Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
"Ngô Tiên Chúa cả phá quân Lưu Hoằng Thao, Trần Hưng Đạo bắt sống Ô-mã-nhi, đều là ở sông Bạch Đằng và đều là những võ công lừng lẫy nhất của nước ta. Danh tiếng các vị hào kiệt ấy đời đời còn mãi với ngàn thu sông núi.
Dấu vết hôi tanh của giặc Hán và giặc Nguyên cũng còn mãi với nước non ta, làm sao mà rửa hết được. Giang sơn của nước Nam này đã được định rõ trong sách trời. Giặc Bắc dẫu có cậy trí lực mạnh để chiếm cứ thì rốt cuộc, lấy được cũng không thể nào giữ được. Vậy thì tham việc binh đao phỏng có ích gì?
Bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu có câu: “Binh khí vất đầy như đụn cát, xương khô chất đống như non cao; Có trận thắng lớn nào là nhờ Đại Vương biết tiên liệu trước”. Nghiền ngẫm thật kĩ mới hay lời văn thực đã diễn tả được nỗi đau bại trận của nhà Hán và nhà Nguyên rồi vậy".
Ngô Thì Sĩ (Việt sử tiêu án)
1. TÓM LƯỢC VỀ TIỂU SỬ
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 5, tờ 1-a) cho hay, tiên tổ của họ Trần là Trần Kinh, người làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Làng này nay là xã Tức Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần Kinh sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh ra Trần Thừa. Kể từ Trần Thừa trở về trước, người họ Trần ở làng Tức Mặc, đời đời đều làm nghề chài lưới. Trần Thừa có 6 người con (4 trai, 2 gái). Con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh, về sau là vua đầu của triều Trần (Trần Thái Tông: 1226 - 1258), cho nên, Trần Thừa được tôn làm Thượng Hoàng và khi mất, miếu hiệu là Trần Thái Tổ, dẫu trong thực tế, Trần Thừa chẳng hề làm vua ngày nào.
Con trai trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu. Khi em là Trần Cảnh làm vua, Trần Liễu được phong là An Sinh Vương. Hiện vẫn chưa rõ An Sinh Vương Trần Liễu có mấy người con, chỉ thấy sử cũ nhắc đến ba người. Con trai trưởng là Trần Doãn. Trần Doãn được phong là Vũ Thành Vương, nhưng rất tiếc là vì những hiềm khích nội bộ, năm 1257, Vũ Thành Vương Trần Doãn đã đem cả gia quyến chạy sang Trung Quốc và bị viên thổ quan của Trung Quốc ở phủ Tư Minh bắt nạp lại cho triều Trần. Người con thứ năm của Trần Liễu là Trần Thị Thiều. Tháng 8 năm 1258, Trần Thị Thiều được gả cho vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278), lúc đầu được phong là Thiên Cảm Phu nhân và ít lâu sau thì phong là Thiên Cảm Hoàng hậu. Bà chính là thân mẫu của vua Trần Nhân Tông (1278 - 1293).
Trong số những người con của An Sinh Vương Trần Liễu, nổi bật hơn cả vẫn là Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn về sau được phong là Hưng Đạo Vương, vì thế, người đời vẫn quen gọi ông là Trần Hưng Đạo.
Trần Hưng Đạo mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300) nhưng hiện tại, vẫn chưa xác định được năm sinh của ông, đại để chỉ biết ông thọ khoảng 70 tuổi, tức là sinh vào khoảng dăm năm sau khi triều Trần được dựng lên.
Sách Trần triều thế phả hành trạng nói Trần Hưng Đạo sinh vào ngày 10 tháng chạp năm 1251. Điều này không thể tin, vì các bộ chính sử đều chép rằng Trần Hưng Đạo cưới vợ vào tháng 1 năm 1251, tức là trước đó những ngót 1 năm.
Ông Lam Sơn trong sách Hưng Đạo Đại Vương (xuất bản năm 1946) nói rằng, Trần Hưng Đạo sinh ngày 10 tháng chạp năm 1228, nhưng không cho biết là ông đã dựa vào cơ sở nào để viết như thế.
Ông Hoàng Thúc Trâm trong sách Trần Hưng Đạo (xuất bản năm 1950) viết: “Trần Quốc Tuấn sinh vào khoảng niên hiệu Kiến Trung hồi đầu Trần, lối năm Kiến Trung thứ tư (1228) đến thứ bảy (1231), và ngài thọ trên dưới bảy mươi tuổi, độ từ 69 đến 72”
Các dịch giả sách Binh thư yếu lược (Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1970) cũng viết tương tự rằng: “Ông sinh vào khoảng những năm 1226, 1227, 1228 hoặc 1229 gì đó”.
Chính sử không ghi chép, nhưng dựa vào nhiều tài liệu khác nhau, các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam đánh giá rất cao vị trí của Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng Sĩ). Trần Tung là anh của Trần Hưng Đạo (hiện vẫn chưa rõ có phải là anh em cùng cha cùng mẹ hay không), mà Trần Tung sinh năm 1230, thì theo lẽ thường, Trần Hưng Đạo phải sinh sau năm 1230.
Tượng đài Hưng Đạo Đại Vương Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn - TP. Nam Định
Theo Trần triều thế phả hành trạng, thân mẫu của Trần Hưng Đạo là Trần Thị Nguyệt. Tuy nhiên, sách này cũng không hề cho biết thêm gì về bà. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 5, tờ 17-b) nói rằng, Trần Hưng Đạo là con nuôi của Thụy Bà Công chúa, mà Thụy Bà Công chúa là em gái của An Sinh Vương Trần Liễu, chị gái của vua Trần Thái Tông. Chúng tôi xét rằng:
- Thân sinh của Trần Hưng Đạo là An Sinh Vương Trần Liễu sinh năm 1211, mà Trần Hưng Đạo là con thứ, do người vợ thứ của An Sinh Vương Trần Liễu sinh hạ, thì Trần Hưng Đạo rất khó có thể được chào đời vào khoảng trước năm 1230.
- Thụy Bà Công chúa nhận Trần Hưng Đạo làm con nuôi. Sử cũ không ghi rõ, nhưng An Sinh Vương Trần Liễu sinh năm 1211 và vua Trần Thái Tông sinh năm 1218, thì Thụy Bà Công chúa ắt phải sinh vào khoảng các năm 1214, 1215 hay 1216 gì đó. Là con nuôi của Thụy Bà Công chúa, một người ở độ tuổi như vừa kể, Trần Hưng Đạo lại càng khó có thể được sinh ra trước năm 1230.
Tóm lại, Trần Hưng Đạo chỉ có thể chào đời vào khoảng sớm nhất cũng không trước năm 1230 và muộn nhất cũng không sau năm 1232.
Vợ của Trần Hưng Đạo là Công chúa Thiên Thành (con gái út của Trần Thừa, tức cũng là cô ruột của Trần Hưng Đạo. Triều Trần có lệ bắt người trong họ lấy nhau nên mới có cuộc hôn nhân lạ lùng này). Công chúa Thiên Thành sinh hạ tất cả 5 người con (1 gái và 4 trai), đó là:
Sử cũ ghi rất rõ tên, tước hiệu và những cống hiến nổi bật của các con Trần Hưng Đạo, nhưng, ngoài việc khẳng định Trinh Công chúa là con gái đầu lòng, những người con trai kế tiếp hiện vẫn chưa biết chắc thứ bậc anh em trước sau cụ thể ra sao. Trên đây chỉ là sự sắp xếp tạm thời, dựa trên cơ sở chủ yếu là suy đoán trật tự thông thường của cách đặt tước hiệu mà thôi.
Tượng đài Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng
Trước khi qua đời, Trần Hưng Đạo có dặn các con của ông rằng: “Ta chết thì phải hỏa táng, lấy hũ tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc rồi san đất và trồng cây như cũ để người đời không biết chỗ nào” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 6, tờ 10-b). Có lẽ cũng vì thế mà ngày nay, đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng lên ở rất nhiều nơi trên đất nước ta, nhưng ngôi mộ thực sự của Trần Hưng Đạo thì chưa rõ ở vị trí cụ thể nào.
Cuộc đời của Trần Hưng Đạo là cuộc đời của một nhà đạo đức, của một người luôn luôn nêu cao và quyết tâm giữ vững tình đoàn kết keo sơn vì nghĩa cả. Ông là biểu tượng sáng ngời của tinh thần trung quân ái quốc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã trân trọng chép những lời thật cảm động về đức độ của ông:
“Quốc Tuấn là con của An Sinh Vương. Khi mới chào đời, thầy tướng xem xong liền nói:
- Con người này về sau có thể giúp nước cứu đời.
Lớn lên, (Quốc Tuấn) khôi ngô và thông minh hơn người, đọc nhiều sách vở, tài trí gồm đủ cả văn lẫn võ. Trước đó, An Sinh Vương vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (chỉ vua Trần Thái Tông - NKT), để bụng căm ghét, cho nên, tìm người tài giỏi khắp bốn phương để dạy cho Quốc Tuấn. Khi sắp qua đời, An Sinh Vương cầm tay Quốc Tuấn và trối trăng lại rằng:
- Nếu con không vì cha mà lấy được thiên hạ thì ở nơi suối vàng cha không sao nhắm mắt được.
Quốc Tuấn ghi nhớ lời của cha, nhưng không cho đó là lời nói phải. Khi vận nước lung lay, chức lớn trong nước và quyền nắm quân đã sẵn ở trong tay, ông liền đem lời cha dặn nói với hai gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai gia nô can rằng:
- Kế ấy nếu thành thì được phú quý một đời nhưng lại để tiếng xấu đến ngàn năm. Nay Đại Vương phú quý như thế chưa đủ hay sao? Chúng tôi thà chết già với kiếp gia nô chứ không mong làm quan mà bỏ cả trung hiếu, trọn đời, xin được tôn người bán thịt dê tên là Duyệt làm thầy mà thôi (Tích lấy từ Bắc sử. Xưa, vua nước Sở là Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài. Bấy giờ chỉ có một người làm nghề bán thịt dê tên là Duyệt đi theo phò tá. Hết loạn trở về, Sở Chiêu Vương ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối mà nói rằng: - Nhà vua mất nước khiến tôi không được đi bán thịt dê, nay vua lấy lại được nước, tôi lại được làm nghề bán thịt dê như cũ, tước lộc thế là đủ, còn mong thưởng thêm gì nữa?).
Quốc Tuấn nghe lời ấy, cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người mãi không thôi. Một hôm, Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương (tức Trần Quốc Hiển - NKT.):
- Xưa nay ai cũng muốn có thiên hạ để truyền cho con cháu. Con nghĩ sao về việc này?
Hưng Vũ Vương trả lời:
- Việc đó dẫu là đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là đối với người trong cùng một họ.
