Chú voi con
New member
- Xu
- 0
Hãy phân tích bài thơ Thương vợ của nhà thơ Trần Tế Xương.
BÀI LÀM
Nói lên tâm trạng đáng thương của ngừơi phụ nữ thời xưa, ca dao có câu:
Chồng em áo rách em thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người
Quả thực đó là một lời khẳng định chắc chắn về một tấm lòng thuỷe chung son sắt, một tình cảm thương yêu mà người phụ nữ đã dành cho chồng mình, trải qua nhiều năm, chúng ta lại bắt gặp những tình cảm đó ở bà Tú trong bài thơ Thương ơ5 của nhà thơ Trần Tế Xương – một bài thơ trữ tình đặc sằc. Nét đặc biệt của bài thơ là tác giả đã khai thác một khía cạnh thật tế nhị khác với phong cách thơ trào phúng, châm biếm.
Có thể nói bài thơ Thương vợ là một bài thơ thế sự và cũng là bài thơ tâm sự, thắm đượm nghĩa tình yêu thương. Mở đầu bài thơ, Tú Xương đã khắc họa hình ảnh vợ mình với bao vất vả lo toan của công việc bộn bề:
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Nếu như ngừơi vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất cả chân nam đá chân chiêu vì tớ mà đỡ đần mọi việc” thì bà Tú lại là một người vợ hiền thục, đảm đang, chịu thương, chịu khó. Được mang danh là bà Tú nhưng bà lại phải “quanh năm buôn bán ở mom sông”. Từ “quanh năm” như khẳng định them cái vòng xoay của thời gian cũng là vòng quay trong công việc của bà. Công việc của bà cứ ngày theo ngày, tháng theo tháng, liên tiếp và liên tiếp. Cứ thế, bà vẫn tất bật với công việc và phải đối chọi với bao khó khăn. Nó không phải là cái cơ cực, vất vả, giãi nắng dầm mưa đơn thuần mà đôi vai bé nhỏ của bà phải gánh chịu bao mánh khoé của cuộc đời đen bạc. Rồi những khi trời mưa, gió bão thì công việc của bà trở nên nặng nhọc hơn bởi bà buôn bán ở mom sông – nơi mỏm đất nhô ra, ba bề bao bọc bởi sông nứơc, nơi làm ăn trên thế đất chênh vênh. Nhưng có lẽ thời tiết càng khắc nghiệt, địa thế càng khó khăn thì bà lại càng phải cố gắng nhiều hơn để “nuôi đủ năm con với một chồng”. Từ “nuôi đủ” là một khái niệm thật là trừu tượng: biết thế nào là cho đủ khi nhu cầu và ham muốn của con người là vô tận? Ở đây chúng ta không nói rằng ông Tú có nhiều ham muốn song đã là nhà nho đương thời thì cũng phải có những nhu cầu về cuộc sống nhất định. Không chỉ “nuôi đủ” cho ông Tú mà bà còn phải “nuôi đủ năm con”. Tác giả không nói vợ mình nuôi đủ sáu người mà lại nói “nuôi đủ năm con với một chồng”. Ở đây từ “với” đã làm tăng them sự đông đúc trong gia đình. Sự vất vả của bà, do vậy, càng tăng thêm:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Đến lúc này ngôn ngữ thơ đã đựơc tăng cấp, nhiều gam màu nối tiếp nhau đã tô đậm them bức chân dung khó nhọc của bà Tú. Hình ảnh “thân cò khi quãng vắng” đã đem đến cho độc giả nhiều liên tưởng xúc động qua ca dao cổ:
Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non.
Hoặc:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Khi màn đêm buông xuống, tất cả đã vào thế tĩnh, vào giấc ngủ say nồng sau một ngày lao động mệt mỏi thì cò ta vẫn phải mò mẫm đi trong đêm tối để kiếm ăn. Phải chăng đây cũng là hình ảnh của bà Tú? Bằng cách sử dụng các từ láy “eo sèo”, “lặn lội” và phép đối đặc sắc, Trần Tế Xương đã làm tăng them tính cam go, căng thẳng, dai dẳng trong công việc của vợ mình. Trong hoàn cảnh ấy, con người ta thường có ý nghĩ tiêu cực nhưng đối với bà Tú thì bà không than thân, trách phận mà tự an ủi mình:
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công
Duyên là duyên phận, tình duyên, nợ là tơ vương. Bà Tú lấy ông Tú là xuất phát từ cái duyên, cái số, từ dây tơ hồng của ông tơ, bà nguyệt. Chính vì lẽ đó, dù “năm nắng mười mưa” để lo cho gia đình thì bà cũng “âu đành phận” và “chẳng dám quản công”. Hơn nữa bà Tú đã sống với ông Tú, có tới năm mặt con, cùng nhau chia sẻ ngọt bùi, vượt qua bao song gió đời người nên bà rất hiểu ông, do đó bà không hề than vãn. Phải chăng hiểu được vợ mà ông Tú đã “thương” vợ hơn, muốn cùng vợ gánh vác lo toan, nhưng:
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không
Tác giả đã viết vậy! Cũng có thể hiểu đây là lời chửi của bà Tú nhưng nếu bà Tú đã “một duyên hai nợ âu đành phận” thì chẳng có gì để mà chửi cả. Có lẽ đây là câu hỏi của chính tác giả Trần Tế Xương. Thương vợ, thương cho mình, Tú Xương đã mượn lời vợ mình để chửi cả một xã hội với bao thói đời đen bạc.
Câu thơ chứa đựng một nỗi chua chát, xót xa thế sự cho vợ mình của một thi sĩ có tài nhưng hàng ngày vẫn ăn lương vợ.
Bài thơ Thương vợ là một bài thơ hay của tác giả với phong cách trữ tình. Bài thơ miêu tả một bà Tú nhưng thấp thoáng đâu đây là hình ảnh người bà, ngừơi mẹ, người chị, ngừơi phụ nữ Việt Nam xưa và nay. Đó là những con người dịu dàng, đảm đang, tháo vát. Họ chỉ biết có làm việc và lo toan cho chồng, cho con rồi nhận chữ “không” về mình. Đối với họ, chồng con là trên hết, trên cả bản thân mình. Bài thơ ấy hay còn ở cách thể hiện của tác giả: mượn lời vợ rất hợp lý để chửi đời, chửi cái xã hội thời đó.
Ngừơi làm bài: TRẦN THỊ THẮM
Lớp 9A, trừơng THCS Kiến Thiết
Tiên Lãng – Hải Phòng
Lớp 9A, trừơng THCS Kiến Thiết
Tiên Lãng – Hải Phòng
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: