Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
HIỆP HỘI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á (ASEAN
a. Sự thành lập tổ chức AEAN, tuyên bố Băngcốc 8-8-1967.
Hiệp hội các nước Đông Nam Á (viết tắt theo tiếng Anh là ASEAN) được thành lập ngày 8-8-1967 tại Băngcốc thủ đô
Vương quốc Thái Lan. Sự thành lập tổ chức ASEAN trước hết là sự biểu hiện tư tưởng khu vực đã trưởng thành ở Đông
Nam Á nói chung, ở các nước thành viên ASEAN nói riêng. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa khu vực đã hình
thành và nhanh chóng phát triển, nhiều tổ chức khu vực đã xuất hiện: Liên đoàn Arập (1950), tổ chức các nước Trung - Mĩ
(1951), Hiệp ước về nhất thể hoá 5 nước Trung - Mĩ (1960), thị trường chung châu Âu (1957), tổ chức đoàn kết châu Phi
(1963).... tình hình đó đã tác động đến các nước Đông Nam Á nói chung và các nước ASEAN nói riêng. Đến năm 1965, trừ
Brunây còn lại hầu hết các nước Đông Nam Á đã giành được độc lập dưới các hình thức khác nhau, sau khi giành được
độc lập, bộ máy nhà nước của các nước Đông Nam Á bước đầu được củng cố, ý thức dân tộc, nhân tố cơ bản để các
nước Đông Nam Á giành được độc lập, được phát triển một bước mới, để bảo vệ nền độc lập dân tộc và xây dựng, phát
triển đất nước. Đây chính là cơ sở các nước Đông Nam Á tìm cách tập hợp nhau lại dưới hình thức một tổ chức để đối
phó với những thách thức trên con đường phát triển của họ. Nhu cầu thành lập một tổ chức khu vực của Đông Nam Á càng
được thúc đẩy mạnh mẽ hơn vào thập kỷ 60, khi tình hình thế giới và khu vực có những thay đổi quan trọng,trước hết là các
mối quan hệ quốc tế đang diễn ra trong khu vực. Cuộc chiến tranh Đông Dương, đặc biệt là ở Việt Nam, đang được phát
triển đến đỉnh cao, cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ, đẩy đế quốc Mĩ vào thế thất
bại lại ngày càng nặng nề. Trong lúc đó các cường quốc khác trên thế giới như Liên Xô, Anh, Pháp, Trung Quốc đã đưa ra
các kế hoạch của mình về châu Á nói chung, Đông Nam Á nói riêng. Tình hình này đòi hỏi các nước Đông Nam Á phải có
biện pháp xử lý một cách khôn khéo nhằm tránh né các xung đột quốc tế có thể ảnh hưởng đến mình. Đồng thời, sau khi
giành độc lập dân tộc, bộ máy nhà nước của một số quốc gia có khuynh hướng phát triển tư bản chủ nghĩa ở Đông Nam Á
được củng cố, Chính phủ các nước này đều chú trọng đến việc phát triển kinh tế, thực hiện công nghiệp hoá. Tuy nhiên,
nhìn chung các nước này đều đứng trước những thách thức về chính trị, kinh tế trong nước cũng như những xung đột, mâu
thuẫn trong quan hệ giữa họ với nhau. Trong tình hình đó, nhu cầu tập hợp nhau lại dưới hình thức một tổ chức để đối phó
với các thách thức trên càng trở nên cấp bách. Ngoài những lý do chung nói trên, các nước Inđônêxia, Xingapo, Philippin,
Malaixia, Thái Lan đều có những mục đích riêng của mình khi vận động thành lập một tổ chức khu vực. Xuất phát từ những
yêu cầu trên,quá trình vận động thành lập một tổ chức khu vực ở Đông Nam Á đã xuất hiện khá sớm. Tháng 1 năm 1959,
Hiệp ước hữu nghị và kinh tế Đông Nam Á ra đời bao gồm 2 nước Malaixia và Philippin. Tháng 7-1961, Hiệp hội Đông Nam
Á (ASA), bao gồm Malaixia, Philippin và Thái Lan được thành lập. Tiếp đó tháng 8-1963, một tổ chức gồm Malaixia,
Philippin, Inđônêxia, gọi tắt là MAPHILINĐO, được thành lập. Tuy nhiên, các tổ chức này đều không thể tồn tại được lâu do
sự bất đồng giữa các thành viên và sự thiếu hợp tác của Inđônêxia (bởi chính sách đối đầu của Inđônêxia và Malaixia). Cho
đến sau sự kiện tháng 9-1965 ở Inđônêxia, khi chính quyền quân sự của Tướng Suháctô có những thay đổi trong chính
sách đối ngoại, nhất là với các nước trong khu vực, xu hướng liên kết khu vực ở Đông Nam Á có điều kiện phát triển nhanh
chóng. Cuối năm 1966, ngoại trưởng Thái Lan đã gửi đến các ngoại trưởng Inđônêxia, Malaixia, Philippin và Xingapo bản dự