Quốc Tuấn cho là phải. Lại một hôm, Quốc Tuấn đem chuyện này nói với người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, Quốc Tảng liền tiến lên thưa:
- Như Tống Thái Tổ kia, vốn chỉ là một lão nông, vậy mà còn có thể thừa cơ dấy lên, lấy được cả thiên hạ, huống là...
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
- Loạn thần đều do tặc tử mà ra!
Nói rồi định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội tới khóc van xin chịu tội thay, bấy giờ, Quốc Tuấn mới tha. Ông dặn Hưng Vũ Vương rằng:
- Sau này, khi nào ta chết, phải đợi đến lúc đậy nắp quan tài lại rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ. quyển 6, tờ 9-b và tờ 10-a.).
Đối với vua, Trần Hưng Đạo một lòng cung kính trung thành, đối với quý tộc và đồng liêu, Trần Hưng Đạo mực thước giữ đức hòa thuận, đối với quân sĩ và trăm họ, Trần Hưng Đạo nặng lòng thương yêu. Trần Hưng Đạo đã để lại cho muôn đời lời nói chứa chan tâm huyết của một bậc nặng lòng ưu thời mẫn thế: “Nới sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng sách giữ nước” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 6, tờ 9 a-b).
Trần Hưng Đạo là một nhà văn hóa lớn của nước nhà. Cống hiến của ông trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, to lớn và sâu sắc. Chỉ cần một Hịch tướng sĩ văn không thôi, tên tuổi của ông cũng đã đủ để bất diệt với lịch sử, huống chi, sự nghiệp của ông nào phải chỉ có bấy nhiêu.
Trần Hưng Đạo là người đã có công khai sinh ra nền khoa học quân sự nước ta. Trước Trần Hưng Đạo, bao thế hệ anh hùng hào kiệt đã chiến đấu và chiến thắng, góp phần đặc lực vào việc làm phong phú kho tàng kinh nghiệm chống xâm lăng. Nhiều bậc anh hùng hào kiệt đã thực sự tiến tới đỉnh cao của nghệ thuật cầm quân, thậm chí là đỉnh cao điêu luyện của loại hình nghệ thuật đặc biệt này. Nhưng một nền khoa học thực sự với đầy đủ ý nghĩa của từ này, thì phải đợi đến Trần Hưng Đạo mới chính thức được khai sinh. Trước tác có giá trị đánh dấu sự kiện này chính là Binh thư yếu lược.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 6, tờ 14-b) viết: “Quốc Tuấn lại sưu tầm binh pháp của các nhà, soạn thành phép Bát quái cửu cung đồ đặt cho tên gọi là Vạn Kiếp tông bí truyền thư, Nhân Huệ Vương (Trần) Khánh Dư viết bài đề tựa cho sách ấy”. Và Đại Việt sử ký toàn thư đã sao lục toàn văn lời đề tựa này. Đó là một lần khẳng định.
Trong Hịch tướng sĩ văn, Trần Hưng Đạo cũng nói rõ: “Nay ta đã chọn trong binh pháp các nhà (những chỗ hay) rồi soạn thành bộ Binh thư yếu lược…”. Đó là hai lần khẳng định.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), Phan Huy Chú viết: “Lớn lên, ông (chỉ Trần Hưng Đạo - NKT) có dáng mạo hùng vĩ, thông minh học rộng hơn người, tài kiêm văn võ. Ông có soạn sách Binh gia diệu lý yếu lược, lại thu góp binh pháp của các nhà, soạn thành phép Bát quái cửu cung đồ, đặt cho tên gọi là Vạn Kiếp bí thư để dạy cho chư tướng”. Đó là ba lần khẳng định.
Các tác giả bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 8, tờ 34 ) viết: “Khi quân Nguyên sang xâm lấn, Quốc Tuấn tự mình soạn ra sách Binh gia diệu lý yếu lược và làm bài hịch trao cho các tướng. Đó là bốn lần khẳng định...
Nói khác hơn, thư tịch cổ đều khẳng định Trần Hưng Đạo là người đã soạn ra bộ binh pháp. Tuy nhiên, tên gọi của bộ binh pháp này mỗi nơi chép một cách, và đó cũng là điều thường thấy trong thư tịch xưa. Theo chúng tôi, có lẽ nên theo lời của chính Trần Hưng Đạo trong Hịch tướng sĩ văn để gọi bộ binh pháp đó là Binh thư yếu lược. Và các sách kể trên có lẽ cũng đã gọi Binh thư yếu lược bằng nhiều tên gọi khác nhau mà thôi.
Với việc biên soạn và phổ biến Binh thư yếu lược, Trần Hưng Đạo đã để lại cho đời sau bài học vô giá về kinh nghiệm chống xâm lăng, rằng, muốn đập tan những đội quân ăn cướp tàn bạo và thiện chiến, thì bên cạnh tinh thần chiến đấu, lý tưởng chiến đấu và trình độ võ nghệ, cũng như thiết bị kĩ thuật, tướng sĩ còn phải được trang bị những tri thức về binh pháp. Với việc khai sinh Binh thư yếu lược (Đọc thêm bản dịch Binh thư yếu lược (phụ Hổ trướng khu cơ) của Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1970. Ở đây, phần Hổ trướng khu cơ là binh pháp của Đào Duy Từ (1572 - 1634); và Trần Hưng Đạo - Tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm, Nguyễn Khắc Thuần chủ biên.-Nhà xuất bản Trẻ, 1987), Trần Hưng Đạo thực sự trở thành nhà lý luận quân sự xuất sắc đầu tiên của nước ta. Tuy nhiên, Trần Hưng Đạo không phải chỉ là nhà lý luận xuất sắc mà còn là nhà chỉ huy thiên tài. Ông là linh hồn của những chiến công chống xâm lăng vang dội ở thế kỷ XIII.
