Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
INDONESIA THỜI KỲ CẬN ĐẠI
I- Inđônêxia và sự xâm lược của các nước phương Tây
1- Xã hội Inđônêxia trước khi Hà Lan xâm lược
Trước khi thực dân Hà Lan xâm lược Inđônêxia, xã hội Inđônêxia đang bước vào giai đoạn suy vong của chế độ phong kiến. Vương triều Magiapahít bị chia năm xẻ bảy. Giava - hòn đảo lớn nhất, nơi có 2/3 dân số Inđônêxia sinh sống, bị chia làm 2 vương quốc: Bantam và Mataram. Ngay 2 vương quốc này cũng không thống nhất mà bị chia thành nhiều tiểu quốc.
Công xã nông thôn vẫn là hình thức tổ chức phổ biến ở Inđônêxia. Người nông dân công xã là người sử dụng ruộng đất nhưng không có quyền thừa kế. Ngoài ruộng đất công làng xã, còn có ruộng đất thuộc sở hữu của quí tộc phong kiến đó là thái ấp. ở đây, nông dân nhận ruộng đất của quí tộc và nộp tô cho chúng. Số tô thường chiếm 1/2 đến 2/3 thu hoạch của người dân.
Đến đầu thế kỷ XVII, công xã nông thôn lâm vào khủng hoảng, tình trạng mua bán ruộng đất và tập trung ruộng đất vào tay địa chủ giàu có ngày càng nhiều, phần lớn nông dân công xã không có ruộng đất. Quyền hành của bọn quí tộc trong công xã ngày càng tăng. Mặt khác, sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá đã dần dần phá vỡ tính chất tự nhiên của nền kinh tế. Đặc biệt, ở vùng duyên hải, nền kinh tế thủ công nghiệp, thương nghiệp rất phát triển. Thế lực kinh tế của lãnh chúa vùng duyên hải ngày càng lớn đã làm tăng yếu tố li khai khỏi chính quyền trung ương.
Như vậy, trước khi bị Hà Lan xâm lược, xã hội phong kiến Inđônêxia đã lâm vào khủng hoảng. Điều đó tạo cơ hội cho Hà Lan xâm lược đất nước này.
2- Sự xâm lược của tư bản phương Tây.
Trước thế kỷ XV, các nước phương Tây hiểu biết về phương Đông rất ít, việc buôn bán với phương Đông nằm trong tay người ả rập. Bởi vậy, vàng bạc của châu Âu bị hao hụt rất nhiều do phải mua hàng hoá của lái buôn ảrập. Phong trào tìm vàng để phát triển kinh tế ở châu Âu dấy lên sôi nổi vào cuối thế kỷ XV.
Mùa xuân 1498, Vaxcô Đơ Gama chỉ huy 4 tàu đến Canlicút ở Ấn Độ. Chuyến đi này đã làm rung động cả châu Âu và đã lôi cuốn các thương nhân châu Âu kéo sang phương Đông. Con đường hàng hải Tây- Đông đã mở ra dẫn tới cuộc cách mạng thương nghiệp ở châu Âu. Bồ Đào Nha là nước đi tiên phong trên lĩnh vực này.
Năm 1511, Bồ Đào Nha chiếm Malắcca (Malaixia). Năm 1512, họ xây dựng cứ điểm trên đảo Ambon (Inđônêxia) và năm 1592, xây dựng pháo đài ở Técnát. Do lực lượng có hạn, Bồ đào nha chỉ xây dựng các cứ điểm dọc bờ biển mà không chiếm cứ đất đai. Từ các cứ điểm này sẽ tiến hành các cuộc chiến tranh chinh phục các vùng đất, bắt lãnh chúa ở đó cống nạp, tiến hành buôn bán bằng lừa đảo và ăn cướp. Họ còn tiến hành buôn bán nô lệ ở Inđônêxia. Năm 1522, người Tây Ban Nha cũng có mặt ở Inđônêxia, họ chiếm đảo Tido và lập thương điếm ở đây. Sự có mặt của Tây Ban Nha đã gây nên mâu thuẫn giữa Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Kết quả là hai bên dàn xếp với nhau, Bồ Đào Nha trả cho Tây Ban Nha một số vàng, còn Tây Ban Nha rút khỏi Inđônêxia và chuyển sang hoạt động ở Philíppin.
Sau khi thoát khỏi ách đô hộ của Tây Ban Nha, từ nửa sau thế kỷ XVI, Hà Lan phát triển mạnh mẽ. Trước kia, thương nhân Hà Lan là người môi giới vận chuyển hàng hoá phương Đông từ Lixbon (thủ đô Bồ Đào Nha) sang các nước châu Âu nhưng từ sau khi Hà Lan độc lập, các tàu buôn Hà Lan bị cấm đến các cảng của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, vì vậy các thương nhân Hà Lan liền lập nhiều công ty để tìm đường buôn bán với phương Đông. Năm 1595, người Hà Lan mở cuộc viễn chinh đầu tiên sang phương Đông. Năm 1596, đoàn thương thuyền do Hốtman chỉ huy cập bến Giava. Từ đó đến năm 1602, số thuyền buôn của Hà Lan không ngừng tăng lên (1602 có 65 chiếc).
Để cạnh tranh có hiệu quả với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, năm 1602 chính phủ Hà Lan cho thành lập công ty Đông Ấn (Vereenigde Oost Indische compagnie - V.O.C) với số vốn đầu tiên là 6,5 triệu gunđen. Sau đó, công ty này trở thành mẫu mực cho các công ty khác cùng loại và là hiện tượng độc đáo trong lịch sử cướp bóc thuộc địa. Công ty được quyền thay mặt nghị viện ký các thương ước, tiến hành chiến tranh, xây dựng pháo đài, tổ chức quân đội, xét xử các quan chức của mình... nói chung quyền hạn của công ty như quyền hạn của một chính quyền nhà nước. Nghị viện còn qui định quyền hạn của công ty có hiệu lực trong 21 năm và có thể gia hạn. Thực tế, quyền lực của công ty tồn tại tới 200 năm.
Trong quá trình xâm lược Inđônêxia, công ty Đông Ấn có kẻ cạnh tranh là Bồ Đào Nha, nhưng Bồ Đào Nha là đối thủ yếu nên dần dần bị gạt bỏ khỏi Inđônêxia. Vào năm 1609, Hà Lan chiếm Ambon và Técnát từ tay Bồ Đào Nha. Năm 1619, người Hà Lan xây dựng thành phố Batavia phía Bắc Giava, thành phố này về sau trở thành trung tâm của đất thực dân Hà Lan. Để chiếm Inđônêxia, thực dân Hà Lan đã không từ thủ đoạn nào. Chúng ủng hộ giai cấp phong kiến để đàn áp khởi nghĩa nông dân, lợi dụng mâu thuẫn trong các tập đoàn phong kiến để ký các hiệp ước bất bình đẳng. Đến cuối thế kỷ XVI, Hà Lan đã thống trị toàn bộ đảo Giava.
Mác nhận xét: “Lịch sử việc cai trị thuộc địa của người Hà Lan là một bức tranh miêu tả những sự giết hại, phản trắc, sa đoạ và đê tiện, không thời nào sánh kịp”.
Mục đích của công ty Đông Ấn Hà Lan trong thời kỳ đầu là vơ vét hàng hoá, chủ yếu là hương liệu để bán ở thị trường châu Âu. Chúng không chủ trương chiếm đất để cai trị trực tiếp vì công ty chưa có khả năng trực tiếp thống trị. Chúng không tước quyền cai trị của lãnh chúa phong kiến mà dựa vào lực lượng này để vơ vét hàng hoá, chỉ có khi nào thật cần thiết chúng mới can thiệp vào công việc nội bộ của các tiểu quốc phong kiến. Lừa lọc, bạo lực, sách nhiễu luôn luôn đi liền với hoạt động buôn bán của công ty Đông Ấn. Nếu như công ty phải mua một sản phẩm nào đó thì giá cả do công ty tự ý quyết định. Thường người Hà Lan mua gia vị bằng mọi thứ hàng hoá kể cả đồ cũ không cần thiết đối với người bản xứ. Trong lúc đó số hàng hoá của Inđônêxia đưa sang châu Âu mang lại món lời từ 7 - 10 lần so với giá mua.
Từ giữa thế kỷ XVIII, vai trò của Hà Lan trong nền kinh tế thế giới ngày càng suy giảm. Anh vươn lên trở thành nước tư bản hùng mạnh nhất. ở phương Đông, công ty Đông Ấn Hà Lan phải cạnh tranh quyết liệt với công ty Đông Ấn của Anh và ngày càng thất thế. Việc Hà Lan chỉ chú trọng vào thương nghiệp, chỉ biết bóc lột mà không xây dựng công nghiệp đã không tạo ra chỗ đứng vững chắc cho công ty. Đến năm 1785, nợ của công ty lên tới 55 triệu gunđen, năm 1795, nợ 125 triệu gunđen. Bởi vậy, năm 1799, công ty phải tuyên bố giải tán. Công ty Đông Ấn Hà Lan đóng vai trò mở đường xâm chiếm thuộc địa đã vĩnh viễn bị loại bỏ sau 200 năm tồn tại.
3- Phong trào đấu tranh của nhân dân Inđônêxia.
Chính sách của công ty Đông Ấn đã làm cho nông dân lâm vào tình trạng khốn khổ, còn giai cấp phong kiến cũng căm tức thực dân Hà Lan khi chúng can thiệp vào quyền thế tập của các xuntan. Bởi vậy, phong trào đấu tranh của nhân dân đã bùng nổ ở nhiều nới. Khởi nghĩa của Tơrunô Giôgô nổ ra vào năm1675. Những người khởi nghĩa nêu cao khẩu hiệu chống nước ngoài và khôi phục vương triều Magiapahít. Được sự giúp đỡ của các thế lực phong kiến phản bội, đến năm 1678, thực dân Hà Lan mới đàn áp được cuộc khởi nghĩa.
Cuộc nổi dậy do Surapatti lãnh đạo trong những năm 1683-1719. Vốn là người lính trong quân đội thực dân, Surapatti bất bình với chính sách phân biệt chủng tộc của Hà Lan nên đã lãnh đạo nhân dân đứng lên phản kháng. Ông dã xây dựng được một vương quốc độc lập và đã kiên trì lãnh đạo cuộc kháng chiến kéo dài gần 16 năm (1703-1719). Sau khi ông chết, cuộc kháng chiến do con trai Surapatti lãnh đạo còn kéo dài đến năm 1767 mới chấm dứt.
Nhìn chung, những cuộc đấu tranh trong thời kỳ đầu ở Inđônêxia đều do một bộ phận tiến bộ trong giai cấp phong kiến lãnh đạo. Nông dân là lực lượng tham gia đông đảo nhất.
II- Sự thống trị của Hà Lan và Anh ở Inđônêxia.
1- Sự thống trị của Hà Lan thời kỳ Đan Đên.
Đầu thế kỷ XIX, Hà Lan bị Pháp chiếm và buộc phải tham gia vào chính sách “bao vây kinh tế” đối với Anh. Đan Đên là tổng đốc của Hà Lan ở Inđônêxia thời kỳ này. Ông ta thực hiện một loạt chính sách :
- Đan Đên cho chấn chỉnh lại quân đội, tăng cường tuyển mộ binh lính người bản xứ, xây dựng hệ thống giao thông và pháo đài khắp trong quần đảo.
- Để giải quyết vấn đề tài chính, Đan Đên tăng cường chính sách bóc lột bằng cách tăng thuế. Đồng thời, y củng cố hình thức bóc lột phong kiến bằng cách bán từng vùng đất đai rộng lớn cho người châu Âu và Trung Quốc. Người mua đất có quyền sở hữu đất và cai quản cư dân ở đó.
- Giữ độc quyền mua bán gạo, muối.
Chính sách của Đan Đên vẫn không giữ được cái ghế của y. Tháng 8/1811, Đan Đên bị gọi về nước, Giansên lên thay làm tổng đốc ở Inđônêxia.
2- Nền thống trị của Anh ở Inđônêxia (1811-1815).
Tháng 8/1811, quân Anh đổ bộ vào Inđônêxia và hầu như không gặp sự kháng cự nào đáng kể của Hà Lan. Giansên phải đầu hàng, Inđônêxia rơi vào tay người Anh. Lúc đầu, Anh thực hiện chính sách mua chuộc các lãnh chúa phong kiến nhưng khi chiếm xong Inđônêxia, chúng liền thay đổi. Râyphơrít, tổng đốc Anh cho chia Giava thành 16 quận và cho các lãnh chúa phong kiến giữ chức quận trưởng nhưng quyền hành ở quận chủ yếu nằm trong tay viên quan người Anh. Các lãnh chúa trở thành bù nhìn lĩnh lương của thực dân Anh. Nếu lãnh chúa nào không phục tùng lập tức bị cách chức.
Chính quyền Anh tuyên bố quốc hữu hoá ruộng đất, biến nông dân thành tá điền cho Anh. Ruộng đất được chia ra các loại tốt xấu khác nhau và phải nộp tô thuế chiếm từ 1/5 - 1/2 thu hoạch.Họ tiếp tục thực hiện chính sách bán đất cho người Ấn Độ và Trung Quốc để xây dựng đồn điền trồng cây hương liệu và gia vị. Đồng thời, người Anh ra lệnh cấm buôn bán và sử dụng nô lệ.
Trong thời kỳ thống trị của Anh, nền thương nghiệp, kinh tế hàng hoá cũng phát triển mạnh hơn trước. Nhưng tình trạng cuộc sống của nông thôn không có gì thay đổi. Sau khi Napôlêông I thoái vị, Inđônêxia được Anh trả lại cho Hà Lan.
3- Chế độ cưỡng bức trồng trọt.
Để độc quyền khai thác và bóc lột Inđônêxia, Hà Lan đã thực hiện các chính sách sau:
Chính sách bảo hộ mậu dịch: ưu tiên cho hàng hoá Hà Lan và đánh thuế nhập khẩu cao đối với hàng hoá các nước khác, nhờ vậy hàng nhập khẩu của Hà Lan vào Inđônêxia tăng hơn trước. Chẳng hạn như hàng dệt của Hà Lan chiếm 2/3 hàng dệt nhập khẩu vào Inđônêxia.
Trong nông nghiệp, thực hiện chính sách cưỡng bức trồng trọt (do Vanđen Bốt - tổng đốc Hà Lan đề ra). Theo đó thì nông dân phải đem 1/5 đất đai của mình trồng cây công nghiệp do chính phủ Hà Lan qui định như mía, cà phê, thuốc lá, chàm... Nông dân bán số hoa lợi này lấy tiền nộp chính phủ thay thuế. Nơi nào đất đai do công xã quản lý thì toàn thể nông dân công xã chịu trách nhiệm trồng trọt, chăm sóc và thu hoạch nộp cho chính phủ. Trên thực tế, số đất giành trồng cây công nghiệp cho chính phủ chiếm 1/2, thậm chí 2/3 diện tích. Theo qui định, số ngày công làm việc trên ruộng đất đó là 66 ngày, nhưng trên thực tế nông dân phải mất 200 ngày. Để thực hiện chính sách này, thực dân Hà Lan đã dựa vào địa chủ quan lại bản xứ. Nhằm lôi kéo giai cấp phong kiến, chính quyền Hà Lan đã cho chúng được khôi phục lại tước hiệu cũ, được quyền thế tập và sử dụng đất đai vĩnh viễn, mặt khác chúng còn được hưởng tỷ lệ nhất định số thu nhập về trồng trọt của nông dân. Bởi vậy, giai cấp phong kiến Inđônêxia ra sức cấu kết với chính quyền thực dân để bóp nặn nhân dân.
Chính sách cưỡng bức trồng trọt đã đem lại lợi nhuận khổng lồ cho Hà Lan. Chỉ trong 40 năm thi hành, số lợi nhuận thu được bằng cả 200 năm thu nhập của công ty Đông Ấn. Số tiền này được đầu tư vào sản xuất công nghiệp ở Hà Lan và Inđônêxia.
4- Khởi nghĩa của Đipônêgôrô (1825-1830).
Ngày 20/7/1825, quân đội Hà Lan tấn công lâu đài của Đipônêgôrô vì ông đã phản đối chính sách phế lập các xuntan và can thiệp vào quyền thừa kế của các lãnh chúa. Lập tức, Đipônêgôrô kêu gọi các lãnh chúa và nông dân đứng dậy chống quân Hà Lan. Đã có 70 lãnh chúa và hàng vạn quần chúng nhân dân từ khắp nơi tham gia nghĩa quân. Quân khởi nghĩa đã dùng chiến thuật du kích gây cho kẻ thù nhiều tổn thất nặng nề. Biết không thể giành thắng lợi bằng quân sự, chính quyền thực dân dùng chính sách mua chuộc các lãnh chúa phong kiến bằng cách hứa trả lại những quyền lợi trước kia của họ. Nhiều lãnh chúa rời bỏ phong trào. Chúng còn dùng thủ đoạn lừa đảo thương lượng, bắt Đipônêgôrô tại bàn đàm phán. Tháng 5/1830, Nêgôrô bị đày đi Mênađô. Cuộc khởi nghĩa kết thúc.
III- Chế độ thống trị của Hà Lan và phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1- Chế độ thống trị của Hà Lan cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Vào những năm 70, nền công nghiệp Hà Lan phát triển khá mạnh, tư bản Hà Lan đòi chính phủ phải mở cửa để được tự do kinh doanh. Bên cạnh đó, các nước Anh, Mỹ cũng ép chính phủ Hà Lan phải mở cửa Inđônêxia để tự do buôn bán. Bởi lý do đó nên năm 1850, thực dân Hà Lan bỏ độc quyền thương mại trên biển Inđônêxia và năm 1860, phải mở 16 cảng cho tàu nước ngoài vào buôn bán. Năm 1870, chính quyền thuộc địa bỏ chế độ cưỡng bức trồng trọt.
Chính phủ Hà Lan đề ra chính sách ruộng đất, khẳng định quyền chiếm hữu ruộng đất của nông dân và phạm vi ruộng đất do chính phủ sở hữu. Số ruộng đất do chính phủ sở hữu bán cho tư bản Hà Lan và tư bản nước ngoài hoặc có thể cho thuê. Đến năm 1914, tư bản nước ngoài chiếm 1/4 diện tích trồng trọt và chúng đã lập 2100 đồn điền trồng cây công nghiệp (ký ninh, mía, thuốc lá, ô liu, cao su).
VĂN NGỌC THÀNH
Mặt khác, Hà Lan đầu tư xây dựng hệ thống đường sắt ở Inđônêxia. Từ năm 1905, chính phủ Hà Lan thực hiện chính sách mở cửa để điều hoà mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau đồng thời tránh tình trạng bị một nước đế quốc nào đó xâm chiếm Inđônêxia.
Các công ty của Anh, Mỹ đã tăng cường đầu tư vào Inđônêxia. Trước chiến tranh thế giới I, ở Inđônêxia có 2 công ty dầu lửa nổi tiếng là công ty BPM do tư bản Hà Lan chiếm 60% số vốn, còn Anh 40% và công ty N.K.P.M do tư bản Mỹ lũng đoạn.
Chính quyền thực dân tìm cách ngăn cản sự phát triển của công nghiệp dân tộc Inđônêxia. Các xí nghiệp của tư sản dân tộc chỉ được phép hoạt động trong phạm vi hạn chế như trong ngành làm mũ, dệt chiếu, đan rổ rá, dệt vải thô và thuốc lá. Thường các xí nghiệp chỉ có ít công nhân, nhiều nhất cũng không quá 200 công nhân. Hầu hết kỹ thuật của các xí nghiệp này có trình độ kỹ thuật lạc hậu nên rất khó khăn trong quá trình cạnh tranh.
2- Phong trào giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
a) Cuộc kháng chiến của nhân dân Achê:
Đến năm 70 của thế kỷ XIX, trên đảo Xumatơra của Inđônêxia vẫn còn một vương quốc giữ được nền độc lập của mình đó là vương quốc Achê. Nhiều lần Hà Lan phái sứ thần đến vương quốc này để yêu cầu giao lưu buôn bán nhưng đều bị cự tuyệt. Sau khi kênh đào Xuyê hoàn thành (năm 1869), Hà Lan muốn khống chế eo biển Malắcca để từ đó khống chế đường hàng hải sang Viễn Đông nên đã tìm cách chiếm Achê.
Tháng 4/1873, Hà Lan phái quân đội sang xâm lược Achê, đội quân này bị thiệt hại nặng nề buộc phải rút khỏi Achê. Tháng 10/1873, Hà Lan lại mở cuộc tấn công lần thứ 2. Nhân dân Achê đã tiến hành chiến tranh du kích, tiêu hao sinh lực địch. Mặc dù hao tổn nhiều tướng tá và quân lính nhưng Hà Lan vẫn không chiếm được Achê. Chúng buộc phải chuyển sang đóng đồn ở một số vị trí quan trọng trong vương quốc này.
b) Phong trào của nông dân:
Điển hình của phong trào nông dân là phong trào do Samin lãnh đạo vào khoảng năm 1890. Samin không thừa nhận nền thống trị của Hà lan, tuyên truyền trong nông dân chống lại chính sách thuế khoá vô lý của bọn thực dân. Nhưng Samin chủ trương không dùng bạo lực mà đấu tranh hoà bình để phản đối chính phủ và dần dần cải thiện đời sống nông dân. Tư tưởng phản kháng của Samin dưới tác động của làn sóng cách mạng dân tộc dân chủ đầu thế kỷ XX đã bùng lên thành các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Thực dân Hà Lan phải vất vả lắm mới đàn áp được các cuộc khởi nghĩa này.
c) Phong trào của giai cấp tư sản:
Năm 1908, tổ chức Buđi Utômô (Lương tri xã) thành lập ở Giava. Tổ chức này ra yêu sách đòi chính quyền thực dân cải thiện sinh hoạt xã hội, đòi phát triển văn hoá dân tộc. Năm 1909, tổ chức Hiệp hội sinh viên Ấn Độ và sinh viên Inđônêxia ở Hà Lan thành lập. Đến năm 1922, tổ chức này đổi tên thành Hiệp hội sinh viên Inđônêxia.
Năm 1911, Hội thương nhân Hồi giáo thành lập, với mục đích đấu tranh bảo vệ quyền lợi thương nhân.
Nhìn chung, phong trào của giai cấp tư sản ở Inđônêxia chủ yếu nhằm đấu tranh vì quyền lợi của chính họ và bằng con đường cải lương nên không có tác dộng đáng kể đến chính sách của chính quyền thực dân.
Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Inđônêxia, đội ngũ giai cấp công nhân ngày càng đông đảo. Đến cuối thời kỳ cận đại, Inđônêxia có 6 triệu công nhân, trong đó có 50 vạn là công nhân công nghiệp. Giai cấp công nhân Inđônêxia sớm thức tỉnh trước vận mệnh dân tộc. Họ đã có tổ chức của mình vào đầu thế kỷ XX.
Năm 1905, Hiệp hội công nhân đường sắt thành lập.
Năm 1908, Hiệp hội công nhân xe lửa thành lập.
Tháng 12/1914, Liên minh xã hội dân chủ Inđônêxia ra đời, tháng 5/1920, tổ chức này đổi tên thành Đảng Cộng sản Inđônêxia và tháng 12/1920, Đảng Cộng sản Inđônêxia gia nhập Quốc tế Cộng sản. Sự ra đời của Đảng Cộng sản đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của phong trào công nhân Inđônêxia. Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã diễn ra dưới hình thức bãi công, biểu tình, mít tinh, biểu tình thị uy đã liên tục diễn ra.
Như vậy, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dưới sự tác động của nền kinh tế TBCN, ở Inđônêxia giai cấp công nhân và giai cấp tư sản đã ra đời và cùng bước lên vũ đài đấu tranh chính trị. Dưới ảnh hưởng của phong trào cách mạng thế giới, Inđônêxia bước vào giai đoạn dân tộc thức tỉnh. Nhân dân Inđônêxia bắt đầu đấu tranh với ý thức xây dựng một nước Inđônêxia độc lập, dân chủ và tự do.