thảo về việc tổ chức “Hội các quốc gia Đông Nam Á về hợp tác khu vực”.Sau nhiều cuộc thảo luận, tháng 8-1967 ngoại
trưởng 5 nước Thái Lan, Inđônêxia, Philippin, Malaixia và Xingapo đã họp ở Băngcốc và ngày 8-8-1967 đã tuyên bố về việc
thành lập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) tổ chức ASEAN chính thức được thành lập. Bản tuyên bố do 5 nước
sáng lập ASEAN đưa ra ngày 8-8-1968 còn được gọi là tuyên bố Băngcốc hay tuyên bố ASEAN, trong đó nêu rõ mục đích
thành lập của tổ chức này qua việc trình bày 7 mục tiêu sau đây: “1. Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát
triển văn hoá trong khu vực, thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm tăng cường cơ sở cho
một cộng đồng các quốc gia Đông Nam Á hoà bình thịnh vượng; 2. Thúc đẩy hoà bình và ổn định khu vực bằng việc tôn trọng
công lý và nguyên tắc luật pháp trong quan hệ giữa các quốc gia trong vùng và tuân thủ các nguyên tắc của Hiến chương
Liên Hợp Quốc; 3. Thúc đẩy sự cộng tác và giúp đỡ lẫn nhau trong các vấn đề cùng quan tâm trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội, văn hoá, khoa học kỹ thuật và hành chính; 4. Giúp đỡ lẫn nhau dưới hình thức đào tạo và cung cấp các phương tiện
nghiên cứu trong các lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kỹ thuật và hành chính; 5. Cộng tác có hiệu quả hơn để sử dụng tốt
hơn nền nông nghiệp và các ngành công nghiệp của nhau, mở rộng mâụ dịch kể cả việc nghiên cứu các vấn đề buôn bán
hàng hoá quốc tế, cải thiện các phương tiện giao thông, liên lạc và nâng cao mức sống của nhân dân; 6. Thúc đẩy việc
nghiên cứu Đông Nam Á; 7. Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợivới các tổ chức quốc tế và khu vực có tôn chỉ và mục
đích tư tự và tìm kiếm các cách thức nhằm đạt được một sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các tổ chức này.”(1)Với những
mục tiêu trên ASEAN đã “thành lập được nhóm hạt nhân các nước Đông Nam Á chính thức nhận lấy trách nhiệm củng cố
hợp tác khu vực. Hơn nữa, lần đầu tiên nhóm hạt nhân 5 quốc gia này đã có thể đòi quyền đại diện cho lợi ích của Đông
Nam Á như một khu vực”(2) . Tuyên bố Băngcốc không phải là một hiệp ước có tính pháp lý, ràng buộc chặt chẽ các hội
viên và biến tổ chức ASEAN thành một thực thể pháp lý như NATO, SEATO mà chỉ là một thoả thuận lỏng lẻo, mức độ ràng
buộc thấp. ASEAN không phải là một tổ chức siêu quốc gia, chỉ đạo các hội viên mà là cơ quan phối hợp các hoạt động của
các nước hội viên, dung hoà quyền lợi dân tộc giữa họ với nhau và giữa từng nước hội viên với quyền lợi tập thể của cả 5
nước. Cấp quyết định cao nhất lúc bấy giờ là Hội nghị ngoại trưởng hàng năm. So với ASA và MAPHILINDO, ASEAN là một
bước chuyển mới trong các cố gắng của các nước Đông Nam Á tiến tới thành lập một tổ chức hợp tác khu vực. Cùng với
thời gian, những biến đổi của tình hình thế giới khu vực và của chính ASEAN, tổ chức này đã phát triển, hoàn thiện dần và
trở thành một trong những tổ chức khu vực thành công nhất suốt hơn 40 năm qua.
b, Những sự kiện chính trong quá trình phát triển của tổ chức ASEAN.
- Tuyên bố Cuala Lămpơ (còn gọi là tuyên bố ZOPPAN) Sau một thời gian hoạt động yếu ớt, ngày 17-7-1971, tại Cuala
Lămpơ, thủ đô Malaixia, ngoại trưởng 5 nước thành viên ASEAN đã ký một bản tuyên bố khẳng định cam kết của ASEAN
đối với việc duy trì hoà bình và ổn định ở Đông Nam Á và quyết định sẽ cùng nhau xúc tiến các nỗ lực cần thiết để tranh thủ
các nước công nhận Đông Nam Á là một khu vực hoà bình, tự do và trung lập (ZOPFAN), không có sự can thiệp dưới bất
cứ hình thức hoặc phương cách nào của các cường quốc bên ngoài. Với tuyên bố ZOPFAN, ASEAN đã bắt đầu có tiếng
nói chính trị của mình đối với khu vực và quốc tế, chấm dứt thời kỳ dò dẫm ban đầu. - Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ
nhất (1976). Từ ngày 23 đến 24-2-1976, tại Bali (Inđônêxia), Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất đã được tổ chức.
Tại đây, các vị đứng đầu Nhà nước và Chính phủ các nước thành viên ASEAN đã cùng nhau ký kết 2 văn kiện quan
trọng:Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á, còn gọi là Hiệp ước Bali, đặt khuôn khổ cho nền hoà bình lâu dài ở
khu vực trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết hoà
bình các tranh chấp trong khu vực và kêu gọi hợp tác có hiệu quả trên các lĩnh vực nông - công nghiệp, thương mại và cải
thiện cơ sở hạ tầng kinh tế vì lợi ích chung của các nước trong khu vực. Tuyên bố về sự hoà hợp ASEAN : Nêu rõ những
mục tiêu và nguyên tắc bảo đảm sự ổn định chính trị ở khu vực như đẩy mạnh hợp tác trên các lính vực phát triển kinh tế và
văn hoá, giúp đỡ lẫn nhau khi gặp thiên tai, hợp tác trong các chương trình phát triển khu vực, phát triển hoà bình các cuộc
tranh chấp ở khu vực, đồng thời xác định rõ những lĩnh vực hợp tác cụ thể về kinh tế. Hội nghị cũng đã đẩy mạnh việc thống
nhất quan điểm, phối hợp lập trường và tiến hành hoạt động chung giữa các nước thành viên về những vấn đề khu vực và
quốc tế cùng quan tâm. Về tổ chức, Hội nghị đã ký Hiệp định thành lập Ban thư ký ASEAN để phối hợp hoạt động giữa các
uỷ ban và dự án hợp tác ASEAN. Với những nội dung trên đây, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ nhất đã đánh dấu
bước phát triển mới của ASEAN. Tôn chỉ, mục đích của ASEAN được hoàn thiện hơn nhằm đáp ứng sự thay đổi mới của
khu vực (cách mạng Đông Dương thắng lợi, Mĩ phải rút khỏi Đông Dương), hoạt động của ASEAN chuyển mạnh sang hợp
tác kinh tế, văn hoá, cơ cấu tổ chức đã chặt chẽ hơn với Ban thư ký ASEAN có trụ sở tại Giacácta (Inđônêxia). - Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN lần thứ hai (1977). Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ hai được tổ chức từ ngày 4 đến 5-8-1977, tại
Cuala Lămpơ (Malaixia) nhằm tiến hành kỷ niệm 10 năm thành lập ASEAN và điểm lại những hoạt động trong quá trình thực
hiện các chương trình hợp tác đã đề ra tại Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ nhất. Hội nghị đã đạt được 2 kết quả quan trọng:
Thứ nhất: Cơ cấu lại uỷ ban hợp tác ASEAN để chuẩn bị cho việc mở rộng sự hợp tác của ASEAN trên mọi lĩnh vực;Thứ
hai: Chính thức hoá các cuộc đối thoại của ASEAN với các nước công nghiệp phát triển nhằm nâng cao vai trò của ASEAN
trong cộng đồng quốc tế. - Kết nạp Brunây Đaruxalam (7-9-1984). Từ năm 1981 Brunây Đaruxalam là quan sát viên của
ASEAN. Theo Hiệp ước ngày 7-9-1979 ký giữa Quốc vương Brunây với Chính phủ Anh, ngày 31-12-1983 Brunây trở thành
nước độc lập. Ngày 7-1-1984, Brunây nộp đơn xin gia nhập ASEAN và ngày 7-1-1984 Brunây được kết nạp vào ASEAN tại
một nghi lễ trọng thể tổ chức tại Giacácta. Kể từ đó Brunây trở thành thành viên thứ 6 của tổ chức ASEAN. - Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN lần thứ ba (1987). Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ ba được tổ chức ở Manila (Philippin) từ ngày
14 đến 15-12-1987, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập tổ chức ASEAN. Tại Hội nghị, những người đứng đầu Chính phủ các
nước ASEAN đã thông qua các văn kiện quan trọng sau đây: Tuyên bố Manila năm 1987: bày tỏ quyết tâm của các nước
ASEAN tiếp tục thúc đẩy, củng cố sự đoàn kết, hợp tác ở khu vực, giải quyết các tranh chấp trong khu vực bằng phương
pháp hoà bình, đẩy mạnh hơn nữa hợp tác kinh tế thương mại, khuyến khích hơn nữa sự tham gia của khu vực tư nhân
vào sự hợp tác ASEAN; Nghị định thư sửa đổi của điều 14 và 18 của Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông Nam Á (Hiệp
ước Bali năm 1987) để các nước ngoài khu vực cũng có thể tham gia. Hiệp ước khuyến khích và đảm bảo đầu tư ASEAN;
Nghị định thư về việc mở rộng danh mục thuế ưu đãi theo thoả thuận ưu đãi buôn bán ASEAN (PTA). Về cơ cấu tổ chức,
Hội nghị đã quyết định thành lập cơ chế liên bộ trưởng (JMM) bao gồm các Bộ trưởng ngoại giao và Bộ trưởng kinh tế; thể
chế hoá cuộc họp các quan chức cao cấp (SOM) và cuộc họp các quan chức kinh tế cao cấp (SEOM). Tại Hội nghị các vị
đứng đầu Chính phủ các nước ASEAN quyết định sẽ gặp nhau 3 - 5 năm một lần. Như vậy, ngoài những biện pháp cụ thể,
Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ ba đã tiếp tục hoàn thiện tôn chỉ, mục đích của Hiệp hội, đồng thời tổ chức của Hiệp
hội cũng được củng cố, phát triển một bước mới. - Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ tư (1992). Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN lần thứ tư được tổ chức ở Xingapo từ ngày 27 đến 28 - 1 -1992. Hội nghị thông qua một số quyết định và văn kiện
quan trọng sau đây:
Tuyên bố Xingapo năm 1992: khẳng định quyết tâm của ASEAN đưa sự hợp tác chính trị và kinh tế lên tầm cao hơn và mở
rộng hợp tác sang lĩnh vực an ninh. Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN, trong đó nêu lên 3 nguyên tắc
của sự hợp tác: hướng ra bên ngoài, cùng có lợi và linh hoạt đối với sự tham gia của các nước thành viên trong chương
trình, dự án hợp tác; xác định rõ 5 lĩnh vực hợp tác kinh tế cụ thể là thương mại - ngân hàng, vân tải - liên lạc và du lịch;
nhấn mạnh “hoà giải” là phương châm giải quyết những điểm khác nhau giữa các nước thành viên trong việc giải thích và
thực hiện Hiệp định khung này; quyết định sẽ thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong vòng 15 năm (tại Hội
nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 26 ở Chiềng Mai (Thái Lan) tháng 9 - 1994, các nước ASEAN đã quyết định rút
lui ngắn thời hạn hình thành AFTA xuống đến năm 2003). Hiệp định về Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) quy định các biện pháp cũng như các giai đoạn cho việc từng bước giảm thuế nhập khẩu, tiến tới thực hiện AFTA
(CEPT được xem là công cụ để thông qua đó hình thành AFTA). Về cơ cấu tổ chức, Hội nghị quyết định tiến hành Hội nghị
Thượng đỉnh ASEAN 3 năm một lần; thành lập hội đồng AFTA cấp bộ trưởng để theo dõi, thúc đẩy việc thực hiện (CEPT và
AFTA); giải tán 5 uỷ ban kinh tế và giao cho SEAM đảm nhận việc giám sát các hoạt động kinh tế ASEAN; cải tổ và tăng
cường bộ máy Ban thứ ký ASEAN, trong đó có việc nâng cấp Tổng thư ký ASEAN lên hàm Bộ trưởng (1) - Diễn đàn khu
vực ASEAN (ARF).Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) được chính thức thành lập tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN lần thứ 26
tại Singapo, tháng 7-1993, để trao đổi ý kiến về các vấn đề chính trị và an ninh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cuộc
họp đầu tiên của ARF (ARF[SUB]1[/SUB]) cấp Bộ trưởng Ngoại giao diễn ra ngày 2 - 7 - 1994 tại Băng kốc (Thái Lan) với sự tham gia
của 18 ước: 6 nước thành viên ASEAN, 7 nước đối thoại của ASEAN (Mỹ, Nhật Bản, Canada, Liên minh châu Âu,
Ôxtrâylia, Niu Dilân, Hàn Quốc), 3 nước quan sát viên của ASEAN (Việt Nam, Lào, Papua Niu Ghinê) và 2 nước hiệp
thương của ASEAN (Nga, Trung Quốc). ARF được tổ chức mỗi năm một lần. Đến nay ARF đã thu hút sự tham gia của
nhiều nước trong cũng như ngoài khu vực Đông Nam Á để bàn về các vấn đề chính trị và an ninh khuvực châu Á - Thái Bình
Dương.- Kết nạp Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (28 - 7 - 1995)Ngày 22 - 7 -1992, Việt Nam và Lào chính thức tham
gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác năm 1976, nhân Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 25 tại Manila (Philippin). Ngay
sau lễ ký Hiệp ước, ASEAN tuyên bố Việt Nam và Lào là quan sát viên của ASEAN, cùng với Papua Niu Ghinê. Kể từ đó
Việt Nam được mời tham dự các cuộc họp hàng năm của Ngoại trưởng các nước ASEAN tại Xingapo (1993) và Thái Lan
(1994) cũng như một số cuộc họp khác của ASEAN. Từ đầu năm 1994, Việt Nam đã được mời tham gia vào một số dự án
hợp tác chuyên ngành của ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học - kỹ thuật, văn hoá - thông tin, môi trường, y tế và dulịch.Sau
khi Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN lần thứ 27 tại Băng kốc (Thái Lan) khẳng định sẵn sàng chấp nhận Việt Nam là thành viên
ASEAN, Việt Nam đã tích cực tiến hành các cuộc trao đổi ý kiến cùng nhau đẩy nhanh quá trình chuẩn bị cho Việt Nam gia
nhập ASEAN. Ngày 17 - 10 - 1994, Việt Nam đã gửi thư cho Chủ tịch Uỷ ban thường trực ASEAN là Brunây, chính thức đặt
vấn đề Việt Nam muốn gia nhập ASEAN.Ngày 27 - 7 - 1995, Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN lần thứ 28 họp tại
Banđa Sêni Bêgaoan (Brunây). Sau ngày làm việc đầu tiên, Cămpuchia và Mianmar tham gia Hiệp ước Bali 1976 và
Cămphuchia được công nhận là quan sát viên của ASEAN. Ngày 28 - 7- 1995, ASEAN đã long trọng tổ chức lễ kết nạp Việt
Nam vào ASEAN, trở thành thành viên thứ bảy của tổ chức này. Quan hệ Việt Nam - ASEAN bước sang một chương mới,
sự kiện này được ông Ajit Singh, Tổng thư ký đầu tiên của ASEAN, đánh giá rằng “việc mở rộng một số thành viên là một
trong các mốc quan trọng nhất của ASEAN”. Đặc biệt, với sự tham gia của Việt Nam, ASEAN đã được nhân lên sức mạnh
và khẳng định việc thống nhất khu vực Đông Nam Á trong một đại gia đình(3).- Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ năm
(1995). Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ năm họp tại Băng kốc (Thái Lan) vào ngày 14 đến 15 - 12 - 1995. Hội nghị tập
trung giải quyết các vấn đề tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên và xây dựng Đông Nam Á thành một khu
vực phi hạt nhân. Kết quả, Hội nghị đã ký kết Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân trong khu vực; Hội nghị đề ra việc đẩy mạnh
xây dựng khu vực tự do buôn bán ASEAN (AFTA) vào năm 2003, thảo luận về “các tam giác phát triển” trong khu vực. Ngoài
