Hãy nêu những mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự trường thành và phát triển của Ngành Tổ chức xây dựng Đảng từ ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đến nay?
Trả lời:
Ngày 3 - 2 - 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam, mở đầu truyền thống vẻ vang của Đảng, đồng thời cũng mở đầu cho sự hình thành và phát triển của công tác tổ chức xây dựng Đảng.
Ngày 14 tháng 10 đến cuối tháng 10 năm 1930, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng đã được tiến hành ở Hương Cảng, Trung Quốc. Hội nghị thông qua Luận cương chính trị của Đảng do đồng chí Trần Phú khởi thảo; các án nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, về vận động các giới quần chúng; đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và những chiến sỹ cộng sản lúc đó vừa là những nhà lãnh đạo cách mạng, vừa là những cán bộ tổ chức đầu tiên của Đảng, đặt nền móng cho công tác xây dựng Đảng, để các thế hệ chiến sỹ cách mạng nối tiếp tiến hành phát triển và từng bước hoàn thiện đường lối cách mạng Việt Nam, hoàn thiện đường lối và phương pháp công tác tổ chức của Đảng, xây dựng Đảng ta không ngừng lớn mạnh.
1- Công tác tồ chức xây dựng đảng trong thời kỳ Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng lực lượng cách mạng và đấu tranh giành chính quyền 1930-1945.
a- Giai đoạn 1930-1935: Sau khi thành lập, Đảng đã phát động cao trào cách mạng 1930-1931. Địch khủng bố trắng, Đảng lãnh đạo khôi phục phong trào. Công tác tổ chức xây dựng đảng trong năm 1930 và năm 1931 là thông qua công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia các phong trào đấu tranh với các hình thức và khẩu hiệu khác nhau để lựa chọn những người ưu tú kết nạp đảng viên; xây dựng, củng cố các tổ chức của Đảng. Khi mới thành lập, Đảng mới có 50 chi bộ với hơn 200 đảng viên, đến tháng 4 năm 1931 đã có 250 chi bộ với hơn 2.400 đảng viên. Các tổ chức quần chúng cách mạng (Công hội, Nông hội, Phụ nữ liên hiệp hội, Hội cứu tế Đỏ...) do Đảng lãnh đạo cũng lần lượt ra đời. Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương được thành lập ngày 26-3-1931.
* Đại hội đại biểu lần thứ 1 của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 đã đề ra nhiệm vụ chính trị của Đảng lúc này là: thu phục quảng đại quần chúng lao động, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc; khôi phục lại hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; thống nhất lãnh đạo, chuẩn bị cho cánh mạng Đông Dương chuyền sang giai đoạn mới.
b. Giai đoạn 1936-1939: Đảng lãnh đạo cuộc vận động dân chủ, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, chống đế quốc chiến tranh, đòi tự do cơm áo, hòa bình.
Các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3 và tháng 9-1937 tập trung rút kinh nghiệm về công tác tổ chức của Đảng. Ngày 26-3-1937, Ban Chấp hành Trung ương công bố cuốn sách về "Chủ trương tổ chức mới của Đảng" với tư tưởng chủ đạo là: "Hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới bắt buộc Đảng ta phải có con đường chính trị mới, con đường chính trị mới lại bắt buộc phải có một đường lối tổ chức mới".
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11-1939), do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì, đã nhấn mạnh mục tiêu chuyển hướng chiến lược "Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương" và quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Qua cao trào dân chủ 1936-1939, uy tín của Đảng được tăng cường, công tác tổ chức của Đảng trưởng thành thêm một bước
c. Giai đoạn 1940-1945: Đảng trực tiếp lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ tháng 9 năm 1940, Nhật chiếm Đông Dương; Nhật Pháp cấu kết với nhau đàn áp cách mạng nước ta. Trước tình hình đó, Trung ương chủ trương chuyển các tổ chức đảng vào hoạt động bí mật một cách nhanh chóng, triệt để.
Tháng 2-1941 , đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa I tại Pắc Pó, Cao Bằng vào tháng 5-1941.
Ngày 1-12-1941, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công tác tổ chức của Đảng, nêu phương châm công tác tổ chức lúc bấy giờ là: “rộng rãi, thực tế, khoa học" và phải tập trung hoàn thành tốt những nhiệm vụ chủ yếu.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay ra đời ngày 22 tháng 12 năm 1944.
- Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang, nhận định cơ hội cho nhân dân ta giành chính quyền đã tới, nêu chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa, quyết định lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đồng Nam Á là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; của đường lối độc lập tự chủ đầy sáng tạo của Đảng về cách mạng Việt Nam; đồng thời, cũng là thành tựu rất to lớn về công tác tổ chức của Đảng và về tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong mười lăm năm (1930-1945), Đảng ra đời và từng bước vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Công tác tổ chức của Đảng đã có bước phát triển lớn, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng đảng và tổ chức, vận động quần chúng tham gia các phong trào cách mạng, với nhiều hình thức đấu tranh sinh động.
2- Công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến cuộc kháng chiến toàn quốc mở đầu vào cuối năm 1946.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh của gần một triệu người, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Ngày 6-1-1946 diễn ra cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời đã phải đứng trước những thử thách: "ngàn cân treo sợi tóc".
Công tác tổ chức của Đảng trong giai đoạn này là tập trung sức tổ chức thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mới của cách mạng trên các mặt: củng cố, xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân; tiến hành tổng tuyển cử, đồng thời tổ chức phát động phong trào cứu đói, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm và xây dựng đời sống mới; phát triển Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang; bảo vệ và phát triển Đảng gấp rút đào tạo đội ngũ cán bộ của Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang.
Trong những năm 1947-1954: Kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ. Công tác tổ chức của Đảng trong giai đoạn này đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng là tập trung toàn bộ công sức tiến hành hai nhiệm vụ vừa kháng chiến vừa kiến quốc với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vì độc lập tự do. Các cơ quan Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ rời Hà Nội, lên chiến khu Việt Bắc.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI họp từ ngày 11 đến ngày 19-2- 1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, đánh đuổi đế quốc xâm lược đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất, xóa bỏ hình thúc bóc lột phong kiến, thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng". Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị; Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng; quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Nhìn chung công tác tổ chức xây dựng đảng ở giai đoạn này cùng với việc tiến hành các mặt công tác khác của Đảng và Nhà nước đã đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến, động viên sức mạnh của toàn dân quyết một lòng hy sinh chiến đấu vì độc lập tự do, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, góp phần quan trọng vào chiến thắng trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta về kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh. Đồng thời cũng là thắng lợi của công tác tổ chức xây dựng đảng, xây dựng quân đội, xây dựng chính quyền nhân dân và xây dựng các đoàn thể quần chúng trong thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
3- Công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1955-1975).
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, thi hành Hiệp định Giơnevơ, nước ta tạm thời bị chia làm 2 miền: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam còn bị sự thống trị của chế độ thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Cách mạng nước ta đứng trước thời kỳ lịch sử mới đầy khó khăn và thử thách.
Tại Hội nghị lần thứ 10, họp vào tháng 9 năm 1956, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nghiêm khắc kiểm điểm và vạch rõ: "... trong cuộc vận động này chúng ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trên một số vấn đề có tính chất nguyên tắc”. Đó là vi phạm đường lối giai cấp của Đảng, vận dụng máy móc kinh nghiệm của nước ngoài một cách "tả khuynh" trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức; vi phạm nặng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; rơi vào "chủ nghĩa thành phần" trong công tác phát triển đảng viên, v.v... Những sai lầm, thiếu sót đó đã làm cho lực lượng của Đảng bị suy yếu, tổn thất, uy tín của Đảng bị giảm sút.
Ba năm tiếp theo (1958-1960), công tác tổ chức tập trung phục vụ việc hoàn thành kế hoạch cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, đưa đại bộ phận nông dân, nhũng người lao động thủ công vào các hợp tác xã, v.v...
Ở miền Nam, ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, vào tháng 10 năm 1954, Xứ ủy Nam Bộ và Khu ủy khu V được thành lập theo nghị quyết của Bộ Chính trị (tháng 9-1954). Tháng 8 năm 1956, đồng chí Lê Duẩn soạn thảo đề cương "Đường lối cách mạng miền Nam".
Trong không khí sôi sục căm thù và khí thế vùng dậy của quần chúng, trong tháng 1 và tháng 5-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có cuộc họp quan trọng tại Hà Nội (Hội nghị Trung ương 15 khóa II), ra Nghị quyết có ý nghĩa lịch sử xác định cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược song song tiến hành, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiến hành tại Hà Nội từ ngày 5 đến 10-9-1960, Đại hội đã vạch ra đường lối cách mạng của thời kỳ mới là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà . . . ". Đại hội cũng đã tổng kết 30 năm công tác xây dựng đảng, nhấn mạnh phải tăng cường tính chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, lấy chủ nghĩa Mác-lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
Ở miền Bắc, trong những năm từ 1961 đến 1965, công tác tổ chức tập trung phục vụ việc triển khai thực hiện kế hoạch nhà nước năm năm lần thứ nhất, tiến hành các cuộc vận động lớn, chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế, góp phần tạo ra nhiều phong trào thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, v.v... Từ 5-8-1964 bắt đầu diễn ra của quân và dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, công tác tổ chức của Đảng đặc chuyển hướng phục vụ việc hoàn thành tốt nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu và chi viện cho miền Nam. Ban Tổ chức Trung ương và cơ quan tổ chức các ngành, các cấp đã kết hợp chặt chẽ với ban thống nhất Trung ương và Bộ Quốc phòng thực hiện tốt nhiệm vụ: đào tạo, điều động, tăng cường cán bộ, chiến sỹ vào tham gia chiến đấu và công tác ở miền Nam, phát triển giao thông vận tải, tổ chức tiếp đón nhiều cán bộ, chiến sỹ miền Nam ra Bắc chữa bệnh, học tập, v.v. . .
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 của quân và dân miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Paris. Ngày 2-9-1969, một sự kiện đau thương vô hạn đối với toàn Đảng, toàn dân ta: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ kính yêu qua đời. Những năm tiếp theo cho đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam (1969-1975), công tác tổ chức tập trung vào việc thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương về "hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương về "nhiệm vụ, phương hướng khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc trong hai năm 1974-1975"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 Ban Chấp hành Trung ương về “tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng"...
Sau phong trào đồng khởi năm 1960, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới. Trung ương cục miền Nam được thành lập lạị theo Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 23-1-1961 để trực tiếp lãnh đạo cách mạng ở miền Nam, từng bước đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt" đến chiến lược “chiến tranh cục bộ" và chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (từ năm 1955 đến năm 1975) là thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự, ngoại giao đúng đắn và cũng là thắng lợi trong công tác tổ chức tài tình của Đảng ta. Trong 20 năm đó, các cơ quan tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức đểu tỏ rõ lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ.
4- Công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (từ năm 1975 đến nay).
a. Giai đoạn 1975-1986: cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau ngày miền Nam được giải phóng, thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, công tác tổ chức của Đảng đã nhanh chóng giải quyết hàng loạt những vấn đề cấp bách trước mắt, như xây đựng và củng cố hệ thống chính trị thống nhất của cả nước, trong đó bao gồm việc xây dựng và củng cố tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp trong các vùng mới được giải phóng thực hiện sự thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, bầu Quốc hội của cả nước (25-4-1976).
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tiến hành từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 tại Hà Nội, Đại hội tổng kết 16 năm thực hiện đường lối chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 111, đề ra đường lối chung và đường lối phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng tiến hành từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại Hà Nội, Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV vạch ra, đồng thời phê phán những sai lầm, khuyết điềm trong chỉ đạo thực hiện đường lối Đại hội IV của Đảng; chỉ ra những mục tiêu, nội dung của chặng đường trước mắt, khẳng định những mặt tích cực và kết quả đã đạt được, vạch rõ những mặt còn yếu kém trong công tác tổ chức của Đảng những năm qua. Sau Đại hội, công tác tổ chức xây dựng đảng tập trung vào việc củng cố hệ thống tổ chức của Đảng, tiến hành xây dựng các quy chế làm việc của cấp ủy và tổ chức đảng, đề cao trách nhiệm của tập thể và cá nhân, khắc phục những yếu kém, nhất là tính thụ động, ỷ lại cấp tiêm kết hợp sự tăng cường lãnh đạo của Đảng với việc kiện toàn các cơ quan chính quyền, cải tiến tổ chức và cơ chế quản lý, nâng cao tính chiến đấu của đội ngũ đảng viên.
b. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tiến hành từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986 tại Hà Nội, Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình cách mạng ở nước ta. Đại hội vừa khẳng định những kết quả to lớn đã đạt được trong công tác xây dựng Đảng thời gian qua, vừa phân tích phê phán những sai lầm, khuyết điểm mà "sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện", trong đó "những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân". Đại hội vạch rõ phương hướng, nhiệm vụ của công tác xây dựng đảng là: "Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố quyết định sự phát triển của cách mạng nước ta". Đảng phải "đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác".
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiến hành từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội, Đại hội khẳng định và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác-lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (1991-2000) và Điều lệ Đảng (sửa đổi) Về công tác xây dựng Đảng, báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ: "Để lãnh đạo thắng lợi công cuộc đối mới cũng như toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta phải tự đổi mới và chỉnh đốn để có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu mới, khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực và mặt yếu kém, khôi phục và nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân. Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc".
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiến hành từ ngày 28- 6 đến ngày 1-7-1996 tại Hà Nội, Đại hội khẳng định tính chất đúng đắn của đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI đề ra, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng tiếp tục bổ sung và phát triển. Đại hội đã chỉ ra sáu bài học chủ yếu qua mười năm thực hiện đổi mới. Trong đó, có bài học tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiến hành tại Hà Nội từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001 , Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị với chủ đề "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xa hội chủ nghĩa". Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội, phần về công tác xây dựng đảng đã khẳng định những thành tựu đạt được, đồng thời nghiêm khắc kiểm điểm về "một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống..." Căn cứ vào tình hình và yêu cầu mới, Đại hội quyết định tiếp tục tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng học lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dâm tập trung làm tốt bốn công tác quan trọng là: giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng; kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18/4/2006 đến ngày 25/4/2006 tại Hà Nội. Đại hội X khẳng định chủ đề Đại hội là "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mớn sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Đại hội xác định những mặt công tác cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong công tác xây dựng Đảng như: Nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ của Đảng; kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung. dân chủ trong Đảng; đổi mới tổ chức bộ máy, cán bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt là tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X họp từ ngày 14 đến 22/1/2008 đã nghiêm túc kiểm điểm đánh giá đúng tình hình, thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm yếu kém của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần khắc phục; đồng thời Hội nghị Trung ương thông qua Nghị quyết " Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên". Đây là một dấu mốc quan trọng, thể hiện sự quyết tâm của Trung ương tập trung, dồn sức hướng mạnh về cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng; tạo bằng được bước chuyển mang tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.
Công tác tổ chức xây dựng đảng kể từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội luôn có vai trò, vị trí quan trọng trong xây dựng, hoạch định và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng. Nhìn lại 80 năm qua công tác tổ chức xây dựng đảng luôn luôn bám sát đường lối chính trị của Đảng và thực tiễn tình hình đất nước. Cùng với sự phát triển của cách mạng hệ thống các cơ quan tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng ngày càng trưởng thành, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm phong phú từ thực tiễn sinh động của quá trình cách mạng và của công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ, góp phần to lớn vào những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc ta.
Trả lời:
Ngày 3 - 2 - 1930 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử của cách mạng Việt Nam, mở đầu truyền thống vẻ vang của Đảng, đồng thời cũng mở đầu cho sự hình thành và phát triển của công tác tổ chức xây dựng Đảng.
Ngày 14 tháng 10 đến cuối tháng 10 năm 1930, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng đã được tiến hành ở Hương Cảng, Trung Quốc. Hội nghị thông qua Luận cương chính trị của Đảng do đồng chí Trần Phú khởi thảo; các án nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, về vận động các giới quần chúng; đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư đầu tiên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và những chiến sỹ cộng sản lúc đó vừa là những nhà lãnh đạo cách mạng, vừa là những cán bộ tổ chức đầu tiên của Đảng, đặt nền móng cho công tác xây dựng Đảng, để các thế hệ chiến sỹ cách mạng nối tiếp tiến hành phát triển và từng bước hoàn thiện đường lối cách mạng Việt Nam, hoàn thiện đường lối và phương pháp công tác tổ chức của Đảng, xây dựng Đảng ta không ngừng lớn mạnh.
1- Công tác tồ chức xây dựng đảng trong thời kỳ Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng lực lượng cách mạng và đấu tranh giành chính quyền 1930-1945.
a- Giai đoạn 1930-1935: Sau khi thành lập, Đảng đã phát động cao trào cách mạng 1930-1931. Địch khủng bố trắng, Đảng lãnh đạo khôi phục phong trào. Công tác tổ chức xây dựng đảng trong năm 1930 và năm 1931 là thông qua công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia các phong trào đấu tranh với các hình thức và khẩu hiệu khác nhau để lựa chọn những người ưu tú kết nạp đảng viên; xây dựng, củng cố các tổ chức của Đảng. Khi mới thành lập, Đảng mới có 50 chi bộ với hơn 200 đảng viên, đến tháng 4 năm 1931 đã có 250 chi bộ với hơn 2.400 đảng viên. Các tổ chức quần chúng cách mạng (Công hội, Nông hội, Phụ nữ liên hiệp hội, Hội cứu tế Đỏ...) do Đảng lãnh đạo cũng lần lượt ra đời. Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương được thành lập ngày 26-3-1931.
* Đại hội đại biểu lần thứ 1 của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc) từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 đã đề ra nhiệm vụ chính trị của Đảng lúc này là: thu phục quảng đại quần chúng lao động, chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô và cách mạng Trung Quốc; khôi phục lại hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; thống nhất lãnh đạo, chuẩn bị cho cánh mạng Đông Dương chuyền sang giai đoạn mới.
b. Giai đoạn 1936-1939: Đảng lãnh đạo cuộc vận động dân chủ, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, chống đế quốc chiến tranh, đòi tự do cơm áo, hòa bình.
Các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 3 và tháng 9-1937 tập trung rút kinh nghiệm về công tác tổ chức của Đảng. Ngày 26-3-1937, Ban Chấp hành Trung ương công bố cuốn sách về "Chủ trương tổ chức mới của Đảng" với tư tưởng chủ đạo là: "Hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới bắt buộc Đảng ta phải có con đường chính trị mới, con đường chính trị mới lại bắt buộc phải có một đường lối tổ chức mới".
Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11-1939), do đồng chí Nguyễn Văn Cừ chủ trì, đã nhấn mạnh mục tiêu chuyển hướng chiến lược "Đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, giải phóng các dân tộc Đông Dương" và quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Qua cao trào dân chủ 1936-1939, uy tín của Đảng được tăng cường, công tác tổ chức của Đảng trưởng thành thêm một bước
c. Giai đoạn 1940-1945: Đảng trực tiếp lãnh đạo chuẩn bị khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ tháng 9 năm 1940, Nhật chiếm Đông Dương; Nhật Pháp cấu kết với nhau đàn áp cách mạng nước ta. Trước tình hình đó, Trung ương chủ trương chuyển các tổ chức đảng vào hoạt động bí mật một cách nhanh chóng, triệt để.
Tháng 2-1941 , đồng chí Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa I tại Pắc Pó, Cao Bằng vào tháng 5-1941.
Ngày 1-12-1941, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Chỉ thị về công tác tổ chức của Đảng, nêu phương châm công tác tổ chức lúc bấy giờ là: “rộng rãi, thực tế, khoa học" và phải tập trung hoàn thành tốt những nhiệm vụ chủ yếu.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay ra đời ngày 22 tháng 12 năm 1944.
- Ngày 13-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, Tuyên Quang, nhận định cơ hội cho nhân dân ta giành chính quyền đã tới, nêu chủ trương kịp thời lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa, quyết định lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đồng Nam Á là thắng lợi của chủ nghĩa Mác-lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; của đường lối độc lập tự chủ đầy sáng tạo của Đảng về cách mạng Việt Nam; đồng thời, cũng là thành tựu rất to lớn về công tác tổ chức của Đảng và về tổ chức phong trào cách mạng của quần chúng đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong mười lăm năm (1930-1945), Đảng ra đời và từng bước vượt qua nhiều khó khăn, thử thách. Công tác tổ chức của Đảng đã có bước phát triển lớn, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu về xây dựng đảng và tổ chức, vận động quần chúng tham gia các phong trào cách mạng, với nhiều hình thức đấu tranh sinh động.