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1257 - 1258, Trần Hưng Đạo tuy chỉ mới là một vị tướng trẻ, nhưng đã được triều đình tin cậy trao trọng trách: “Tháng 9 (năm 1257 - NKT ), Vua xuống chiếu, hạ lệnh cho tướng sĩ thủy bộ ra ngăn giữ biên giới theo sự tiết chế của (Trần) Quốc Tuấn” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 5, tờ 22-a).
Từ sau hội nghị quân sự Bình Than (năm 1282), Trần Hưng Đạo được trao quyền chỉ huy cao nhất của quân đội nhà Trần. “Tấn phong Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế, thống lĩnh quân đội cả nước, cho được chọn các tướng có tài cầm quân đi chỉ huy các đơn vị” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ. quyển 5, tờ 43-b).
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285 và cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1287 - 1288, Trần Hưng Đạo là người đã tổ chức nên những thắng lợi oanh liệt nhất của quân dân Đại Việt. Tên tuổi của Trần Hưng Đạo gắn liền với những võ công hiển hách nhất, mà nổi bật hơn cả là trận Bạch Đằng (9/4/1288).
Sinh thời, uy danh lừng lẫy của Trần Hưng Đạo đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, “tiếng vang đến cả giặc phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương chứ không dám gọi tên” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 6, tờ11-a).
Bảy thế kỷ qua, tên tuổi và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo luôn tỏa sáng trong sử sách, luôn là nguồn cảm hứng vô tận của thơ văn và nhiều loại hình nghệ thuật khác ở nước ta.
Vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) viết:
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
(Núi sông xưa nay mở đôi mắt mà xem,
Chuyện được thua của Hồ (chỉ nhà Nguyên) và Việt tựa lan can mà ngẫm nghĩ).
Đặng Minh Khiêm (? - 1585) viết:
Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung,
Mậu kiến Trùng Hưng đệ nhất công.
Một hậu uy do tồi Bắc lỗ,
Ỷ thiên trường kiếm dạ minh phong.
(Sinh vào lúc gia đình có sự hiềm khích nhưng vẫn thề giữ đức trung thành,
Giúp nên cơ nghiệp Trùng Hưng (Niên hiệu vua Trần Nhân Tông, dùng từ năm 1285 - 1293) công lao hàng bậc nhất.
Dẫu đã mất mà uy phong còn bẻ gãy giặc Bắc.
Thanh trường kiếm tựa ngoài trời thuở xưa, đêm đêm thường rít lên như gió).
Cao Bá Quát (1808 - 1855) ca ngợi (Bài thơ này cũng có người nói là của Nguyễn Khuyến. Ở đây chúng tôi theo ý chung của nhiều người mà nói là của Cao Bá Quát):
Phổ xuất tiên nguyên cái thế hào,
Phấn thân tuẫn quốc bất từ lao.
Xanh phù nhật cốc khâm hoài nhuệ,
Tấn tảo biên trần thủ đoạn cao.
Công mãn Nam thiên thùy trúc bạch,
Uy dư Đông Hải thiếp ba đào.
Phần Dương khánh diễn hồn dư sự,
Trường sử Hồ nhi thức tuấn mao.
(Là đấng anh hào bậc nhất trong đời, vốn dòng dõi nhà tiên(*)
Dấn mình vì nước chẳng nề khó nhọc.
Nâng đỡ xe mặt trời lòng những hăng hái,
Quét sạch bụi ngoài cõi, mưu lược thật cao siêu.
Công cao đầy cả trời Nam, lưu truyền sử sách,
Uy linh khắp biển Đông, sóng cả yên lặng.
Ân trạch ở Phần Dương (**) có sánh cũng bằng thừa.
Mãi khiến giặc Hồ phải biết tay tài giỏi ).
(*) Chỉ dòng dõi nhà vua. Trần Hưng Đạo là cháu ruột vua Trần Thái Tông, là anh con nhà bác với vua Trần Thánh Tông, là bác họ với vua Trần Nhân Tông).
(**) Tức Phần Dương Quận Vương, tước hiệu của Quách Tử Nghi, người Trung Quốc đời Đường, có công lớn, được vua Đường rất kính nể.
Các cây đại bút thời Trần như Bùi Tông Quán, Phạm Sư Mạnh, Lý Tế Xuyên, Trương Hán Siêu... đều có những tuyệt tác về Trần Hưng Đạo và sự nghiệp của ông. Các nhà khoa bảng nho học sau đó cũng thường dành cho Trần Hưng Đạo những lời đặc biệt kính trọng.
Ngày nay, hình như hiếm có vị anh hùng dân tộc nào mà họ tên và tước hiệu được trang trọng đặt cho nhiều đường phố, công sở và trường học như Trần Hưng Đạo.
Đền thờ Trần Hưng Đạo
- 36 Võ Thị Sáu, TP. Hồ Chí Minh
Nguồn: Sưu tầm
(Còn nữa)
Dấu vết hôi tanh của giặc Hán và giặc Nguyên cũng còn mãi với nước non ta, làm sao mà rửa hết được. Giang sơn của nước Nam này đã được định rõ trong sách trời. Giặc Bắc dẫu có cậy trí lực mạnh để chiếm cứ thì rốt cuộc, lấy được cũng không thể nào giữ được. Vậy thì tham việc binh đao phỏng có ích gì?
Bài Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu có câu: “Binh khí vất đầy như đụn cát, xương khô chất đống như non cao; Có trận thắng lớn nào là nhờ Đại Vương biết tiên liệu trước”. Nghiền ngẫm thật kĩ mới hay lời văn thực đã diễn tả được nỗi đau bại trận của nhà Hán và nhà Nguyên rồi vậy".
Ngô Thì Sĩ (Việt sử tiêu án)
1. TÓM LƯỢC VỀ TIỂU SỬ
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 5, tờ 1-a) cho hay, tiên tổ của họ Trần là Trần Kinh, người làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Làng này nay là xã Tức Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần Kinh sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh ra Trần Thừa. Kể từ Trần Thừa trở về trước, người họ Trần ở làng Tức Mặc, đời đời đều làm nghề chài lưới. Trần Thừa có 6 người con (4 trai, 2 gái). Con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh, về sau là vua đầu của triều Trần (Trần Thái Tông: 1226 - 1258), cho nên, Trần Thừa được tôn làm Thượng Hoàng và khi mất, miếu hiệu là Trần Thái Tổ, dẫu trong thực tế, Trần Thừa chẳng hề làm vua ngày nào.
Con trai trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu. Khi em là Trần Cảnh làm vua, Trần Liễu được phong là An Sinh Vương. Hiện vẫn chưa rõ An Sinh Vương Trần Liễu có mấy người con, chỉ thấy sử cũ nhắc đến ba người. Con trai trưởng là Trần Doãn. Trần Doãn được phong là Vũ Thành Vương, nhưng rất tiếc là vì những hiềm khích nội bộ, năm 1257, Vũ Thành Vương Trần Doãn đã đem cả gia quyến chạy sang Trung Quốc và bị viên thổ quan của Trung Quốc ở phủ Tư Minh bắt nạp lại cho triều Trần. Người con thứ năm của Trần Liễu là Trần Thị Thiều. Tháng 8 năm 1258, Trần Thị Thiều được gả cho vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278), lúc đầu được phong là Thiên Cảm Phu nhân và ít lâu sau thì phong là Thiên Cảm Hoàng hậu. Bà chính là thân mẫu của vua Trần Nhân Tông (1278 - 1293).
Trong số những người con của An Sinh Vương Trần Liễu, nổi bật hơn cả vẫn là Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn về sau được phong là Hưng Đạo Vương, vì thế, người đời vẫn quen gọi ông là Trần Hưng Đạo.
Trần Hưng Đạo mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (1300) nhưng hiện tại, vẫn chưa xác định được năm sinh của ông, đại để chỉ biết ông thọ khoảng 70 tuổi, tức là sinh vào khoảng dăm năm sau khi triều Trần được dựng lên.
Sách Trần triều thế phả hành trạng nói Trần Hưng Đạo sinh vào ngày 10 tháng chạp năm 1251. Điều này không thể tin, vì các bộ chính sử đều chép rằng Trần Hưng Đạo cưới vợ vào tháng 1 năm 1251, tức là trước đó những ngót 1 năm.
Ông Lam Sơn trong sách Hưng Đạo Đại Vương (xuất bản năm 1946) nói rằng, Trần Hưng Đạo sinh ngày 10 tháng chạp năm 1228, nhưng không cho biết là ông đã dựa vào cơ sở nào để viết như thế.
Ông Hoàng Thúc Trâm trong sách Trần Hưng Đạo (xuất bản năm 1950) viết: “Trần Quốc Tuấn sinh vào khoảng niên hiệu Kiến Trung hồi đầu Trần, lối năm Kiến Trung thứ tư (1228) đến thứ bảy (1231), và ngài thọ trên dưới bảy mươi tuổi, độ từ 69 đến 72”
Các dịch giả sách Binh thư yếu lược (Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1970) cũng viết tương tự rằng: “Ông sinh vào khoảng những năm 1226, 1227, 1228 hoặc 1229 gì đó”.
Chính sử không ghi chép, nhưng dựa vào nhiều tài liệu khác nhau, các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam đánh giá rất cao vị trí của Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng Sĩ). Trần Tung là anh của Trần Hưng Đạo (hiện vẫn chưa rõ có phải là anh em cùng cha cùng mẹ hay không), mà Trần Tung sinh năm 1230, thì theo lẽ thường, Trần Hưng Đạo phải sinh sau năm 1230.

Tượng đài Hưng Đạo Đại Vương Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn - TP. Nam Định
Theo Trần triều thế phả hành trạng, thân mẫu của Trần Hưng Đạo là Trần Thị Nguyệt. Tuy nhiên, sách này cũng không hề cho biết thêm gì về bà. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 5, tờ 17-b) nói rằng, Trần Hưng Đạo là con nuôi của Thụy Bà Công chúa, mà Thụy Bà Công chúa là em gái của An Sinh Vương Trần Liễu, chị gái của vua Trần Thái Tông. Chúng tôi xét rằng:
- Thân sinh của Trần Hưng Đạo là An Sinh Vương Trần Liễu sinh năm 1211, mà Trần Hưng Đạo là con thứ, do người vợ thứ của An Sinh Vương Trần Liễu sinh hạ, thì Trần Hưng Đạo rất khó có thể được chào đời vào khoảng trước năm 1230.