ra Hội nghị còn thảo luận về việc mở rộng số thành viên của ASEAN.- Hội nghị Thượng đỉnh Âu - Á (ASEM).Tháng 3 - 1996,
lần đầu tiên trong lịch sử, Hội nghị Thượng đỉnh Âu -á được tổ chức tại Băngcốc (Thái Lan). Tham dự Hội nghị gồm nguyên
thủ của 15 nước Liên minh châu Âu (EU),7 nước ASEAN và Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc. Các vị nguyên thủ đã thảo
luận những vấn đề quan trọng nhằm thúc đẩy mối quan hệ kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật giữa hai tổ chức ASEAN và
EU. Đây là một hội nghị có ý nghĩa lịch sử trọng đại: lần đầu tiên những người đứng đầu các nước trong Liên minh châu Âu
đã ngồi bàn bạc với những người đứng đầu các nước trong ASEAN một cách hoàn toàn bình đẳng, hữu nghị, tự nguyện
theo tinh thần hai bên cùng có lợi(4). - Kết nạp Lào và Mianmar (7 - 1997)Từ ngày 23 đến 29 - 7 - 1997, Hội nghị các Ngoại
trưởng ASEAN lần thứ 30 diễn ra ở Cuala Lămpơ (Malaixia). Tại cung Hữu nghị của khách sạn Sunway Langoon, lễ kết nạp
hai thành viên mới của ASEAN đã được diễn ra trọng thể, Lào và Mianma trở thành thành viên chính thức, đẩy đủ của tổ
chức ASEAN. Sự kiện này đã nâng số hội viên của tổ chức lên 9 nước và mở ra triển vọng về một ASEAN 10 trong tương
lai gần.- Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 (1998)Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 diễn ra tại Hà Nội (Việt Nam)
trong hai ngày 15 và 16 -12 - 1998, cuộc họp cấp cao này diễn ra trong một thời điểm khá đặc biệt: đây là cuộc Hội nghị
Thượng đỉnh cuối cùng của ASEAN trong thế kỷ XX, đồng thời nó diễn ra vào thời điểm các nước thành viên ASEAN đang
lâm vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính hết sức nghiêm trọng. Việt Nam đã chuẩn bị tốt mọi điều kiện cho cuộc hội
tụ của hơn 600 đại biểu đến từ 9 nước thành viên và từ các nước khác.Với chủ đề “Đoàn kết và hợp tác vì một ASEAN hoà
bình, ổn định và phát triển đồng đều”, các nhà lãnh đạo của nước ASEAN đã thông qua hai văn kiện đặc biệt quan trọng, đó
là Tuyên bố Hà Nội và Chương trình hành động Hà Nội.Tuyên bố Hà Nội, với 34 điểm, thể hiện quyết tâm chính trị của
ASEAN ra sức củng cố đoàn kết và tăng cường hợp tác nhằm sớm phục hồi kinh tế, nhanh chóng khắc phục khó khăn do
khủng hoảng kinh tế - tài chính gây ra, củng cố hoà bình, ổn định và phát triển khu vực, tăng cường vai trò và vị thế của
ASEAN trên trường quốc tế. Bản tuyên bố đã khẳng định tầm quan trọng của sự đoàn kết nội bộ trong việc giải quyết cuộc
khủng hoảng kinh tế và xã hội trong khu vực.Chương trình hành động Hà Nội gồm 10 chương với 269 biện pháp đẩy mạnh
hợp tác trên 10 lĩnh vực quan trọng nhằm phục hồi và gia tăng sự liên kết kinh tế ASEAN cũng như sự hợp tác giữa ASEAN
với các nước, các tổ chức khác trên thế giới.Cùng với hai văn kiện còn có “Tuyên bố về các biện pháp đẩy mạnh” và các
Hiệp định khác được ký kết. Trong đó kết quả nổi bật nhất là các nước ASEAN thống nhất sẽ rút ngắn thời hạn thực hiện
AFTA xuống 1 năm, đến năm 2002 AFTA sẽ được hoàn thành, áp dụng thuế suất hàng nhập khẩu trong khu vực ở mức 0 -
5%. Ba nước Việt Nam, Lào và Mianmar sẽ thực hiện AFTA đẩy đủ vào năm 2006 và 2008. Hội nghị cũng đã đồng ý kết nạp
Vương quốc Cămpuchia làm thành viên thứ 10 của ASEAN.Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 6 của ASEAN đánh dấu nỗ lực
phối hợp đầu tiên ở cấp cao nhất nhằm giúp các nước thành viên vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính khu vực.
Hội nghị đã góp phần nâng cao uy tín chính trị của Việt Nam, đẩy mạnh sự hợp tác quốc tế có lợi cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc(5).- Kết nạp Campuchia (30 - 4 - 1999).Thực hiện quyết định của Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 6 (12 -
1998), ngày 30 - 4 - 1999, Ngoại trưởng của 10 nước thành viên đã hoàn tất các thủ tục về việc kết nạp Campuchia làm
thành viên thứ 10 của ASEAN. Lễ kết nạp được tổ chức trọng thể tại Hà Nội. Sự kiện này đã “mở ra một giai đoạn mới cho
các nước Đông Nam Á khai thác tất cả những tiềm năng của khu vực để phát triển”(6)'.
- Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VII tại Brunây Đaruxalam (11-2001)
Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VII diễn ra tại Brunây Đaruxalam từ ngày 5 đến ngày 6-11-2001. Hội nghị khẳng định lại
Chương trình hành động Hà Nội (HPA) vẫn là định hướng quan trọng để thực hiện Tầm nhìn ASEAN; đẩy mạnh liên kết
ASEAN, nhất là trong lĩnh vực kinh tế; tập trung trao đổi vấn đề thu hẹp khoảng cách phát triển, giúp các thành viên mới. Tại
diễn đàn này Hội nghị cũng đã thông qua Tuyên bố chung chống khủng bố. - Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VIII tại
Phnômpênh, Campuchia (11 - 2002)Tại Hội nghị, ASEAN nhất trí cần tiếp tục duy trì hoà bình ổn định, tăng cường hợp tác
