• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.

nang moi

New member
Đề bài: Điểm nhìn nghệ thuật trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
Bài làm
Theo IU. Lotman: “Điểm nhìn trong văn bản là mối quan hệ giữa người sáng tạo và người được sáng tạo. Điểm nhìn nghệ thuật là vị trí mà người trần thuật quan sát và miêu tả sự vật. Nếu không có điểm nhìn thì sẽ không có nghệ thuật. Sự thay đổi trong nghệ thuật gắn liền với sự thay đổi cách xây dựng điểm nhìn”.
Đến lượt mình điểm nhìn nghệ thuật biểu hiện qua các phương tiện nghệ thuật, ngôi kể, vị thế kể, cách gọi tên và xưng hô, cách dùng từ ngữ, kiểu câu, biện pháp tu từ... Điểm nhìn nghệ thuật cung cấp một phương diện để người đọc nhìn sâu vào cấu tạo nghệ thuật và nhận ra đặc điểm phong cách ở trong đó.
Tóm lại, tìm hiểu điểm nhìn thực chất là tìm hiểu một kiểu số phận, một phương thức tiếp cận của nhà văn đối với hiện thực. Trên tinh thần đó có thể thấy sự vận động của điểm nhìn trần thuật là một trong những biểu hiện rõ nét của văn xuôi Việt Nam. Nằm trong xu thế đó, có thể thấy Nguyễn Minh Châu đã tìm tòi và sáng tạo ra các hình thức tổ chức điểm nhìn tạo ra hiệu quả tối ưu cho tác phẩm: điểm nhìn gắn với ngôi kể, sự dịch chuyển điểm nhìn, sự gia tăng điểm nhìn. Cả ba bình diện này đều được thể hiện rõ nét trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.
TB
Điểm nhìn gắn với ngôi kể
Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện. Người kể chuyện có thể kể theo ngôi thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Người kể chuyện chỉ có thể kể được khi nào họ cảm thấy như người trong cuộc, đang chứng kiến sự kiện xảy ra bằng tất cả các giác quan của mình
Kể chuyện theo ngôi thứ ba là hình thức kể chuyện khá quen thuộc, trong đó người kể chuyện giấu mặt, coi như đứng ở một vị trí nào đó trong không gian và thời gian, bao quát hết mọi diễn biến của câu chuyện đã xảy ra và thuật lại. Còn hình thức kể chuyện theo ngôi thứ nhất là hình thức khá mới mẻ trong đó người kể chuyện xưng “tôi” xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm và kể lại cho bạn đọc.
Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Ông thuộc “một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Như một tất yếu khách quan, văn học cũng đổi mới do những tác động của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... Do vậy “Chiếc thuyền ngoài xa” mang xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kì đổi mới, hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.
Với “Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu đã chọn hình thức kể theo ngôi thứ nhất – nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng. Nhờ hình thức kể chuyện này câu chuyện trở nên gần gũi hơn, kết quả chân thực hơn và cũng có sức thuyết phục hơn. Với ngôi kể như thế, nhà văn có thể nhìn cuộc đời và con người ở các góc độ, cự li khác nhau, lúc đứng gần, trực tiếp tham gia vào câu chuyện, lúc đứng ngoài, đứng xa quan sát với tư cách của người dẫn truyện, lúc đối thoại trực tiếp với nhân vật, lúc đối thoại nội tâm, lúc hỏi, lúc bình luận...
Sự dịch chuyển điểm nhìn
Dịch chuyển điểm nhìn là điểm nhìn không ở một vị trí bất biến, cố định mà có sự thay đổi dịch chuyển. Nhờ thế, “tấm thảm trần thuật” (Kojinov) trở nên phong phú, đa chiều và ý nghĩa tác phẩm trở nên sâu sắc hơn.
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu ta thấy có sự dịch chuyển liên tục từ điểm nhìn bên ngoài vào điểm nhìn bên trong.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, tha thiết kiếm tìm “hạt ngọc ẩn sâu đằng sau con người”. Ngay từ những trang văn đầu tiên, Nguyễn Minh Châu đã trao cho nhân vật phát hiện về vẻ đẹp nghệ thuật. Phùng – người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã đi tìm những bức ảnh cho bộ sưu tập cảnh biển của mình gần một tuần lễ mà chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Vậy mà chỉ trong khoảnh khắc anh đã bắt gặp “một cảnh đắt trời cho, ảnh chiếc thuyền ngoài xa lòe nhòe trên mặt biển đầy sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng như mặt trời chiếu vào.” Đứng trước vẻ đẹp toàn bích của nghệ thuật “trái tim nghệ sĩ như có cái gì bóp chặt vào, anh cảm thấy bối rối.” Cảm xúc bừng ngộ, khoảnh khắc thăng hoa của sáng tạo ngay lập tức đến với người nghệ sĩ. Anh có được những bức ảnh tuyết đẹp – “chân lí của sự hoàn thiện” được làm nên trong giây phút đó. Trong giây phút kì diệu đó người nghệ sĩ nhận ra “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, “khám phá thấy cái khoảng khắc trong ngần của tinh thần”. Nói cách khác, trong khoảnh khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái chân, thiện, mĩ, anh cảm thấy cuộc đời mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người.
Nếu như phát hiện thứ nhất của người nghệ sĩ đầy thơ mộng, đẹp đẽ thì phát hiện thứ hai thật bất ngờ như một trò đuà quái ác của cuộc sống. Bước ra từ một chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; một người đàn ông to lớn, thô kệch và dữ dằn với một cảnh tượng tàn nhẫn gã chồng đánh đập vợ tàn nhẫn, đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của cha. Chứng kiến những cảnh đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ: “ Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn” người nghệ sĩ như “chết lặng” không tin vào những gì đang diễn ra trước mặt.
Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã có sự thay đổi điểm nhìn trong diễn biến câu chuyện. Nguyễn Minh Châu đã đa dạng hóa, di chuyển điểm nhìn từ tác giả đến người kể chuyện, đến các nhân vật như nhiếp ảnh Phùng, rồi chánh án Đẩu và đặc biệt có lúc nhà văn trao cho nhân vật chức năng trần thuật để cho người đàn bà hàng chài tự kể lại cuộc đời mình. Với giọng điệu thầm trầm, xót xa thương cảm Nguyễn Minh Châu đã để cho người đàn bà hàng chài bộc lộ thông qua những lời kể tâm tình ở tòa án huyện. Bề ngoài là một người đàn bà nhẫn nhục, cam chịu, thường xuyên bị chồng đánh đập, hành hạ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Vậy mà chị vẫn nhất quyết không chịu bỏ chồng. Từ vẻ mặt rụt rè
sợ sệt của người đàn bà đã thốt lên một giọng khẩn thiết xuất phát từ đáy lòng mình: “Chị cảm ơn các chú... Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn... cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn.” Chị nhìn suốt cuộc đời lam lũ của mình để đưa ra một chân lí giản dị, mộc mạc nhưng thấm bao mặn chát của đời sống “ Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Đến đây câu chuyện được mở nút và vẻ đẹp của người phụ nữ miền biển thăng hoa, đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Như vậy cái, đằng sau sự việc đánh đập ấy, người phụ nữ đã đánh đổi cả sự sống tự do để lấy chút hơi ấm của người đàn ông nhưng mang duy trì sự sống trên thuyền.
Sự dịch chuyển điểm nhìn đã tạo nên những góc quét khác nhau, làm cho đối tượng được miêu tả đa chiều, phát huy tối đa sức sáng tạo của nhà văn.
Sự gia tăng điểm nhìn
Sự gia tăng điểm nhìn là cách nhà văn tìm cách vượt thoát ra khỏi lối viết truyền thống – xây dựng tác phẩm ở một điểm nhìn duy nhất. ở đây điểm nhìn được triển khai đa dạng, nhiều chiều gắn với người kể, các đặc điểm kể và thời điểm phân biệt.
Trong “Chiếc thuyền ngoài xa” sự gia tăng điểm nhìn được Nguyễn Minh Châu thể hiện trước hết ở việc sử dụng cả điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong xuất phát từ một chủ thể nhân vật xưng tôi, nghệ sĩ Phùng với cái nhìn khách quan cùng với những chiêm nghiệm, suy ngẫm đầy trăn trở, suy tư về mối quan hệ con người và nghệ thuật. Điểm nhìn từ nhân vật xưng tôi đã được dịch chuyển sang nhân vật người đàn bà hàng chài qua đó thấy được những mảng tối sáng khác nhau về nhân vật, khiến nhân vật hiện ra toàn diện sâu sắc hơn.
“Văn học” đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là đời sống con người. Với cái nhìn đôn hậu, ấm áp, yêu thương,Nguyễn Minh Châu đã đưa văn học trở về với đời sống. Qua “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm trong đó bao muối mặn gừng cay của cuộc đời, những triết lí nhân sinh sâu sắc. Làm nên thành công của tác phẩm chính là nhờ tổ chức điểm nhìn linh hoạt của nhà văn.
 
