"Tràng giang" điệp điệp ký ức Huy Cận
Bài thơ “Tràng giang” được rút ra từ tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay (được sáng tác vào những năm 1937 – 1940) đã khẳng định vị trí hàng đầu của Huy Cận trong làng thơ mới. Đến nay, “Tràng giang” vẫn được coi là mẫu mực của thơ ca tiếng Việt quốc ngữ.
Thưa nhà thơ Huy Cận, những năm ba mươi có thể coi là một thập kỷ ánh sáng của thơ Việt Nam. Cùng với sự bùng nổ mãnh liệt của chữ Quốc ngữ, thơ ca thay da đổi thịt trong luồng gió mới trẻ trung chưa từng có, Hàng loạt các nhà thơ liên tiếp xuất hiện và gây nên những chấn động lớn bàng hoàng cả thi đàn và những người yêu thơ, như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử. Cái không khí thơ ca ấy quá bây giờ hoặc sau này rất khó tìm lại được…
Nhà thơ Huy Cận: Nếu có những người được coi là thi sĩ đích thực thì phải nhắc đến những nhà thơ thời đó. Họ đến với thơ trong sạch, tinh khiết và không hề vụ lợi. Cái không khí thơ ca thời đó thật tưng bừng và cuốn hút tất thẩy những ai dễ rung động và lây lan. Ngày ấy trên đầu các nhà thơ đều lấp lánh một vầng hào quang thực sự. Họ sống và hạnh phúc vì được làm thơ, cho nên Thơ Mới mới có một cú “đoạn tuyệt” thật ngoạn mục với thơ cũ. Mỗi nhà thơ khi ấy không chỉ là nhà thơ đơn thuần mà còn là chiến sĩ tranh đấu cho thơ. Chữ Quốc ngữ được dùng thật đắc địa. Vì có nhiều nhà thơ nên hầu như mỗi từ đều được soi dọi, phân tích, và tôn vinh nhiều lần trong các bài thơ. Chính thế ngôn ngữ được bồi đắp nghĩa một cách đa dạng, sâu sắc và thấm nhuần một luồng tinh thần mới.
Điều đó dường như chưa đủ để cắt nghĩa cho sự thành công của Thơ Mới. Phải chăng trong cái tâm trạng nô lệ, mất nước, các nhà thơ đã trút tất cả tâm huyết và ý chí của mình vào công việc làm thơ, giải tỏa phần nào nỗi nhục mất nước. Mất nước đồng nghĩa với mất đi quê hương trong tâm hồn, mất đi cái căn cốt xây đắp nên nền tảng của mỗi đời người. Tôi cảm giác rằng thiếu vắng quê hương không chỉ các nhà thơ bấy giờ phải mang nặng mà nó là tâm trạng của tất cả những ai còn có một chút ý thức về dân tộc. Các nhà thơ ngoài sự thỏa mãn khát vọng thơ ca, họ còn đến với thơ như tìm về với Quê hương trong tâm hồn mình. Đấy có thể là yếu tố quan trọng và quyết định cho sự thành công của Thơ Mới?
Nhà thơ Huy Cận: Đúng, Tôi còn nhớ tâm trạng của tôi khi đó. Một tâm trạng tha hương, lưu lạc ngay trên Tổ quốc, ngay trên Đất Mẹ của mình. Điều này thực khủng khiếp, vì con người sẽ bị khủng hoảng tinh thần tận gốc rễ. Chúng ta thử tưởng tượng xem, những thi sĩ tạo nên thi đàn bấy giờ phần chính đều là trẻ trung, tươi mới và chưa quá tuổi hai mươi. Tuổi hai mươi là tuổi hăng say nhất, khí phách nhất và ý thức về danh dự mạnh mẽ nhất, tuổi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để bảo toàn lấy danh dự của mình, của dân tộc mình. Nhưng những nhà thơ của tuổi hai mươi ấy lại phải chứng kiến kẻ thù giầy xéo mảnh đất yêu thương, tiếng mẹ đẻ bị đẩy ra, chỉ được giảng phụ khóa trong các trường học, những giá trị tinh thần của ông cha bị coi rẻ, vùi lấp. Các thế hệ kế tiếp đứng trước một thực trạng đau đớn, có nguy cơ bị mất gốc hoàn toàn, bị cắt lìa ra khỏi tinh thần cho ông như một cành cây. Và để bảo toàn nó, tức là bảo toàn các giá trị tinh thần đã truyền đời qua ngàn ngàn thế hệ, đã tiếp sức cho các thế hệ trước và truyền lại cho thế hệ sau này, các nhà thơ lúc ấy đã mang tất cả tâm huyết và sinh lực của mình ra để sáng tạo, để níu giữ và bồi trì cho quê hương bất chấp sự áp đặt và xâm lấn của một nền văn minh khác. Với ý tưởng này, các nhà thơ mới bấy giờ, xứng đáng là những chiến sĩ kiên cường của nền thơ ca Việt Nam.
Điều đó có thể lý giải cái không khí buồn bã, quạnh hiu trong tập Lửa thiêng. Tập Lửa thiêng được sáng tác vào khoảng năm 1937 – 1940. Đó là những năm mà phong trào dân chủ đang sôi nổi nhất, báo chí được phát triển khá mạnh, xã hội bừng bừng khí thế cho cuộc tập dượt cách mạng lần thứ hai. Chính trong không khí háo hức chuẩn bị, chờ đợi đó, con người càng nhận rõ sự mất nước, sự thiếy vắng Quê hương trong hồn mình. Điều này có lẽ tác động rất mạnh vào tâm hồn chàng trai 18 tuổi là ông. Và nỗi mất mát không có gì bù đắp ấy, đã không ngừng tạo ra không khí buồn bã và u tịch trong Lửa thiêng và đặc biệt là trong bà Tràng giang, một bài thơ thành công vang dội mà ngay khi vừa xuất hiện các nhà thơ đồng thời đã nhìn nhận nó thuộc vào hàng “cổ điển” tức là thuộc về khuôn mẫu của thơ ca.
Nhà thơ Huy Cận: Tôi sáng tác bài Tràng giang vào mùa thu năm 1939 khi tôi đang học năm thứ ba trường Cao đẳng nông lâm. Tôi luôn luôn bị một mối sầu lớn vò xé tâm hồn. Hà Nội bấy giờ còn rậm rạp đầy cây cối và hồ nước. Tôi thường đi xe đạp lên đường đê Nhật Tân, con đê nằm giữa Hồ Tây và Sông Hồng. Cảnh vật hoang vắng lạ thường. Mùa đó là mùa nước lũ từ nguồn đổ về làm dòng sông Hồng mới trước đó còn tĩnh lặng, chậm chạp đột nhiên mở rộng lòng ra mênh mang, đỏ quánh cuồn cuộn để về đông. Tôi thường đứng lặng để ngắm cảnh tượng vừa hùng vĩ vừa hoang vắng ấy. Buổi chiều tháng chín năm 1939 đó, như thường lệ, tôi lại đứng ngắm nhìn dòng sông Hồng, thấy rác rều, bèo bọt trôi nổi lênh đênh và phía xa xa một dòng hơi sương lam dâng lên mơ hồ. Tĩnh lặng. Ngay cả bóng người cũng không có. Một đôi ba cánh chim chấp chới giữa một vòm trời về chiều nhạt mờ u ám. Có lẽ cảnh thiên nhiên không đến nỗi thiếu sức sống như thế, nhưng có thể tâm hồn tôi khi đó đã rung lên đúng điệu buồn bã cô hoài. Thiên nhiên đã nhập vào tôi theo điệu cô hoài đó và từng lời từng lời bắt đầu như có dòng nước lũ muốn cuốn ra từ lòng tôi.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Theo như xuất xứ của bài thơ, dòng sông Hồng khi đó đang mùa lũ, mênh mông cuồn cuộn. Thế nước thật hùng vĩ. Thế nhưng ngay hình ảnh ban đầu nhập vàp bài thơ, con sông lại có vẻ nhẹ nhàng, buồn bã. Động từ “gợn” ở đây nhẹ nhàng gợn lên những điều gì mong manh mơ hồ vừa như da diết vừa như dè chừng một điều gì đó, lại thêm từ “tràng giang” được đặt ngay sau. “Sóng gợn tràng giang” ngay lập tức người ta có thể cảm thấy một cảm giác mơ hồ buồn bã vô tận. Để xác định lại cảm giác ấy câu thơ đi nốt phần nghĩa của mình “buồn điệp điệp”. “Điệp điệp” là nỗi buồn chồng chất tầng tầng lớp lớp, nhưng như thế dường như lại trái nghĩa đối với nỗi buồn được “gợn” lên và kéo dài?