chính trị, an ninh, cải thiện hình ảnh và vị thế của ASEAN, giải quyết các bất đồng theo phương thức ASEAN; nhấn mạnh
cần triển khai nhanh các sáng kiến, chương trình đã có qua các biện pháp chính sau:+ Tăng cường liên kết nội khối, giảm
hàng rào phi quan thuế, cải thiện môi trường đầu tư để tăng buôn bán, đầu tư nội khối trước bối cảnh các thị trường truyền
thống của ASEAN giảm mạnh bởi suy thoái kinh tế thế giới.+ Nâng cao khả năng cạnh tranh của ASEAN.+ Tập trung triển
khai các dự án ưu tiên, nhất là về thu hẹp khoảng cách, giúp các thành viên mới, phát triển Tiểu vùng như Mê-công.+ Xác
định lại mục tiêu phát triển của ASEAN và nghiên cứu chiến lược phát triển của Hiệp hội để tiến tới hình thành Cộng đồng
kinh tế ASEAN có tính đến những kinh nghiệm của Liên minh Châu âu.Tại đây, Hội nghị Cấp cao ASEAN - Ấn Độ lần đầu
tiên được tổ chức và các nhà lãnh đạo ASEAN đã nhất trí họp Cấp cao ASEAN + Ấn Độ hàng năm. ASEAN và Trung Quốc
đã ký Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), coi đây là một bước quan trọng tiến đến hình thành Bộ
Quy tắc ửng xử ở Biển Đông (COC); và ký Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc, theo đó dự
kiến thời điểm hoàn thành Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN - Trung Quốc là năm 2010 (với 6 nước ASEAN cũ) và 2015 với
4 nước ASEAN mới.) - Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX tại Bali, Inđônêxia (10-2003)Kết quả quan trọng nhất của Hội
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX là các Lãnh đạo ASEAN đã ký Tuyên bố Hoà hợp ASEAN II (Tuyên bố Bali II) nêu những
định hướng chiến lược lớn của ASEAN với mục tiêu thành lập một cộng đồng ASEAN liên kết mạnh, tự cường vào năm
2020 với ba trụ cột chính là hợp tác chính trị-an ninh (Cộng đồng An ninh ASEAN-ASC), hợp tác kinh tế (Cộng đồng kinh tế
ASEAN-AEC), và hợp tác xã hội/văn hoá (Cộng đồng xã hội/văn hoá ASEAN-ASCC). Nhằm triển khai Tuyên bố Ba-li II,
ASEAN sẽ xây dựng Chương trình Hành động để thông qua tại Cấp cao ASEAN-10 tại Viêng-chăn tháng 11-2004. Tại đây,
Trung Quốc chính thức tham gia Hiệp ước Thân thiện và hợp tác (TAC). Nhật Bản ký với ASEAN Khuôn khổ Đối tác Kinh tế
toàn diện (CEP), cụ thể hoá các bước đi xây dựng CEP ASEAN - Nhật trong đó có Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Nhật;
nêu sáng kiến tổ chức hội nghị ASEAN-Nhật Bản về đầu tư bên lề Cấp cao Kỷ niệm ASEAN - Nhật Bản tháng 12-2003. Tại
Cấp cao ASEAN+Ấn Độ: Hai bên ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN-Ấn Độ, trong đó có lộ trình xây
dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Ấn Độ (FTA) và chương trình Thu hoạch sớm. Ấn Độ cũng chính thức tham gia Hiệp
ước TAC
- Hội nghị Cấp cao kỷ niệm ASEAN-Nhật Bản, Tô-ky-ô (12-2003)
Hội nghị Cấp cao kỷ niệm ASEAN - Nhật Bản là một trong những hoạt động kỷ niệm 30 năm quan hệ ASEAN - Nhật Bản
. Tại Hội nghị này, Lãnh đạo ASEAN và Nhật đã ký “Tuyên bố Tôkyô về quan hệ đối tác ASEAN - Nhật năng động và bền
vững trong thiên niên kỷ mới” cùng với “Kế hoạch hành động”. Tuyên bố khẳng định ASEAN và Nhật quyết tâm phát triển
quan hệ toàn diện trong khuôn khổ "đối tác chiến lược"; nêu 7 chiến lược hành động chung về hợp tác trên các lĩnh vực:
kinh tế - tài chính, phát triển, an ninh - chính trị, phát triển nguồn nhân lực, văn hoá - xã hội, giao lưu nhân dân, hợp tác
Đông Á, và hợp tác trên các vấn đề toàn cầu. Trong đó, trọng tâm lớn nhất là hợp tác kinh tế, phát triển, đặc biệt là phát
triển các tiểu vùng tăng trưởng của ASEAN như lưu vực Mêcông và BIMP-EAGA (Khu vực tăng trưởng Đông ASEAN gồm
Bru-nai, Inđônêxia, Malaixia và Philíppin). Ngoài 2 văn kiện trên, Ngoại trưởng Nhật ký Tuyên bố ý định tham gia Hiệp ước
Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) và Ngoại trưởng Inđônêxia thay mặt các nước ASEAN ký Tuyên bố đồng ý việc
Nhật tham gia TAC. Nhật sẽ hoàn tất thủ tục trình Quốc hội và Nhật Hoàng để có thể sớm chính thức tham gia TAC.- Hội
nghị Cấp cao ASEAN lần thứ X và các Cấp cao liên quan tại Viênchăn, Lào (11/2004)Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN X, các vị
lãnh đạo đã thông qua một số quyết định quan trọng sau: + Để thực hiện Tầm nhìn ASEAN2020 và Tuyên bố Bali II, các vị
lãnh đạo ASEAN đã ký Chương trình hành động Viênchăn (VAP) sau khi hoàn tất Chương trình hành động Hà Nội (HPA)
nhằm xâydựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 với 3 trụ cột về chính trị-an ninh, kinh tế,văn hoá-xã hội, trong đó có hợp
phần về IAI nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN. Các vị lãnh đạo cũng thông qua các Kế
hoạch hành động xây dựng Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) và Cộng đồng Văn hoá - xã hội ASEAN (ASCC); đồng thời ký
Hiệp định khung về 11 lĩnh vực ưu tiên liên kết của ASEAN nhằm xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC).Các Lãnh đạo