2- Công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954).
Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến cuộc kháng chiến toàn quốc mở đầu vào cuối năm 1946.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh của gần một triệu người, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Ngày 6-1-1946 diễn ra cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời đã phải đứng trước những thử thách: "ngàn cân treo sợi tóc".
Công tác tổ chức của Đảng trong giai đoạn này là tập trung sức tổ chức thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mới của cách mạng trên các mặt: củng cố, xây dựng và bảo vệ chính quyền dân chủ nhân dân; tiến hành tổng tuyển cử, đồng thời tổ chức phát động phong trào cứu đói, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm và xây dựng đời sống mới; phát triển Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc; xây dựng, phát triển lực lượng vũ trang; bảo vệ và phát triển Đảng gấp rút đào tạo đội ngũ cán bộ của Đảng, chính quyền, đoàn thể và lực lượng vũ trang.
Trong những năm 1947-1954: Kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ. Công tác tổ chức của Đảng trong giai đoạn này đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng là tập trung toàn bộ công sức tiến hành hai nhiệm vụ vừa kháng chiến vừa kiến quốc với tinh thần quyết chiến, quyết thắng, vì độc lập tự do. Các cơ quan Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ rời Hà Nội, lên chiến khu Việt Bắc.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI họp từ ngày 11 đến ngày 19-2- 1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, đánh đuổi đế quốc xâm lược đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất, xóa bỏ hình thúc bóc lột phong kiến, thực hiện khẩu hiệu "người cày có ruộng". Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị; Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng; quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai và lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Nhìn chung công tác tổ chức xây dựng đảng ở giai đoạn này cùng với việc tiến hành các mặt công tác khác của Đảng và Nhà nước đã đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến, động viên sức mạnh của toàn dân quyết một lòng hy sinh chiến đấu vì độc lập tự do, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, góp phần quan trọng vào chiến thắng trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là thắng lợi của đường lối đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta về kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh. Đồng thời cũng là thắng lợi của công tác tổ chức xây dựng đảng, xây dựng quân đội, xây dựng chính quyền nhân dân và xây dựng các đoàn thể quần chúng trong thời kỳ vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
3- Công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1955-1975).
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, thi hành Hiệp định Giơnevơ, nước ta tạm thời bị chia làm 2 miền: miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam còn bị sự thống trị của chế độ thuộc địa kiểu mới của đế quốc Mỹ. Cách mạng nước ta đứng trước thời kỳ lịch sử mới đầy khó khăn và thử thách.
Tại Hội nghị lần thứ 10, họp vào tháng 9 năm 1956, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) đã nghiêm khắc kiểm điểm và vạch rõ: "... trong cuộc vận động này chúng ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng trên một số vấn đề có tính chất nguyên tắc”. Đó là vi phạm đường lối giai cấp của Đảng, vận dụng máy móc kinh nghiệm của nước ngoài một cách "tả khuynh" trong quá trình thực hiện cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức; vi phạm nặng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; rơi vào "chủ nghĩa thành phần" trong công tác phát triển đảng viên, v.v... Những sai lầm, thiếu sót đó đã làm cho lực lượng của Đảng bị suy yếu, tổn thất, uy tín của Đảng bị giảm sút.
Ba năm tiếp theo (1958-1960), công tác tổ chức tập trung phục vụ việc hoàn thành kế hoạch cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp, công thương nghiệp tư bản tư doanh, đưa đại bộ phận nông dân, nhũng người lao động thủ công vào các hợp tác xã, v.v...
Ở miền Nam, ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, vào tháng 10 năm 1954, Xứ ủy Nam Bộ và Khu ủy khu V được thành lập theo nghị quyết của Bộ Chính trị (tháng 9-1954). Tháng 8 năm 1956, đồng chí Lê Duẩn soạn thảo đề cương "Đường lối cách mạng miền Nam".
