Đây thôn Vĩ Dạ, lúc đầu có tên là Ở đây thôn Vĩ Dạ. Theo một số tài liệu, bài thơ được gợi cảm hứng từ mối tình của Hàn Mặc Tử với một cô gái vốn quê ở thôn Vĩ Dạ.
GS. Nguyễn Đăng Mạnh cho biết: Hồi làm nhân viên ở sở đạc điền Quy Nhơn, Hàn Mặc Tử có thầm yêu trộm nhớ đơn phương một cô gái người Huế tên là Hoàng Thị Kim Cúc, con ông chủ sở. Một thời gian sau, nhà thơ vào Sài Gòn làm báo, khi trở lại Quy Nhơn thì cô gái đã theo gia đình về Vĩ Dạ (Huế). Một buổi kia, cô Cúc do sự gợi ý của một người em thúc bá, bạn của Hàn Mặc Tử, gửi vào cho nhà thơ một tấm bưu ảnh chụp một phong cảnh sông nước có thuyền và bến, kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đã mắc hiểm nghèo (bệnh phong). Lời thăm hỏi không kí tên nhưng bức ảnh và những dòng chữ kia đã kích thích trí tưởng tượng, cảm hứng, và đã gợi dậy những gì thầm kín xa xưa của Hàn Mặc Tử...
Theo Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ Hàn Mặc Tử, thì: Năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ gửi ra Huế cho Hoàng Cúc...
- Nội dung bài thơ buồn, nhưng thắm thiết tình đời, tình người; được sáng tác trong hoàn cảnh tối tăm, tuyệt vọng ( bệnh tật giày vò; ám ảnh cái chết).
-Điều đó khiến người đọc thương xót và cảm thông với số phận của nhà thơ; cảm phục con người bằng tài năng và nghị lực đã vượt qua hoàn cảnh nghiệt ngã.
Đã từ lâu, chiều muộn luôn là khởi nguồn cho cảm hứng thi ca của nhiều thi sĩ. Trong đó không thể không nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh – dưới tư cách là một nhà thơ – với một phong cách “thơ chiều” hoàn toàn khác biệt! Có thể thấy, ngay từ tập thơ “Ngục trung nhật kí” (Nhật kí trong tù), Người đã không ít lần rung động trước vẻ đẹp gợi cảm của cảnh chiều buông để rồi cho ra đời những áng thơ bất hủ như “Vãn chiều hôm”, “Hoàng hôn”… Song phải kể đến trước tiên có lẽ là “Mộ” (Chiều tối) – bài thơ được sáng tác trong thời gian bác đang trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối thu năm 1942. Đây thực sự là một áng thơ tuyệt bút bởi nó không chỉ đẹp ở ý thơ mà còn đẹp trong tài hoa và nhân cách sáng ngời của Hồ Chủ Tịch:
“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
( Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng.)”
(Nam Trân dịch)
Ngay ở nhan đề của bài thơ đã toát lên nội dung chủ đạo chính là cảnh chiều tối, tuy nhiên, nếu để ý, ta dễ dàng thấy được trong bài thơ không hề có một chữ “chiều” nào. Ấy vậy mà cảnh chiều vẫn được Bác khắc họa một cách rõ nét, đẹp và đầy gợi cảm trong tâm trí người đọc.
Bằng lối viết thi trung hữu họa mang phong vị cổ thi cùng những thi liệu gần gũi, thi sĩ giờ đây trở thành họa sĩ vẽ ra trước mắt người đọc một bức tiểu họa về thiên nhiên miền sơn cước giữa cảnh chiều tối: cánh chim mệt mỏi (quyện điểu) tìm về chốn rừng sâu (quy lâm) sau một ngày kiếm ăn vất vả; những chòm mây đơn độc, lẻ loi (cô vân) chầm chậm (mạn mạn) trôi giữa bầu trời vô tận (độ thiên không). Chỉ bằng vài nét chấm phá của bút pháp ước lệ, tác giả đã khéo léo đưa hình ảnh “cánh chim” và “chòm mây” – những hình ảnh quen thuộc trong thơ chiều xưa và nay – vào bài thơ như một sự ẩn dụ không chỉ mang tính chất không gian mà còn có ý nghĩa thời gian. Tất cả tạo nên một phông lớn làm nền cho cảnh chiều.
“Cánh chim” vốn là hình ảnh không mấy xa lạ với thế giới nghệ thuật cổ phương Đông. Có lẽ cũng vì vậy mà mỗi khi nhìn thấy cánh chim bay về rừng lại làm người ta liên tưởng về một buổi chiều muộn nhiều hơn. Chất ước lệ càng được nâng cao khi các nhóm từ “Phi yến thu lâm”, “Quyện điểu quy lâm” thường được sử dụng trong thơ chữ Hán. Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, đại thi hào Nguyễn Du đã điểm vào bức tranh chút chuyển động của cánh chim: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Hay trong thơ Bà Huyện Thanh Quan cũng thế: “Ngày mai gió cuốn chim bay mỏi”. Hoặc với Huy Cận, bóng chiều như đang sà xuống cùng cánh chim đang nghiêng dần về phía cuối trời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bong chiều sa”… Dường như với thi nhân, cảnh chiều “không thể hoàn thiện” nếu thiếu cánh chim. Nhưng qua đây ta cũng thấy được một điều: thơ văn xưa nhắc đến “cánh chim” thường chỉ như một chi tiết nghệ thuật thuần túy để gợi tả cảnh chiều cũng như gợi cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:
“Chúng điểu cao phi tận” – Lí Bạch
Hay:
“Thiên sơn điểu phi tuyệt” – Liễu Tông Nguyên
Cánh chim “phi tuyệt”, “phi tận” trong thơ Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên khiến ta có cảm giác tất cả như đang rơi vào trạng thái bay vào chốn xa xăm, vô tận, mang một ý niệm siêu hình. Đó dường như đã trở thành “lối mòn”, một cấu trúc không thể thay thế trong thơ văn cổ. Nhưng vượt qua rào cản ấy, Bác đã đưa cánh chim của chính mình ra khỏi thế giới siêu hình để trở về với thực tại:
Không còn mang tính quan sát từ trạng thái bên ngoài (hoạt động “bay”), cánh chim trong thơ Bác là sự cảm nhận trạng thái từ bên trong, một sự cảm nhận của con người hiện đại dựa trên ý thức sâu sắc của cái “tôi” cá nhân trước ngoại cảnh (cánh chim bay). Câu thơ cho ta thấy sự tương đồng, gần gũi, hòa hợp giữa tâm hồn nhà thơ với cảnh vật, thiên nhiên: Suốt một ngày rong ruổi khắp nơi kiếm ăn cánh chim đã mỏi đang bay về tổ ấm để nghỉ ngơi, người tù cũng mệt mỏi sau một ngày vất vả lê bước đường trường và cũng đang khao khát tìm được một nơi để dừng chân nghỉ tạm. Chính sự đồng điệu đến tuyệt vời của người tù với cánh chim đã làm nên hình tượng mới mẻ của thi ca – “quyện điểu”. Cánh chim giờ đây đã thực sự có phương hướng, điểm dừng cũng như mục đích bay rõ ràng. Từ đây, ta nhận thấy cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sự sống của Bác. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêu thương cuộc sống, cảm quan của Bác cũng chính là cảm quan nhân đạo.
Cũng mang phong cách Đường thi nhưng câu thơ thứ hai của bài thơ lại gợi chút cảm giác cô đơn, quạnh quẽ bởi hình ảnh của “cô vân”. Tuy nhiên, bản dịch dù đã dịch khá hay và uyển chuyển vẫn bỏ sót chữ “cô” và không thể hiện hết ý nghĩa của từ “mạn mạn” do vậy làm mất đi ý thơ vốn rất sâu sắc của nguyên tác. Trong thơ xưa, chòm mây thường gợi lên vẻ cô độc, thanh cao, phiêu diêu, thoát tục và nỗi khắc khoải của con người trước cõi hư không: “Cô vân độc khứ nhàn” (Lí Bạch). Còn với “Chiều tối”, chòm mây không chỉ đơn thuần là “chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không” mà cũng là một chòm mây lẻ loi, cô độc, chầm chậm trôi giữa bầu trời. Câu thơ làm ta nhớ tới những áng mây trong thơ Thôi Hiệu: “Bạch vân thiên tải không du du”
(Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay – Tản Đà dịch), áng mây trắng mang hơi hướng của sự vĩnh hằng trong khi “chòm mây trôi nhẹ” làm sống dậy bao nỗi khắc khoải, mong chờ. Nhưng trên hết, chính hình ảnh “cô vân” đã tạo nên chiều cao, chiều sâu của bức tranh ngoại cảnh. Núi rừng Quảng Tây trong chiều thu như hiện ra trước mắt người đọc với bầu trời cao rộng, trong trẻo, êm ả. Chòm mây lẻ loi giữa bầu trời bao la, rộng lớn, trải dài đến vô tận càng khiến cho cảm giác trống trải, cô đơn được nhân đôi. Vì sự cô đơn ấy không chỉ của chòm mây lẻ bóng, mà còn là tâm trạng của người đang ngắm nó.
Chỉ với những hình ảnh thơ rất đỗi quen thuộc, người nghệ sĩ – chiến sĩ Hồ Chí Minh đã vượt qua khuôn khổ thường tình của thi ca cổ điển để khắc họa bức tranh chiều trên đất khách quê người. Nhiêu đó thôi cũng đủ để thấy được tấm lòng yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống vô hạn của Người. Nhưng phảng phất đâu đó trong hai câu thơ là một nỗi buồn thấm thía. Cánh chim bay tìm đường về tổ như một sự nhắc nhở nhẹ nhàng về giấc mơ đoàn viên. Người tù đang phải chịu cảnh tù đày nên ắt hẳn luôn hướng về quê hương, gia đình, nhìn thấy cánh chim phía cuối trời, cái mong ước nhỏ nhoi ấy lại càng trào dâng, mãnh liệt khiến ai dù không mấy mặn nồng với quê hương cũng phải đau đớn, huống hồ Bác là một người yêu nước tha thiết. Thêm vào đó, bóng mây chầm chậm trôi về phía trời xa gợi niềm xót xa cho thân phận nổi nênh, lênh đênh, trôi dạt giữa nơi đất khách càng làm cho khát vọng tự do được bay như chim, trôi như mây giữa trời của người tù trở nên mạnh mẽ, dứt khoát hơn bao giờ hết. Bức tranh ngoại cảnh và bức tranh tâm cảnh đã thực sự hoàn làm một. Cũng từ đây ta thấy được vẻ đẹp sáng ngời trong nhân cách HCM - đó là một con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn không để mất đi dù chỉ một mảy may tình yêu cái đẹp, khả năng rung cảm trước cuộc đời, một con người sống trọn vẹn cuộc sống con người, dù trong hoàn cảnh có khác loài người.
Không dừng lại ở việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên, Bác bắt đầu đi vào xây dựng hình tượng trung tâm cho bức tranh. Bút pháp cổ điển giờ đây được thay thế bằng những hình ảnh mang phong cách hiện đại. Bức tranh không còn đơn điệu mà như được thổi hồn bởi sự xuất hiện của con người – cô gái xay ngô – và bếp lửa hồng. Khung cảnh thiên nhiên nhường chỗ cho bức tranh sinh hoạt của con người. Đó là một luồng gió mới làm thay đổi toàn bộ “cục diện” của bức tranh:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.”
Giữa rừng núi hoang sơ, hẻo lánh, trong lúc nỗi buồn thầm kín đang bủa vây lấy tâm trí thì đập vào mắt người tù là hình ảnh “cô em xóm núi” đang “xay ngô tối” cắt ngang mọi dòng suy nghĩ lẫn cảm xúc. Khi niềm hy vọng trong việc tìm kiếm điểm dừng chân sau một ngày đi đường mệt mỏi đang dần vụt tắt thì “xóm nùi” hiện ra trước mắt người tù, hệt như một giấc mơ, khiến bao mệt mỏi, lo toan dường như biến mất. Cái vẻ bình yên của xóm núi càng khiến lòng người thêm ấm áp bởi sự hiện diện của người thiếu nữ. Vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sống của người thiếu nữ trong tư thế lao động (xay ngô) trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều, tạo nên sự tươi vui, khỏe khoắn cho cả bài thơ. Đáng chú ý là hình tượng người thiếu nữ trong thơ Bác hoàn toàn khác với người thiếu nữ trong cổ thi. Nhiều thi nhân xưa thường ví người thiếu nữ như “Liễu yếu đào tơ”, sống trong cảnh “Phòng khuê khép kín”, chỉ cần biết “cầm, kì, thi, họa” là đủ:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Trong khi người thiếu nữ trong thơ Bác thì gắn liền với công việc lao động bình dị, đời thường, khỏe khoắn đầy sức sống. Bên cạnh đó, cùng đề cập đến con người nhưng trong thơ xưa, con người xuất hiện mà thiếu hẳn sức sống, dường như chỉ để tôn thêm cái hùng vĩ, hoang sơ của đất trời, thiên nhiên, mang một nỗi niềm hoài cổ, sầu muộn:
“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên song chợ mấy nhà”
(“Qua Đèo Ngang” – Bà Huyện Thanh Quan)
Hoặc:
“Gác mái ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng mục tử lại cô thôn.”
(“Chiều hôm nhớ nhà” – Bà Huyện Thanh Quan)
Nhưng “Chiều tối” với sự có mặt của cô gái xay ngô thực sự đã đem lại hơi ấm, hạnh phúc cho không chỉ người tù đơn độc mà còn cho cả người đọc trước cái không khí âm u, heo hút của núi rừng. Phải chăng vẻ đẹp lung linh của bức tranh là do sự khỏe khoắn ấy tạo nên?!?
Ở nguyên tác, Bác không cần dùng đến chữ “tối” như bản dịch nhưng vẫn cho ta thấy được sự vận động không ngừng của thời gian: từ chiều tà đến chiều tối. Đó chính là nhờ sự hiện diện của hình ảnh lò than hồng. Bởi phải vào thời điểm như thế người ta mới thấy hết sự rực hồng của than trong lò, mà cái tài của nhà thơ ở đây là không cần dùng đến chữ “tối” nhưng ý nghĩa ấy vẫn cứ hiện lên rõ mồn một. Hình ảnh lò than rực hồng trong đêm tối không chỉ làm nổi bật thêm tư thế xay ngô của cô gái mà hơn hết, ánh than hồng đã xua tan đi bóng tối đang dần bao trùm lấy vạn vật mà theo nhà thơ Hoàng Trung Thông – “Bác Hồ làm thơ và thơ của Bác”- NXB Tác phẩm mới 1977, trang 231 đã nhận xét thì: “Với một chữ “hồng”, Bác đã làm sáng rực lên toàn bộ bài thơ, đã làm mất đi sự mệt mỏi, sự uể oải, sự vội vã, sự nặng nề đã diễn tả trong ba câu đầu, đã làm sáng rực lên khuôn mặt của cô em sau khi xay xong ngô tối. Chữ “ hồng” trong nghệ thuật thơ Đường, người ta gọi là “thi nhãn” (con mắt thơ) hoặc là “nhãn tự” (chữ mắt), nó sáng bừng lên, nó cân lại, chỉ một chữ thôi, với hai mươi bảy chữ khác dầu nặng đến mấy đi chăng nữa…” Cũng vì thế mà hình ảnh lò than hồng có một sức lôi cuốn đặc biệt đối với mỗi người.