Dàn ý

- Dựng lên sự đối lập giữa "Bức tranh nghệ thuật đẹp như mơ" và tấn bi kịch của gia đình ngư dân phía sau bức tranh đẹp đẽ đó. Ông đã thể hiện rõ quan điểm nghệ thuật của mình:

+ Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống và phục vụ cuộc sống (bức tranh có con thuyền, có con người, có nhiều yếu tố thiên nhiên đẹp đẽ khác như sương mù, ánh bình minh…nhưng thiếu hơi thở cuộc sống, nó chỉ là bức ảnh thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của cuộc sống). Nghệ thuật đích thực phải thể hiện được bản chất sâu xa, sự thật ẩn sâu của cuộc sống. Ông đã từng khẳng định "Nhà văn không có quyền nhìn sự thật một cách đơn giản, nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử" . Đó là một cái nhìn đa diện, nhiều chiều, đi sâu khám phá sự thật của đời sống ở bình diện đạo đức, thế sự để hiểu đúng bản chất bên trong của hiện thực.

+ Người nghệ sĩ phải có tài năng và lòng dũng cảm trong quá trình phản ánh hiện thực: Tài năng nhìn nhận, đánh giá cuộc sống và phải dũng cảm để chỉ ra những điều tốt đẹp lẫn sự xấu xa, độc ác. Viết về "những vùng tối của hiện thực đời sống để góp phần hoàn thiện nhân cách làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn".

+ Nhà văn phải tự mình ý thức, phải đấu tranh để tự hoàn thiện mình vươn tới: Chân - Thiện - Mỹ.
Chính những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong công cuộc đổi mới Văn học mà trước hết là quan điểm nghệ thuật, cho nên ông được đánh giá là "Người mở đường tinh anh và tài năng" của Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.


“Văn học” đời sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là đời sống con người. Với cái nhìn đôn hậu, ấm áp, yêu thương,Nguyễn Minh Châu đã đưa văn học trở về với đời sống. Qua “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm trong đó bao muối mặn gừng cay của cuộc đời, những triết lí nhân sinh sâu sắc. Làm nên thành công của tác phẩm chính là nhờ tổ chức điểm nhìn linh hoạt của nhà văn.
Phần kết hay
 
Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

1. Giá trị nội dung

Từ câu chuyện về một bức ảnh nghê thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều chứ không thể đánh giá con người, sự vật qua vẻ bề ngoài của nó.
Đồng thời, câu chuyện trong bức ảnh nghệ thuật cũng đặt ra một vấn đề về nghệ thuật cho người nghệ sĩ. Đó là không nên nhìn cuộc sống qua lăng kính màu hồng mà cần phải lăn xả vào hiện thực để nhìn nhận nó một cách đúng đắn. Phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc sống và nghệ thuật, trả nghệ thuật về đúng với ý nghĩa thực của nó.

2. Giá trị nghệ thuật

Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tác giả đã dựng nên tình huống nghịch lí giữa hình ảnh của con thuyền khi ở ngoài xa với con thuyền lúc đến gần để tạo ra tình huống nhận thức cho nhân vật của mình, cũng là cho người đọc.
Cách khắc họa nhân vật, cốt truyện hấp dẫn kết hợp với ngôn ngữ sử dụng rất linh hoạt, sáng tạo góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm
Giọng điệu: chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp với tình huống nhận thức. Đồng thời cũng làm nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
---


Bài làm tham khảo: Những giá trị về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa

Chiếc thuyền ngoài xa ra đời ba năm trước thời điếm 1986 – mốc mà bất cứ một nhà văn Việt Nam xã hội chủ nghĩa nào cũng phải nhớ, như là năm khai sinh và tái sinh con đường nghệ thuật của mình, ít nhất là về tư thế cầm bút, họ được tự do.

Nguyễn Minh Châu được coi là vị khai quốc công thần của triều đại văn học đổi mới. Bắt đầu từ Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, truyện ngắn Nguyễn Minh Châu tăng dần độ rung chấn vào cơ địa văn đàn đương thời, dự báo một cuộc bung trào dung nham đổi mới triệt để của văn học nghệ thuật những năm sau đó. Cuộc bung trào dung nham này như là một nhu cầu nội sinh, xuất phát từ chính bản thân văn học, mặt khác, từ chính những biến đổi lớn lao của đời sống xã hội. Nhà văn bắt buộc phải kiểm soát những nhu cầu ấy, rời xa nó tức là chuốc lấy cho mình con đường hẹp, mọi sáng tác chỉ như một phê liệu của nghệ thuật mà thôi.

Nguyễn Minh Châu ý thức rất rõ nhu cầu của nùnh và nhu cầu của văn học. Ông từ giã chính ông, truy đuổi những cách khám nghiệm đời sống dưới góc nhìn và phương tiện mới. Trong Bức tranh và Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, ít nhất, sự truy đuổi ấy đã đặt Nguyền Minh Châu trước một thử thách triết học: sự tự nhận thức. Nhận thức không chỉ diễn ra dưới công năng của tư duy lí trí, mà dường như còn phải diễn ra bằng những luồng xung của tiềm thức, của vùng sâu vùng sáng và vùng tối trong tâm hồn. Cơ mà, cũng phải thấy, đôi khi ông bất lực để lí giải, lí giải cho nhân vật và lí giải cho hiện thực. Nhân vật của ông vượt qua những giăng bẫy hiện thực mà ông chân thật dựng nên, rơi vào trạng thái “bất khả tri”. Sự tự nhận thức trở nên đau đớn, trở thành một vết thương sẵn sàng thức tỉnh. Ai nào biết được khuôn mặt trong bức tranh kia là khuôn mặt gì của thời đại, của thế hệ, của từng cá nhản; ai biết được người đàn bà tên Quì ấy mắc một chứng bệnh cá nhân hay của thế hệ, của thời đại…?. Không dễ dàng đưa ra kết luận, cũng như các nhân vật kia, không dễ dàng dập tắt ngọn lửa tự nhận thức trong mình, dập tắt đồng nghĩa với thiêu rụi sự sống.

Chiếc thuyền ngoài xa nằm trong mạch sáng tác đòi hỏi cả độc giả và nhà văn phải nhận thức lại hiện thực. Hiện thực bây giờ không đơn giản là một vết xước rớm máu trên cánh tay trắng đẹp của cô gái thanh niên xung phong kia mà có lẽ phải là vết xước trong tâm hồn. Ở đó, mỗi cá nhân là một chỉnh thể, một sở hữu của vết xước, bảo toàn và chưng cất nó khiến sự nhận thức mãi mãi không đưa ra một hệ số bằng lòng.

Câu chuyện bắt đầu từ việc Phùng, phóng viên ảnh, đi “săn” một tấm hình, chụp cảnh binh minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ thuật, dĩ nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và quen thuộc, Phùng rời Hà Nội gần sáu trăm cây số, “phục” ở một bờ biển, nơi vẫn còn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến trường. Tâm thế Phùng là sẵn sàng chờ đợi, anh quen được Phác, một cậu bé thông minh ở vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh chụp được khá nhiều tấm hình cảnh ngư dân đánh mẻ lưới cuối cùng lúc bình minh lên. Nhưng tấm hình để đời, kiệt tác mà anh hằng mong muốn thì chưa có. Nghệ thuật nhiếp ảnh, qua cách hành xử của Phùng, ít nhiều là thứ quà tặng của thiên nhiên.

Và rồi thì anh cũng có một cảnh trời cho: “Trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh sáng mặt trôi chiếu vào. Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở liên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Những cảm xúc nghệ thuật mà Phùng đón nhận trước vẻ đẹp thiên nhiên quả làm cho ta cảm động. Nó là niềm hạnh phúc, nỗi sung sướng của kẻ luôn sẵn ý thức và trách nhiệm với con đẻ tinh thần mà mình hăng tâm nuôi dưỡng. Phùng rơi vào trạng thái “lên đồng”, một trạng thái cần có trước lúc sinh thành những cảm xúc sáng tạo: “Trong giây phút bối rối ấy, tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Vào khoảnh khắc đó Phùng hoàn toàn thành tâm với nghệ thuật, nó vừa là cái toàn thiện, cái đạo đức, cái trong ngần, vừa là hạnh phúc.. Anh được nó nâng đỡ, ban tặng đồng thời sáng tạo nó, cảm nhận nó. Và trong chốc lát anh “bấm liên thanh một hồi hết một phần tư cuốn phim”. “Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại” trong ống kính có lẽ là cái đẹp đạo đức của thiên nhiên. Thiên nhiên, ngay cả khi dữ dội nhất, tàn nhẫn nhất, người ta vẫn thu được khoảng khắc rất đẹp: núi lửa, tia chớp, sóng thần, bão cát… Thiên nhiên là bản thể tự nó. Cái gọi là “vẻ đẹp” kia chẳng qua là một chuỗi những thỏa thuận nằm ngoài nó, do con người tạo nên.

Nhưng câu chuyện đột nhiên chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc sống” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác, có lẽ còn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí giải, nhận thức hiện thực.

Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc đến mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn. Thế rồi chẳng biết từ bao giờ, tôi đã vứt chiếc máy ảnh xuống đất chạy nhào tới”. Phùng lao tới nơi người đàn ông “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rũ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà “cao lớn với những nét thô kệch”, “lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két”… Nhưng Phùng đã bị cản lại bởi “bóng một đứa con nít”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giật chiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, lão “dang thẳng cánh tay cho thằng bé hai cái tát”. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Kết thúc cái cảnh tượng ấy, “bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ”, chỉ còn Phùng, cậu bé Phác và tiếng sóng ngoài khơi, tất cả chìm vào cõi im lặng…

Có lẽ, đó là một hiện chực “quái đản”. Một hiện thực hiển nhiên mà không thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng. Người chồng đánh đặp vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm và bản năng. Những đứa con bất lực nhìn cảnh bạo lực diễn ra ở chính cha mẹ chúng. Tất cả đều im lặng, triền miên ở ngay nơi chiến tranh vừa đi qua. Tất cả đều diễn ra đằng sau cái vẻ đẹp đơn giản và toàn bích của thiên nhiên. Một hiện thực quái đản xâm lấn ngay sau phút giây hạnh phúc của người nghệ sĩ. Một nỗi đau và dìm nén nỗi đau, một bình yên và phá hoại bình yên, một dư chấn và một khoảng lặng cứ đan cài nhau giữa muôn trùng tiếng sóng biển. Và rồi, cũng như trong câu chuyện cổ quái đản, tất cả đều biến mất, tất cả cứ lặp lại…

Lần thứ hai chứng kiến, Phùng trở thành người hùng, anh đánh quật gã đàn ông vũ phu bằng cú đánh của người “không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh…”. Phùng nhân danh một người lính – những người đã đổ máu để giành lại bình yên cho đồng bào mình, chăng? Hay ở anh còn có một động cơ “đạo đức” của người nghệ sĩ – người biết thưởng thức và giữ gìn vẻ đẹp toàn thiện chứ không phải là toàn ác, tha hóa?

Phùng đã nhờ Đẩu, người bạn đồng ngũ nay là chánh án huyện phụ trách địa bàn, can thiệp vào trường hợp gia đình vợ chồng thuyền chài này. Những cú đánh của Phùng chỉ là phản ứng nhất thời, anh cần đến tiếng nói của một quan tòa. Nhưng rút cuộc, cả Đẩu và Phùng chỉ như những đứa trẻ, đi hết bất ngờ rồi phẫn nộ rồi im lặng trước lời thú tội, kế lể của người đàn bà: “Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú, Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Hóa ra, ở người đàn bà xấu xí và tội nghiệp này là cả một hiện thực “bất khá tri”. Bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng như chức phận mà mình có được, thỏa nguyện vì chức phận đó. Trong thâm tâm bà, những nỗi đau đớn mà mình gánh chịu xứng đáng như thế vì bởi bà… đẻ nhiều con quá. Điều đó đồng nghĩa với cái đói, cái nghèo khổ còn bám riết lấy gia đình này. Nhưng thực tế, cái đói, cái nghèo khổ đâu chỉ bởi bà đẻ nhiều, mà nó cùng là một thiên thức rất đàn bà thôi. Trong lời thú tội ngậm ngùi, chân thật và tê tái của bà, có những câu hỏi không dễ trả lời, những mâu thuẫn khó giải thích: để yêu thương và sống qua muôn nỗi khó khăn, cơ cực, đôi khi người ta phải chấp nhận sự tàn nhẫn, tha hóa, phi đạo đức.

Người chồng vốn dĩ hiền lành, nghĩa hiệp. Sự khốn cùng, mong manh của đời sống chài lưới đã biến ông ta thành vũ phu. Có phải là một Chí Phèo, một quỷ dữ bước ra từ cái làng hẻo lánh kia không? Tại sao, dưới cái xã hội mới này, nơi mà “giấc mơ đại tự sự” đã lan tỏa trong mọi không gian nhỏ hẹp của đời sống, vẫn có những mảnh đời đau đớn, tha hóa kia?

Hành động vũ phu hay là sự bế tắc, hay là sự giải thoát của những con người tội nghiệp. “Bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh, cũng như đàn ông thuyền khác uống rượu… Sau này con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão… đưa tôi lên bờ mà đánh…”. Rõ ràng, đây là một cách giải thoát trong bế tắc, một giải thoát dầm nước mắt và đau đớn.

Cả Đẩu và Phùng đều thốt lên: ”Không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”. Họ không thể hiểu tại sao hai con người nhỏ bé kia lại chấp nhận sống và yêu thương bằng kiểu lạ lùng như vậy. Dù lời kể cua người đàn bà phần nào giúp họ nhận ra những ẩn ức thẳm sâu nhưng họ vẫn dừng lại trên bờ vực của sự nhận thức hiện thực. Họ chưa thể nào dò thấu đáy sâu của nổi ẩn ức kia cũng như hiện thực đang diễn ra trước mặt họ.

Tình huống mà Phùng không lường trước trong chuyến đi này có phải là tình huống dựng của nhà văn? Nhà văn đặt nhân vật và độc giả vào một tình huống phải nhận thức. Nhưng nhân vật đã không lí giải được hiện thực, tiếng nói của quan tòa cũng trở nên lạc lõng. Họ chấp nhận nó bằng những thỏa thuận bên ngoài. Cơn bão biển khơi lại nổi lên, biển động, gia đình thuyền chài này rất có thể lại phải nhịn ăn, đói rách. Cái cảnh tượng thường tình kia, sẽ lại xảy ra “Con sói con” – cậu bé Phác, lại phải thủ một con dao trong mình để trấn áp người cha, trấn áp người đàn ông lầm lũi kia… Những dự cảm buồn như vết xước trở đi trở lại trong tâm hồn. Những tâm hồn đầy vùng tối.

Phùng đã có một tấm hình để đời, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật. Nhưng ám ảnh về cảnh tượng đằng sau bức ảnh thì không thể xóa mờ. Đằng sau vẻ đẹp vĩnh hằng kia cũng là nỗi đau vĩnh viễn. Nghệ thuật đã che giấu, khỏa lấp cái tha hóa, phi đạo đức? Hay nghệ thuật “bất khả tri” trước hiện thực? Cũng như chiếc thuyền ngoài xa, nghệ thuật chỉ

có thể nắm bắt được cái bóng của nó, cái bóng của hiện thực, vẻ ngoài của nghệ thuật, đôi khi như màn sương làm “mờ hóa” khả năng tri nhận ở chúng ta. “Bất khá tri” trở thành niềm day dứt của người nghệ sĩ. Với người nghệ sĩ, thiên chức là ngưỡng vọng và sáng tạo một vẻ đẹp toàn thiện nhưng sẽ là kẻ tội đồ nếu vẻ đẹp ấy làm che khuất và quên đi những bất hạnh trong đời. Cái đẹp không chỉ là đạo đức, nó là sự phản tỉnh.

Cá nhân Phùng, Đẩu sẽ không đủ sức lí giải, chấm dứt bi kịch của gia đình thuyền chài kia. Họ chưa đủ làm ánh sáng để xua đi vùng tối trong tâm hồn những con người bé nhỏ, khổ đau. Trước vẻ đẹp của thiên nhiên, Phùng hoàn toàn thâu nhận. Trước số phận của người đàn bà, Phùng là người ngoài cuộc. Mâu thuẫn đó dường như đeo đẳng suốt hành trình sáng tạo của nghệ thuật.

Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn giàu chất điện ảnh do có sự gia tăng của kiểu chi tiết – hình ảnh. Trường đoạn Phùng chứng kiến người chồng hành hung vợ là trường đoạn được kể bằng hình ảnh. Nó diễn ra dưới một cú quay toàn cảnh kéo dài. Kịch tính đến nghẹt thở, bất ngờ đến choáng váng. Yếu tố “động” của chi tiết được bao bọc trong sự yên tĩnh của cảnh, cảm giác máy quay không di chuyển. Lời thoại rút giảm tối đa, những hình ảnh khô khốc và bạo lực. Tiếng nghiến răng ken két của gã đàn ông vũ phu, tiếng thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà ngưng đọng giữa tiếng sóng biển. Thứ âm thanh dẫn dắt cảm xúc người đọc – người xem vào những mao mạch trí nhớ khác nhau, hoặc rát buốt hoặc tê cóng hoặc câm nín. Kết thúc trường đoạn, cảnh vật trở nên bình lặng, yên ả như chưa hề nhuốm sắc thái bạo lực khốc liệt. Một sự trả về hờ hững của thiên nhiên. Ống kính dừng lại ở một khoảnh khắc bình yên mà nhức buốt tâm can… Sử dụng yếu tố điện ảnh, Nguyễn Minh Châu tạo nên hiện thực gần như một cuốn phim tư liệu, chân thực và xúc động.

Là kiểu truyện ngắn mở ra tình huống nhận thức, Nguyễn Minh Châu còn sử dụng tính biểu tượng. Biểu tượng từ việc đặt tên nhân vật (Phùng – gặp gỡ, chứng kiến, ngụ ý người quan sát; Đẩu – vị phán quyết; Phác – sự thuần hậu, ngụ ý một phẩm chất của nghệ thuật; đứa con gái của vợ chồng thuyền chài – nàng tiên cá, ngụ ý vẻ đẹp bí ẩn mà cuộc sống ban tặng) đến biểu tượng trung tâm: chiếc thuyền ngoài xa. Chiếc thuyền ngoài xa hay là sự bất khả tri, kiểm soát và chứng kiến được? Chiếc thuyền ngoài xa mãi mài là một khát vọng tìm kiếm, với tới để níu giữ, để nhìn lại. Khi chiếc thuyền vẫn còn ở ngoài xa, những định giá và huyền tưởng về nó vẫn chỉ nằm trong một lớp sương mờ ảo mà thôi.

Năm 1983, khi Chiếc thuyền ngoài xa ra đời, đất nước vẫn chưa thoát khỏi dư chấn của chiến tranh, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, số phận cá nhân nằm im dưới lớp băng hà của “giấc mơ đại tự sự”. Với những dự cảm thời cuộc sắc bén và tài năng nghệ thuật của mình, Nguyễn Minh Châu đã giúp lớp băng hà kia có những vết nứt cần thiết, vết nứt để nhìn ra vùng tối, và có thể, đón nhận vùng sáng.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top