Trong không khí sôi sục căm thù và khí thế vùng dậy của quần chúng, trong tháng 1 và tháng 5-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã có cuộc họp quan trọng tại Hà Nội (Hội nghị Trung ương 15 khóa II), ra Nghị quyết có ý nghĩa lịch sử xác định cách mạng Việt Nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược song song tiến hành, cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng tiến hành tại Hà Nội từ ngày 5 đến 10-9-1960, Đại hội đã vạch ra đường lối cách mạng của thời kỳ mới là: tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà . . . ". Đại hội cũng đã tổng kết 30 năm công tác xây dựng đảng, nhấn mạnh phải tăng cường tính chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, lấy chủ nghĩa Mác-lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng.
Ở miền Bắc, trong những năm từ 1961 đến 1965, công tác tổ chức tập trung phục vụ việc triển khai thực hiện kế hoạch nhà nước năm năm lần thứ nhất, tiến hành các cuộc vận động lớn, chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền Nam và làm nhiệm vụ quốc tế, góp phần tạo ra nhiều phong trào thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, v.v... Từ 5-8-1964 bắt đầu diễn ra của quân và dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, công tác tổ chức của Đảng đặc chuyển hướng phục vụ việc hoàn thành tốt nhiệm vụ vừa sản xuất vừa chiến đấu và chi viện cho miền Nam. Ban Tổ chức Trung ương và cơ quan tổ chức các ngành, các cấp đã kết hợp chặt chẽ với ban thống nhất Trung ương và Bộ Quốc phòng thực hiện tốt nhiệm vụ: đào tạo, điều động, tăng cường cán bộ, chiến sỹ vào tham gia chiến đấu và công tác ở miền Nam, phát triển giao thông vận tải, tổ chức tiếp đón nhiều cán bộ, chiến sỹ miền Nam ra Bắc chữa bệnh, học tập, v.v. . .
Sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968 của quân và dân miền Nam, đế quốc Mỹ buộc phải chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Paris. Ngày 2-9-1969, một sự kiện đau thương vô hạn đối với toàn Đảng, toàn dân ta: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bác Hồ kính yêu qua đời. Những năm tiếp theo cho đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam (1969-1975), công tác tổ chức tập trung vào việc thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương về "hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương về "nhiệm vụ, phương hướng khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc trong hai năm 1974-1975"; Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 Ban Chấp hành Trung ương về “tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng"...
Sau phong trào đồng khởi năm 1960, cách mạng miền Nam chuyển sang giai đoạn mới. Trung ương cục miền Nam được thành lập lạị theo Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngày 23-1-1961 để trực tiếp lãnh đạo cách mạng ở miền Nam, từng bước đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt" đến chiến lược “chiến tranh cục bộ" và chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (từ năm 1955 đến năm 1975) là thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự, ngoại giao đúng đắn và cũng là thắng lợi trong công tác tổ chức tài tình của Đảng ta. Trong 20 năm đó, các cơ quan tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức đểu tỏ rõ lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ.
4- Công tác tổ chức xây dựng Đảng trong thời kỳ cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội và tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (từ năm 1975 đến nay).
a. Giai đoạn 1975-1986: cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Ngay sau ngày miền Nam được giải phóng, thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, công tác tổ chức của Đảng đã nhanh chóng giải quyết hàng loạt những vấn đề cấp bách trước mắt, như xây đựng và củng cố hệ thống chính trị thống nhất của cả nước, trong đó bao gồm việc xây dựng và củng cố tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể ở các cấp trong các vùng mới được giải phóng thực hiện sự thống nhất đất nước về mặt Nhà nước, bầu Quốc hội của cả nước (25-4-1976).
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng tiến hành từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 tại Hà Nội, Đại hội tổng kết 16 năm thực hiện đường lối chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 111, đề ra đường lối chung và đường lối phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng tiến hành từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 tại Hà Nội, Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung và đường lối kinh tế do Đại hội IV vạch ra, đồng thời phê phán những sai lầm, khuyết điềm trong chỉ đạo thực hiện đường lối Đại hội IV của Đảng; chỉ ra những mục tiêu, nội dung của chặng đường trước mắt, khẳng định những mặt tích cực và kết quả đã đạt được, vạch rõ những mặt còn yếu kém trong công tác tổ chức của Đảng những năm qua. Sau Đại hội, công tác tổ chức xây dựng đảng tập trung vào việc củng cố hệ thống tổ chức của Đảng, tiến hành xây dựng các quy chế làm việc của cấp ủy và tổ chức đảng, đề cao trách nhiệm của tập thể và cá nhân, khắc phục những yếu kém, nhất là tính thụ động, ỷ lại cấp tiêm kết hợp sự tăng cường lãnh đạo của Đảng với việc kiện toàn các cơ quan chính quyền, cải tiến tổ chức và cơ chế quản lý, nâng cao tính chiến đấu của đội ngũ đảng viên.
b. Giai đoạn từ năm 1986 đến nay. Tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tiến hành từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986 tại Hà Nội, Đại hội đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình cách mạng ở nước ta. Đại hội vừa khẳng định những kết quả to lớn đã đạt được trong công tác xây dựng Đảng thời gian qua, vừa phân tích phê phán những sai lầm, khuyết điểm mà "sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện", trong đó "những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân". Đại hội vạch rõ phương hướng, nhiệm vụ của công tác xây dựng đảng là: "Xây dựng Đảng thật sự ngang tầm một đảng cầm quyền có trọng trách lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhân tố quyết định sự phát triển của cách mạng nước ta". Đảng phải "đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác".
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng tiến hành từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội, Đại hội khẳng định và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác-lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (1991-2000) và Điều lệ Đảng (sửa đổi) Về công tác xây dựng Đảng, báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ: "Để lãnh đạo thắng lợi công cuộc đối mới cũng như toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta phải tự đổi mới và chỉnh đốn để có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu mới, khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực và mặt yếu kém, khôi phục và nâng cao uy tín của Đảng trong nhân dân. Đảng phải được xây dựng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc".
* Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng tiến hành từ ngày 28- 6 đến ngày 1-7-1996 tại Hà Nội, Đại hội khẳng định tính chất đúng đắn của đường lối đổi mới toàn diện do Đại hội VI đề ra, được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng tiếp tục bổ sung và phát triển. Đại hội đã chỉ ra sáu bài học chủ yếu qua mười năm thực hiện đổi mới. Trong đó, có bài học tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, lấy phát triển kinh tế làm nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đảng là nhiệm vụ then chốt.
* Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiến hành tại Hà Nội từ ngày 19 đến ngày 22-4-2001 , Đại hội đã thông qua Báo cáo chính trị với chủ đề "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xa hội chủ nghĩa". Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội, phần về công tác xây dựng đảng đã khẳng định những thành tựu đạt được, đồng thời nghiêm khắc kiểm điểm về "một số mặt yếu kém và khuyết điểm, nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, chưa ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống..." Căn cứ vào tình hình và yêu cầu mới, Đại hội quyết định tiếp tục tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng học lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, củng cố mối quan hệ mật thiết với nhân dâm tập trung làm tốt bốn công tác quan trọng là: giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng; kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18/4/2006 đến ngày 25/4/2006 tại Hà Nội. Đại hội X khẳng định chủ đề Đại hội là "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mớn sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển". Đại hội xác định những mặt công tác cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt trong công tác xây dựng Đảng như: Nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ của Đảng; kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên; thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung. dân chủ trong Đảng; đổi mới tổ chức bộ máy, cán bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đặc biệt là tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá X họp từ ngày 14 đến 22/1/2008 đã nghiêm túc kiểm điểm đánh giá đúng tình hình, thẳng thắn chỉ ra những khuyết điểm yếu kém của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên cần khắc phục; đồng thời Hội nghị Trung ương thông qua Nghị quyết " Về nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên". Đây là một dấu mốc quan trọng, thể hiện sự quyết tâm của Trung ương tập trung, dồn sức hướng mạnh về cơ sở, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng; tạo bằng được bước chuyển mang tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở.
Công tác tổ chức xây dựng đảng kể từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội luôn có vai trò, vị trí quan trọng trong xây dựng, hoạch định và từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng. Nhìn lại 80 năm qua công tác tổ chức xây dựng đảng luôn luôn bám sát đường lối chính trị của Đảng và thực tiễn tình hình đất nước. Cùng với sự phát triển của cách mạng hệ thống các cơ quan tổ chức và đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức xây dựng Đảng ngày càng trưởng thành, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm phong phú từ thực tiễn sinh động của quá trình cách mạng và của công tác xây dựng Đảng qua các thời kỳ, góp phần to lớn vào những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc ta.