Thoát khỏi văn phong cổ điển, hai câu thơ cuối mang nhiều chất “bạch thoại”, mộc mạc, đời thường và điều đó thể hiện rõ ở chữ “bao túc” xuất hiện đến hai lần. Cô gái miệt mài xay ngô mà không hề để ý đến thời gian. Cứ hết túi ngô này (ma bao túc) rồi lại đến túi ngô khác (bao túc ma) để rồi đến khi cô xay ngô xong (bao túc ma hoàn) thì mới nhận ra “lò than đã rực hồng” (lô dĩ hồng). Qua hình ảnh trẻ trung mà bình dị, hiện đại ta thấy được niềm xót xa kín đáo mà sâu xa của nhà thơ trước nỗi vất vả, khó khăn của cuộc sống con người lao động. Sự lặp đi lặp lại của công việc xay ngô như một vòng quay nặng nề, luẩn quẩn của con tạo. Tình thương đối với nỗi đau khổ của những con người lao động, cho dù họ không phải là đồng bào của Bác, không quen thân, thậm chí chưa hề gặp mặt cũng theo đó mà chân thành hơn bao giờ hết. Song trên một phương diện nào đó, câu thơ một lần nữa khơi gợi lại cảm giác về sự ấm áp, sum vầy, về một thứ hạnh phúc bình dị trong một căn nhà ấm cúng. Đó như một cách nhấn mạnh nỗi lòng thườn trực trong trái tim Bác. Bếp lửa đã cháy lên và công việc lao động cũng đã hoàn tất. Và như thế, cái lớn của những dòng thơ là ở khả năng vô song của Bác, khả năng mà khó có ai vượt hơn, thậm chí sánh nổi. Đó là khả năng quên đi nỗi đau khổ rất lớn của mình để đồng cảm, để vui với những niềm vui bé nhỏ, giản dị của con người . Nhưng dù là ý nghĩa nào chăng nữa thì cũng đều nói lên một phẩm chất chung, phẩm chất mà sau khi Bác mất, nhà thơ Tố Hữu mới nói đến thật nhiều và thật thấm thía: "Chỉ biết quên mình cho hết thảy" hay: “Nâng niu tất cả chỉ quên mình". Chúng ta nhận ra “Chiều tối” mang những vần thơ quên mình vĩ đại.
Dẫu đang ở trong một cảnh ngộ tột cùng đau khổ nhưng Bác vẫn có thể rung động được với nỗi khổ hoặc niềm vui của cảnh vật, con người bình thường khác mà Người tình cờ bắt gặp trên đường đày ải. Bị trói, bị tù đày, bị giải đi " Năm mươi ba cây số một ngày/Áo mũ dầm mưa rách hết giày" nhưng dường như Người không hề để ý gì đến sự đau khổ của bản thân mình. Người luôn hướng ngoại, lấy tình yêu của mình trải lên cả không gian bao la để quên đi nỗi nhọc nhằn. Người coi thường gian khổ, chịu mọi cay đắng và không bao giờ than vãn. Đó chính là tinh thần thép vĩ đại của người tù thi sĩ Hồ Chí Minh.
Trên phương diện văn học, “Chiều tối” vẫn luôn là một tác phẩm trữ tình và cái hồn của bài thơ nằm ở những tình cảm, rung động mà nhà thơ đã trao gửi vào trong những dòng chữ. Đây là một tác phẩm có thể nói là đẹp về nhiều mặt và thực sự là một bông hoa sáng ngời trong thế giới thơ HCM. Mang phong cách cổ điển kết hợp với “hơi thở hiện đại”, bài thơ là bức chân dung tự họa, phản ánh con người tinh thần và nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của Bác. Như những “vầng sáng” của lò than hồng trong câu thơ cuối, bài thơ thực sự trở thành một luồng sáng khai nguồn cho một phong cách thi ca hiện đại trữ tình, hoàn toàn mới mẻ, thoát ly với văn phong cổ điển. Và hơn cả, bài thơ là một điển hình mang dáng dấp nhân cách HCM bởi sự gởi gắm tất cả tâm tư, tình cảm của Bác trong “sâu thẳm” nó. Đó cũng chính là những yếu tố làm nên vẻ đẹp có “một không hai” của bài thơ.