Nhà thơ Huy Cận: Tôi phải khẳng định rằng, trong tâm hồn con người ché không chỉ là tâm hồn thi sĩ, không phải cảnh đi vào tâm mà luôn luôn tâm phóng chiếu ra cảnh. Nguyễn Du từng viết:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
“Sóng gợn tràng giang”, quả là động từ “gợn” sẽ khiến nhiều người thắc mắc khi biết và đọc phần sau bài thơ. Một dòng sông Hồng mùa lũ không thể có động từ nhẹ nhàng thế được. Nhưng chính trong khung cảnh cuồn cuộn hùng vĩ của dòng sông Hồng đó, động từ “gợn” như một cái gương đối lập làm nổi bật lên nỗi sầu khôn tả của thi sĩ. Người ta buộc phải dừng lại ở động từ như thể “nghịch lý” này, tìm hiểu nó, đánh giá nó, phán quyết nó để cuối cùng nhận ra nỗi sầu kia. Và chỉ cần nhận ra điều đó cả thi si lẫn người đọc sẽ bị cuốn vào “điệp điệp” nỗi sầu. ở đây không có gì mẫu thuẫn cả. Chỉ là sự thay đổi tâm lý. Nó dẫn tới hình ảnh:
Con thuyền xuôi mái nước song song
“Xuôi mái” có thể là con thuyền nương theo dòng nước mà đi, nhưng có thể là con thuyền bất lực ngay cả với mái chèo của mình, lênh đênh cho dòng nước cuốn đi. “Buông điệp điệp” không chỉ ở tâm tư nữa mà nó đã hiện lên bằng hình ảnh.
Những từ “song song”đã lý giải rõ hơn rằng, con thuyền đó quả là nương theo dòng nước. Có thể khó giải thích ý nghĩa này nếu như hình ảnh con thuyền không được lặp lại đầy ẩn ý:
Thuyền về nước lại sâu trăm ngả
Hình ảnh con thuyền và dòng nước luôn luôn là một hình ảnh nói lên sự gắn bó thân thiết. Cho dù có bị cái “buồn điệp điệp” đè nặng, nhưng ít nhất cảnh tình còn cảm thấy gắn bó bớt cô đơn. Con thuyền trên sông giống như cái nút níu giữ cuối cùng cho sự gắn bó của cảnh của tình. Nhưng khi nó dừng chân ở một bến bờ nào đó, cảnh vật dòng sông đột ngột tịch liêu và rời rã. Phải chăng nhà thơ đã rút cái “nút sầu” cuối cùng của bài thơ …
Nhà thơ Huy Cận: Đó là “nút sầu” mở đầu thì đúng hơn. Tuy nỗi buồn phía trên có “điệp điệp” nhưng cũng chưa đủ kiến tạo cảm giác cô liêu. Chúng ta phải để ý đến sự thay đổi từ, từ chữ “buồn” tác giả trực tiếp nhấn mạnh sang chữ “sầu”. ở đây có sự tăng cấp rõ ràng của nỗi buồn. “Buồn điệp điệp” và “sầu trăm ngả”. Nỗi buồn không chỉ có bề sâu nữa mà nó còn được mở rộng ra “trăm ngả”. Bấy giờ dòng nước đã đồng nghĩa với dòng sâu, nước bao nhiêu sầu bấy nhiêu, nước cuồn cuộn hung nộ bao nhiêu, sầu thảm khốc bấy nhiêu. ở đây dòng sông sầu thảm trong tâm hồn nhà thơ đã tuôn chảy ra và hòa làm một với dòng sông kia. Khoảng khắc này là khoảng khắc quan trọng của bài thơ, khi tâm hồn thi sĩ đã nhập cảnh một cách chọn vẹn. Bấy giờ bất kỳ hình ảnh nào, bất kỳ tiếng vang nào cũng máu thịt đối với nhà thơ và nó chính là đời sống tâm hồn của nhà thơ. Bấy giờ chỉ có tiếng nước, tiếng sầu cuồn cuộn, nức nở, triền miên và vô biên. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. “Nước lại”, hai chữ có âm trắc đi liền nhau và đứng vào giữa khoảng khắc “thuyền về” và “sầu trăm ngả”. Nó không du dương, nhiệm vụ của nó là thức tỉnh người đọc.
Bài thơ “Tràng giang” được rút ra từ tập “Lửa thiêng”, tập thơ đầu tay (được sáng tác vào những năm 1937 – 1940) đã khẳng định vị trí hàng đầu của Huy Cận trong làng thơ mới. Đến nay, “Tràng giang” vẫn được coi là mẫu mực của thơ ca tiếng Việt quốc ngữ.
Thưa nhà thơ Huy Cận, những năm ba mươi có thể coi là một thập kỷ ánh sáng của thơ Việt Nam. Cùng với sự bùng nổ mãnh liệt của chữ Quốc ngữ, thơ ca thay da đổi thịt trong luồng gió mới trẻ trung chưa từng có, Hàng loạt các nhà thơ liên tiếp xuất hiện và gây nên những chấn động lớn bàng hoàng cả thi đàn và những người yêu thơ, như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mạc Tử. Cái không khí thơ ca ấy quá bây giờ hoặc sau này rất khó tìm lại được…
Nhà thơ Huy Cận: Nếu có những người được coi là thi sĩ đích thực thì phải nhắc đến những nhà thơ thời đó. Họ đến với thơ trong sạch, tinh khiết và không hề vụ lợi. Cái không khí thơ ca thời đó thật tưng bừng và cuốn hút tất thẩy những ai dễ rung động và lây lan. Ngày ấy trên đầu các nhà thơ đều lấp lánh một vầng hào quang thực sự. Họ sống và hạnh phúc vì được làm thơ, cho nên Thơ Mới mới có một cú “đoạn tuyệt” thật ngoạn mục với thơ cũ. Mỗi nhà thơ khi ấy không chỉ là nhà thơ đơn thuần mà còn là chiến sĩ tranh đấu cho thơ. Chữ Quốc ngữ được dùng thật đắc địa. Vì có nhiều nhà thơ nên hầu như mỗi từ đều được soi dọi, phân tích, và tôn vinh nhiều lần trong các bài thơ. Chính thế ngôn ngữ được bồi đắp nghĩa một cách đa dạng, sâu sắc và thấm nhuần một luồng tinh thần mới.
Điều đó dường như chưa đủ để cắt nghĩa cho sự thành công của Thơ Mới. Phải chăng trong cái tâm trạng nô lệ, mất nước, các nhà thơ đã trút tất cả tâm huyết và ý chí của mình vào công việc làm thơ, giải tỏa phần nào nỗi nhục mất nước. Mất nước đồng nghĩa với mất đi quê hương trong tâm hồn, mất đi cái căn cốt xây đắp nên nền tảng của mỗi đời người. Tôi cảm giác rằng thiếu vắng quê hương không chỉ các nhà thơ bấy giờ phải mang nặng mà nó là tâm trạng của tất cả những ai còn có một chút ý thức về dân tộc. Các nhà thơ ngoài sự thỏa mãn khát vọng thơ ca, họ còn đến với thơ như tìm về với Quê hương trong tâm hồn mình. Đấy có thể là yếu tố quan trọng và quyết định cho sự thành công của Thơ Mới?
Nhà thơ Huy Cận: Đúng, Tôi còn nhớ tâm trạng của tôi khi đó. Một tâm trạng tha hương, lưu lạc ngay trên Tổ quốc, ngay trên Đất Mẹ của mình. Điều này thực khủng khiếp, vì con người sẽ bị khủng hoảng tinh thần tận gốc rễ. Chúng ta thử tưởng tượng xem, những thi sĩ tạo nên thi đàn bấy giờ phần chính đều là trẻ trung, tươi mới và chưa quá tuổi hai mươi. Tuổi hai mươi là tuổi hăng say nhất, khí phách nhất và ý thức về danh dự mạnh mẽ nhất, tuổi sẵn sàng đánh đổi mọi thứ để bảo toàn lấy danh dự của mình, của dân tộc mình. Nhưng những nhà thơ của tuổi hai mươi ấy lại phải chứng kiến kẻ thù giầy xéo mảnh đất yêu thương, tiếng mẹ đẻ bị đẩy ra, chỉ được giảng phụ khóa trong các trường học, những giá trị tinh thần của ông cha bị coi rẻ, vùi lấp. Các thế hệ kế tiếp đứng trước một thực trạng đau đớn, có nguy cơ bị mất gốc hoàn toàn, bị cắt lìa ra khỏi tinh thần cho ông như một cành cây. Và để bảo toàn nó, tức là bảo toàn các giá trị tinh thần đã truyền đời qua ngàn ngàn thế hệ, đã tiếp sức cho các thế hệ trước và truyền lại cho thế hệ sau này, các nhà thơ lúc ấy đã mang tất cả tâm huyết và sinh lực của mình ra để sáng tạo, để níu giữ và bồi trì cho quê hương bất chấp sự áp đặt và xâm lấn của một nền văn minh khác. Với ý tưởng này, các nhà thơ mới bấy giờ, xứng đáng là những chiến sĩ kiên cường của nền thơ ca Việt Nam.
Điều đó có thể lý giải cái không khí buồn bã, quạnh hiu trong tập Lửa thiêng. Tập Lửa thiêng được sáng tác vào khoảng năm 1937 – 1940. Đó là những năm mà phong trào dân chủ đang sôi nổi nhất, báo chí được phát triển khá mạnh, xã hội bừng bừng khí thế cho cuộc tập dượt cách mạng lần thứ hai. Chính trong không khí háo hức chuẩn bị, chờ đợi đó, con người càng nhận rõ sự mất nước, sự thiếy vắng Quê hương trong hồn mình. Điều này có lẽ tác động rất mạnh vào tâm hồn chàng trai 18 tuổi là ông. Và nỗi mất mát không có gì bù đắp ấy, đã không ngừng tạo ra không khí buồn bã và u tịch trong Lửa thiêng và đặc biệt là trong bà Tràng giang, một bài thơ thành công vang dội mà ngay khi vừa xuất hiện các nhà thơ đồng thời đã nhìn nhận nó thuộc vào hàng “cổ điển” tức là thuộc về khuôn mẫu của thơ ca.
Nhà thơ Huy Cận: Tôi sáng tác bài Tràng giang vào mùa thu năm 1939 khi tôi đang học năm thứ ba trường Cao đẳng nông lâm. Tôi luôn luôn bị một mối sầu lớn vò xé tâm hồn. Hà Nội bấy giờ còn rậm rạp đầy cây cối và hồ nước. Tôi thường đi xe đạp lên đường đê Nhật Tân, con đê nằm giữa Hồ Tây và Sông Hồng. Cảnh vật hoang vắng lạ thường. Mùa đó là mùa nước lũ từ nguồn đổ về làm dòng sông Hồng mới trước đó còn tĩnh lặng, chậm chạp đột nhiên mở rộng lòng ra mênh mang, đỏ quánh cuồn cuộn để về đông. Tôi thường đứng lặng để ngắm cảnh tượng vừa hùng vĩ vừa hoang vắng ấy. Buổi chiều tháng chín năm 1939 đó, như thường lệ, tôi lại đứng ngắm nhìn dòng sông Hồng, thấy rác rều, bèo bọt trôi nổi lênh đênh và phía xa xa một dòng hơi sương lam dâng lên mơ hồ. Tĩnh lặng. Ngay cả bóng người cũng không có. Một đôi ba cánh chim chấp chới giữa một vòm trời về chiều nhạt mờ u ám. Có lẽ cảnh thiên nhiên không đến nỗi thiếu sức sống như thế, nhưng có thể tâm hồn tôi khi đó đã rung lên đúng điệu buồn bã cô hoài. Thiên nhiên đã nhập vào tôi theo điệu cô hoài đó và từng lời từng lời bắt đầu như có dòng nước lũ muốn cuốn ra từ lòng tôi.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Theo như xuất xứ của bài thơ, dòng sông Hồng khi đó đang mùa lũ, mênh mông cuồn cuộn. Thế nước thật hùng vĩ. Thế nhưng ngay hình ảnh ban đầu nhập vàp bài thơ, con sông lại có vẻ nhẹ nhàng, buồn bã. Động từ “gợn” ở đây nhẹ nhàng gợn lên những điều gì mong manh mơ hồ vừa như da diết vừa như dè chừng một điều gì đó, lại thêm từ “tràng giang” được đặt ngay sau. “Sóng gợn tràng giang” ngay lập tức người ta có thể cảm thấy một cảm giác mơ hồ buồn bã vô tận. Để xác định lại cảm giác ấy câu thơ đi nốt phần nghĩa của mình “buồn điệp điệp”. “Điệp điệp” là nỗi buồn chồng chất tầng tầng lớp lớp, nhưng như thế dường như lại trái nghĩa đối với nỗi buồn được “gợn” lên và kéo dài?
Nhà thơ Huy Cận: Tôi phải khẳng định rằng, trong tâm hồn con người ché không chỉ là tâm hồn thi sĩ, không phải cảnh đi vào tâm mà luôn luôn tâm phóng chiếu ra cảnh. Nguyễn Du từng viết:
“Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
“Sóng gợn tràng giang”, quả là động từ “gợn” sẽ khiến nhiều người thắc mắc khi biết và đọc phần sau bài thơ. Một dòng sông Hồng mùa lũ không thể có động từ nhẹ nhàng thế được. Nhưng chính trong khung cảnh cuồn cuộn hùng vĩ của dòng sông Hồng đó, động từ “gợn” như một cái gương đối lập làm nổi bật lên nỗi sầu khôn tả của thi sĩ. Người ta buộc phải dừng lại ở động từ như thể “nghịch lý” này, tìm hiểu nó, đánh giá nó, phán quyết nó để cuối cùng nhận ra nỗi sầu kia. Và chỉ cần nhận ra điều đó cả thi si lẫn người đọc sẽ bị cuốn vào “điệp điệp” nỗi sầu. ở đây không có gì mẫu thuẫn cả. Chỉ là sự thay đổi tâm lý. Nó dẫn tới hình ảnh:
Con thuyền xuôi mái nước song song
“Xuôi mái” có thể là con thuyền nương theo dòng nước mà đi, nhưng có thể là con thuyền bất lực ngay cả với mái chèo của mình, lênh đênh cho dòng nước cuốn đi. “Buông điệp điệp” không chỉ ở tâm tư nữa mà nó đã hiện lên bằng hình ảnh.
Những từ “song song”đã lý giải rõ hơn rằng, con thuyền đó quả là nương theo dòng nước. Có thể khó giải thích ý nghĩa này nếu như hình ảnh con thuyền không được lặp lại đầy ẩn ý:
Thuyền về nước lại sâu trăm ngả
Hình ảnh con thuyền và dòng nước luôn luôn là một hình ảnh nói lên sự gắn bó thân thiết. Cho dù có bị cái “buồn điệp điệp” đè nặng, nhưng ít nhất cảnh tình còn cảm thấy gắn bó bớt cô đơn. Con thuyền trên sông giống như cái nút níu giữ cuối cùng cho sự gắn bó của cảnh của tình. Nhưng khi nó dừng chân ở một bến bờ nào đó, cảnh vật dòng sông đột ngột tịch liêu và rời rã. Phải chăng nhà thơ đã rút cái “nút sầu” cuối cùng của bài thơ …
Nhà thơ Huy Cận: Đó là “nút sầu” mở đầu thì đúng hơn. Tuy nỗi buồn phía trên có “điệp điệp” nhưng cũng chưa đủ kiến tạo cảm giác cô liêu. Chúng ta phải để ý đến sự thay đổi từ, từ chữ “buồn” tác giả trực tiếp nhấn mạnh sang chữ “sầu”. ở đây có sự tăng cấp rõ ràng của nỗi buồn. “Buồn điệp điệp” và “sầu trăm ngả”. Nỗi buồn không chỉ có bề sâu nữa mà nó còn được mở rộng ra “trăm ngả”. Bấy giờ dòng nước đã đồng nghĩa với dòng sâu, nước bao nhiêu sầu bấy nhiêu, nước cuồn cuộn hung nộ bao nhiêu, sầu thảm khốc bấy nhiêu. ở đây dòng sông sầu thảm trong tâm hồn nhà thơ đã tuôn chảy ra và hòa làm một với dòng sông kia. Khoảng khắc này là khoảng khắc quan trọng của bài thơ, khi tâm hồn thi sĩ đã nhập cảnh một cách chọn vẹn. Bấy giờ bất kỳ hình ảnh nào, bất kỳ tiếng vang nào cũng máu thịt đối với nhà thơ và nó chính là đời sống tâm hồn của nhà thơ. Bấy giờ chỉ có tiếng nước, tiếng sầu cuồn cuộn, nức nở, triền miên và vô biên. “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. “Nước lại”, hai chữ có âm trắc đi liền nhau và đứng vào giữa khoảng khắc “thuyền về” và “sầu trăm ngả”. Nó không du dương, nhiệm vụ của nó là thức tỉnh người đọc.