Hồ Thị Cúc- Tuổi thanh xuân của chị sẽ còn mãi

Trang Dimple

New member
Xu
38
Cúc cất tiếng khóc chào đời trên mảnh đất Nương Bao - xã Sơn Bằng – Hương Sơn, bên con sông Ngàn Phố trong xanh. Cúc vừa đầy một tuổi, nạn đối khủng khiếp năm 1945 đã cướp mất người cha, bà nội Cúc và bao người khác trong làng. Ông nội Cúc đưa 2 mẹ con Cúc về nha rau cháo lần hồi đợi ngày lúa chín ...Đến năm Cúc 4 tuổi, mẹ Cúc đi bước nữa.


ccb2f56576f4c9a71b6f44eface679ce.jpg


Chị Hồ Thị Cúc

Từ đây Cúc sống trong sự đmf bọc của ông nội và o Loan. Chảng bao lâu, vào một ngày tháng chạp, ông nội qua đời, một mình o Loan nuôi cháu, đến năm sau chú Dũng đi bộ đội về vàc cưới vợ. Từ đây Cúc sống với chú mự và o Loan. Bà Trinh- mẹ Cúc lấy chồng ở Sơn Bằng thỉnh thoảng về thăm con, nhưng chẳng có gì để nuôi Cúc.thơig gian này Cúc còi cọc, mặt choắt lại, đôi mắt luôn nhìn xuống, lâu dần thành thói quen. Tóc Cúc vàng hoe, cụt cỡn như một túm đuôi lông bò. Quanh năm Cúc mặc chiếc quần lửng với tấm aó vá. Cúc đi chăn bò, cắt cỏ, bế em và làm bao việc không tên khác ở trong nhà. Cúc làm chậm nhưng cần cù, cẩn thận và thật thà nên thường gọi là “Cúc mục”.

Hồi Cúc lên 8, một hôm đun nồi cám lợn xong, Cúc lúi húi quét dọn bếp. Mự vào bưng nồi cám lợn ra, chẳng may trượt chân làm đổ cả nồi cám lên lưng Cúc. Cúc bị bỏng nặng, suốt ngày nằm sấp trên chiếc chõng con, lúc tỉnh lúc mê. O Loan hồi ấy ở nhà, thưong xót cháu, 3 tháng liền tìm cách chữa cho cháu bằng bài thuốc dân gian. Cuối cùng Cúc đã khỏi. Nhưng vết sẹo sần sùi rất lớn, chạy suốt từ bả vai xuống đến thắt lưng thì không bao giờ xoá được. Cúc giấu tất cả mọi người điều đó.
Năm 1965 Cúc đi TNXP chống Mỹ cứu nước. Ba năm sống trong tập thể nam nữ thanh niên, chiến đấu trên mặt đường địch đánh phá, chị đã trưởng thành và không còn là o “Cúc mục “ ngày xưa nữa. Duy chỉ có vết sẹo trên lưng và nỗi đau sâu lắng trong lòng là không thể quên đi được.
Ngày nhập ngũ, chị Cúc đựợc ở với chị Tần. Đôi bạn cùng lứa tuổi, cùng ngày nhập ngũ đã sống với nhau trong niềm thương yêu đồng chí, đồng đội, luôn giúp đỡ nhau hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đựơc giao. Trong 3 năm cùng sống, cùng làm việc cả 2 chị đã đạt nhiều thành tích. Vinh dự lớn nhất trong đời, đó là giờ phút thiêng liêng 2 chị được đứng dưới Đảng kỳ và chân dung Hồ Chủ Tịch đọc lời tuyên thệ trước lúc vào Đảng 3-2-1967. Sau đó Cúc được giao nhiệm vụ Tiểu đội phó, tiẻu đội 4C522. Càng vui sướng với niềm vui ấy bao nhiêu, Cúc càng hăng say công tác bấy nhiêu. Ba năm trời trôi qua, Cúc đã cùng Tần chỉ huy tiểu đội bám trụ chiến đấu, đảm bảo thông suốt đường 15A trên trận địa Ngã ba Đồng Lộc.
Một ngày tháng 7 nắng gắt ở Đồng Lộc, vào lúc 16 giờ ngày 24-7-1968, trong lúc cùng 11 người trong tiểu đội ( trừ 5 cô đi lấy quân trangquân dụng, 1 người đã hy sinh trước đó) ra mặt đường cách Ngã ba Đồng Lộc về phía Nam khoảng 300 m để san lấp hố bom, sửa chữa đường kết hợp cngr có hầm trú ẩn, Cúc cùng 9 chị em trng tiểu đội đã hy sinh. Trong tiểu đội còn có chị Trần Thị Thao, “ lính nhiệm kỳ I” vì lý do tập văn nghệ đi sau cùng tiểu đội 5 nên đã sống sót.
Hôm đó, 10 cô gái ra đến hiện trường đã nhanh chóng triển khai công việc. Kẻ đào, người xúc, hồ hởi làm việc, vừa làm vừa chuyện trò trêu đùa nhau. Bỗng có một tốp máy bay vượt qua trọng điểm. Tất cả chị em nhanh chóng nép mình vào triền đồi, nơi thành hố bomcũ tạo nên một cái rãnh lớn. Tốp đi sau của tiểu đội 5 cũng dừng lại quan sát. Một lúc sau, hết tiếng máy bay cả tiểu đội chồm dậy để tiếp tục làm việc. Bất ngờ, một trong tốp chiếc máy bay lúc nãy quay lại, thả một lạot bom. Một quả bom rơi trúng vào chỗ của các cô đang làm việc. Tiếng nổ chát chúa, đất đá tung toé, khói bom mù mịt, đen ngòm trùm lên cả đội hình 10 cô.
Tốp TNXP tiểu đội 5 đi sau chạy ào đến gào thét, bộ đội, nhân dân ở gần đó cũng lao ra gọi tên từng người. Đến nơi, chỉ còn thấy hố bómâu hoắm, một vài chiếc cuốc, xẻnh văng ra nhưng không còn thấy một ai, không nghe thấy một tiếng người. Cả 10 cô gái TNXP đã anh dũng hy sinh. Suốt đêm hôm đó và cả ngày hôm sau, đồng đọi đã đoà bới, tìm kiếm thi hài các chị, đem về tắm rửa sạch sẽ. Tất cả đều như đang vừa đi vào giấc ngủ dài. Đồng đội đã đặt các chị vào khu đồi Bãi Dịa với lòng xót thương vô hạn.
Riêng chị Hồ Thị Cúc, mãi sang ngày thứ 3 đồng đội mới tìm thấy chị trên đồi Trọ Voi cách hố bom cũ chừng 20m trong tư thế ngồi, đầu đội nón, bên cạnh là cái cuốc, 10 đầu ngón tay bị ứa máu vì đang bới đất để tìm đường ra. Thương xót người em, người đông đội có số phận không may mắn, tác giả Yến Thanh ( tên thật Nguyễn Thanh Bình- cán bộ phụ trách kỹ thuật ngành GTVT) cùng có mạt lúc đó nghẹn ngào viết lên bài thơ: “Cúc ơi”


Cúc ơi!

Tiểu đội đã về xếp một hàng Ngãng
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh
A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh
Chỉ thiếu mình em
Chín bỏ làm mười răng được
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em xanh
Áo em thì mỏng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Về với bọn anh
Tắm nước sông Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp 5 em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn
Ở đâu hỡi Cúc?
Đồng đội tìm em
Đũa găm cơm úp
Gọi em,
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi!



Khoảnh khắc đau xót nhất xúc động nhất của cảnh âm dương ly biệt giữa người sống với người chết là lễ khâm liệm nhập quan với "đũa găm cơm úp" và "hú hồn gọi vía": Đó là nỗi đau chung của nhân tình.

Trong bài thơ "Cúc ơi!" nỗi đau này xen lẫn cảm phục về người con gái 24 tuổi đời đã hy sinh vì sự nghiệp cứu nước khi "gối còn thêu dở/Cơm chiều chưa ăn" - người con gái chớm bước vào ước mơ tình yêu đôi lứa và hy sinh tức tưởi trong cái chết chưa có hạt "cơm chiều" vào bụng!...

Bài thơ của Yến Thanh không có câu chữ cụ thể nào nói về tội ác giặc Mỹ xâm lược trong chiến tranh phá hoại miền Bắc ngày 24 tháng 7 năm 1968 đã giết chết 10 cô gái thanh niên xung phong đang ở độ tuổi tươi đẹp nhất của một đời người nhưng có sức thổi bùng ngọn lửa căm thù giặc Mỹ trong trái tim người đọc qua việc tác giả dựng lại chân dung người nữ thanh niên xung phong Hồ Thị Cúc và nỗi xót thương của đồng đội.

Hồ Thị Cúc cũng như hàng triệu cô gái Việt Nam khác: chân chất hiền lành như "củ khoai củ sắn"... Cuộc đời lao động lam lũ "chăn trâu cắt cỏ" với mơ ước bình dị của một con người: được yêu đương được học hành... Thế mà chị đã vĩnh viễn ra đi!

Chiến tranh xâm lược luôn gắn liền với tội ác. Sự thật đó không bao giờ cũ dù nó xảy ra hôm nay hôm qua hoặc lâu hơn nữa...

Sức lay động và sự ám ảnh tâm hồn người đọc của bài thơ "Cúc ơi!" Không chỉ ở thời điểm xúc cảm nhất của cảnh âm dương ly biệt và hình ảnh người đã mất mà còn là tình cảm của những người sống người đồng đội của Hồ Thị Cúc cùng tiểu đội 4 thanh niên xung phong.

Hình tượng xuyên suốt bài thơ là người "anh" đồng đội đang vừa đào vừa "bới" vừa "gọi" vừa gào" đến "khan cổ" người "em" thanh niên xung phong Hồ Thị Cúc...

Nhịp thơ ngắt quãng câu thơ ngắn dài theo tiếng khóc tiếng nấc của những người đồng đội. Cho đến cuối bài mỗi dòng thơ chỉ còn 2 chữ như tiếng gọi đã khàn : Gọi em/gào em/.../ Cúc ơi!

Ngôn ngữ thơ chứa chan cảm xúc yêu thương. "Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc/.../ Cúc ơi! em ở đâu?/Đất nâu lạnh lắm/Da em xanh/Áo em thì mỏng/Cúc ơi! Em ở đâu?.

Tiếng gọi "Cúc ơi" lặp đi lặp lại 5 lần trong bài thơ không những diễn tả khung cảnh vừa đào vừa bới vừa gọi vừa gào người đồng đội "không về tập hợp" của những người còn sống mà còn day dứt ám ảnh người đọc về nỗi đau của sự mất mát hy sinh...

Cái nghĩa cái tình của những người cùng chí hướng trong những năm kháng chiến gian lao đáng quý biết bao!

Bài thơ có giọng điệu riêng "rất Hà Tĩnh". Đó là những địa danh những sản vật của miền đất Hương Sơn nơi có "Sông Ngàn Phố" có "quýt đỏ Sơn Bằng" có cách nói quen thuộc "Chín bỏ làm mười răng được". Phải chăng quê hương Hà Tĩnh vẫn là nơi neo đậu vĩnh viễn của những người con gái thanh niên xung phong đã hy sinh ở ngã ba Đồng Lộc dù họ đã về miền Tiên nữ...?

Khi viết bài thơ "Cúc ơi!" Yến Thanh không phải là nhà thơ đã thành danh - anh là cán bộ kỹ thuật của ngành giao thông vận tải. Dù vậy thi phẩm đã sống trong lòng bạn đọc đến nay đã hơn 40 năm do được nhà thơ sáng tác trong trạng thái tâm lý xúc cảm dâng trào. Quy luật cảm hứng trong sáng tác thơ đã giúp Yếu Thanh vượt qua những khuôn mẫu thủ pháp kỹ thuật của ngôn từ để từ tâm não mình nước mắt thoát ra rơi thành con chữ...



· Hồ Thị Cúc là nữ thanh niên xung phong thuộc tiểu đội 4 Đại đội 552 tổng đội 55 do chị Võ Thị Tần làm tiểu đội trưởng đã anh dũng hy sinh cùng tiểu đội của mình khi đang san lấp hố bom sau đợt bắn phá của máy bay Mỹ ở Ngã ba Đồng lộc (Hà Tĩnh) vào 16 giờ ngày 24 tháng 7 năm 1968.

· Tác giả Yến Thanh (tên thật là Nguyễn Thanh Bính) cán bộ phụ trách kỹ thuật của ngành giao thông vận tải có mặt lúc đó đã nghẹn ngào viết lên bài thơ này.
 
Tiểu đội đã về xếp một hàng Ngãng
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp
Chín bạn đã quây quần đủ hết
Nhỏ, Xuân, Hà, Hường, Hợi, Rạng, Xuân, Xanh
A trưởng Võ Thị Tần đã điểm danh
Chỉ thiếu mình em
Chín bỏ làm mười răng được
Bọn anh đã bới tìm vẹt cuốc
Chỉ sợ em đau nên nhát cuốc chùng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Đất nâu lạnh lắm
Da em xanh
Áo em thì mỏng
Cúc ơi! Em ở đâu?
Về với bọn anh
Tắm nước sông Ngàn Phố
Ăn quýt đỏ Sơn Bằng
Chăn trâu cắt cỏ
Bài toán lớp 5 em còn chưa nhớ
Gối còn thêu dở
Cơm chiều chưa ăn
Ở đâu hỡi Cúc?
Đồng đội tìm em
Đũa găm cơm úp
Gọi em,
Gào em
Khản cổ cả rồi
Cúc ơi!


 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top