ASEAN cũng nhất trí tổ chức Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ nhất (EAS-1) vào năm 2005 tại Malaixia. + Lần đầu tiên đã
diễn ra Hội nghị Cấp cao ASEAN với Ốtxtrâylia và Niu Dilân để kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ đối thoại. Tại Hội nghị, các
vị Lãnh đạo ASEAN cùng với Ốtxtrâylia và Niu Dilân đã ký “Tuyên bố chung của các Lãnh đạo nhân dịp Cấp cao kỷ niệm
ASEAN với Ốtxtrâylia và Niu Dilân”, đề ra phương hướng và biện pháp tăng cường quan hệ đối thoại trong thời gian tới. +
Trong dịp này, Hàn Quốc và Nga đã chính thức tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác Đông Nam Á (TAC)- Hội nghị
Cấp cao ASEAN lần thứ XI và các Cấp cao liên quan tại Kuala Lămpơ, Malaixia, 11 – 14/12/2005:+ Tại Hội nghị Cấp cao
ASEAN XI, các Lãnh đạo đã ra Tuyên bố về Xây dựng Hiến chương ASEAN đề ra phương hướng và nguyên tắc chỉ đạo;
thành lập và giao nhiệm vụ cho Nhóm các nhân vật nổi tiếng (EPG) nghiên cứu và đề xuất những khuyến nghị thực tiễn; và
sau này sẽ lập Nhóm soạn thảo Hiến chương.Các vị lãnh đạo cũng nhất trí cần xem xét khả năng sớm hoàn thành mục tiêu
xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, nhất là về kinh tế, sớm hơn 5 năm so với thỏa thuận trước, và có linh hoạt đối
với những nước chưa sẵn sàng; nhất trí tập trung nỗ lực cao hơn và huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả các
chương trình và kế hoạch hành động chính như Chương trình Hành động Viênchăn (VAP) và Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI),
nhất là về liên kết kinh tế và thu hẹp khoảng cách phát triển; nhấn mạnh phải không ngừng củng cố đoàn kết và thống nhất,
thúc đẩy ý thức cộng đồng và hướng trọng tâm về người dân; duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong các cấu trúc hợp
tác khu vực.+ Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ nhất (EAS-1) được tổ chức nhân dịp này là bước phát triển mới có ý nghĩa,
góp phần thúc đẩy xu thế đối thoại và hợp tác vì phát triển ở khu vực, thể hiện tính năng động và vai trò quan trọng của
ASEAN. Nội dung thảo luận tập trung vào những vấn đề lớn cùng quan tâm hiện nay. Các nhà Lãnh đạo 16 nước tham dự
EAS-1 (10 nước thành viên ASEAN, Ốtxtrâylia, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Niu Dilân) đã ký Tuyên bố về
EAS để xác định phương hướng và khuôn khổ cho EAS, xác định EAS là diễn đàn để đối thoại và hợp tác về các vấn đề lớn
cùng quan tâm về chính trị-an ninh, kinh tế và văn hóa-xã hội; coi đây là tiến trình mở với ASEAN đóng vai trò chủ đạo, bổ
sung và hỗ trợ cho các diễn đàn khu vực hiện có, họp hàng năm do ASEAN chủ trì nhân dịp Cấp cao ASEAN; và sẽ tiếp tục
xem xét để hoàn thiện một số vấn đề cụ thể liên quan.+ Cấp cao ASEAN + 3 đã ký Tuyên bố chung khẳng định lại tầm quan
trọng của tiến trình ASEAN + 3, coi đây là công cụ chính cho việc xây dựng Cộng đồng Đông Á (EAc).+ Cấp cao ASEAN –
Nga lần đầu tiên đã ký hoặc thông qua nhiều văn kiện quan trọng tạo cơ sở và khuôn khổ xây dựng quan hệ đối tác toàn
diện và lâu dài, nhất là “Tuyên bố chung về Quan hệ đối tác toàn diện và tiến bộ”.+ Nhân dịp này, các Ngoại trưởng ASEAN
đã ký với các đối tác Tuyên bố về mở rộng và làm sâu sắc Quan hệ đối tác chiến lược giữa ASEAN và Nhật, và Hiệp định
khung về Quan hệ Đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Hàn Quốc. - Hội nghị Cấp cao lần thứ XII và các Cấp cao liên quan tại
Xêbu, Philippin (1-2007)+ Hội nghị Cấp cao ASEAN-XII tập trung thảo luận việc đẩy nhanh hợp tác nội khối và hướng xây
dựng Hiến chương ASEAN. Các nước đều nhất trí cho rằng xây dựng Hiến chương ASEAN có tầm quan trọng to lớn, thể
hiện ý chí mạnh mẽ của các nước đối với việc xây dựng một Hiệp hội vững mạnh; đồng thời đẩy mạnh hợp tác nội khối
thông qua xây dựng khung pháp lý cho các hoạt động hợp tác ASEAN. Lãnh đạo các nước ASEAN đã giao cho Nhóm đặc
trách soạn thảo Hiến chương hoàn tất dự thảo Hiến chương để trình Cấp cao ASEAN-XIII tại Xinhgapo nhân dịp kỷ niệm 40
năm thành lập ASEAN.+ Về hợp tác kinh tế, Hội nghị nhất trí sẽ hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015, đồng
thời sẽ đẩy mạnh hơn nữa quá trình hình thành các Khu vực mậu dịch tự do hoặc các Thỏa thuận hợp tác kinh tế toàn diện
với các đối tác bên ngoài.+ Kết thúc Hội nghị, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký kết và thông qua các văn kiện gồm: Công
ước ASEAN về Chống khủng bố, Tuyên bố Xêbu về Đề cương xây dựng Hiến chương ASEAN, Tuyên bố ASEAN về Bảo vệ
và Thúc đẩy Quyền của người lao động nhập cư, Tuyên bố Xêbu về Hướng tới một Cộng đồng đùm bọc và chia sẻ, Tuyên bố
Xêbu về Đẩy nhanh thời hạn hình thành Cộng đồng ASEAN vào 2015, Tuyên bố của Phiên họp đặc biệt Cấp cao ASEAN-12
về HIV/AIDS và Tuyên bố về WTO._+ Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN+3, các nước đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tiến
trình hợp tác ASEAN+3; nhất trí Tuyên bố chung lần 2 về Hợp tác Đông Á (dự kiến sẽ được thông qua tại Cấp cao
ASEAN+3, Xinhgapo tháng 11/2007) với nội dung đề ra những định hướng toàn diện cho tiến trình ASEAN+3 và hợp tác
Đông Á.+ Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 2 tập trung thảo luận về hợp tác an ninh năng lượng và trao đổi ý kiến về
phương hướng triển khai các hoạt động trong khuôn khổ EAS.- Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ XIII và các Cấp cao liên
quan tại Xinhgapo (11-2007)+ Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN-13, lãnh đạo các nước ASEAN đã ký thông qua Hiến chương
ASEAN, tạo cơ sở pháp lý và thể chế cho Hiệp hội gia tăng liên kết khu vực, trước hết là hoàn thành mục tiêu xây dựng
Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
Các lãnh đạo cũng khẳng định quyết tâm đẩy nhanh Cộng đồng ASEAN, ký Đề cương Cộng đồng Kinh tế và nhất trí sớm
hoàn tất Đề cương Cộng đồng Chính trị-An ninh và Văn hóa-Xã hội để thông qua tại Cấp cao ASEAN-14.Nhân dịp này, Lãnh
đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố ASEAN về Môi trường bền vững và Tuyên bố ASEAN về Hội nghị lần thứ 13 các bên
tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu.+ Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN+3, lãnh đạo các nước
ASEAN+3 đã ký Tuyên bố chung về Hợp tác Đông Á lần 2 và thông qua Kế hoạch Hành động của tiến trình ASEAN+3 giai
đoạn 2007-2017.- Tại Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS) lần thứ 3, Lãnh đạo các nước tham gia nhất trí đẩy mạnh hợp tác trên
5 lĩnh vực ưu tiên (năng lượng, tài chính, giáo dục, thiên tai và dịch bệnh); thúc đẩy liên kết kinh tế, hợp tác về môi trường
và biến đổi khí hậu. Lãnh đạo các nước đã ký Tuyên bố Singapore về Môi trường, Năng lượng và Biến đổi Khí hậu.Như vậy,
sau hơn 40 năm tồn tại và phát triển, mặc dù gặp nhiều khó khăn, phức tạp về kinh tế, chính trị, chịu sức ép của các nước
lớn từ nhiều phía, song Hiệp hội các nước Đông Nam Á đã khẳng định được vị thế của mình trong khu vực cũng như trên
thế giới. Từ chỗ là một khu vực non yếu, không tên tuổi, ASEAN đã khẳng định mình qua sự hợp tác chặt chẽ giữa các hội
viên trên tất cả các mặt an ninh chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội. Qua quá trình vận động, tôn chỉ, mục đích của ASEAN
cũng như cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động không ngừng được bổ sung và hoàn thiện. Giới nghiên cứu đều thống
nhất rằng, ASEAN là một tổ chức khu vực thành công nhất từ hơn 4 thập kỷ qua và thành công lớn nhất của tổ chức này là
đã tạo lập được một “tinh thần ASEAN” và một “cách thức ASEAN”. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN tháng 7 - 1995 là đáp
ứng lợi ích dân tộc cũng như lợi ích toàn khu vực.Cũng cần phải thấy rằng những thách thức, khó khăn của ASEAN còn ở
phía trước. Đó là sự phát triển của khu vực sau khủng hoảng kinh tế - tài chính, là các cuộc xung đột, li khai đang diễn ra,
nhất là ở Inđônêxia, và những tranh chấp về biên giới, biển Đông giữa các nước hội viên. Kết quả cuộc trưng cầu dân ý ở
Đông Timo diễn ra vào ngày 30 - 8 - 1999 đã dẫn đến việc một quốc gia mới đang ra đời ở Đông Nam Á. Tương lai Đông
Timo có thể trở thành thành viên thứ 11 của ASEAN hay không? Câu trả lời còn ở phía trước nhưng sự phát triển của
ASEAN đã chỉ ra rằng sự ổn định của khu vực là nhân tố quan trọng dẫn đến những thành công trong công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước của các hội viên cũng như của tổ chức ASEAN
(1) Bộ ngoại giao - Vụ ASEAN, Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), NXB chính trị quốc gia, H.1995, trang 189-190
.(2) M.A. Khaldin, ASEAN không ảo tưởng, M.1983, trang 41 (Tiếng Nga)
.(3) Các sự kiện từ khi thành lập ASEAN đến diễn đàn khu vực ASEAN chúng tôi dựa theo cuốn: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) của Bộ ngoại giao, NXB Chính trị quốc gia, H.1995
.(4) Tuần báo Quốc tế, số 32 (239) từ 6-8 đến 12-8-1987, trang 1
(5) ASEM được tổ chức theo sáng kiến của ASEAN (GôChốc Tông đưa ra). Đến nay ASEM đã tổ chức được 7 cuộc hội nghị: ASEM I (1996), ASEM II (1998, ở London), ASEM III (2000, ở Xơun, Hàn Quốc), ASEM IV (2002, ở Copenhaghen, Đan Mạch), ASEM V (2004, ở Việt Nam), ASEM VI ( 2006, ở Helsinki, Phần Lan), ASEM VII (2008, ở Bắc Kinh, Trung Quốc).(6) Ngay trước, trong và sau Hội nghị đã lần lượt diễn ra các chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam của các vị: Tổng thống Hàn Quốc, Tổng thống Philippin, Thủ tướng Nhật Bản, Phó chủ tịch Trung Quốc, Thủ tướng Cămpuchia.
(7) Phát biểu của Thứ trưởng ngoại giao Nguyễn Tân Chiến tại cuộc họp báo quốc tế ở Hà Nội.
Văn Ngọc Thành
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: