt trần xoay tít và những cây quạt đứng xung quanh cũng không ngừng tạt gió nhưng mọi người vẫn cảm thấy ngột ngạt. Đây là phút trọng đại nhất: Người ta lấy biểu quyết cho đường lối chính trị quốc gia. Trên ba trăm năm mươi đại biểu, phe chủ chiến chiếm tuyệt đại đa số, phe chủ hoà là thiểu số bị nghiền nát: Họ đếm chưa đủ mười đầu ngón tay. Thế nhưng họ vẫn can đảm đến giây phút cuối cùng vì trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc. Người đứng lên trước hết là Lê Liêm, thứ trưởng bộ văn hoá. Vì ngồi ngay hàng ghế phía sau nên ông nhìn rõ đám mồ hôi thấm trên lưng áo ông ta. Đám mồ hôi đó thoạt tiên chỉ lớn bằng hai quả quýt, chấm đúng nơi nhô lên của cặp xương bả vai. Chỉ vài phút sau, nó đã loang ra bằng hai bàn tay, rồi rất nhanh thấm ướt toàn bộ tấm lưng và dán chặt vào chiếc may-ô bên trong. Đường gờ hai bên nách may-ô nổi hằn lên rõ mồn một qua lớp vải ướt sũng khiến vị thứ trưởng có vẻ như vừa bước lên từ bể bơi Trúc bạch. Tuy nhiên, ông ta vẫn nói, không bớt một lời, không dè xẻn một ý :
- Tôi nghĩ rằng chúng ta là đại biểu của một dân tộc độc lập. Chúng ta có quyền lựa chọn cho mình một đường lối tối ưu phù hợp với lợi ích quốc gia. Cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc ngày hôm qua, còn biết bao nhiêu vấn đề cần giải quyết. Mìn trên các cánh đồng Mường Cúm, Him-lam chưa đảm bảo đã gỡ hết. Lúa chưa mọc kín những chiến địa cũ. Thương phế binh trong các trại còn đang cần tiếp tục điều trị và giúp đỡ. Nhân dân đang còn thiếu những nhu cầu thiết yếu như thực phẩm, quần áo, thuốc men. Ấy là chưa kể đến các loại sách vở và học cụ của trẻ nhỏ. Trong hoàn cảnh như thế, chúng ta không có lý do gì để dấn thân vào cuộc chiến tranh mới chỉ nhằm chứng minh tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hai phe đối nghịch vẫn có thể tồn tại song song trên cùng một hành tinh bởi hành tinh này đủ rộng để dung chứa các quốc gia khác nhau và các hệ thống chính trị khác nhau. Chúng ta có thể chiến thắng Mỹ không phải trên chiến trường mà trong cuộc cạnh tranh khoa học, chiến thuật công nghiệp và hiệu năng kinh tế.
Ông không còn nhớ chính xác những gì Lê Liêm đã nói sau đó, nhưng mắt ông dán vào tấm lưng áo ướt sũng mồ hôi khiến ngay cả những đốt xương sống của vị thứ trưởng cũng hiện lên rõ mồn một. Trong lúc ấy, một màu đỏ loang từ từ trên gương mặt ông ta, thoạt tiên từ thái dương và quầng mắt. Sau đó màu đỏ tràn qua hai gò má rồi lan qua cằm, xuống vùng cổ và gáy. Ông cũng nhớ rõ những nét rùng mình thoáng gợn qua khuôn mặt ấy và cơn tự chế khiến cặp môi của Lê Liêm gần như tái nhợt đi. Ông cũng nhớ một cách chi tiết những ánh mắt thù nghịch của đám người xung quanh chiếu vào vị thứ trưởng. Những kẻ ngồi hàng trên quay hẳn lại, nhìn chõ vào mặt người đang phát biểu bằng cái nhìn của kẻ côn đồ, hứa hẹn một cách thẳng thắn đá ném vào đầu hay dao đâm vào cổ. Những kẻ ngồi hàng ghế sau không thể bộc lộ được tinh thần phản đối bằng ánh mắt đe doạ và khinh bỉ đối với "tên xét lại" thì xì xào gây ồn ĩ...Một khoảnh khắc trôi qua, bất thần một đại biểu vọt đứng lên, tách hẳn hàng ghế bước đến trước Lê Liêm, xỉa tay vào mặt ông và hét :
- Nếu mày không câm họng lại. Nếu mày còn tiếp tục phun ra giọng điệu của bọn xét lại, tao sẽ treo cổ mày lên.
Lê Liêm ngừng lời, dường như bị một cú đòn phang vào gáy. Ông trân trân nhìn kẻ vừa sỉ nhục mình, thứ trưởng bộ nội vụ Lê chí Thân, lâu la ruột của Quốc Tuỳ. Đưa tay lên gỡ kính, thứ trưởng bộ văn hoá chớp mắt một cách bối rối. Ông không thể tìm được lời đối thoại, dầu ông là người nổi tiếng có tài ăn nói. Hội nghị cũng im lặng theo. Đây là lần đầu, họ chứng kiến cảnh tượng các đồng chí xử sự với nhau theo đúng cung cách của bọn đầu đường xó chợ. Dầu gốc tích ra sao, nhưng khi đã trở nên những kẻ mũ cao áo dài, những đại diện cho dân chúng, bọn họ đều cố gắng giữ một sự nhã nhặn tối thiểu. Đây là lần thứ nhất, sự cặn bã được tự do lên ngôi. Hơn ba trăm con người cúi mặt xuống.
Trên khán đài, Ba Danh và Sáu lặng im.
Một khoảnh khắc trôi qua, chủ tịch đứng lên, quay về phía Lê chí Thân, cất giọng thản nhiên, ôn tồn :
- Nếu chú muốn treo cổ chú Lê Liêm, hãy treo cổ tôi trước đã.
Lê chí Thân mím môi, cúi gằm mặt rồi quay về chỗ của y. Hội nghị chết lặng đi trong khoảnh khắc.
Rồi Sáu rung chuông :
- Giờ giải lao đã đến. Mời các đồng chí tạm nghỉ.
Sau hội nghị, Lê Liêm đã viết một bức thư gửi bộ chính trị, trong đó ông yêu cầu những người lãnh đạo cao nhất của đảng giải quyết vụ việc này, bởi ông không tin rằng đảng có thể dung túng cho những hành vi và ngôn từ có tính côn đồ lưu manh được phép tồn tại giữa những uỷ viên trung ương, những đại biểu của dân tộc.
Thứ trưởng bộ văn hoá quá thơ ngây. Ông là con người duy mỹ. Sự duy mỹ không tồn tại được trong xứ sở này. Bộ chính trị mà ông kì vọng sẽ làm trọng tài phân xử giữa ông với kẻ hạ nhục mình lại chính là đám người một đồng một cốt với y. Để xây dựng một khải hoàn môn hùng vĩ, đảng ắt cần đến loại người có khả năng tàn phá và huỷ diệt. Chiến tranh cần các tội phạm, những kẻ sát nhân chuyên nghiệp và nghiệp dư trong số đó đám đâm thuê chém mướn nghiễm nhiên trở thành lớp người đặc biệt có năng lực, được mau chóng nhận diện như lớp tinh hoa. Sự thật ấy đã liệt kê, sơ đồ hoá. Huống chi một số lớn kẻ cầm quyền cũng có gốc rễ là quân lừa đảo, trộm cướp, các phiên bản của tầng lớp lưu manh ?...Tiếng hú của chó sói khiến mọi loài run sợ nhưng lại là tiếng gọi ấm áp thân quen đối với bầy đàn của chúng. Con người như Lê Liêm chính là kẻ lạc loài. Trong khi chờ đợi lá thư trả lời của các « đồng chí lãnh đạo », ông đã bị khai trừ khỏi đảng, thải hồi và quản thúc tại gia, tất thảy mọi hình thức kỉ luật được thi hành gần như một lúc. Vài ngày sau đó, tướng Đặng kim Giang, viện trưởng viện triết học Hoàng minh Chính, nhà văn hoá Nguyễn kiến Giang và non một trăm nhân sĩ khác, những người được định danh là bị đầu độc bởi tư tưởng của tên trùm xét lại Khơ-rút-xốp bị bắt giam. Cùng một tuần lễ, hơn hai mươi tướng lĩnh bị tống vào nhà ngục bởi họ đã từng được đào tạo lâu dài trong trường quân sự Cu-tu-dốp hoặc có quan hệ gần gũi tướng Long. Tuần sau, trên năm trăm sĩ quan quân đội từ cấp đại tá trở xuống, những người từng cộng tác hoặc được nhiệm chức trực tiếp dưới quyền của tướng Long cũng lần lượt bị bắt theo. Họ bị dẫn độ trong các đoàn xe của tổng cục 2, sau đó bị giam tại nhà tù Thanh Liệt ở ngoại ô Hà nội, và hai nhà tù trung ương khác đặt tại Hà Tĩnh và Thái nguyên.
Cuộc chiến tranh mới bắt đầu.
Hành trình của dân tộc đổi hướng.
Cùng với nó là tất thảy những bi kịch của con người thân thiết nhất với ông.
* * *
Bừng mắt dậy, chủ tịch thấy hoa mai nở trắng xóa khuôn cửa sổ. Phải chăng đây là đợt hoa cuối cùng của mùa xuân ? Ông đứng lên, dán mắt qua tấm kính nhìn những cành mai phủ kín hoa giống hệt những chuỗi bông tuyết đọng trên cành thông mùa Noel. Những cánh hoa trắng tinh như tạc bằng sương băng và vườn mai trắng bơi giữa biển sương trắng mênh mông khiến ông hồi tưởng khung trời mùa đông Paris những ngày tuyết đổ.
Paris, chân trời xa xôi không ngừng thiếu vắng nơi ông.
Paris, thành phố của những đam mê mặn nồng và cay đắng.
Ông đã trải qua biết bao mùa đông trong thành phố ấy? Biết bao lần ông đứng nhìn tuyết rơi trên những mái nhà nhấp nhô với cảm thức phức tạp trong đó sự xa cách chen cùng gần gũi, nỗi buồn xen lẫn những ngất ngây. Bởi không có tiền, ông luôn luôn phải thuê những căn buồng áp mái, thứ quán trọ dành cho đám sinh viên nghèo, đám thợ thuyền tỉnh lẻ tới kiếm bánh mì đô thị và đám người lưu vong khốn khổ. Ở những gian phòng áp mái ấy, ông phải chịu đựng cái rét thấu xương nhưng bù lại, có cảm giác gần bầu trời hơn, có thể nhìn những bông tuyết quay cuồng múa lượn một cách ngoạn mục hơn trước khi chúng rơi xuống mặt đất. Đôi khi, vào những rạng đông, thành phố vắng người và ngổn ngang tuyết rơi trở nên hoang vắng lạ lùng, xa cách lạ lùng như chẳng còn là Paris mà chỉ là một bình nguyên tuyết phủ. Đôi khi, vào những hoàng hôn rét cóng, ông nhìn các bông tuyết bay xiên giữa không trung, làm nhập nhoà thêm ánh sáng yếu ớt của những ngọn đèn đường, khiến bầu trời ám mây trở nên âm u huyền bí như bức hoạ đồ được vẽ bằng bàn tay phù thuỷ. Đôi khi, vào những trưa hiu quạnh, ông bước trên hè phố đầy ngập các đống tuyết, ngơ ngẩn nhìn làn tuyết trắng in những vết giày đen bẩn của khách bộ hành. Mùa đông Paris, hơi thở ấm áp ngon lành của những lò bánh mì là thứ hương thơm nồng ấm nhất với chàng trai châu Á. Rất nhiều khi, ông bắt gặp mình đi đi lại lại hàng chục lượt trước ô cửa không cánh trổ sát hè, được chắn bởi những dóng sắt thô đen sì như cửa sổ nhà ngục. Từ những ô cửa chẳng chút gợi cảm đó, hơi nóng của các loại bánh mới ra lò bay lên không ngừng. Và không ngừng, những làn hơi ngào ngạt quyến rũ khách qua đường bởi thứ mùi thơm vô cùng trần thế.
Paris !
Sao đột nhiên nỗi nhớ hoá cồn cào ?
Những cành mai trắng bồng bềnh trong sương trắng đỉnh Lan Vu bỗng gọi về đây một khung trời tràn đầy kỉ niệm. Khung trời xa xôi và gần gũi. Quãng đời tươi thắm nhất. Tuổi trẻ của ông. Đã quá lâu ông không còn thấy thành phố đó. Liệu nó đổi thay nhiều hay vẫn như xưa? Những quán rượu cũ kĩ hẳn sẽ được đổi thay bàn ghế, thay kiểu trang trí và thêm các món nhắm. Các cô hầu bàn sẽ thay trang phục. Những ngôi nhà sẽ thay chủ và thay nước sơn. Những ngọn đèn đường kiểu cổ hẳn sẽ được thay bằng các loại đèn mới. Nhưng tựu trung, nước sông Seine đâu có đổi giòng ? Và những hàng cây vây quanh đảo Saint Louis vẫn trút lá ào ào khi mùa đông tới. Hẳn là thành phố ấy vẫn sống cuộc sống bình thường của nó, ở ngoài ông, không có mặt ông. Ông chỉ là khách trọ một mùa nếu Paris là quán trọ. Ông chỉ là kẻ qua sông một lần nếu nó là con thuyền vĩnh cửu qua lại giữa hai bờ quên nhớ của một dòng sông. Ông chỉ là một khách hàng nghèo khổ, trong túi không đủ tiền để mua một vật ra hồn, đi qua chợ mà đau đáu buồn tủi, nếu Paris là thứ siêu thị miên viễn của phương Tây, nơi sự choáng lộn của xa hoa làm chóng mặt những kẻ nhát gan và làm rơi lệ những kẻ có quá nhiều thèm muốn nhưng túi tiền lại rỗng.
Ồ, nhưng ông đâu có ham muốn tiền tài ? Suốt đời, ông chưa bao giờ dành dụm nổi một món tiền, để tiêu cho riêng ông hoặc trợ giúp một người nào ông muốn giúp. Ngay giờ đây, làm chủ tịch nước mà tiền phúng viếng kẻ tiều phu ông cũng không biết rõ ít nhiều, và không thể tự tay định liệu. Điều đó phải chăng do số phận đặt bày ? Bởi chính ông cũng dửng dưng trước một sự thật lạ lùng như vậy. Nhưng quả tình, ông chưa bao giờ thèm khát sự xa hoa của Paris. Ông nhớ về nó như nhớ một mối tình bất thành và bất khả quên lãng.
Ngoài kia, một cơn gió vừa tới, xô dạt những cành mai. Từng đám cánh hoa rơi lả tả. Chao ôi, sao mà giống những nụ tuyết ở phương trời bên kia ? Lần đầu, nhìn những bông tuyết nhỏ vừa đúng bằng hạt ngô rang nở, ông thốt kêu thành tiếng : « Ồ, xinh xắn làm sao thứ nụ tuyết tí hon này ! ». Nhiều năm sau, ông vẫn tự cười mình vì sự ngô nghê ấy. Với ông, kỉ niệm về tuyết đã trở thành nỗi sầu thương vĩnh cửu, điệp vào nỗi sầu thương một tuổi trẻ bị chôn vùi. Khi đã trở thành một người đàn ông từng trải, vào những ngày tuyết bay mù mịt, con tim ông vẫn thổn thức vì bài hát cũ : Tuyết rơi ! Phải chăng màu trắng của tuyết bay đã làm thành một phần đời ông, một phần không thể thiếu ? Phải chăng những câu ca xưa cũ, một khi đã găm chặt vào tâm khảm, trở thành thứ điệp khúc bất tử vượt qua mọi thăng trầm của số kiếp và mọi sụt lở của thời gian ?
« ....... Tombe la neige
Tu ne viendras pas ce soir
Tombe la neige
Mon coeur s’ habille de noir .... »
Suốt đời ông, đeo đuổi nỗi nhớ tình yêu. Suốt đời ông, bài hát ấy vang lên như một điệp khúc vô chung và vô thuỷ. Khốn khổ thay cho ông , không thể lấp đầy nỗi trống vắng này. Khốn khổ thay cho kẻ nào tóc đã trắng như sương mà còn nhớ bài « Tuyết rơi » và con tim còn se sắt vì những mối tình bất cập.
- Thưa chủ tịch, xin mời người dùng cháo cho nóng.
- Ồ, nhà bếp đã mang lên ?
- Vâng, bác sĩ yêu cầu người ăn thêm bữa sáng còn bữa trưa rút đi nửa xuất cũng được. Như thế có lợi cho sức khoẻ hơn.
- Tôi đã nghe chú ấy giải thích. Nhưng tôi đã quen ăn hai bữa từ khá lâu.
- Vâng....Nhưng bác sĩ...
- Thôi được, tôi ra đây.
Ông bước ra phòng ngoài. Một mùi thơm lạ lùng từ sân tràn vào khiến ông dừng lại. Ông vừa hồi tưởng mùi thơm của những lò bánh mì Paris mùa đông, phải chăng mùi hương này là mùi hương mộng ảo của ký ức ?
Hồ nghi, ông giương mũi lên hít thở . Cậu lính thấy vậy nói luôn :
- Thưa chủ tịch, đó là mùi chả đậu xanh của nhà chùa. Sáng nay, sư nữ trổ tài rán chả đậu.
- À ra thế. Quả là khác.
- Thưa chủ tịch, khác cái gì ạ ?
- Ồ, tôi muốn nói là mùi thơm này chẳng giống mùi thơm của các món ăn khác.
- Vâng.
Cậu lính lập tức khẳng định :
- Mùi món ăn chay phải khác mùi các món ăn trần ạ.
Ông cười :
- Đúng rồi. Nếu không ai còn dám gọi là chay ?
Cậu lính nhìn ông thăm dò rồi hỏi :
- Thưa chủ tịch, người có muốn nếm thử món ăn nhà chùa không ạ ?
Ông lắc đầu :
- Đừng làm phiền họ như vậy. Chúng ta ở đây đã là xâm phạm vào bờ cõi cũng như tự do của các nhà sư rồi.
- Ồ không.
Chàng trai đáp một cách hăng hái :
- Chính sư nữ đem cho con một đĩa tú hụ. Chả hãy còn nóng nguyên. Con lấy lên một chút để người nếm thử .
Ông chưa kịp trả lời cậu ta đã chạy vụt ra và mất hút trong đám mây trắng khổng lồ đang lướt qua sân. Một phút sau, anh chàng trở lại với đĩa chả đậu bọc trong tấm vải bông dày :
- Mời chủ tịch dùng cho nóng.
- Cảm ơn.
Mùi chả đậu quả là hấp dẫn. Hoặc nó ngon lành thực hoặc vì nó là món ăn lạ nên vị giác của con người bị kích thích và ở trong trạng thái chờ đón. Ông gắp miếng chả lên ăn thử trước cặp mắt hồi hộp của chàng lính trẻ.
- Ngon lắm. Lần đầu tôi mới ăn món này.
Cậu lính toét miệng cười :
- Chả đậu là một trong những món chay ngon nhất đấy ạ. Những dịp đặc biệt nhà chùa mới làm vì mất công.
- Người ta làm theo cách nào ?
- Dạ, trước hết phải đồ đậu xanh lên như đồ xôi. Sau đó cho vào cối giã nhuyễn thành bột. Thứ bột này nhào với một chút bột mì hoặc bột gạo nếp cho đủ độ dính kết, rồi thêm muối và gia vị cho vừa vặn. Sau đó đem nặn thành bánh thả vào chảo dầu rán. Hôm nay, sư nữ rán bằng dầu lạc. Nhưng muốn ngon hơn, phải rán bằng dầu vừng hay dầu hướng dương.
- Giỏi lắm. Cậu có thể chuyển thành đầu bếp được rồi đấy.
- Sáng nay con ngồi phụ sư nữ giã đậu, được nghe giảng về mọi loại ăn chay.
- Đời sống của nhà chùa xem ra cũng khá phong phú, phải không ?
- Dạ. Thưa chủ tịch...
Cậu ta lúng búng. Người lính trẻ không biết trả lời ra sao vì câu hỏi của ông quả là nan giải. Ông cười :
- Tôi hỏi đùa thôi. Đời sống của những người tu hành thật sự vô cùng đơn giản. Nhưng sự khó khăn chính là ở chỗ duy trì và bảo dưỡng sự đơn giản ấy.
- Thưa vâng.
Biết rằng chàng trai không thể hiểu những điều mình vừa nói, ông vỗ vai cậu ta :
- Thôi, không phải căng óc đánh vật với chữ nghĩa làm gì cho khổ. Cứ tin rằng đời sống của họ hoàn toàn khác biệt với cuộc sống của chúng ta.
- Thưa vâng.
Chàng trai nói với vẻ sung sướng như vừa trút được gánh nặng, đoạn cậu ta dọn khay đồ ăn đi với nỗi hân hoan như vị tướng trở về thành dẫn theo đoàn xe chất đầy chiến lợi phẩm. Ông đã ăn hết đĩa chả đậu mà bỏ lại bát cháo thịt của nhà bếp.
Chỉ vài tích tắc sau, tiếng cười của chàng trai vang đã lên bên kia sân chùa. Ông không nhìn thấy cậu ta vì những đám mây trắng lướt bay không ngừng, giống đàn bò của Thượng đế bị mục đồng rượt đuổi trên cánh đồng tiên giới. Những đàn bò trắng liên tục diễu hành trước mắt ông. Bỗng nhiên, nỗi cô đơn hiệp đồng với mây trắng bên ngoài làm buốt lạnh con tim. Chủ tịch sững sờ. Ông chưa bao giờ trải nghiệm một thứ cô đơn kinh hoàng như hôm nay. Cô đơn lạ lùng. Cô đơn đến đau buốt ruột gan, tê dại chân tay. Cô đơn như có một thứ lưới sắt vô hình quây chụp lấy ông, trói thít ông trong những mắt lưới tàn nhẫn. Ông hụt hơi. Ông thấy ông không đủ sức chịu đựng thêm dẫu là một khoảnh khắc nỗi cô đơn này cho dù suốt đời ông, cô đơn vẫn là kẻ đồng hành chung thuỷ. Ông bỗng thấy sợ khi phải ngồi lại đây, mình đối mặt với mình :
« Tại sao ta lại yếu đuối đến mức này ? Chẳng lẽ chỉ vì tuổi già mà ta trở nên một kẻ xa lạ và thảm hại ngay với cả bản thân ? »
Ông tự đe nẹt. Trong khi uống từng ngụm trà nhỏ, ông cúi nhìn vào lòng chén, cố tìm trong chất nước sóng sánh vàng kia một liên tưởng, một kỉ niệm về sông suối, một kí ức xa xôi dính líu tới những cuộc tiệc trà, làn khói mềm mại phất phơ bay trên những món ăn nóng hổi. Bất kể thứ chi có thể giúp ông quên đi nỗi cô đơn. Nhưng điều đó trở thành bất khả. Bởi nỗi cô đơn này chính là kẻ song sinh với nỗi quên lãng kia. Khi quên lãng quay đầu chạy đi, nỗi cô đơn này vòng trở lại. Hai thứ thòng lọng thít chặt cổ ông trên giá tử hình.
Chủ tịch đứng lên vì nếu còn ngồi lại ông sẽ ngạt thở. Khoác chiếc áo bông dài lên vai, ông bước ra. Vừa mở cửa, mây trắng đã phả vào mặt ông ướt lạnh. Những viên gạch dưới chân sũng nước như láng mưa. Từ bên chái nhà bên kia khu chùa, cậu lính kêu to :
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào. Trời lạnh lắm.
Rồi cậu ta chạy bổ qua sân nhanh như chim cắt và túm lấy ngang lưng ông khi ông vừa định bước xuống tam cấp :
- Thưa chủ tịch, xin người quay vào nhà.
Ông đáp lại một cách ngang bướng :
- Ồ không. Ngồi trong nhà mãi nhức đầu. Vả chăng, tôi phải sang cảm ơn nhà chùa vì món chả đậu.
- Thưa chủ tịch, người đụng đũa đến món ăn chay tịnh của chúng tôi đã là vinh dự cho nhà chùa. Người bất tất phải sang đây.
Ông nghe sư nữ nói rất to, vọng từ bên kia đám mây. Vì đám mây quá lớn, ông sợ bị cảm lạnh nên chờ nó lướt qua sân rồi mới bước tiếp. Chỉ vài chục bước chân mà không nhìn rõ hình người. Đúng là cảnh tượng nơi tận sơn cùng cốc. Đặt chân lên bậc thềm của gian chùa ngang, ông mới nhìn thấy sư nữ đang ngồi giã trầu cho sư cụ. Ông chưa kịp nói thêm lời nào, bà cụ đã từ trong nhà bước ra :
- Xin mời chủ tịch vào nhà ngay vì trời rất lạnh. Nếu chẳng may người vàng mình sốt mẩy, nhà chùa chúng tôi không biết lấy gì để chuộc lỗi trước nhân dân.
- Bạch sư cụ, người còn nhiều tuổi hơn chúng tôi.
Ông nói vậy nhưng cũng bước vội vào nhà vì sau lưng ông, những đám mây vĩ đại khác đang lù lù tiến đến. Chúng không chỉ bay ngang sân mà sẽ tràn vào tất thảy những khuôn cửa mở khiến các gian nhà ướt lạnh. Sư nữ bỏ cối trầu bước liền theo ông rồi khép luôn cánh cửa. Tiếng cánh cửa quay cót két trên trục gỗ khiến chủ tịch giật mình. Chợt nhớ rằng tiếng cót két này vô cùng quen thuộc với ông thời niên thiếu. Những ngôi nhà gỗ cổ xưa của xứ sở đều xây dựng theo cùng một mẫu, và tiếng cánh cửa nghiến trên trục gỗ vọng lên nỗi buồn nhớ thời đã qua...
- Xin mời chủ tịch ngồi.
Sư cụ mời ông ngồi đối diện với bà, trên chiếc ghế lim cũ nhưng vững trãi mà thời gian khiến nước gỗ bóng như gương. Cậu lính ngồi phía sau lưng ông, trên chiếc ghế đẩu bằng mây đan do sư nữ đem lại. Giữa căn phòng, một lò than hoa tí tách cháy. Thi thoảng, sư nữ lại lấy que khơi cho những viên than cháy đỏ và tiếp thêm than mới. Căn phòng toát lên vẻ ấm cúng mộc mạc và cũ kĩ. Giống như mùi thơm của trầu cau, hơi ấm của cánh tay bà ngoại, nỗi phấp phỏng thần tiên của những câu chuyện cổ tích được nghe kể đêm xuân. Sư nữ rót nước vào bộ chén Bát tràng mời khách. Nhà chùa uống nụ vối hãm gừng. Thứ nước ấy cũng gọi về một mùi hương cổ xưa khiến ông lập tức nhớ đến mẹ ông :
- Bạch sư cụ, nước vối hãm gừng thơm lắm. Vậy mùa hè nhà chùa cũng dùng thứ giải khát này ?
- Thưa chủ tịch, mùa hè chúng tôi uống chè tươi hay cánh cúc khô.
Nói đoạn, bà cụ quay sang bảo sư nữ :
- Con có thứ chè lam mềm để ăn sau bữa cơm. Sao không đem ra mời chủ tịch ?
- Bạch thầy, con xin sám hối. Con vô tình nên quên.
Sư nữ đi sang gian bên, hẳn là nơi cất thứ chè lam đãi khách. Ông im lặng nhìn theo người đàn bà trong tấm áo nâu dài, lơ mơ nghĩ :
« Tại sao cô ta không tìm một mái ấm như nhiều người đàn bà khác ? Liệu nơi này thực sự là miếu đường hay chỉ là nơi tránh nạn tạm thời hoặc là chốn ẩn náu để lãng quên một quá khứ khổ đau, chất chồng tì vết ? Một thứ quy phục số phận, giống như ta vị vua già trong oubliette đỉnh Lan Vu?»
Sư nữ quay ra cung kính đặt lên bàn một đĩa chè lam trắng xoá bột nếp áo. Thứ chè lam được thái sẵn hình quân cờ, đặc biệt mềm dành cho người cao tuổi hoặc trẻ nhỏ :
- Xin mời chủ tịch nếm thứ quà của các bần tăng.
- Xin cảm ơn nhà chùa. Vừa rồi tôi đã được nếm món chả đậu rất ngon. Chắc chè lam cũng sẽ ngon như vậy.
Ông đáp đoạn cầm miếng chè lam lên cắn. Sau đó ông chiêu một ngụm vối hãm gừng. Quả là ngon. Nhưng điều quan trọng hơn là cuộc đối ẩm này cứu ông khỏi những giây phút trầm cảm. Ông đưa mắt nhìn gian nhà gỗ cổ lỗ một lần nữa, tự hỏi vì sao cho đến tận buổi sáng này ông mới đặt chân vào đây, vượt qua mảnh sân gạch như vượt qua bức tường thành phân định giữa tồn sinh thế tục với cuộc sống của kẻ tu hành, như vượt qua cõi biên thuỳ giữa các vương quốc nếu không đối nghịch thì cũng bất khả tương thích. Ồ, tại sao?
Chủ tịch uống một ngụm lớn như để nuốt trôi những ý nghĩ nặng nề và ông trầm trồ :
- Chè lam ngon thật. Thứ quà này tương hợp một cách tuyệt vời với nước vối.
Đoạn ông cười và nói thêm :
- Tôi ở đây đã hơn một năm mà hôm nay mới dám đặt chân vào nhà chùa. Quả là thiệt thòi. Giá tôi mạo muội phá rối nhà chùa sớm hơn hẳn đã được nếm món chè lam này từ lâu.
- Thưa chủ tịch, nơi ăn chốn ở của bần tăng làm sao đủ thanh lịch để mời người. Vì thế chúng tôi chẳng dám mạo muội.
Sư cụ đáp rồi nở nụ cười. Hai hàm răng bà cụ còn nguyên vẹn, vững trãi và đen nhánh. Chủ tịch cũng cười :
- Chúng ta là láng giềng, lẽ ra phải thăm hỏi kết thân từ lâu mới phải. Lỗi chính là tôi bận quá.
Uống cạn chén nước, ông tiếp :
- Bạch sư cụ, hình như hôm trước nhà chùa làm lễ cầu siêu cho người dưới xóm Tiều Phu ?
- Thưa vâng. Chủ tịch bận trăm công ngàn việc mà vẫn quan tâm đến số phận nhỏ mọn của lê dân, vậy là tâm người lớn lắm. Tôi nghe sư nữ kể lại việc người xuống tận dưới xóm dự lễ tang.
- Bạch sư cụ, tôi chỉ rẽ vào viếng người xấu số.
- Thưa chủ tịch, thế đã là đại hồng phúc cho gia chủ.
- Bạch sư cụ, tiện thể xin người giảng cho tôi rõ thế nào là lễ cầu siêu? Phải chăng mọi người chết đều cần đến lễ cầu siêu hay chỉ riêng những kẻ có số phận oái oăm, trắc trở ?
- Thưa chủ tịch, đạo Phật không bị ràng trói bởi nghi thức. Cũng không quy định rõ người nào cần được cầu siêu và người nào không. Tất thẩy đều tuỳ thuộc sự động tâm của chúng sinh. Chỉ có động tâm chúng sinh mới khai minh, sáng trí ; khi sáng trí họ mới đủ cơ duyên để nhìn ra nghiệp quả của mình. Nhà chùa chỉ làm theo thỉnh nguyện của chúng sinh. Thế nhân thường nói: « Tâm động, quỷ thần tri ». Kẻ tu hành biết là phật tính được khơi như ngọn đèn, vừa rọi sáng cả tinh thần lẫn sinh thể chúng sinh, vừa chiếu qua bẩy vùng trời để làm nở đoá sen phước hạnh.
- Bạch sư cụ, chúng tôi là kẻ ngoại đạo, dù có cố sức cũng không thể hiểu được ngay những kinh điển trong tôn giáo của ngài, nhưng ở góc độ kẻ phàm trần, chúng tôi vô cùng quan tâm đến câu chuyện giữa cha con người tiều phu dưới xóm. Không hiểu nhà chùa cắt nghĩa việc này ra sao ?
- Thưa chủ tịch, Đức Thế Tôn chỉ ra rằng trong mọi kiếp nạn của con người, chữ Tham đặt lên trước hết. Lòng dục che mờ lương tâm như đám mây đen che khuất mặt trời, mặt trăng. Tình cha con, tình thày trò, tình huynh đệ đều bị lòng dục phỉ báng và phá huỷ. Ngay Đức Thế Tôn cũng bị sát hại bởi chính người em họ thân thiết của mình, đại đức Devadatta. Lịch sử các triều đại, từ cổ chí kim, chuyện thái tử giết vua cha đâu có thiếu. Chắc chắn ngài còn đọc nhiều hơn bần tăng.
Dứt lời, sư cụ từ tốn mỉm cười. Và ông lại nhìn thấy hai hàm răng hạt na đen nhánh :
« Ồ, rõ ra đây là một bà già Việt cổ xưa, răng đen váy lĩnh. Trước đây bẩy mươi năm hẳn là một thôn nữ tươi ròn, tràn đầy sức sống. Nhưng nàng không chấp nhận cuộc sống bình thường với những thú vui bình thường nơi thôn xóm mà dùi mài đèn sách để trở thành đệ tử của Như Lai.»
Ông thầm nghĩ, không ngăn được mối thiện cảm với người đối thoại :
- Bạch sư cụ, ngài dẫn giảng thật hay. Quả là ngài đã dày công đèn sách.
- Thưa chủ tịch, bần tăng không dám nhận lời khen. Bất cứ ai ăn mày cửa Phật, đọc kĩ lời dạy của Đức Thế Tôn đều có thể dẫn giảng hay hơn bần tăng gấp bội.
Không chờ ông lên tiếng đáp, bà cụ quay về phía sau hỏi sư nữ :
- Con không thấy là đĩa chè lam sắp hết rồi sao ? Nhà chùa thanh bần nhưng không bao giờ hẹp lòng đãi khách.
- Con xin sám hối. Con mải nghe chuyện của thầy.
Ông mỉm cười vì thấy sư cụ đầy mẫn tiệp ; lối lảng tránh những chủ đề không mong muốn của bà cụ chứng tỏ khả năng phản ứng của cụ nhanh không kém người đang độ thanh xuân. Ông ăn miếng chè lam cuối cùng còn lại trên đĩa, giống như một người hàng xóm quen thuộc đã nửa thế kỉ nay :
- Chè lam quả là ngon. Bạch sư cụ, xin cảm ơn ngài lẫn sư nữ vì sự đón tiếp thịnh tình này. Nếu ngài cho phép, chúng tôi sẽ còn được dịp quấy quả.
- Thưa chủ tịch, ngài đặt chân đến đây là vinh dự cho các bần tăng.
Ông đứng lên.
Và sư cụ cũng đứng lên, chắp tay hình búp sen đáp lễ.
Khi ông trở lại phòng, đồng hồ chỉ chín giờ hai mươi lăm phút. Vậy là cuộc trò chuyện với nhà chùa kéo dài một tiếng rưỡi. Một tiếng rưỡi, mùi nước vối hãm gừng lẫn nụ cười với hai hàm răng đen nhánh của nhà sư cứu ông thoát khỏi vực sâu tuyệt vọng. Bây giờ, ông còn lại với chính ông. Chủ tịch ngồi xuống ghế, bắt đầu sợ hãi khoảng thời gian phía trước. Nỗi cô đơn sẽ quay trở lại. Giá treo cổ sắp hiện hình. Ông biết trốn đi đâu ?
Vào rừng chăng ? Bất khả. Xuống núi chăng ? Không có lý do. Vả chăng, ông không thể tự biến mình thành con bệnh tâm thần trước mắt đám người canh giữ cái nhà ngục mỹ miều này. Lòng tự tôn không cho phép ông hành động buông thả. Đưa mắt nhìn lên giá sách, ông bắt gặp vài chục cuốn đang đọc dở, găm đầy những tấm thẻ tre đánh dấu. Rút một lần ba cuốn, ông bắt đầu lật giở từng trang. Các dòng chữ lướt đi như dãy chấm đen vô hồn, không mảy may ý nghĩa. Khi thì chúng giống như những dãy hoa văn đơn điệu và thô mộc, khi thì chúng trở nên xám xịt như nắm cát và ông không thể phân biệt nổi con chữ. Chủ tịch thở dài, gấp lại cuốn sách, đặt chiếc thẻ tre vào đúng trang cũ. Trên sân chùa, những đám mây trắng khổng lồ vẫn lũ lượt lăn qua. Và những cành mai phủ đầy hoa trắng vẫn nhè nhẹ rung bên ngoài khung cửa khiến con tim ông lại cồn cào nhớ màu tuyết trắng.
« Ta không thể tiếp tục chịu đựng những dày vò khủng khiếp này. Điều đó tồi tệ hơn cả cái chết. »
Ông lại đứng dậy, cầm chiếc áo bông , định bước ra cửa. Nhưng chiếc áo ướt lạnh buộc ông hiểu rằng ông không thể đi đâu vào lúc này. Ông không có cách nào hơn là ngồi lại giữa bốn bức tường tù ngục, đối mặt với chính pháp đình của chính ông.
Mắc lại chiếc áo lên giá treo, ông buông mình xuống ghế, đưa mắt nhìn đám mây cuồn cuộn như đống bông lăn qua sân chùa và nhớ lời sư cụ :
« Đến đức Thế Tôn cũng còn bị sát hại bởi đàn em. Đã khoác áo cà-sa, đã tu luyện đến bậc đại đức mà còn bị lòng dục xui khiến thì huống chi đám người trần tục ? Ta chẳng nên oán trách bọn đồng chí thù nghịch ấy. Kẻ đáng oán trách trước hết là ta. Chính bản thân ta. Hoặc yếu hèn hoặc ngu ngốc, hoặc cả hai. »
Lần này, ông không còn muốn tự bào chữa. Gã luật sư biện hộ cho ông chết rồi chăng ? Ý nghĩ đó lướt qua ông một cách ơ hờ trong khi ông đăm chiêu nhìn một đám mây rách nát đang kéo lê qua sân chùa mớ áo tả tơi của nó. Đột nhiên, hình ảnh ấy xui khiến ông thương cảm chính mình :
Đường đời ngoắt ngoéo quanh co, nào ai biết được nẻo nào mà dấn bước ? Ta đi tìm cho dân tộc ta một thành Paris, nhưng số phận lại dẫn ta đến Mạc-tư-khoa băng giá. Ta đi theo ngọn gió phương tây, nhưng định mệnh lại xua đuổi ta quay về bờ biển phương đông. Suốt đời ta, những ngẫu nhiên tác tạo và xô đẩy. Kiếp người phải chăng cũng chỉ là bèo dạt mây trôi ?...
Một nước Pháp của Đi-đơ-rô và Voltaire mở cánh cửa gọi ta bước vào. Một nước Pháp khác của các quan chức đội mũ cao ống, mặc áo nhấn hai hàng khuy vàng đóng sập cánh cửa đó trước mũi ta như gia nhân một lâu đài đóng sập cánh cửa trước tên hành khất. Những dân tộc nhược tiểu và nô lệ bị xua đuổi khắp các nẻo đường kiếm tìm hạnh phúc, và con dốc lát đá duy nhất mời đón những bước chân của họ lại chính là con dốc dẫn thẳng xuống địa ngục. Khi ta hiểu ra điều đó thì mọi sự đã muộn mằn.
Cái địa ngục đó giờ đây chẳng còn hồ nghi nữa. Nhưng không kẻ nào đủ lòng ăn năn và sự can đảm để mở mắt nhìn vào. Ông nhớ cảm giác choáng váng khi lần đầu thấy dân chúng xếp hàng lũ lượt như rồng rắn chờ mua thực phẩm. Xe ông gắn kính đen, không ai biết được sự hiện diện của ông. Xe lướt rất nhanh nhưng cũng đủ thời gian để ông nhìn rõ đám dân đen. Và cảnh tượng khổ não ấy đập vào cân não ông như nhát búa. Năm đó, con tim ông đang còn tưng bừng khúc hát « Tiến về thủ đô ». Hai năm chưa đủ làm phai nhạt những vàng son của vinh quang và chưa làm nguội những cơn sôi sục trong huyết mạch. Bận rộn, ông không có thời giờ vi hành. Quãng thời gian tằn tiện bòn mót được ông dành dụm cho nàng nhưng các cuộc gặp gỡ của họ bao giờ cũng vào lúc quá nửa đêm, thông thường sau mười hai rưỡi hoặc một giờ, khi xe ông lướt qua phố xá, mọi sinh hoạt của dân chúng dường như đã kết thúc. Sớm hôm đó, ông hẹn làm việc với một giáo sư lịch sử ngoại quốc. Vì đề tài liên quan đến viện bảo tàng quốc gia nên ông đề nghị điểm hẹn ở ngay nhà bảo tàng. Rồi ông yêu cầu lái xe chọn một lộ trình mới để ông có dịp nhìn phố xá. Đó chính là cơ hội đầu tiên kể từ ngày rời chiến khu về thành phố ông chứng kiến cảnh sinh hoạt của dân. Cảnh tượng không mỹ miều hay lạc quan như ông từng mường tượng. Đám đông hiện lên trước ông, bằng xương bằng thịt, chen chúc, bấn loạn, như đàn cừu trên lối dồn trở lại chuồng. Những gương mặt đập vào thị giác ông là những gương mặt võ vàng đói khát; những gương mặt lầm lụi tối tăm, những gương mặt u uất vì nhẫn nhịn, nhục nhã; những gương mặt kinh hoảng vì bị dồn ép dưới những cảm xúc của sợ hãi, chờ đợi, đau khổ, căm thù. Đấy chính là gương mặt của những kẻ đang đứng mấp mé trên ngưỡng cửa bước vào các bệnh viện thần kinh.
Cố gìm giữ cơn thảng thốt, ông lấy giọng thản nhiên hỏi lái xe :
- Gia đình chú có phải xếp hàng mua gạo như thế kia không ?
Anh ta trả lời tức thì, với nỗi hân hoan không che giấu :
- Thưa chủ tịch, rất may mắn là gia đình chúng con thuộc diện ưu tiên. Nhà nước đem gạo và thực phẩm tới tận cơ quan phục vụ.
- Những ai thuộc diện được ưu đãi như vậy ?
- Thưa chủ tịch, tất thảy những ai trực thuộc bộ máy văn phòng chính phủ hoặc ban quản trị trung ương đảng. Ngoài ra là các bộ phận đặc biệt thuộc các bộ đặc biệt như bộ nội vụ, bộ quốc phòng...và trước
hết là bộ thương mại và thực phẩm vì đó chính là đất sở tại của họ. Nhân viên thuộc các bộ ấy được coi như con vua cháu chúa thời xưa.
- Thế nào là con vua cháu chúa ?
- Thưa người, câu nói đó hàm ý là họ có quyền hưởng thụ ở mức cao nhất. Cùng một thứ sổ gạo nhưng họ được ăn gạo mùa mới, còn thơm phức mùi cám ; trong khi dân chúng phải ăn gạo mục vì nhà nước chỉ bán cho dân những thứ gạo đã qua năm sáu mùa lưu cữu trong kho. Cùng là thịt, nhưng những phần ngon họ lấy trước, còn thịt bụng, thịt mỡ, đầu lợn, họ đem bán cho dân. Nếu không thuộc diện ưu tiên có kiếm được miếng thịt cũng nhục nhã như tù khổ sai đi đập đá vậy. Anh cả của con làm việc trong thư viện quốc gia, cán bộ cấp lãnh đạo nên mỗi tháng được mua năm lạng thịt. Tháng một lần, vợ anh ấy phải dậy từ ba giờ sáng ra chợ Hôm xếp hàng mua. Nhưng lần nào cũng đến non trưa mới trở về nhà, mà lần nào cũng toàn xỏ lợn với thịt bụng vì đám mậu dich viên tuồn thịt bên trong quầy cho người nhà và các cơ quan có mặt hàng đổi chác, ví như các cửa hàng bán gạo, bán vải, đường sữa hoặc nhu yếu phẩm khác. Khi đã thoả mãn tất cả những cuộc trao đổi lợi quyền như vậy, họ mới nhìn ngó đến dân.
- Tại sao các cán bộ lãnh đạo nhà nước không hay biết chuyện này ?
- Dạ.
Người lái xe ấp úng. Anh ta đưa mắt liếc ông rất nhanh, vừa như thăm dò vừa như ngờ vực. Và ông biết rằng ông đã buông ra một câu hỏi vô cùng xuẩn ngốc.
- Có thể là các đồng chí ấy đã biết nhưng chưa đủ thời gian báo cáo lên trên.
Ông tự trả lời. Và anh chàng lái xe vội đáp theo :
- Thưa chủ tịch, đúng là như thế.
Đêm hôm đó, ông ngồi nhìn trăng. Nỗi phân vân khiến ông không ngủ được. Trước mắt ông là vành trăng lưỡi liềm điêu bạc như lá lúa. Dường như nó không toả ra một chút ánh sáng nào. Lũ đom đóm lập loè trên bãi cỏ còn rực rỡ muôn phần hơn nó. Ông nhìn vầng trăng ấy, liên tưởng đến sự suy tàn của mọi sự vật :
« Cuộc đời vốn là cuộc vận hành bất tận, từ nương dâu biến thành bãi biển, con người từ hư vô đến rồi lại quay về với hư vô. Nhưng cớ sao ta bỗng buồn thảm nhường này ? Phải chăng vành trăng chết lụi kia có liên quan ngầm ẩn nào đó với số phận của quốc gia ? Và nó chính là điềm báo triệu cho một sự sụp đổ không chóng thì chày, một kết thúc buộc phải đến ? »
Ý nghĩ đó như lưỡi dao bén của đao phủ gại trên cổ ông, kẻ sẽ bị hành quyết không chầy thì chóng. Ông bỗng thấy buốt lạnh sống lưng. Trước mắt ông lại hiện lên đám đông đói khát, nhục nhằn và bấn loạn chen chúc nhau trước quầy bán gạo. Ông nhìn thấy những cánh tay vươn lên, giằng giật huých đẩy nhau; những cặp mắt trợn ngược tròng, những cần cổ vươn dài về phía khuôn cửa chắn dóng sắt với tất thảy sự chú tâm điên cuồng của loài thú dữ lao về phía con mồi trong nỗi thúc bách của cơn đói. Chao ôi, đó là những đồng bào của ông, những công dân trong cái xã hội mà ông là người khai sinh, những con người mà vì họ ông đã nuôi giấc mộng giải phóng. Đó là ảo ảnh hay sự thật ? Phải chăng mọi cố gắng của ông chỉ là sự lầm tưởng và cái hiện thực này chính là bóng lâu đài soi trên mặt nước dòng sông ma ? Ông tự hỏi rồi không dám tự trả lời. Nỗi hãi hùng quây chụp trí não. Những gương mặt ông nhìn thấy buổi sáng chỉ còn là những tấm gương phản chiếu cuộc sống của một bầy súc vật bị ngược đãi hoặc trạng thái tinh thần của những kẻ nhiễu tâm. Nếu không là những con bệnh tâm thần ắt phải là đám cừu chen chúc bên máng cỏ. Con người bị đầy ải vì miếng ăn. Con người không còn cảm thấy nhục nhã nữa sẽ chỉ còn là con vật trong chuồng chờ đến giờ vục đầu xuống máng. Còn nếu con người biết phẫn nộ, hẳn họ sẽ nuôi lòng thù hận, chờ phút thuận tiện để cắt cổ những tên chúa ngục. Những kẻ giam cầm họ trong kiếp súc sinh.
Ôi, cái chế độ mà ông ra công gây dựng cuối cùng chỉ là một chuồng cừu vĩ đại hay sao ? Hay nó chính là một trại giam khổng lồ, nơi giam hãm con người trong những nhu cầu vật chất hạ cấp nhất, nơi thực thi một cuộc hành xác tập thể, nơi ngự trị một sự tự sỉ nhục có tính triệt để và đại chúng, nơi đào luyện ra nếu không phải những con bò cúi đầu trước bó cỏ thì sẽ là những tên trộm cướp, những kẻ bị rối loạn nhân cách hoặc nhiễu tâm ? Không có cách phân tích nào khác. Và nếu không có cách giải thích nào khác, cái xã hội hiện hành chính là sự thụt lùi bất khả hình dung so với cái xã hội đau khổ thời xưa.
Chao ơi, bao nhiêu con người đã hy sinh, bao nhiêu tài sản đã hao tán, thiêu huỷ, bao nhiêu nỗi gian truân dân tộc của ông đã phải trải nghiệm để sau cùng nó lãnh nhận một cuộc sống dã man như vậy hay sao ? Nếu vậy thì cuộc cách mạng này là cuộc phiêu lưu rủi ro nhất trong các cuộc phiêu lưu của kiếp người. Và nếu vậy, cuộc đời ông là một sự thảm bại không gì có thể so sánh.
Da ông nổi gai ốc. Những cơn buốt lạnh chạy dọc sống lưng khiến ông không kìm được tiếng kêu. Nhưng ngay lúc đó, cần vụ lẫn bác sĩ đã chạy vào. Ông buộc phải bịa ra một cơn đau thể chất để đánh lừa họ.
Vào cuộc họp của bộ chính trị ngay sau đó, ông yêu cầu lật lại chính sách kinh tế để tìm phương sách cứu vãn tình thế. Ông nhấn mạnh ý nghĩa của hai từ : Hạnh phúc. Mọi cuộc giải phóng không có ý nghĩa nếu nó không làm cho con người hạnh phúc hơn. Mọi cuộc cách mạng cũng chỉ là trò tiêu khiển rồ dại và tàn ác nếu nó không đem cho con người tự do và cuộc sống xứng đáng. Độc lập cũng thế thôi. Độc lập không có mảy may giá trị nếu những dân cư của một nước độc lập lại không thể độc lập với những nhu cầu thiết yếu nhất của sinh tồn, giống những con bò không thể độc lập với mớ cỏ.
Không ai phản đối ông.
Nhưng cũng không ai nghe ông nói cho dù họ vẫn ngồi quanh chiếc bàn đồ sộ, và với ông làm đủ con số mười ba. Ông hiểu điều đó khi nhìn những cặp mắt lơ đãng của họ, những ngón tay gẩy tàn thuốc không mệt mỏi hay xoay tròn chiếc bật lửa một cách nhẹ nhàng và kiên nhẫn. Hôm qua, họ còn là những chiến sĩ tranh đấu cho một lý tưởng. Giờ đây, họ đang ngồi tính những con tính khác. Cuộc chiến tranh hôm qua đã kết thúc. Hôm nay là lúc các tướng lãnh chia phần xôi thịt trong dinh. Hôm qua ở trên rừng tất cả đều nhận một xuất cơm và một góc suối, không có gì để so đo, chẳng có chi để tính toán. Hôm nay, sự vật xoay vần bởi nếu biệt thự của anh lớn hơn biệt thự của tôi cả ích lợi vật chất lẫn danh tiếng của tôi trước mắt tha nhân sẽ bị thuyên giảm. Ngôi thứ của mỗi kẻ ngồi đây sẽ kèm theo muôn vạn quyền lợi đo đếm được và không đo đếm được ảnh hưởng đến cả một tập đoàn những kẻ dưới trướng trong phủ và những người cùng huyết tộc. Họ không còn quan tâm đến những điều ông quan tâm vì lợi ích của cá nhân bao giờ cũng là thứ gần gũi nhất và là cám dỗ lớn nhất với con người. Những dằn vặt của ông giờ đây, với họ trở nên nhạt nhẽo hoặc bất khả tri. Cả một bộ máy phục vụ bản thân họ cũng như gia đình họ bất kể thời gian và vô giới hạn. Họ sống hoàn toàn theo nguyên tắc vàng của chủ nghĩa cộng sản. Nguyên tắc đó chỉ dành riêng cho một nhóm người và loại trừ cả một dân tộc, một dân tộc cừu bò đang chen chúc nhau chờ những bó cỏ ngoài kia.
Ông nhắc lại lần thứ hai, rồi lần thứ ba. Không ai phản đối. Không ai đáp lời. Không ai có nhu cầu tranh luận. Rồi sau đó là giờ giải lao. Sau đó một vấn đề khác được đề cập tới, thiết thực hơn, cụ thể hơn nỗi nhục nhằn đau khổ của nhân dân. Nỗi đau khổ của kẻ khác bao giờ cũng mơ hồ và khó cảm nhận. Nỗi đau khổ của nhân dân lại càng mơ hồ và khó cảm nhận hơn. Bởi nhân dân là thứ vô hình vô dạng, không có chân để chạy, không có cánh để bay, không có mỏ để hót. Độc lập không còn là một khát vọng lớn lao của một dân tộc nô lệ và đau khổ mà chỉ còn là một chiến lợi phẩm cụ thể, giống như một con lợn rừng bị hạ dưới ngọn lao của thợ săn. Chừng ấy thịt da chỉ đủ chia cho những kẻ biết cầm lao, cầm mác còn đám đông đứng ngoài hội phường săn là đám chúng sinh ăn chực chầu rìa. Ông hiểu rằng khi cần thiết, con người trở nên câm và điếc một cách dễ dàng. Cũng dễ dàng trở nên tàn nhẫn. Họ, những kẻ quây quần quanh ông, chia chác phần thịt của con lợn rừng vừa bị hạ...Họ trở thành xa lạ với ông. Ông trở thành khó hiểu với họ. Lục địa đã nứt đôi, họ đứng một bờ còn ông bờ khác. Đó là lần đầu tiên ông hiểu sự rạn vỡ của những mối quan hệ thường gọi là đồng chí hay huynh đệ. Những sợi dây gắn bó có thể dệt hàng chục năm hay lâu hơn nữa. Sự phân ly xảy ra chỉ trong khoảnh khắc, khi nhát kiếm hạ xuống. Nhát kiếm của quyền lực. Trước nó, mọi sợi dây tương thân tương ái chỉ là mớ tơ nhện mong manh.
― Lẽ ra, ta phải hiểu sự tình từ ngày ấy. Phải xoay nước cờ từ ngày ấy. Nhưng ta là kẻ chậm chân nên bị dòng lũ cuốn đi.
― Ồ, nhưng bọn họ quá đông còn ta đơn chiếc. Và thảm hại thay ta phải thuận tình theo họ bởi tin rằng sự thoả hiệp đó cứu vãn được đại sự . Rằng nếu ta vì họ mà hy sinh thì chắc chắn họ phải vì đại nghĩa mà quên đi những tham vọng riêng tư. Sự ngu xuẩn là ở đó. Nước cờ vào thế bí. Họ lợi dụng sự thoả hiệp này để nhấn ta vào hậu cung.
« Nhưng gốc rễ sự thất bại này nằm ở nơi đâu ? Sự ngu xuẩn của chính ta hay con đường ngoắt ngoéo của định mệnh ? Ta đi cùng họ trên một con tàu để rồi khi đến bờ bên kia đại dương thì một mình ta ở lại trên cô đảo ? Hoặc bản chất ta là con sói lẻ bầy nên bất cứ cuộc tụ hợp nào cũng chẳng bền lâu ?»
Phải chăng và phải chăng ....
Những câu hỏi không ngừng quần đảo ông.
Con tim già mệt mỏi của ông thổn thức.
Mây trắng vẫn trôi không ngừng trên đỉnh Lan Vu. Trôi không ngừng mùa tuyết Paris và những hồi quang của một tuổi xuân xa ngái. Óc não ông khoan xoáy bởi những nghi vấn. Rồi lát sau, con tim buồn nhớ của ông chợt quay về thành phố phương tây, nơi vĩnh định một liên kết thầm kín, nơi ghi khắc mãi mãi những khát vọng yêu đương và những cuộc tình chết yểu. Nơi tâm hồn ông ở lại như ngôi nhà côi cút trên bãi biển hoang sau những ngày hè náo nhiệt khách vãng lai. Paris ! thật lạ lùng là khi rời xa nó, ông đã ngoái nhìn lại như nhìn một quán trọ ; vậy mà giờ đây thành phố ấy hiển hiện lên trong trái tim ông như hải cảng cuối cùng mời mọc kẻ lữ hành. Ông nhớ những giảng đường, nơi ông thường đi qua với một nỗi ước ao tuyệt vọng. Ông nhớ những con chim câu dạo quanh căn gác xép nơi ông trú ngụ và tiếng gù của chúng vào lúc xuân sang. Ông nhớ một đứa con thiếu vắng bởi sau khi ông rời xa căn ngõ hẻm sát phố Saint John sáu tháng, một đứa bé đã ra đời. Một đứa con gái, được đặt một cái tên vô cùng thông dụng trên đất Pháp, Louise. Ông không ngờ rằng những đêm chăn gối với cô thợ mũ đã để lại trái cấm. Một sự sao nhãng ngu xuẩn. Phải chờ bẩy năm sau, nhờ một cuộc gặp ngẫu nhiên trên đường ông mới biết được sự thật. Ông hiểu rằng đó chỉ là trái cây không chờ đợi của những cơn điên cuồng thân xác. Nhưng dẫu sao, đứa bé ấy vẫn mang dòng máu của ông, của chính ông. Ông dùng dắng nhiều lần, định quay lại nơi ngõ cũ, tìm gặp cô thợ mũ và Louise. Nhưng trong túi ông không đủ tiền để mua cho con gái một món quà xứng đáng. Và rồi, cơn lốc phiêu dạt của cách mạng cuốn ông đi. Sau rốt, ông chưa từng mua cho con ông một chiếc váy, một đôi giầy. Ông chưa từng bồng con bé lên tay và nhìn vào đôi mắt nó.
« Giờ này nó đã trở thành một người đàn bà, chắc chắn. Hẳn nó đã có chồng con. Có bao giờ nó lục tìm hình ảnh một người cha vắng bóng? Có bao giờ nó nuôi ý định tìm về Việt nam, miền nhiệt đới xa xôi, để nhìn ngó một thứ người xa lạ nhưng ràng buộc với nó bởi sợi dây huyết mạch? Hoặc nó đã quên ta hoàn toàn trước khi biết ta, một sự quên lãng cố tình?
Ý nghĩ đó khiến ông tê tái. Ông rờ ấm trà, muốn uống một ngụm nhưng nước đã nguội. Gương mặt ông hiện lên trên mặt bàn gỗ bóng láng như gương. Ông cúi nhìn cái bóng của mình. Nhìn lặng lẽ. Một tiếng nói thầm thì cất lên trong tâm tư :
"Gã đàn ông này là kẻ làm cha tồi bại nhất trên trái đất. Rồi mai đây, ngươi sẽ phải đối mặt với những người ruột thịt trước pháp đình tối cao của con tim. Cuộc cách mạng mùa thu rồi sẽ chìm mất tăm trong dòng chảy triền miên của lịch sử như tất thảy những cuộc cách mạng khác. Giống như những trận động đất, những cơn sóng thần và những trận lôi đình khạc lửa của các hoả diệm sơn. Thời gian sẽ xoá đi mọi dấu vết. Mọi vương miện đều sẽ rách nát cùng với tháng năm. Mọi ảo tưởng về vinh quang rồi sẽ tan vỡ như vầng trăng trên dòng sông u tịch của các nhà thơ thời trung cổ. Nhưng pháp đình của con tim sẽ mãi mãi dựng lên trên cõi đất của cuộc đời thế tục và pháp đình ấy cũng sẽ mãi mãi dựng lên bên kia bờ con sông Mê, nơi linh hồn những kẻ ra đi chen chúc trên những con thuyền kết bằng tro bụi, với cặp mắt rỗng và ba đồng xu đặt trên chiếc lưỡi lặng câm."
Một tấm lưới vô hình thít chặt lấy chủ tịch khiến ông như ngạt thở.
Đầu ông buốt lạnh trong khi gan ruột bỏng rát như bị lửa rang. Ông nghĩ rằng đây là cơn đau đớn của riêng ông, một mình ông. Bởi là người duy vật, ông không tin vào chuyện thần giao cách cảm. Từ trước tới nay, ông chỉ biết một thế giới hữu hình, chỉ coi là sự thực những gì tác động vào các giác quan, cũng như số đông người.
Tuy nhiên, cơn đau đớn của chủ tịch lại chính là kết quả của sự cộng hưởng với một nỗi đau đớn khác. Bởi trên mảnh đất này còn có một kiếp đoạ đầy khác. Một kẻ vô danh. Một người mà ông không còn nhớ tên và cũng chưa bao giờ biết mặt. Một cái bóng của hư vô. Nhưng cái bóng đó vẫn luôn luôn là một sinh thể bằng xương bằng thịt. Sinh thể ấy không ngừng nghĩ về ông. Kẻ bất hạnh ấy liên kết với ông bởi một số phận oái oăm, một nỗi đau khổ trường kỳ và một cuộc săn đuổi tàn khốc. Nhưng sự đỏng đảnh của số phận lại muốn rằng tất thảy những gì xảy ra với anh ta phải nằm trong bóng tối, bên ngoài vùng hiểu biết cũng như trí tưởng tượng của ông.
 
Tiểu Thuyết " Đỉnh cao chói lọi "
Tác giả Dương Thu Hương

Chương 30: NGƯỜI ANH EM ĐỒNG HAO KHÔNG BIẾT MẶT
Theo thông báo của ban chỉ huy sư đoàn, bảy giờ tối chương trình biểu diễn mới bắt đầu. Nhưng bữa cơm chiều đã xê dịch từ bốn rưỡi lên ba giờ rưỡi, và cơm nước xong lính tráng đã kéo lên đầy trước sân khấu, nhốn nháo chuyện trò, nhốn nháo chờ đợi, với tất cả vẻ hăm hở của đám đàn ông từ lâu thiếu vắng bóng đàn bà. Mấy anh chàng háu ăn còn cầm trong tay tảng cháy to tướng vừa gặm vừa ngong ngóng nhìn lên mớ phông màn như muốn tìm sau những tấm vải màu loè loẹt ấy hình bóng « công chúa của lòng anh ». Các công chúa mộng tưởng đang còn ngủ trong hầm ban chỉ huy, phần vì mệt mỏi sau quãng đường dài, phần vì nàng nào cũng có nước da xanh rờn và làn môi trắng nhợt vì sốt rét nên chẳng ai muốn lộ diện trước khi son phấn. Các nàng đang còn nằm cuộn lấy nhau như đám sâu tằm trên ván, cố chợp mắt thêm một vài giờ trước khi lên sân khấu. Ban chỉ huy sư đoàn hẹn sẽ đánh thức các cô lúc năm rưỡi. Nhưng chưa đến năm giờ, lính tráng đã hò hét ầm ầm bên ngoài :
- Các nàng tiên ơi, ngủ làm gì nhiều thế ? Mấy năm trời mới được gặp mặt nhau ai mà nỡ quay mặt vào tường ngủ hoài như vậy ?
- Các cô em ơi, dậy đi thôi. Mong mãi mới tới ngày hôm nay.
- Các nàng công chúa đâu rồi ?Cho chúng tôi được chiêm ngưỡng dung nhan một chút ?
Những tiếng gọi, tiếng kêu, tiếng cười đùa mỗi lúc mỗi ầm ĩ vọng xuống hầm khiến các cô không thể nằm lì, đành ngồi dậy. Cô nào cô nấy ngáp lên ngáp xuống đến sái quai hàm. Trợ lý của sư đoàn trưởng hắng giọng một hồi rồi chui vào hầm, nghiêng đầu ngoẹo cổ nói :
- Xin chị em thông cảm, lính tráng lâu ngày quá không nhìn thấy bóng phụ nữ. Đã hơn ba năm trời trên không cử các đoàn văn công tới đây.
Cô đoàn phó đáp :
- Chúng em đi đến đâu cũng vậy, anh không cần băn khoăn. Chiến trường quá rộng, các đoàn không đủ để phục vụ.
- Cảm ơn, được chị em thể tất là đại may mắn cho sư đoàn. Giờ, tổ anh nuôi mang cơm đến cho chị em dùng bữa rồi hoá trang kẻo muộn.
- Trưởng đoàn đâu rồi ?
- Trưởng đoàn đã dùng bữa với ban chỉ huy ngoài kia. Các nam diễn viên cũng vậy.
Đoàn phó quay lại hét quân :
- Đã thấy chưa ? Riêng chúng ta được ưu tiên ngủ nướng. Mọi người đã cơm nước xong đang lo bố trí phông màn. Còn ai muốn ngáp thì ngáp cho đã thèm rồi chuẩn bị ăn cơm.
Các cô chưa kịp đáp lời tổ anh nuôi đã lóp ngóp chui vào, lục cục xoong nồi với các loại ga-men quân dụng. Anh nào anh nấy hí hửng như bắt được vàng. Họ được ưu tiên gặp các cô trước tiên, mà lại gặp khi chưa son phấn, không nói cũng biết được sự thân tình, giống như khách lạ thì được tiếp ở sa-lông, còn khách thân quen hay họ hàng thì được quyền chui vào bếp :
- Hôm nay chúng tôi đặc biệt làm món nộm rau chuối thịt gà và nấu chè đỗ xanh đãi các cô nương. Sư đoàn phải cử người vào bản Vân-kiều từ tuần trước mua gà, mua đỗ. Chúc các nàng tiên ăn ngon miệng.
- Cảm ơn các anh. Ăn chè này đêm nay múa chắc dẻo tay hơn.
Các cô xúm lại ăn cơm trong khi ba chàng cấp dưỡng ngồi chầu xung quanh, anh xới cơm, anh đơm chè, anh thứ ba hấp háy mắt và ngoác mồm ra cười một nụ cười vô duyên cớ. Trợ lý sư đoàn đứng trong góc hầm, chẳng có việc gì làm nhưng cũng không muốn đi ra sớm hơn ba gã lính nuôi quân, nên vờ rút trong túi ra cuốn sổ tay, xem đi xem lại. Cơm nước xong, ba chàng nuôi quân lễ mễ thu dọn bát đĩa đem đi. Trước khi quay ra còn hẹn là đêm nay, sau khi biểu diễn sẽ có cháo gà đãi khách quý. Hẳn là những con gà này đã được đổi bằng lương khô hay gạo cho dân bản Vân-kiều. Trợ lý sư đoàn liếc đồng hồ rồi hỏi :
- Lúc này đã năm giờ hai mươi phút. Liệu chị em cần bao lâu để hoá trang và thay áo quần ?
- Hai mươi lăm phút, không hơn.
- Hoan hô. Tôi sẽ thông báo cho anh em biết.
Anh ta chui khỏi hầm. Chưa đầy chớp mắt đã nghe tiếng vỗ tay, tiếng hét ầm ĩ của lính bên trên.
Đoàn phó tủm tỉm cười :
- Lính sư này ngầu thật.
Một cô đáp :
- Toàn dân Bắc mà lại.
- Đúng rồi.
Cô thứ hai tiếp lời :
- Họ chờ đợi chúng ta vì vừa muốn xem biểu diễn vừa muốn gặp đồng hương. Nghe nói đoàn văn công tới đây phục vụ mấy năm trước là đoàn Dân ca liên khu năm.
- Liên khu năm ở đâu nhỉ ?
- Rõ là dốt, phục vụ quân đội năm sáu năm mà không phân biệt được các quân khu.
- Ai hơi đâu mà biết. Trên bảo đâu thì đi đấy. Lối nào cũng chỉ thấy suối với rừng...Hết rừng đến suối, hết suối lại rừng, hết bản Vân kiều lại đến bản Lào nưng, Lào thọng. Nơi nào cũng chỉ nhăm nhăm trông vào cái gậy của giao liên mà bước.
- Ờ, tao cũng thế, chẳng biết liên khu là cái gì. Đi đâu cũng chỉ nhìn vào lưng hay vào mông của người đi trước.
- Mông còn là may. Chúng mày không nhớ hồi leo núi Khỉ đái hay sao ? Dốc dựng như tai mèo, gót chân thằng đi trước chạm vào đỉnh đầu thằng đi sau, lấy đâu mà nhìn mông với đít ?
- Ờ, trận ấy khiếp thật. Mây quấn lấy mắt, leo núi mà rờ rẫm như thằng mù. Phúc đức tổ tiên nên không đứa nào rơi xuống vực.
Các cô chưa kịp thay quần áo xong đã nghe trợ lý sư đoàn hắng giọng bên ngoài. Đoàn phó nói với lên :
- Đúng bẩy phút nữa.
Đoạn quay lại bảo chị em :
- Nhanh tay lên. Lính nhảy cỡn lên trên kia rồi. Chắc sư đoàn này bị tù lâu quá trong rừng sâu, không thoáng khí như sư đoàn trước.
- Đúng đấy. Lần trước lính tráng không hò hét loạn xị như hôm nay.
- Thì đã bảo là họ bị nhốt trong sâu lâu quá.
- Đây là đâu vậy ?
- Biết được. Nhưng nghe đoàn trưởng nói mình đang ở trên đất Lào. Mà là vùng xa vùng sâu trên đất Lào.
- Thế hả ? Bốn bề mịt mù những rừng với núi. Bọn mình mà bị lạc chắc chết rũ xương ở đây, chẳng thể tìm được lối quay về.
- Chắc chắn là vậy. Nhưng sống chết có số, lo gì. Bao giờ lính chết hết bọn mình mới phải chịu số phận hẩm hiu như thế. Văn công là mì chính cánh, là vàng ròng của chiến tranh. Không ai để cho chúng ta thất lạc.
Các nàng trang điểm và diện đồ biểu diễn xong nối đuôi nhau chui khỏi hầm. Lính tráng đứng chen chúc hai bên từ cửa hầm cho đến tận sân khấu vỗ tay ran ran, hò hét loạn xạ :
- Các nàng tiên xinh đẹp, nói lên vài câu cho anh em nghe giọng Bắc.
Phó đoàn lúng liếng cười và hỏi :
- Biết nói gì bây giờ nhỉ ?
Thế là đám lính nhao nhao, tranh cướp nhau trả lời :
- Nói bất cứ câu nào...Hoặc kêu to lên cũng được.
- Em ơi, chúng tôi là dân Hải Hưng. Em chỉ cần kêu to lên hai tiếng : Hải Hưng ơi !...Thế là đủ mát dạ lính tráng.
- Gọi riêng Hải Hưng nhà chúng mày, thế còn Hà nội, Hà Tây, Hà bắc, Vĩnh phú nhà chúng tao thì vứt cho chó nhá à ?Thằng này đúng là quân ích kỉ.
- Hải phòng nữa chứ ? Thành phố hoa phượng đỏ mà bị bỏ quên thì bom Mỹ sẽ giáng xuống đầu cả bọn.
- Thôi, không phải cãi nhau nữa. Chị em ơi, cứ chửi cha chúng nó lên một câu cũng được.
Rồi các cánh tay vươn ra sờ vào vai vào áo, ve vuốt đuôi tóc của các nàng. Họ đi đến đâu, lính tráng cuốn theo đến đấy. Ban chỉ huy sư đoàn đứng phía xa, tủm tỉm cười, quan sát cảnh tượng với con mắt thèm thuồng không che giấu. Tuy nhiên, là lãnh đạo, họ phải biết dằn lòng, dù muốn hay không. Theo thông lệ, các cô chia thành từng tốp nhỏ, mỗi tốp hai ba cô để hàn huyên với lính, trước khi biểu diễn. Lần này cách thức đó xem ra bất ổn vì sư đoàn vừa được bổ sung quân nên vượt số khung. Cả một ngàn lính đứng chen nhau tầng tầng lớp lớp. Đoàn phó ra lệnh :
- Đông thế này không thể nào tâm tình cho xuể. Tôi đề nghị chị em chia theo địa phương, hát phục vụ binh lính ngoài chương trình chính thức. Tổ nhạc công cũng sẽ chia theo.
Được lời, các vị lãnh đạo ban đồng hương hò hét loạn xị :
- Hải Hưng đâu ? Đi theo tôi về phía trái sân khấu, ngay sát chân cột loa phóng thanh.
- Hà nội đâu ? Lính thủ đô rút về phía sau sân khấu, xếp hàng lối cho có trật tự.
- Hà Tây quê lụa đâu, tập trung sát cánh quân Hà nội, phía bên phải hậu trường.
Đám lính tập hợp theo địa phương, anh nọ gọi anh kia, ồn ào hơn chợ vỡ. Đội phó đoàn văn công khoa chân múa tay với tốp nhạc công, chắc hẳn để thương lượng trước một cuộc lao động căng thẳng. Rồi sau đó, người ta thấy kẻ ôm đàn phong cầm, người cầm ghi-ta hay măng-đô-lin, người mang sáo mang tiêu lần lượt tản vào các nhóm lẻ. Cảnh tượng đó đem lại một sắc thái tưng bừng kì lạ cho khu rừng, vốn bình thường chỉ có tiếng gió rung cây, tiếng mưa bẻ lá, tiếng lính trò chuyện hay cãi lộn, hoặc tiếng bom dội.
*
Đại đội trưởng An đứng bần thần nhìn đám đông vui vẻ ấy, chợt ai đó vỗ vai anh :
- Cậu không tìm được đồng hương Lạng sơn ở đây sao ?
Tiểu đoàn trưởng đã đứng sát lưng An, tủm tỉm cười sau cặp kính cận dày như trôn chén.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, ở đây tôi đơn thương độc mã .
- Bên tiểu đoàn hai cũng có mấy anh Tày mà ?
- Báo cáo, họ là dân Tày Cao- Bằng, sát biên giới. Tôi chưa bao giờ đặt chân lên đất họ mà họ cũng chưa bao giờ xuống Lạng sơn, để thăm vùng Đồng Mỏ quê tôi.
- Ra thế. Cùng là dân Tày cả mà thông thổ khác nhau, tập tục cũng khác nhau. Nhưng tôi là dân Kinh, tôi không thể phân biệt được ai là Tày Lạng sơn, ai là Tày Cao bằng. Tôi thấy các đồng chí đều có những nét tương tự.
- Báo cáo tiểu đoàn trưởng, sự khác biệt không nhiều. Nhưng vì các hội đồng hương được chỉ đạo theo đơn vị tỉnh nên chúng tôi không có lý do thành lập hội người Tày trong đơn vị.
- Nguyên tắc ấy là chính xác. Bởi chúng ta không thể cho phép sự phân biệt tồn tại giữa các dân tộc trong lòng một đất nước, giữa những con người cùng mang chung một quốc tịch Việt nam.
- Vâng. Tôi hiểu.
Tiểu đoàn trưởng Nhã rút thuốc lá mời anh, và họ cùng phì phèo nhả khói. Phía sân khấu, trợ lý sư đoàn trưởng đang đứng ngó nghiếng bốn phía, tay cầm loa phóng tay, tay cầm sổ. Đúng khoảnh khắc thuận tiện, khi các bài hát tạm ngừng, anh ta giương loa lên gào :
- Alô, alô....Xin các đồng chí chú ý. Chương trình biểu diễn sẽ lui lại một giờ rưỡi, có nghĩa là sân khấu sẽ mở màn vào lúc tám giờ rưỡi vì lý do đột xuất : Chúng ta phải chờ tiểu đoàn 209 vừa được bổ sung từ miền Bắc vào, đang đóng quân bên kia núi Gấu trúc. Họ không trực thuộc sư đoàn chúng ta mà tác chiến độc lập. Tuy nhiên, vì cùng một chiến trường chúng ta có nghĩa vụ chờ đợi anh em để thưởng thức chương trình văn nghệ đêm nay. Trong lúc chờ đợi, đoàn văn công sẽ tiếp tục biểu diễn lẻ theo yêu cầu của các hội đồng hương kết hợp với sự tham gia của các cây văn nghệ trong đơn vị.
Nghe tới đó, lính tráng nhảy cỡn lên, hò hét vang rừng núi :
- Hoan hô....Hoan hô....
- Ban chỉ huy sư đoàn cứ cho hoãn đến nửa đêm cũng được. Hoãn càng lâu càng tốt.
- Đêm nay sẽ là đêm tuyệt vời nhất từ ba năm nay. Ai có bài tủ thì dọn giọng sẵn đi. Chúng ta sẽ có đàn đệm và cây nhà lá vườn sẽ được dịp trổ tài.
Tiểu đoàn trưởng Nhã hỏi An :
- Đồng chí có biết hát không ?
- Dạ, tôi hoàn toàn ngu dốt trong lĩnh vực này.
- Tôi cũng thế. Chúng ta có thể tranh thủ ngả lưng cho đến lúc sân khấu mở màn. Ít nhất cũng còn hai tiếng rưỡi.
Chính lúc đó, sư đoàn trưởng tiến về phía họ, oang oang cảnh báo :
- Trông điệu bộ các cậu, tôi ngờ rằng các cậu sắp chuồn khỏi đây. Mấy khi được dịp vui mà bỏ phí hoài ?
- Báo cáo sư trưởng, tôi vốn không biết hát, mà tuổi cũng đã ngót nghét ngũ tuần, xương sống hơi bị yếu.
- Vậy tôi trẻ hơn đồng chí hay sao ?
Sư trưởng vặn lại . Quả tình, sư trưởng hơn tiểu đoàn trưởng Nhã dăm tuổi nhưng vốn gốc gác dân chài, năng lượng trong ông còn rất dồi dào. Dẫu chiến tranh và năm tháng tàn phá, ông vẫn giữ được những bắp thịt săn chắc. Vai ông ngang và rộng nhưng vì thiếu chiều cao, thân hình ông gần như một khối vuông. Khi ông đi cạnh tiểu đoàn trưởng, đám lính có chữ thường ví ông với anh hầu Sân-xô trong khi vai Đon-ky-sốt được dành cho người hạ cấp. Sư trưởng không lấy thế làm mếch lòng, thường giả miếng rằng :
―Người ta bảo nhất là sắc tướng, nhị là khí tướng, tam là thanh tướng, tứ mới tới hình tướng. Cậu hơn tớ ở cấp độ thứ bốn nhưng tớ lại hơn cậu ở cấp độ thứ ba. Thế nên tớ mới cầm đầu sư còn cậu thì cầm thằng tiểu.‖
Về mặt thanh tướng, rõ là chẳng ai dám vượt mặt ông. Không chỉ trong sư đoàn mà khắp chiến trường nơi bốn sư đoàn đang quần thảo, giọng nói của ông không ai lẫn được. Giá là danh ca ắt ông phải rung vỡ vô số tấm kính nhà hát. Giọng ông vang như lệnh, thứ giọng đào luyện nhiều đời của những kẻ quen hét thi với sóng. Chỉ cần nghe ông cất tiếng, người ta hiểu ông đang còn là bậc "Chân cứng đá mềm". Vì thế, tiểu đoàn trưởng không ngần ngại đáp lời :
- Ồ, đồng chí già dẻo già dai, không phải loại cua ọp như tôi.
Sư trưởng đành chịu thua:
- Thôi tôi giơ tay hàng các cậu.
Tiểu đoàn trưởng tiếp tục trêu cợt :
- Đồng chí hùng mạnh nên chịu khó ở lại hát thi với đám lính trẻ. Tha cho bọn xương dòn thịt nhão là chúng tôi đây.
Nói rồi ông kéo An đi. Nhưng trong khi ông trở về hầm kiếm giấc ngủ, anh lẳng lặng ra suối tắm. Con suối mênh mông này đẹp hơn cả dòng suối quê anh. Gọi là suối nhưng nó rộng dài đâu kém một dòng sông, và chính nó cũng đổ vào con sông lớn nhất trong vùng. Nước suối trong như thuỷ tinh, không có màu rêu hay màu rỉ đồng như các con suối độc. Các tảng đá sạch bóng, tha hồ ngả lưng nằm hoặc phơi quần áo vào những trưa khô ráo dòn dã mặt trời. Hai bờ suối thoai thoải rải đầy cuội trắng. Đi ngược lên non trăm thước là thác Voi gầm, nước xả từ độ cao hơn chục mét khiến quãng suối bên dưới sôi sùng sục và tất thảy những vật bị cuốn theo dòng nước đều trở thành vũ khí có thể làm thương tổn những kẻ ngu ngốc hoặc vô tình mon men đến tắm dưới chân thác. Nhiều lần, đám lính trẻ tinh nghịch bẻ cành khô ném xuống. Những cành củi này lập tức bị dòng nước lôi vun vút, biến thành một thứ mũi tên có thể đâm chết bất cứ con dê dại dột nào dám liều mạng lội qua. Mỗi lần tới đây, lòng hồi nhớ quê hương lại thiêu đốt trái tim An. Anh trút bỏ quần áo, định lội xuống tắm. Nhưng khi làn nước trong suốt, lăn tăn bọt dâng lên trên gối, anh đột nhiên rùng mình quay lên bờ, mặc lại áo quần. Sự ngăn cản của một bóng ma khiến anh làm những cử chỉ kì quặc như vậy ? Sự khôn ngoan của linh giác đưa đường ? Anh không biết? Người ta không thể hiểu hết mọi hành vi của mình trong suốt cuộc đời. Nhưng lần này, anh biết chắc chắn một sức mạnh vô hình đã xui khiến anh hành động.
« Là em, chính là em ? Hay là cô Nhỏ ? Đích thị một trong hai nàng đã giơ tay ngăn cản bước chân tôi. »
Anh cất tiếng thầm hỏi.
Nhưng chỉ có tiếng lá rì rào trong gió, và tiếng hát từ phía sau bờ cây vẳng đến. Thứ âm nhạc vi vút đó phả vào lưng anh một hơi lạnh mơ hồ.
An khoanh tay lên gối, lắng nghe tiếng thác gầm réo phía thượng nguồn. Như mọi ngày, tiếng thác réo gọi về tiếng đổ của một con thác khác. Một con thác nhỏ bé hơn, dịu dàng hơn, với bề cao không quá ba thước, không đe doạ ai, không hứa hẹn làm thương tổn hay chết chóc một ai, chỉ đơn thuần đem lại vẻ đẹp cho rừng núi. Con thác đó có tên là Sơn Ca ; bởi sơn ca làm tổ trong các khu rừng hai bên và tiếng hót của chúng như khúc nhạc bất tận vang trong không gian tĩnh lặng của núi non. Từ thác Sơn ca vượt qua một cánh rừng thưa và một thung lũng là bản Xíu, nơi chôn rau cắt rốn của anh. Nơi trái tim anh ở lại trong khi đôi chân anh càng ngày càng rời xa, không biết đến bao giờ mới tới ngày quay gót.
« Nhưng quay lại để gặp ai bây giờ nếu còn có ngày ấy ? Hai người thân nhất với ta đã nằm dưới đất đen. Chú thím ta lúc này chắc cũng đã qua đời, em Mai lấy chồng nơi tỉnh khác. Chỉ còn lại một người già. Nhưng rồi ông ấy cũng sẽ phải ra đi theo tiên tổ ! »
Ngày anh lên đường, ông bố vợ sáu mươi chín tuổi. Mười hai năm đã qua. Giờ nếu còn sống, không chắc ông vác nổi bó củi từ dưới gầm sàn lên bếp.
« Ta có còn ai ở nơi ấy nữa, khi ông cụ qua đời ? »
Nhiều lần, anh thầm nhủ. Nhưng quê hương vẫn là quê hương, một dư âm bất tận theo đuổi suốt cuộc đời. Tưởng chừng đã quên, hoặc cố tình quên nhưng bất thần nó quay lại lúc nào ta không biết. Một cành cây gẫy trước mặt, một hòn đá lở ven bờ suối, tiếng hót trong lèn đá của lũ sơn ca...Mọi duyên cớ cỏn con đều khiến nó bị triệu hồi và khiến tim ta nức nở. Đôi khi bừng mắt dậy, trong căn hầm tối đen, An lại nhìn thấy sườn núi rực nắng chiều, nơi bóng áo chàm của nàng xuất hiện. Nàng bước về phía anh, bởi hai nhà cách nhau một sườn núi, đứng bên này có thể nhìn thấy bên kia. Khi nàng đi một mình, khi nàng dắt theo cô Nhỏ, đứa em kém nàng chín tuổi. Tuy là hai chị em nhưng họ gần giống như hai mẹ con vì nàng phải nuôi em từ lúc nó mới lọt lòng. Ngày đứa em gái ra đời cũng là ngày mẹ nàng rời cõi thế. Hai chị em, một người sinh vào mùa đông nên được đặt tên là nàng Đông, một người ra đời vào mùa xuân nên mang tên nàng Xuân. Trong trí nhớ của An, họ luôn luôn xuất hiện trong ánh nắng vàng rực của sườn non, luôn luôn tiến lại phía anh trong vẻ đẹp lộng lẫy mà họ thừa kế của người mẹ đã khuất. An nhìn thấy những hàng mi đen nháy của họ khép lại khi cười, ánh sáng trong vắt rọi lên từ những cặp mắt bồ câu. Anh nhìn thấy khoé môi đỏ thắm màu hoa chuối rừng. Những chiếc vòng bạc xô lanh canh trên cổ tay trắng nõn của họ. Trong cái bản nhỏ xíu mang tên Xíu, trời đã ban tặng cho hai người con gái ấy thứ nhan sắc phi phàm để rối số phận đổi lại bằng những nỗi bất hạnh cũng phi phàm như nhan sắc của họ.
« Các em có làm gì xấu xa đâu ?
Các em không làm hại một con chim huống chi nói đến con người !
Cớ sao trời nỡ bắt các em chịu tai ương như vậy ? »
Tâm hồn anh không ngừng gào thét. Đại đội trưởng An không tin có trời. Anh cất tiếng gọi trời như thói quen, như tất thảy mọi người thường cất tiếng kêu trong cơn tai hoạ nhưng óc não anh ghi khắc đinh ninh gương mặt những kẻ sát nhân bằng xương bằng thịt.
« Có thể chúng quá mạnh mà ta thân côi thế cút nên kiếp này ta sẽ phải nuốt hận bước xuống mồ. Nếu vậy ta sẽ tiếp tục cuộc truy đuổi vào kiếp sau. Nếu kiếp sau chưa đủ, ta sẽ xin trời cho ta thêm một kiếp nữa. Ta sẽ đi đến tận cùng địa ngục để tìm những kẻ đã giết nàng và cô Nhỏ của chúng ta.»
Phía sau bờ cây, ồn ào tiếng các đoàn quân đổ tới. Cửa rừng hẹp nên khi các đơn vị chen lấn một cách vội vã, mọi thứ tiếng động đều dội đi bốn phía và các hồi âm cũng ném trả từ bốn phía vách núi lẫn rừng cây. An biết rằng tiểu đoàn 209 từ bên kia núi Gấu trúc đã sang và giờ biểu diễn sắp tới. Anh đứng dậy, quay lại trảng. Nắng đã tắt từ lâu. Rừng đen thẫm vây bốn bề khiến trảng cỏ trở nên lung linh dưới ánh đèn như nơi chốn nào đó trong thần thoại. Dưới những tấm bạt khổng lồ can nối lại thành một mái nhà mênh mông để bảo đảm an toàn cho cuộc biểu diễn, những ngọn đèn lớn sáng rực. Chiếc máy nổ hai mươi nhăm ngựa của sư đoàn đặt không đủ xa sân khấu khiến tiếng nổ của nó vọng lại, chen lẫn tiếng đàn sáo và tiếng hát. Đám lính mới tới đã tập hợp ở một góc, chờ lệnh, anh nào anh nấy mặt nhễ nhại mồ hôi và hớn hở như trẻ được quà. Các tốp văn công thu quân, tập trung về phía sau cánh gà. Lính tráng rời các hội đồng hương lại tập hợp theo phiên chế. Tiếng còi, tiếng gọi nhau í ới vang khắp nơi.
Tiểu đoàn trưởng Nhã có vẻ tươi tỉnh hơn sau giấc ngủ dặm đã quay lại điều hành lính tráng. An nhìn cảnh tượng một cách ngỡ ngàng. Anh còn đang bị dằng kéo bởi những kỉ niệm. Anh cảm thấy mình đang còn đứng ngoài cuộc vui. Tựa lưng vào một gốc cây, anh đưa mắt nhìn về phía sân khấu, trong khi những tốp lính của đơn vị 209 vẫn tiếp tục từ phía sau vượt lên để chiếm lĩnh khoảnh đất dành cho họ.
- Chí văn Thành ! Chí văn Thành !
Một tiếng gọi đột ngột vang lên bên tai khiến An giật nảy người. Anh quay đầu lại một cách vô thức và khi chợt hiểu điều đó là sai lầm thì một gã trai đã tiến đến sát mặt anh :
- Anh Chí văn Thành !
- !...
- Thành ! Anh không nhận ra em sao ?
Một gương mặt nhoẻn cười trong bóng tối. An tì lưng vào thân cây, toàn thân run như bị điện giật :
- Đồng chí nhầm. Tôi là Hoàng An.
- Anh Chí văn Thành. Mã Lỳ đây. Em là Mã Lỳ.Anh quên em rồi sao ?
- Tôi là Hoàng An.
- Ồ...
Người mới tới quay ngược cây đèn pin để rọi sáng vào chính mặt anh ta.
Gương mặt nhễ nhại mồ hôi bầu bầu theo kiểu mặt đàn bà. Đôi mày vừa ngắn vừa xếch và cặp mắt lá dăm nhỏ nhưng rất sâu nheo lại trong nụ cười. Một chiếc mũi ngắn, lộ thiên. Hai hàm răng nhỏ như răng con nít, có chiếc răng nanh bên trái bịt bạc. An rùng mình. Không còn từ chối được nữa. Đó chính là người đồng đội cũ, Mã Lỳ, dân Mèo, tiểu đội phó tiểu đội một trong trung đội năm xưa anh từng là trung đội trưởng. Chính anh đã đề bạt cậu ta vào chức vụ này. An nắm chặt cánh tay Mã Lỳ, kéo lại gần :
-Giờ tôi đã đổi tên thành Hoàng An. Tôi cấm cậu gọi tôi bằng tên cũ.
Anh buông từng lời, gần như thì thầm.
- A !... Em hiểu. Em hiểu.
Gã trai gật đầu lia lịa.
An nói tiếp :
- Cậu vào xem đi. Lát nữa chúng ta sẽ hàn huyên.
Mã Lỳ dặn :
- Nhớ đấy. Lâu quá chúng ta chẳng gặp nhau.
An gật đầu :
- Các cậu ở đây bao lâu ?
Anh chàng Mèo lắc đầu oai oái :
- Chỉ có trời mới biết. Nhưng tiểu đoàn trưởng báo rằng có thể bọn em còn găm quân ở đây khá lâu để tập luyện trong khi chờ sát nhập vào một sư đoàn thiếu ở chiến trường miền tây. Chưa biết chừng là dăm bảy tháng.
- Vậy còn có nhiều dịp gặp mặt. Bọn tôi vẫn thường qua núi bên ấy.
- Tốt. Thế nào anh em mình cũng phải gặp nhau. Em đi đây.
Cậu ta chạy theo đồng đội. Tích tắc sau, tất cả chỉ còn là một đám đông chuyển động nhập nhoạng hoà với cây rừng, một khối đen bất khả phân biệt. An sực nhớ ra điều gì đó, tức khắc vùng chạy theo Mã Lỳ :
- Mã Lỳ, Mã Lỳ !
- Đợi tôi với, Mã Lỳ !
Anh xô đám lính 209 sang hai bên bờ cây, đuổi theo người đồng đội cũ.
- Mã Lỳ !
- Em đây.
Anh nghe tiếng đáp trả vọng từ đám đông phía trước. Mã Lỳ dừng lại, tách khỏi hàng quân đứng sang mép lối đi để chờ anh. Chẳng bao lâu, họ tìm thấy nhau. Cùng là dân miền núi, rừng cây làm thành một phần đời của họ. Đuổi bắt nhau trong cảnh tối tăm này chẳng phải là điều quá khó đối với An. Khi chợt đến, An thấy Mã Lỳ đang đứng với một người khác nên anh nép mình sau một gốc cây, chờ. Trong bóng đêm, nghe anh chàng Mèo nói :
- Bọn tôi là đồng đội cũ...cậu cứ đi trước rồi lát nữa tôi tìm. Chúng ta sẽ tập hợp theo đơn vị sau giờ biểu diễn.
- Nhất trí.
- Đưa cây đèn pin của cậu cho tôi mượn ; đèn tôi sắp hết pin.
- Dè sẻn thôi đấy. Đường còn dài.
- Được rồi.
Gã trai kia chạy vụt đi. An còn dừng lại vài giây trong bóng tối rồi mới đi tới trước mặt Mã Lỳ :
- Chúng ta cùng nhau xem. Tôi có nhiều điều muốn hỏi cậu.
- Đồng ý.
Họ cùng nhau nhập vào cánh quân 209 để tiến đến sân khấu. Vì là khách, lính 209 được chia nửa phần đất bên trái khiến quân nhà xôn xao ghen tị. Quả là đứng bên trái nhìn lên sân khấu rõ hơn, và tiếng máy nổ nghe nhỏ hơn. An cùng Mã Lỳ ngồi xuống, anh liếc đồng hồ, nói :
- Tôi chỉ được xem đến chín giờ mười lăm. Sau đó phải đổi gác.
- Chính anh phải đảm nhiệm sao ?
- Đại đội tôi đảm nhiệm. Là đại đội trưởng tôi không có quyền ngồi xem khi bọn lính trẻ hơn phải bỏ sân khấu đi tuần.
- Anh luôn luôn là cán bộ gương mẫu. Em chưa quên điều ấy. Kể từ ..ngày chúng ta mới làm quen.
- Chẳng cứ tôi, ở sư đoàn này cán bộ nào cũng xử như vậy.
Gã trai Mèo im lặng một lát rồi hỏi :
- Ở đây đất dữ lắm a ? Em nghe phổ biến đây đã là vùng sâu của quân ta, tựa hồ như an toàn khu thuở trước ?
An cười :
- Đây đúng là vùng sâu của chiến trường. Nhưng không thiếu thám báo địch. Bởi thế ba năm chờ đợi mới có một buổi liên hoan mà lính vẫn phải cắt nhau đi tuần.
- Bọn nó dám luồn vào tận đây sao ?
- Cậu đùa ? Đây không phải thao trường Hà Tây mười hai năm trước. Bây giờ đang là chiến tranh. Cậu tưởng bọn chúng toàn là đồ bị thịt hay búp-bê gỗ chắc ?
Mã Lỳ lặng thinh một lát rồi hỏi :
- Ngần ấy năm anh mới lên đại đội ?
- Cậu quên là tôi bị rượt đuổi phải thay họ đổi tên hay sao ? Còn cậu ?
- Em bây giờ cũng đại đội trưởng rồi. Cấp trên nói nếu tình hình tiến triển tốt, quý sau em sẽ được thăng vượt cấp. Người Mèo đặc biệt trung thành với cách mạng và dũng cảm trong chiến đấu.
- Chúc mừng cậu...
- Ồ....Ồ....Gái đã ra kìa...
Mã Lỳ cất tiếng, chỉ lên sân khấu.
*
Quả nhiên hai cánh màn lụa đỏ đã mở ra, cô gái giới thiệu chương trình tiến đến trước micro cúi chào yểu điệu. Áo dài tứ thân xanh đổi vai hồng vai tím, váy lụa mỡ gà, một vẻ đẹp bị lãng quên, một mẩu đời bình yên bị ngăn cách chợt hiển hiện khiến lính vỗ tay như rồ như dại. Rồi tiếng nhạc cất lên, vang lừng, nao nức. Cả sư đoàn đã chờ đợi bao lâu giờ phút hạnh phúc này ! Nhưng đại đội trưởng An không còn nghe thấy gì, không còn nhìn thấy gì ngoài gương mặt bóng nhẫy mồ hôi của người đồng đội cũ. Mã Lỳ hoàn toàn chú tâm vào cô gái dẫn chương trình, đôi mắt nhỏ của cậu ta như mờ đi, môi dưới trễ xuống khiến cái miệng há hốc ra một cách vô tình và bất khả kiểm soát :
« Cậu ta sẽ hành động ra sao ? Cậu ta sẽ lặng im vì tình bạn, vì chính ta là người đầu tiên giúp cậu ta hiểu những điều sơ đẳng nhất trong cuộc sống miền xuôi, cũng là người đề bạt cậu ta và giúp cậu ta tiền về quê làm ma cho ông bố. Hoặc cậu ta sẽ tố cáo ta để bày tỏ lòng trung thành với thượng cấp và được cất nhắc một cách đặc biệt hơn ? Nào ai biết được đường đi ngoắt ngoéo của con người ?»
Mười hai năm đã qua nhưng gã trai này dường như không thay đổi. Cậu ta không già đi bao nhiêu vì nước da trơn nhẵn. Nhưng cặp mắt nhỏ và sâu kia thì khôn dò nổi. Hoàng An im lặng theo rõi Mã Lỳ. Gã trai Mèo chắc đang khốn khổ vì thèm đàn bà. Hai mắt gã ướt rượt. Gã thở hổn hển và thè lưỡi liếm môi liên tục. Những người dâm đãng, đàn ông cũng như đàn bà không thể cưỡng chế cử chỉ này. Đó là một trong những dấu hiệu khiến người ta nhận ra họ một cách mau lẹ. An nhớ hồi ở đơn vị cũ, Mã Lỳ đã khổ sở ra sao khi kiếm đàn bà. Và mặc dù là dân Mèo thuần tuý, chân ướt chân ráo xuống miền xuôi, gã cũng đủ ranh ma để tìm một cô gái dở người trong vùng, nhằm giải quyết những nhu cầu cấp bách. Giờ thì cậu ta đang há hốc mồm nhìn các nàng tiên áo xống xênh sang trong điệu Múa Đèn :
- Cậu thấy thế nào ? Hay hơn hay tồi hơn Múa Nón của người Thái ?
An cất tiếng hỏi .
- Hay hơn, hay hơn rất nhiều lần.
Mã Lỳ đáp, mắt không rời sân khấu.
- Cậu có thích điệu múa khèn của dân Mèo hay không ?
- Không.
Mã Lỳ đáp gọn lỏn khiến anh ngạc nhiên. Dường như hiểu sự ngạc nhiên đó, gã Mèo giải thích :
- Dân Mèo múa không hay. Múa hay nhất chính là các dân tộc Tây nguyên. Bất kể là Ê-đê, Ba-na hay ai khác.
Tới đó, Mã Lỳ chợt cất tiếng kêu :
- Ô, đã hết rồi.
Và cậu ta tắc lưỡi lắc đầu một cách tiếc rẻ. Hoàng An cười :
- Tôi không ngờ cậu mê văn nghệ đến thế.
- Anh khinh người Mèo không biết thưởng thức văn nghệ hay sao ?...
- Không nên nói thế. Đây là sở thích của từng cá nhân, không liên quan gì đến sắc tộc. Bản tôi toàn dân Tày nhưng có người mê thổi sáo, có thể thức thổi sáo cả đêm trong lúc người khác chỉ uống rượu rồi vùi đầu ngủ.
- Em mê văn nghệ.
Mã Lỳ đáp. Rồi sau một phút chần chừ, nói thêm :
- Nhưng chỉ những tiết mục văn nghệ do con gái làm thôi. Em không thích nhìn bọn đàn ông hát múa.
Tới đó, màn lại mở. An lặng im vì không muốn làm phiền gã Mèo. Dường như toàn bộ tâm trí của cậu ta đang quay đảo dưới ánh đèn sân khấu. Như thế, thời khắc dần trôi, tới chín giờ mười lăm. Anh giơ đồng hồ lên xem rồi bảo Mã Lỳ :
- Đã tới giờ đổi gác. Tôi đi đây.
- Vâng. Rồi chúng ta sẽ gặp nhau.
- Đồng ý. Sau giờ biểu diễn cậu rán chờ tôi nhé.
- Yên tâm. Em sẽ chờ anh.
Hoàng An rút lui về phía sau. Khi đã hoàn toàn ra khỏi đám đông, anh vào sâu trong bìa rừng, chọn một góc thuận tiện để có thể thu mình trong bóng đêm quan sát. Trước mắt anh là một khối đen mênh mông, Mã Lỳ đã mất hút trong đó. Cậu ta vốn nhỏ con, giống số đông đàn ông Mèo, bao giờ cũng chỉ cao ngang vai vợ. Người ta bảo một cặp Mèo ôm nhau giống hệt con chẫu chàng ôm quả dưa ếch là vì thế. Màn đóng rồi màn mở, các tiết mục nối tiếp nhau. Đồng hồ chỉ mười giờ kém hai mươi phút. Như thế đã hai mươi lăm phút trôi qua không xảy ra chuyện gì. An cảm thấy hơi thở của anh bắt đầu trở lại nhẹ nhõm :
« Có lẽ cậu ta không đủ tàn ác để làm điều ấy. Có lẽ cậu ta chưa quên những kỉ niệm tốt đẹp của một thời. »
Nhưng chính lúc niềm lạc quan khởi sự, một bóng người nhỏ bé lom khom đã đứng lên, tách khỏi khối khán giả đông đặc và đen ngòm. Cái bóng đó lách giữa hai cánh quân, với dáng đi lom khom tiếp tục tiến về khán đài phía trước, nơi ban chỉ huy sư đoàn cùng ngồi với ban lãnh đạo tiểu đoàn 209 trên một tấm bạt trải đến tận chân sàn diễn.
Tức khắc, đại đội trưởng An dập tắt niềm lạc quan mong manh vừa chợt nhú như tay đồ tể lành nghề chọc một nhát dao chính xác trăm phần trăm vào cổ lợn :
« Ra thế. Điều ta nghi ngờ là không tránh khỏi. »
An nghĩ, với một chút cay đắng, một chút buồn rầu nhưng cùng lúc đó, trái tim anh không còn phập phồng nữa, nhịp đập của nó trở lại bình thường. Sự hồ nghi và nỗi chờ đợi mong manh bị thiêu cháy. Trạng thái lạnh lùng băng giá xâm chiếm tâm hồn, óc não anh trở nên trống rỗng và trong suốt :
« Việc ắt phải xảy đã xảy ra. Giờ không còn đắn đo, chỉ còn hành động. Ta không muốn tình cảnh này nhưng nó đã tới. Vậy ta sẵn lòng chào đón. »
Anh đưa tay rờ cây tiểu liên cưa nòng bên hông như kiểu nông phu rờ lưng con trâu trước khi bước xuống rạch cày, như gã xà-ích vuốt bờm ngựa trước giờ cho xe chạy. Động tác ấy đã quen thuộc từ thuở mười ba, tuổi bắt đầu theo ông chú lên rừng săn thú. Khi những ngón tay An chạm vào thớ thép lạnh ngắt đó, một luồng xúc động mãnh liệt truyền ngược lại da thịt, lan toả khắp toàn thân và xuyên thấu lên tận óc não anh, đem lại cùng một lần sức mạnh, niềm tin, và ý chí sắt đá. Hơi lạnh của vũ khí truyền cho anh ngọn lửa. Chạm vào nó, giống như người xưa chạm vào hòn đá ước, anh thấy bình tâm, ví như kẻ lữ hành mùa đông bình tâm khi được ngồi dưới mái nhà và được hơ tay lên lửa sưởi. Đối với An, vũ khí tựa hồ con ngựa chiến hoặc con chó săn trung thành. Nó chẳng còn là vật vô tri mà trở thành một phần cơ thể và ý chí. Đời anh là một cuộc tôi luyện trường kì để thứ thép lạnh ngắt đó trở nên một vật có linh hồn.
Trong bóng tối, đại đội trưởng khẽ nhếch mép cười :
« Ta không muốn !Ta không muốn chút nào cuộc săn này. Nhưng chính vì bị săn đuổi, ta đành phải trở thành kẻ đi săn đuổi. »
Anh nhìn thấy Mã Lỳ ngồi thụp xuống, lẫn vào đám cán bộ lãnh đạo. Hẳn đây chính là lúc cậu ta tường trình sự việc một cách vắn tắt và đề nghị sư trưởng đi theo mình vì một « ...bí mật quân sự có tầm quan trọng quốc gia. » An thầm đoán. Quả nhiên, một phút sau, Mã Lỳ đứng lên cùng sư trưởng, cả hai men theo bục sàn diễn để vòng ra phía sau. An ước lượng :
« Hai người vừa xoẳn cao bằng nhau. Nhưng sư trưởng to gấp ba lần gã Mèo còi cọc. Cánh tay ông ta hẳn phải xuýt xoát bằng cẳng chân của gã. »
An không hiểu họ sẽ đi đâu ? Nếu họ lùi ra phía sau sân khấu, sẽ vô cùng bất tiện cho anh vì tổ lính kĩ thuật đang chạy máy nổ ở đó. Nhưng có lẽ giả thuyết này là sai vì một câu chuyện trọng đại không thể thổ lộ ở nơi tiếng nổ ầm ầm và cả tốp người tò mò có thể nhìn nghiêng nhìn ngó. Họ sẽ lùi sâu vào các đám rừng xung quanh chăng ? Nếu vậy, có khả năng đụng độ tốp lính đi tuần. Hoặc chính họ, hoặc chính anh và cuộc xử trí sẽ khó khăn. Tuy nhiên, sư trưởng vốn là người có tật nói rất to, ông ta sẽ phải dẫn gã Mèo đen ra bờ suối, đó là nơi tiếng nói của ông sẽ bị cuốn trong tiếng thác gào và không thể lọt vào lỗ tai bất cứ ai. Và, thật may mắn, đó cũng chính là nơi thuận tiện nhất cho việc xử trí vì bên kia suối là vùng núi chết. Từ bờ suối , chỉ đi qua một bãi sỏi hẹp như dải áo là tới các tường đá dựng thẳng đứng như lưỡi gươm, trên bức tường thành vĩ đại ấy, không một cọng gai nào có thể trồi lên được. Vì thế, không chỉ con người mà đến lũ sơn dương cũng không dám trèo lên . Chẳng phải lính bắc việt mà chính thám báo phía nam đã đặt tên nơi đó là Vùng Núi chết.
An luồn sau các thân cây để theo rõi đường đi của hai con mồi. Quả nhiên, sư trưởng dẫn gã Mèo ra bờ suối. Đoạn đường khá dài để tiếng nhạc mờ dần đi và tiếng thác réo vang dần lên. Cây đèn pin của sư trưởng bịt vải dù, chỉ vẩy ra một tia sáng bằng trái mận. Đèn của gã Mèo rọi sáng nhiều hơn, quét đi quét lại không ngừng trên lối đi. Giống như một con báo, An bước theo họ. Anh không nhận ra rằng gió đã đổi chiều thổi lật nghiêng các vòm lá khiến rừng xao động và tiếng bước chân của các con mồi cũng như kẻ săn mồi đều chìm nghỉm trong tiếng lá reo. Chừng mươi phút, họ tới đúng bãi tắm ; gần như chính xác nơi An vừa ngồi lúc tàn chiều. Một ý nghĩ thoáng qua, ngắn như tia chớp :
« Phải chăng vài giờ trước, ta không muốn tắm trên dòng suối này vì cuộc xử trí ắt phải xảy ra chính nơi đây ? »
Nhưng anh không kịp suy ngẫm thêm vì cuộc đối thoại đã cất lên, rành rẽ từng lời, từng tiếng :
- Thưa sư trưởng, người Mèo chúng tôi vốn tuyệt đối trung thành với cách mạng nên tôi cho rằng tôi có nghĩa vụ báo cáo với đồng chí sự việc này. Một sự việc vô cùng nghiêm trọng.
Mã Lỳ cất tiếng, run rẩy. Có lẽ gã hồi hộp. Có lẽ gã đang dùng dằng giữa nỗi sợ hãi bản thân và nỗi sợ hãi « lương tâm của một kẻ trung thành với đảng và chính quyền »...Hoặc gã đang phân vân giữa nỗi sợ hãi chính anh, kẻ đã thoát khỏi lưới vây của cả một đội quân, con người đáng gờm ; với lòng khao khát quyền lực. Hoặc gã cảm thấy một sự nguy hiểm nào đó ẩn giấu trong cuộc chơi này, giống như một tay thợ săn cảm thấy khí núi bốc lên hơi thở của tử thần khi rẽ vào ngả đường mà sau đó vài khoảnh khắc, anh ta sẽ biến thành con mồi bị nghiền nát giữa hai hàm răng cọp ? An không thể xác định duyên cớ, nhưng anh nghe rõ từng tiếng run rẩy thốt ra và hơi thở ngắt quãng của Mã Lỳ.
« Đồ chó ghẻ ...Quân vừa đéo vừa run... »
Trong thâm tâm, anh buông một tiếng chửi thề khinh bỉ.
Lúc đó, giọng sư trưởng cất lên, đĩnh đạc :
- Tất thảy chúng ta đều có nghĩa vụ trung thành với cách mạng. Đồng chí xác định tư tưởng rõ ràng như vậy là rất tốt. Tôi chờ nghe đồng chí đây.
- Thưa sư trưởng....
Mã Lỳ nói, không còn quá run rẩy sau khi được khích lệ. Tuy nhiên gã Mèo vẫn phải nuốt nước bọt mấy lần để dọn giọng, trước khi tiếp lời :
- Thưa sư trưởng, phải chăng trong sư đoàn ta có đại đội trưởng Hoàng An, người Tày Cao Bằng đang chiến đấu dưới sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí ?
- Đúng !
Sư trưởng khẳng định tức khắc và sau đó tiếp tục nói với cái giọng bất khả điều chỉnh cường độ của ông :
- Đại đội trưởng Hoàng An là người chỉ huy gan dạ, mưu trí và có rất nhiều triển vọng, có thể nói đó là cánh tay phải của tiểu đoàn trưởng Đinh quang Nhã..Nhưng quê đồng chí ấy ở Đồng Mỏ Lạng sơn chứ không phải Cao bằng. Tôi thuộc lý lịch đại đội trưởng An như thuộc tiểu sử cá nhân của các tiểu đoàn trưởng dưới quyền tôi vậy.
- Báo cáo sư trưởng, Hoàng An quê chính ở bản Xíu, huyện Thất khê, Cao bằng. Anh ta từng là trung đội trưởng số ba , thuộc đại đội Một, tiểu đoàn 109 đơn vị đặc nhiệm đóng tại Hà Đông năm I957, lúc đó tôi là tiểu đội phó trong trung đội của anh ta. Tên thực của anh ta là Chí văn Thành, được kết nạp đảng sau ngày nhập ngũ, tháng chín năm I95I, ba năm trước ngày giải phóng thủ đô.
- Đồng chí nói sao ? Anh ta đã từng là đảng viên ?
An thấy giọng sư trưởng vói cao lên, ngờ vực. Khi nhập vào cánh quân này dưới cái tên Hoàng An, anh đã sử dụng giấy tờ của một tử sĩ đứng ngoài đảng. Và anh vừa được kết nạp hai năm tròn. Chính sư trưởng đã hạ lệnh kết nạp đảng tại chỗ, sau những thành tích chiến đấu dồn dập của đại đội. An lại nghe Mã Lỳ cười khẩy, và sau một khoảnh khắc ngưng lặng, tiếp tục nói:
- Khi tôi nhập ngũ, Chí văn Thành đã sáu tuổi đảng. Anh ta được kết nạp ngay trên chiến khu Việt bắc.
- Thôi được. Đồng chí nói tiếp đi. Tôi nghe.
- Chính Chí văn Thành giác ngộ tôi vào đảng và đề bạt tôi lên tiểu đội phó.
- Rồi sao ?
- Rồi đột nhiên anh ta bỏ trốn sau một ngày chủ nhật vào thăm Hà nội. Ban chỉ huy không biết lý do ra lệnh truy tìm nhưng không có kết quả. Khoảng một tuần sau bộ tham mưu cử người xuống chính thức thông báo Chí văn Thành là điệp viên do quân đội nguỵ gài vào để đánh phá lực lượng cách mạng. Do bị lộ anh ta đã bỏ trốn cùng với một tên điệp viên khác, trong đội cảnh vệ. Cả hai đều là Tày Cao bằng và quê cùng huyện Thất khê. Lực lượng biên phòng đã đuổi theo họ, qua tận biên giới Việt-Lào nhưng chỉ tìm thấy xác hai người bị hổ ăn và hai cây súng bỏ lại.
- Nếu đã thẩm định là bị hổ ăn thì làm sao còn quay trở lại sống dưới một cái tên khác ? Nhất là khi cả hai cây súng bị ném lại ? Đồng chí có tin rằng một người bỏ trốn có thể vứt bỏ vũ khí để dấn thân vào rừng núi với hai bàn tay trắng, khi trước mặt là thú dữ lẫn kẻ thù ?
Giọng sư trưởng oang oang như đang thuyết trình kế hoạch tấn công trước giờ mở màn chiến dịch. Anh có cảm giác như ông không tin những điều gã Mèo nói và cố sức dẫn dụ gã sang một ngả đường khác. Mã Lỳ ậm ừ hồi lâu vì không tìm được lời giải thích. Nhưng sau đó, gã cất tiếng một cách quả quyết :
- Tôi biết. Điều đồng chí nói là có lý. Nhưng tôi không thể nhầm bởi chính Chí văn Thành cũng đã nhận ra tôi. Chính anh ta dặn tôi rằng không được gọi anh ta bằng tên cũ, rằng anh ta đã bị truy đuổi, đã thay họ đổi tên và ...
Tiếng hoan hô đột nhiên ào ào vang lên, vượt qua các bờ cây vọng đến tận bờ suối. Tiếng lính huýt còi miệng, tiếng hét cuồng nhiệt vang khắp rừng lẫn trảng:
-Hoan hô, hoan hô....
- Lại....Múa lại....
- Một lần nữa !Hoan hô....Một lần nữa đi !
- Một lần nữa.! Xin múa lại lần nữa.
An chắc chắn đó là điệu múa Chàm rông, điệu múa của mùa xuân, điệu múa của tình ái, hội hè và ước vọng. Anh tưởng tượng ra những gương mặt phấn khích của đám đông dưới ánh đèn. Cùng lúc đó, óc não anh vang lên tiếng thầm thì :
― Sư trưởng ơi, tôi với ông không thù oán, không có kỉ niệm buồn phiền. Ông đối với tôi như một người anh hào hiệp nhưng tôi không có cách xử trí nào khác. Xin ông tha thứ cho tôi.
Anh nhắm vào lưng Mã Lỳ, tiêu điểm cách một gang rưỡi từ vai trái lui xuống. Khẩu súng trong tay anh tựa hồ con quay gỗ hồi thơ bé. Tựa hồ con thoi dệt trong tay bà thím. Tựa hồ cái gương tròn khung bạc trong tay nàng. An nhấn cò. Một tiếng nổ. Chắc chắn qủa tim gã Mèo đen phải vỡ tung. Nhích nòng súng chừng nửa ly sang bên trái, hai phát tiếp theo bởi lần này con mồi to khoẻ gấp bội. Cần găm hai lần đạn vào một quả tim ngoại cỡ. Kết quả sẽ bảo đảm một cách tuyệt đối. Tất thảy xảy ra trong ánh chớp. Hai tấm thân đổ sập gần như đồng thời, cùng hướng.
An gỡ cây súng , đặt xuống gốc cây quen thuộc, nơi anh vẫn ngồi một mình buổi chiều. Chéo khẩu súng là cây đèn pin, bọc kín trong tấm vải dù. Mắt anh đã hoàn toàn thuần thục với bóng tối. Chỉ những gợn nước phản chiếu lửa đom đóm bên kia dòng suối, cùng ánh sáng xanh run rẩy của lân tinh dưới các bụi cây là đủ cho anh soi tìm mọi vật. Sau khi đã cất gọn gàng những đồ lủng củng, An bước tới nơi hai tử thi gần như chồng lên nhau thành một khối. Hai cái xác còn nóng hổi. Trước hết anh lột quần của cả hai một cách thận trọng để máu ở phần trên ngực không dây vào chúng. Vũ khí, đèn pin. Rồi bao thuốc lá, bật lửa, bấm móng tay trong túi áo. Lọ đựng tăm và hộp dầu cù-là. Sổ tay và bút...Tất thảy được gom thành một đống trên cỏ. Sau đấy, anh lột giầy lẫn tất, sắp thành hàng. Ước tính mọi sự chuẩn bị đã tinh tươm, An vác gã Mèo đi ngược lên thác Voi gầm.
Dừng lại thở một vài hơi anh lẳng gã xuống chính ngọn thác, nghe trong đêm tiếng rơi bõm của thây ma, tiếng gào réo của các xoáy nước và nhìn thấy ngọn nước hung dữ cuốn phăng cái vệt đen đen đó đi một cách hăm hở. Quay trở lại, An kéo sư trưởng lên. Ông ta rất nặng. Phải trầy trật lắm anh mới hất được cái xác vạm vỡ, y hệt một bao tải gạo lên lưng. Lần này, anh phải bước lom khom như dân công cõng đạn trèo ngược dốc, rồi bước từng bước một. Nhưng dẫu sao An cũng đến được đỉnh thác mà không phải dừng chân nghỉ một lần nào. Ở đó, An đặt xác chết xuống bờ suối, rút trong túi quần sợi dây dù bất ly thân, tháo nút một cách thận trọng để sợi dây không bị gút rối. Khi đã gỡ được sợi giây một cách hoàn hảo, An buộc một bên chân mình vào gốc cây gần nhất. Rồi, anh thở vài nhịp chậm và sâu để chuẩn bị trước khi thu hết sức lực nâng bổng tử thi lên, ném xuống dòng thác. Tấm thân bất động tròn trùng trục kia rơi xuống tức khắc, kèm theo một tiếng động trầm đục và ngắn ; tựa hồ một thân cổ thụ rớt xuống dòng sâu. Lúc thây ma rơi xuống, An cũng ngã nhào theo, một cánh tay lẫn một bên vai đập vào bờ đá đau điếng. Nếu không có sợi dây bảo mạng kia, chắc chắn anh sẽ trở thành thây ma thứ ba, theo cùng một hành trình với hai kẻ xấu số. Nằm úp mặt xuống bờ suối vài giây cho cơn đau dịu đi, An vùng dậy tháo sợi dây dù, đoạn quay trở lại khúc suối bên dưới. Ở đấy, anh lội xuống dòng nước lạnh buốt, lặn ngụp hồi lâu. Khi ngửi đi ngửi lại, áo quần không còn chút mùi tanh của máu, An trèo lên bãi sỏi lượm cây đèn pin và khẩu súng định bụng trở về hầm. Nhưng chính lúc ngẩng đầu lên, anh chợt nghe tiếng chân chạy, chợt nhìn thấy một bóng đen vụt khuất giữa đám cây đen. Vô cùng mơ hồ, nhưng chắc chắn không phải là một hồn ma. Đó chắc chắn là một sinh thể.
« Có kẻ nào rình rập ta ? Bởi chỉ có tiếng chân đơn lẻ . Không thể là tiếng chân đội lính đi tuần ngẫu hứng đến đây. »
Anh tức khắc đuổi theo bóng đen kia.
Nhưng phải chăng nó là một con người ?...Anh tự hỏi một cách ngờ vực bởi cái sinh vật gây tiếng động kia cũng có thể là chồn hay cáo. Nó biến đi trong chớp mắt, hoàn toàn mất tăm mất dạng như hoà nhập thành một khối với rừng cây. Tuy nhiên, anh vẫn tiếp tục đuổi theo hướng tiếng động cho đến sát cửa rừng. Tới đó, An buộc phải dừng lại. Dù con mồi kia là người, là ma, hay là chồn cáo anh cũng đành để nó chạy thoát. Nếu không, chính anh cũng có nguy cơ bị bắt gặp trong bộ dạng kẻ sát nhân ướt rượt từ đầu xuống chân.
« Thôi được, tao sẽ tính chuyện với mày sau. »
An nghĩ, quay sang lối trở về hầm. May mắn cho anh vì khu trú quân vắng ngắt. Có lẽ ngay toán lính tuần cũng lượn loanh quanh rồi lại tạt vào trảng, nghếch mắt xem văn công. Trong khu nhà ngầm trung tâm của tiểu đoàn Một, An mắc bộ quần áo ướt vào dàn sấy áo quần. Dàn cây ấy thường xuyên là tủ sấy áo quần cho các sĩ quan, bởi nơi đây, nếu không có lửa quần áo giặt sẽ không bao giờ khô. Hầu như đêm nào cũng có mưa. Những cơn mưa rừng thấm vào quần áo lẫn xương tuỷ. Mưa dứt, hơi sương còn quẩn quanh từ nửa đêm cho đến non trưa. Mặt trời có lên cũng phải vài giờ sau sương mới tan hết. Sương vừa tan được vài giờ chiều đã ngả và lớp sương mới lại ngùn ngụt kéo từ các khe vực lên. Như thế, làm sao áo quần không ẩm mốc. Chẳng có cách nào hơn là phải gây một lò sấy suốt ngày đêm. Những đống củi cháy liu diu không ngừng, không ngừng toả hơi ấm lẫn làn khói đặc ngái mùi các loại nhựa cây bị hun đốt. An đứng ở đó một giây, nhìn đám lửa, cảm thấy buồn nản và dửng dưng. Anh muốn ngủ. Nhưng điều đó là bất khả nên anh lại mặc quần áo mới và quay trở lại trảng, tìm đúng đơn vị của mình, ngồi thu hình phía sau đồng đội một cách lặng lẽ.
Chờ mươi phút trôi qua, anh đặt tay lên vai cậu lính phía trước :
- Thoả mãn chứ ?
Gã trai giật bắn người, quay lại nhìn anh :
- Thủ trưởng đi đâu, giờ mới lại đây ?
- Thủ trưởng Nhã rủ tôi quay lại hầm ngủ nướng. Không dè quá giấc.
- Ôi chao, mất toi nửa đêm rồi còn gì ?
- Đành vậy...Nhưng được dịp béo mắt. Vả chăng, tôi già hơn cậu mươi tuổi, lòng ham hố nhìn gái đẹp cũng phải giảm đi. Điều đó liệu có đúng hay không ?
Cậu lính cười hì hì :
- Thủ trưởng hỏi câu ấy, em xin chịu.
- Thôi xem đi, kẻo lỡ dịp vui.
An nói, cắt đứt câu chuyện một cách đột ngột rồi lấy bàn tay bên phải bóp cứng vào huyệt vai bên trái. Lúc này, anh mới thấy thân thể đau nhừ sau một cuộc vận động căng thẳng và quá sức. Hai mí mắt anh bắt đầu cứng lại như chì và có vẻ như chúng không còn tuân theo sự điều khiển của chủ nhân :
« Mình không thể ngủ. Không có quyền ngủ lúc này.Ta vừa mới tuyên bố với mọi người là gỡ được giấc ngủ dặm cùng với tiểu đoàn trưởng. Giờ không còn lý do ngủ thêm. »
Nhưng anh bắt đầu ngáp. Và ngáp thì không thể kiềm chế được. Đại đội trưởng đành móc bao thuốc, đốt một điếu. Mùi khói thuốc vừa lan toả, lập tức năm sáu cái đầu quay lại, những cặp mắt thèm thuồng nháo nhác tìm kiếm. Những cánh tay chìa ra tua tủa châu về phía anh :
- Em đã, đại đội trưởng. Em giơ tay trước nhất.
- Láo, tao mới là người giơ tay trước nhất. Mày ngồi hàng trên làm sao ngửi ngay ra hơi khói mà xin ?
- Em đăng kí thứ ba, xin đại đội trưởng đừng quên.
- Tôi nữa chứ ? Phải chăng lính già không được chia phần ?
An bảo :
- Tôi tưởng các cậu đang say sưa xem văn công nên mới dám mở bao thuốc ...Hoá ra mũi người thính thật...
Đám lính nhao nhao đáp :
- Văn công cũng thích mà thuốc lá cũng thèm. Chẳng thứ nào nhịn được thủ trưởng ạ.
- Tôi chỉ xin một hơi thôi, rồi quay lại xem văn công tức khắc... Bảo đảm với đồng chí là như thế.
Điếu thuốc chuyền đi theo hàng quân, đốm lửa đỏ lập loè. Sau cùng nó mất hút trong khi các cánh tay còn tiếp tục giơ lên chờ đón. Mấy hơi thuốc giúp An chống lại cơn buồn ngủ đang muốn kéo anh đổ sập. Anh đưa mắt nhìn lên sân khấu nhưng tai anh lại vang lên tiếng động ầm và đục khi cái xác nặng nề của sư trưởng rơi xuống nước.
« Ông ta quả là một con người cường tráng. Hẳn là một người cha đầy quyền uy với các con và một người chồng không biết mỏi trên giường. Dân xứ biển ăn nhiều cá nên bẩm sinh đã cường dương, chẳng cần cao gấu hay cao hổ. Quả tim ông ta bơm đầy máu. Máu chảy như nước tuôn từ ống lồ-ô... »
An nghĩ và bất giác đưa tay sờ lên cổ xem da thịt anh đã sạch hay chưa ?...Trên đoạn đường tiến lên đỉnh thác, máu tử thi ở trên lưng anh không ngừng chảy, không ngừng tràn qua hai vai sau vòng qua hai bên cổ, rồi đổ chung vào chỗ hõm giữa lồng ngực. Máu chảy như nước tuy chậm hơn, một thứ nước ấm nóng dính dáp. Có lẽ thân thể ông ta chứa một lượng máu nhiều gấp ba lần máu gã Mèo, và quả tim ông ta hẳn cũng to gấp ba lần quả tim của gã...An nhớ lại cảm giác nhầy và ấm của dòng máu bao phủ quanh cần cổ, tràn qua ngực, chảy qua rốn lan xuống tận đám lông mu khiến anh ngứa ngáy. Rồi máu rẽ sang hai bẹn và tiếp tục bò xuống hai đùi dính nhơm nhớp như một thứ nước sốt chắt ra từ nồi hầm thịt lẫn xương. Cảm giác đó thật rõ ràng. Cảm giác đó không thể nào quên được. Máu gần giống một thứ nước sốt hoặc nhựa cây nhưng có hơi ấm và bốc mùi tanh.... An bỗng thấy tay chân rã rời. Niềm oán hận dội lên thành tiếng thầm thì trong tâm khảm :
« Tại sao mày không câm miệng lại, thằng Mèo chết tiệt kia ? Tao đâu có làm tổn hại đến bản thân mày ? Vả chăng, mày đâu biết được vì cơn cớ nào mà tao phải chạy trốn khỏi quê hương ? Làm sao mày hiểu được nỗi khổ đau của kẻ phải xa lìa xứ sở ? Ngọn gió tối tăm nào thổi qua để tai mày nghe lời kẻ khác một cách ngu dại, tấm vải đen độc địa nào che mắt mày để mày nhìn tao một cách độc ác như thế ? »
Trên sân khấu, người ta đang diễn vở chèo ngắn của người Kinh. Tích chèo có tên : « Xuý Vân giả dại ». An không thuộc tích chèo này, anh chỉ nhớ mang máng đó là câu chuyện về một người đàn bà bị tình phụ hoá điên. Cô gái điên trên sân khấu mặc một chiếc váy đỏ như hoa gạo, tóc cài hoa đại trắng. Những động tác rối loạn của cô và gương mặt xinh đẹp tỉnh táo hoàn toàn chẳng ăn nhập vào nhau. Tiếng hát của cô thánh thót, thuần tuý sầu khổ và gợi tình, cũng chẳng phải tiếng hát của người điên mà chỉ là tiếng hót của một con chim mái gọi chim trống vào mùa ân ái.
« Những đôi chim trống mái gọi nhau vào mùa xuân, gù nhau suốt mùa hè, phủ nhau suốt mùa thu và thay nhau ấp trứng suốt mùa đông. Những đôi chim sung sướng. Chỉ có chúng ta là đau khổ. Chúng ta không bao giờ còn có thể gọi nhau, ve vãn nhau bằng lời hay bằng câu hát. Chúng ta không còn được làm tình và không bao giờ còn có thể sinh con đẻ cái để được ấp iu nuôi dưỡng chúng như lũ chim kia nuôi dưỡng lũ chim non. »
Những ý nghĩ ấy chầm chậm lướt qua óc não anh, chầm chậm như những lưỡi dao nung đỏ trong lò rèn áp lên da thịt. Anh nghe thịt da mình bốc cháy xèo xèo dưới lưỡi dao tàn khốc đó. Anh nhớ nàng, người vợ xinh đẹp của anh. Mối tình đầu và cũng là mối tình sau chót. Người đàn bà duy nhất của đời anh. Nàng đã ở trong da thịt anh mười sáu năm tròn, nàng sẽ cư ngụ trong tâm hồn anh cho đến muôn kiếp.
« Nàng Đông ! Em ở đâu bây giờ ? Người tôi yêu ? Hãy mượn gió, mượn cây, mượn lời chim hay tiếng thú trả lời cho tôi biết ? Em ở đâu ? và cô Nhỏ của chúng ta ở đâu ? »
Họ trở thành tình nhân vào năm mười lăm tuổi. Nhưng họ đã là bạn từ thuở chập chững tập đi. Hai nhà là láng giềng gần nhất, cách nhau đúng một sườn đồi. Hai bà mẹ cùng có thai một năm, đẻ họ cùng trong một tuần trăng, nàng đầu tháng và anh cuối tháng. Sang tháng sau, hai gia đình rủ nhau chọn ngày trăng tròn để cùng làm lễ đầy tháng tuổi cho hai đứa trẻ. Dân bản đến nhà nàng ngả bò ăn mừng vào buổi trưa, buổi chiều kéo sang nhà anh quay lợn, thịt gà, nấu cỗ. Cả một ngày vui vẻ, trống phách vang lừng. Cuộc vui kéo thâu đêm, ai nấy đều ngủ lại cho đến hôm sau mới trở về nhà mình. Khoảng sườn đồi mênh mông giống như sân chơi chung của họ thời thơ ấu, nơi nàng lẽo đẽo theo anh lần mò khắp các bụi cây tìm quả chín, bắt cánh cam, bọ rùa hay đào hang dế. Lên năm tuổi, anh dẫn nàng vào những cuộc thám hiểm đầu tiên, họ rời khỏi ngọn đồi quen thuộc để tìm đến những mạch nước khe dẫn về bản, những cọn nước bằng tre quay chậm rãi tưới xuống các cánh ruộng bậc thang, rồi ngược lên cánh rừng lảnh lót tiếng sơn ca. Mùa đông năm ấy, bệnh dịch yết hầu lan khắp huyện. Bản Xíu vốn khuất nẻo, nằm sâu trong một thung lũng cách biệt mà cũng không thoát khỏi tai hoạ chung. An mồ côi từ ngày đó. Cha anh chết hôm trước, hôm sau tới lượt mẹ anh trong trận dịch yết hầu mà đa phần người chết toàn là trẻ nhỏ. Họ là hai nạn nhân duy nhất ở tuổi trưởng thành. Lạ lùng là cùng ở một mái nhà nhưng anh hoàn toàn khoẻ mạnh, trong khi cha mẹ anh và những đứa trẻ bị chết đều phải tập trung vào một dàn hoả táng, chôn chung một góc thung lũng để phòng dịch lây lan.
Người ta vẫn bảo : « Chết cha còn chú, xảy mẹ bú dì ». Không phải nói thêm lời nào trong đại gia đình họ Nông truyền thống. Sau lễ tang, chú thím An nhượng lại ngôi nhà của họ cho gia đình láng giềng, rồi dọn về ngôi nhà sàn của bố mẹ anh để có thể nuôi cháu một cách thuận tiện. Lúc ấy, họ còn là vợ chồng son. Bốn năm sau, anh lên chín, họ mới đẻ đứa con gái duy nhất, đặt tên là Nàng My. Chẳng có điều chi phân biệt giữa hai đứa trẻ ấy, và vốn dĩ chúng cũng thương yêu nhau như cùng mẹ cùng cha. Nàng My ra đời cùng năm với Nàng Nhỏ và như thế, tới lượt chúng, hai cô bé lại trở thành những người bạn từ thuở lẫm chẫm tập đi. Năm anh mười bẩy, chú thím làm lễ cưới cho nàng và anh rồi sau đó, thuận tình ông bố vợ cô đơn, họ được phép về sống với ông trong ngôi nhà sàn bên kia sườn đồi. Một cuộc sống mặn nồng như sự kết nối của các tuần trăng mật. Nói cho đúng hơn là một mùa trăng mật miên viễn. Bởi sau khi cưới hai tuần, anh lại xuống huyện Thất Khê tiếp tục đèn sách. Một tháng một lần, cặp uyên ương được tình tự cùng nhau. Thời gian đó, trường huyện thường không đủ học sinh nên chương trình học kéo dài. Vì lẽ đó anh phải lẽo đẽo đi về hơn mười năm mới kết thúc được chương trình trung cấp. Vào khoá tốt nghiệp năm ấy, người Tày duy nhất chính là anh, Nông văn Thành, niềm tự hào của dân bản Xíu và giấc mơ chung cho tất cả đám dân Tày có của ăn của để.
Lớn lên dưới sự chở che của chú thím như vậy, An không thể làm gì khác hơn là ngoan ngoãn chuẩn bị hành lý khi chú anh ra lệnh :
- Tuy rằng con đã khá cứng tuổi nhưng vẫn còn trong thời tráng niên. Ta đã lần lữa nhiều năm nay nhưng lần này chính con sẽ phải lên đường tham gia cuộc kháng chiến. Chúng ta thưa nhà, hẹp đất, nhưng không được để cho các bản lớn chê cười.
- Thưa chú, con đã rõ.
- Thím sẽ lo chuẩn bị quần áo, thuốc men và tiền bạc cho con. Con có cần gì nữa không ?
- Dạ, con cần vài ngày để từ biệt bạn bè trong bản và xuống huyện chào mấy ông thầy.
- Được. Chúng ta còn năm ngày mới tới hạn tập trung.
Sau một lát ngần ngừ, anh nói thêm :
- Con chưa làm được gì để giúp chú, từ nhỏ đến lớn chỉ vác gạo vác tiền của gia đình đi học. Giờ lên đường, bỏ lại gánh nặng gia đình.
Chú anh mỉm cười :
- Nuôi con ăn học là để con nên người. Ấy là sở nguyện của chính ta. Giờ con lên đường cũng vì ta thấy gia đình mình không thể trốn tránh nghĩa vụ với đất nước. Việc của con ra đi, cứ yên tâm ra đi. Ở nhà, chúng ta sẽ đùm bọc Nàng Đông. Vả chăng, ta với ông Cao cũng là bạn hữu..
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top