- Thụy Bà Công chúa nhận Trần Hưng Đạo làm con nuôi. Sử cũ không ghi rõ, nhưng An Sinh Vương Trần Liễu sinh năm 1211 và vua Trần Thái Tông sinh năm 1218, thì Thụy Bà Công chúa ắt phải sinh vào khoảng các năm 1214, 1215 hay 1216 gì đó. Là con nuôi của Thụy Bà Công chúa, một người ở độ tuổi như vừa kể, Trần Hưng Đạo lại càng khó có thể được sinh ra trước năm 1230.
Tóm lại, Trần Hưng Đạo chỉ có thể chào đời vào khoảng sớm nhất cũng không trước năm 1230 và muộn nhất cũng không sau năm 1232.
Vợ của Trần Hưng Đạo là Công chúa Thiên Thành (con gái út của Trần Thừa, tức cũng là cô ruột của Trần Hưng Đạo. Triều Trần có lệ bắt người trong họ lấy nhau nên mới có cuộc hôn nhân lạ lùng này). Công chúa Thiên Thành sinh hạ tất cả 5 người con (1 gái và 4 trai), đó là:
- Trinh Công chúa: Hoàng hậu của vua Trần Nhân Tông, sau được con là vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) tôn là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng hậu.
- Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiển: Võ tướng có tài, sau là phò mã của vua Trần Thánh Tông (chồng của Thiên Thụy Công chúa).
- Hưng Trí Vương Trần Quốc Nghiễn: Võ tướng có tài, lại cũng là người có công tổ chức khẩn hoang. Chính ông là người đã biến nhiều vùng đất hoang vu của khu vực Hải Dương thành ruộng đồng tươi tốt, thành xóm làng trù mật.
- Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng: Võ tướng có tài. Ông có con gái là Hoàng hậu của vua Trần Anh Tông (bà Thuận Thánh Hoàng hậu).
- Hưng Hiến Vương Trần Quốc Uy: Võ tướng có tài.
Sử cũ ghi rất rõ tên, tước hiệu và những cống hiến nổi bật của các con Trần Hưng Đạo, nhưng, ngoài việc khẳng định Trinh Công chúa là con gái đầu lòng, những người con trai kế tiếp hiện vẫn chưa biết chắc thứ bậc anh em trước sau cụ thể ra sao. Trên đây chỉ là sự sắp xếp tạm thời, dựa trên cơ sở chủ yếu là suy đoán trật tự thông thường của cách đặt tước hiệu mà thôi.

Tượng đài Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng
Trước khi qua đời, Trần Hưng Đạo có dặn các con của ông rằng: “Ta chết thì phải hỏa táng, lấy hũ tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc rồi san đất và trồng cây như cũ để người đời không biết chỗ nào” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 6, tờ 10-b). Có lẽ cũng vì thế mà ngày nay, đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng lên ở rất nhiều nơi trên đất nước ta, nhưng ngôi mộ thực sự của Trần Hưng Đạo thì chưa rõ ở vị trí cụ thể nào.
Cuộc đời của Trần Hưng Đạo là cuộc đời của một nhà đạo đức, của một người luôn luôn nêu cao và quyết tâm giữ vững tình đoàn kết keo sơn vì nghĩa cả. Ông là biểu tượng sáng ngời của tinh thần trung quân ái quốc. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã trân trọng chép những lời thật cảm động về đức độ của ông:
“Quốc Tuấn là con của An Sinh Vương. Khi mới chào đời, thầy tướng xem xong liền nói:
- Con người này về sau có thể giúp nước cứu đời.
Lớn lên, (Quốc Tuấn) khôi ngô và thông minh hơn người, đọc nhiều sách vở, tài trí gồm đủ cả văn lẫn võ. Trước đó, An Sinh Vương vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (chỉ vua Trần Thái Tông - NKT), để bụng căm ghét, cho nên, tìm người tài giỏi khắp bốn phương để dạy cho Quốc Tuấn. Khi sắp qua đời, An Sinh Vương cầm tay Quốc Tuấn và trối trăng lại rằng:
- Nếu con không vì cha mà lấy được thiên hạ thì ở nơi suối vàng cha không sao nhắm mắt được.
Quốc Tuấn ghi nhớ lời của cha, nhưng không cho đó là lời nói phải. Khi vận nước lung lay, chức lớn trong nước và quyền nắm quân đã sẵn ở trong tay, ông liền đem lời cha dặn nói với hai gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai gia nô can rằng:
- Kế ấy nếu thành thì được phú quý một đời nhưng lại để tiếng xấu đến ngàn năm. Nay Đại Vương phú quý như thế chưa đủ hay sao? Chúng tôi thà chết già với kiếp gia nô chứ không mong làm quan mà bỏ cả trung hiếu, trọn đời, xin được tôn người bán thịt dê tên là Duyệt làm thầy mà thôi (Tích lấy từ Bắc sử. Xưa, vua nước Sở là Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài. Bấy giờ chỉ có một người làm nghề bán thịt dê tên là Duyệt đi theo phò tá. Hết loạn trở về, Sở Chiêu Vương ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối mà nói rằng: - Nhà vua mất nước khiến tôi không được đi bán thịt dê, nay vua lấy lại được nước, tôi lại được làm nghề bán thịt dê như cũ, tước lộc thế là đủ, còn mong thưởng thêm gì nữa?).
Quốc Tuấn nghe lời ấy, cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người mãi không thôi. Một hôm, Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương (tức Trần Quốc Hiển - NKT.):
- Xưa nay ai cũng muốn có thiên hạ để truyền cho con cháu. Con nghĩ sao về việc này?
Hưng Vũ Vương trả lời:
- Việc đó dẫu là đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là đối với người trong cùng một họ.
Quốc Tuấn cho là phải. Lại một hôm, Quốc Tuấn đem chuyện này nói với người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, Quốc Tảng liền tiến lên thưa:
- Như Tống Thái Tổ kia, vốn chỉ là một lão nông, vậy mà còn có thể thừa cơ dấy lên, lấy được cả thiên hạ, huống là...
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
- Loạn thần đều do tặc tử mà ra!
Nói rồi định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội tới khóc van xin chịu tội thay, bấy giờ, Quốc Tuấn mới tha. Ông dặn Hưng Vũ Vương rằng:
- Sau này, khi nào ta chết, phải đợi đến lúc đậy nắp quan tài lại rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ. quyển 6, tờ 9-b và tờ 10-a.).
Đối với vua, Trần Hưng Đạo một lòng cung kính trung thành, đối với quý tộc và đồng liêu, Trần Hưng Đạo mực thước giữ đức hòa thuận, đối với quân sĩ và trăm họ, Trần Hưng Đạo nặng lòng thương yêu. Trần Hưng Đạo đã để lại cho muôn đời lời nói chứa chan tâm huyết của một bậc nặng lòng ưu thời mẫn thế: “Nới sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng sách giữ nước” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 6, tờ 9 a-b).
Trần Hưng Đạo là một nhà văn hóa lớn của nước nhà. Cống hiến của ông trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, to lớn và sâu sắc. Chỉ cần một Hịch tướng sĩ văn không thôi, tên tuổi của ông cũng đã đủ để bất diệt với lịch sử, huống chi, sự nghiệp của ông nào phải chỉ có bấy nhiêu.
Trần Hưng Đạo là người đã có công khai sinh ra nền khoa học quân sự nước ta. Trước Trần Hưng Đạo, bao thế hệ anh hùng hào kiệt đã chiến đấu và chiến thắng, góp phần đặc lực vào việc làm phong phú kho tàng kinh nghiệm chống xâm lăng. Nhiều bậc anh hùng hào kiệt đã thực sự tiến tới đỉnh cao của nghệ thuật cầm quân, thậm chí là đỉnh cao điêu luyện của loại hình nghệ thuật đặc biệt này. Nhưng một nền khoa học thực sự với đầy đủ ý nghĩa của từ này, thì phải đợi đến Trần Hưng Đạo mới chính thức được khai sinh. Trước tác có giá trị đánh dấu sự kiện này chính là Binh thư yếu lược.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư (Bản kỷ, quyển 6, tờ 14-b) viết: “Quốc Tuấn lại sưu tầm binh pháp của các nhà, soạn thành phép Bát quái cửu cung đồ đặt cho tên gọi là Vạn Kiếp tông bí truyền thư, Nhân Huệ Vương (Trần) Khánh Dư viết bài đề tựa cho sách ấy”. Và Đại Việt sử ký toàn thư đã sao lục toàn văn lời đề tựa này. Đó là một lần khẳng định.
Trong Hịch tướng sĩ văn, Trần Hưng Đạo cũng nói rõ: “Nay ta đã chọn trong binh pháp các nhà (những chỗ hay) rồi soạn thành bộ Binh thư yếu lược…”. Đó là hai lần khẳng định.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), Phan Huy Chú viết: “Lớn lên, ông (chỉ Trần Hưng Đạo - NKT) có dáng mạo hùng vĩ, thông minh học rộng hơn người, tài kiêm văn võ. Ông có soạn sách Binh gia diệu lý yếu lược, lại thu góp binh pháp của các nhà, soạn thành phép Bát quái cửu cung đồ, đặt cho tên gọi là Vạn Kiếp bí thư để dạy cho chư tướng”. Đó là ba lần khẳng định.
Các tác giả bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 8, tờ 34 ) viết: “Khi quân Nguyên sang xâm lấn, Quốc Tuấn tự mình soạn ra sách Binh gia diệu lý yếu lược và làm bài hịch trao cho các tướng. Đó là bốn lần khẳng định...

Nói khác hơn, thư tịch cổ đều khẳng định Trần Hưng Đạo là người đã soạn ra bộ binh pháp. Tuy nhiên, tên gọi của bộ binh pháp này mỗi nơi chép một cách, và đó cũng là điều thường thấy trong thư tịch xưa. Theo chúng tôi, có lẽ nên theo lời của chính Trần Hưng Đạo trong Hịch tướng sĩ văn để gọi bộ binh pháp đó là Binh thư yếu lược. Và các sách kể trên có lẽ cũng đã gọi Binh thư yếu lược bằng nhiều tên gọi khác nhau mà thôi.
Với việc biên soạn và phổ biến Binh thư yếu lược, Trần Hưng Đạo đã để lại cho đời sau bài học vô giá về kinh nghiệm chống xâm lăng, rằng, muốn đập tan những đội quân ăn cướp tàn bạo và thiện chiến, thì bên cạnh tinh thần chiến đấu, lý tưởng chiến đấu và trình độ võ nghệ, cũng như thiết bị kĩ thuật, tướng sĩ còn phải được trang bị những tri thức về binh pháp. Với việc khai sinh Binh thư yếu lược (Đọc thêm bản dịch Binh thư yếu lược (phụ Hổ trướng khu cơ) của Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, 1970. Ở đây, phần Hổ trướng khu cơ là binh pháp của Đào Duy Từ (1572 - 1634); và Trần Hưng Đạo - Tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm, Nguyễn Khắc Thuần chủ biên.-Nhà xuất bản Trẻ, 1987), Trần Hưng Đạo thực sự trở thành nhà lý luận quân sự xuất sắc đầu tiên của nước ta. Tuy nhiên, Trần Hưng Đạo không phải chỉ là nhà lý luận xuất sắc mà còn là nhà chỉ huy thiên tài. Ông là linh hồn của những chiến công chống xâm lăng vang dội ở thế kỷ XIII.
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1257 - 1258, Trần Hưng Đạo tuy chỉ mới là một vị tướng trẻ, nhưng đã được triều đình tin cậy trao trọng trách: “Tháng 9 (năm 1257 - NKT ), Vua xuống chiếu, hạ lệnh cho tướng sĩ thủy bộ ra ngăn giữ biên giới theo sự tiết chế của (Trần) Quốc Tuấn” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 5, tờ 22-a).
Từ sau hội nghị quân sự Bình Than (năm 1282), Trần Hưng Đạo được trao quyền chỉ huy cao nhất của quân đội nhà Trần. “Tấn phong Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế, thống lĩnh quân đội cả nước, cho được chọn các tướng có tài cầm quân đi chỉ huy các đơn vị” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ. quyển 5, tờ 43-b).
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285 và cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1287 - 1288, Trần Hưng Đạo là người đã tổ chức nên những thắng lợi oanh liệt nhất của quân dân Đại Việt. Tên tuổi của Trần Hưng Đạo gắn liền với những võ công hiển hách nhất, mà nổi bật hơn cả là trận Bạch Đằng (9/4/1288).
Sinh thời, uy danh lừng lẫy của Trần Hưng Đạo đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, “tiếng vang đến cả giặc phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương chứ không dám gọi tên” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển 6, tờ11-a).
Bảy thế kỷ qua, tên tuổi và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo luôn tỏa sáng trong sử sách, luôn là nguồn cảm hứng vô tận của thơ văn và nhiều loại hình nghệ thuật khác ở nước ta.
Vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) viết:
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
(Núi sông xưa nay mở đôi mắt mà xem,
Chuyện được thua của Hồ (chỉ nhà Nguyên) và Việt tựa lan can mà ngẫm nghĩ).
Đặng Minh Khiêm (? - 1585) viết:
Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung,
Mậu kiến Trùng Hưng đệ nhất công.
Một hậu uy do tồi Bắc lỗ,
Ỷ thiên trường kiếm dạ minh phong.
(Sinh vào lúc gia đình có sự hiềm khích nhưng vẫn thề giữ đức trung thành,
Giúp nên cơ nghiệp Trùng Hưng (Niên hiệu vua Trần Nhân Tông, dùng từ năm 1285 - 1293) công lao hàng bậc nhất.
Dẫu đã mất mà uy phong còn bẻ gãy giặc Bắc.
Thanh trường kiếm tựa ngoài trời thuở xưa, đêm đêm thường rít lên như gió).
Cao Bá Quát (1808 - 1855) ca ngợi (Bài thơ này cũng có người nói là của Nguyễn Khuyến. Ở đây chúng tôi theo ý chung của nhiều người mà nói là của Cao Bá Quát):
Phổ xuất tiên nguyên cái thế hào,
Phấn thân tuẫn quốc bất từ lao.
Xanh phù nhật cốc khâm hoài nhuệ,
Tấn tảo biên trần thủ đoạn cao.
Công mãn Nam thiên thùy trúc bạch,
Uy dư Đông Hải thiếp ba đào.
Phần Dương khánh diễn hồn dư sự,
Trường sử Hồ nhi thức tuấn mao.
(Là đấng anh hào bậc nhất trong đời, vốn dòng dõi nhà tiên(*)
Dấn mình vì nước chẳng nề khó nhọc.
Nâng đỡ xe mặt trời lòng những hăng hái,
Quét sạch bụi ngoài cõi, mưu lược thật cao siêu.
Công cao đầy cả trời Nam, lưu truyền sử sách,
Uy linh khắp biển Đông, sóng cả yên lặng.
Ân trạch ở Phần Dương (**) có sánh cũng bằng thừa.
Mãi khiến giặc Hồ phải biết tay tài giỏi ).
(*) Chỉ dòng dõi nhà vua. Trần Hưng Đạo là cháu ruột vua Trần Thái Tông, là anh con nhà bác với vua Trần Thánh Tông, là bác họ với vua Trần Nhân Tông).
(**) Tức Phần Dương Quận Vương, tước hiệu của Quách Tử Nghi, người Trung Quốc đời Đường, có công lớn, được vua Đường rất kính nể.
Các cây đại bút thời Trần như Bùi Tông Quán, Phạm Sư Mạnh, Lý Tế Xuyên, Trương Hán Siêu... đều có những tuyệt tác về Trần Hưng Đạo và sự nghiệp của ông. Các nhà khoa bảng nho học sau đó cũng thường dành cho Trần Hưng Đạo những lời đặc biệt kính trọng.
Ngày nay, hình như hiếm có vị anh hùng dân tộc nào mà họ tên và tước hiệu được trang trọng đặt cho nhiều đường phố, công sở và trường học như Trần Hưng Đạo.

Đền thờ Trần Hưng Đạo
- 36 Võ Thị Sáu, TP. Hồ Chí Minh
Nguồn: Sưu tầm
(Còn nữa)
Đính kèm
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: