Giá trị lịch sử và nhân văn của Tuyên ngôn độc lập
BÀI LÀM
60 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là 60 năm dân tộc ta cóa bản Tuyên ngôn Độc lập – áng thiên cổ hùng văn thứ ba, tiếp nối thơ Thần của Lí Thường Kiệt (thế kỉ XI) và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (thế kỉ XV)…
Thông thường, bất cứ tác phẩm văn học nào cũng gắn liền với số phận của một cá nhân nào đó. Tuyên ngôn độc lập lại là một trường hợp khác. Đây là áng văn đặc biệt, có thể nhìn nhận từ nhiều góc độ: sử học, văn học, triết học, pháp lí… và lại gắn liền với số phận của cả một dân tộc, một quốc gia.
Một ngày ghi mãi sử xanh:
Trong vòng 10 ngày, từ 19-08-1945, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, đã dựng lên tổng khởi nghĩa, làm chủ toàn bộ đất nước. Sau Quốc dân Đại họi hộp ở Tân Trào, ngày 26 – 08, Hồ Chủ tịch trở về Hà Nội, chuẩn bị cho việc ra mắt chính quyền mới và chính thức công bố quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Trên tầng hai của ngôi nhà 48 phố Hàng Ngang, Bác Hồ đã chủ trì phiên họp của Thường vụ Trung ương Đảng đầu tiên ở Hà Nội và bắt tay vào viết bản Tuyên ngôn Độc lập. Văn bản này được Bác Hồ đọc giữa trưa ngày mùng hai tháng chín năm 1945 trước nửa triệu đồng bào, tai quảng trường Ba Đình.
Một văn kiện lịch sử to lớn:
Bản Tuyên ngôn độc lập chỉ có vỏn vẹn 1.120 từ. Thế nhưng, những giá trị lịch sử của nó lại hết sức to lớn. Cho đến nay, không ai có thể tìm được một văn bản thứ hai, khái quát đầy đủ, toàn diện về lịch sử Việt Nam của hơn 80 năm trước ngày độc lập. Ở đó, có những đánh giá khái quát: … hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Lại có những chi tiết thật cụ thể, điển hình: Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh lần nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Song, giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập không chỉ ở sự khái quát lịch sử. Với trí tuệ mẫn tiệp đến kì lạ, Hồ Chủ tịch đã phân tích thế cuộc trong và ngoài nước một cách sắc sảo và dự báo những gì sẽ diễn ra sau đó. Vì thế, giữa Ba Đình, trên đất nước Việt Nam, Người “trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng”: Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Hai cuộc trường kì kháng chiến của dân tộc ta sau đó đã được Bác Hồ chuẩn bị tâm thế từ buổi trưa mùa thu lịch sử ấy! Điều này cũng giải thích vì sao sau khi viết xong bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ dành cho ông Archimedes L. A Patti, một người Mĩ trong toán OSS, sau này trở thành nhà báo nổi tiếng, vinh dự làm người đầu tiên được nghe toàn bộ văn kiện đặc biệt này trước khi Người công bố với quốc dân và thế giới (Archimedes L. A Patti, Tại sao Việt Nam?).
Nền tảng của chủ nghĩa nhân văn mới:
Năm 1946, trả lời các nhà báo Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bực là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Sau này, khi đất nước chưa bị chia cắt, Người nói: Miền Nam trong trái tim tôi. Còn trước đó, ở Tuyên ngôn Độc lập, một văn bản chính trị, Bác Hồ vẫn không giấu tình cảm của mình. Trái tim Người nghẹn ngào khi nói về những nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít: Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của dân ta trong bể máu… Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Nhưng trái tim ấy cũng vang lên sung sướng, tự hào khi: Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Hồ Chủ tịch là người yêu nước, dĩ nhiên phải chứa chấp lòng căm thù thực dân Pháp. Song, Bác lại là người có trái tim nhân hậu lớn. Trái tim ấy thuộc về truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trước thế giới, Người nói về nhân nghĩa mà dân tộc này đã đối xử với kẻ thù của mình: …đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Không chỉ đấu tranh cho quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đất nước mình, Hồ Chí Minh còn khẳng định: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ngày nay, những lí lẽ như thế không phải xa lạ, nhưng không phải ở đâu trên trái đất này cũng được tôn trọng. Còn 60 năm về trước, đây lại là điều hoàn toàn mới mẻ. Bác Hồ là vị lãnh tụ đầu tiên trên thế giới đã gắn vấn đề quyền con người với quyền dân tộc. Ở Người, không có một chủ nghĩa nhân đạo chung chung, chủ nghĩa này được khởi thủy từ nhận định của K. Marx: Một dân tộc đi áp bức dân tộc khác không phải là một dân tộc tự do. Và, cũng vì thế, không thể có quyền con người khi quyền dân tộc chưa giành được. Chính chủ nghĩa nhân đạo hiện thực và cách mạng này sẽ là ngọn cờ tư tưởng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa mấy mươi năm qua.
Với người cộng sản, lòng thương xót con người không chưa đủ. Tình thương ấy phải trở thành khát vọng và hiện thực về cuộc sống tự do và hạnh phúc hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người như thế.
BÀI LÀM
60 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là 60 năm dân tộc ta cóa bản Tuyên ngôn Độc lập – áng thiên cổ hùng văn thứ ba, tiếp nối thơ Thần của Lí Thường Kiệt (thế kỉ XI) và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi (thế kỉ XV)…
Thông thường, bất cứ tác phẩm văn học nào cũng gắn liền với số phận của một cá nhân nào đó. Tuyên ngôn độc lập lại là một trường hợp khác. Đây là áng văn đặc biệt, có thể nhìn nhận từ nhiều góc độ: sử học, văn học, triết học, pháp lí… và lại gắn liền với số phận của cả một dân tộc, một quốc gia.
Một ngày ghi mãi sử xanh:
Trong vòng 10 ngày, từ 19-08-1945, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, đã dựng lên tổng khởi nghĩa, làm chủ toàn bộ đất nước. Sau Quốc dân Đại họi hộp ở Tân Trào, ngày 26 – 08, Hồ Chủ tịch trở về Hà Nội, chuẩn bị cho việc ra mắt chính quyền mới và chính thức công bố quyền độc lập của dân tộc Việt Nam. Trên tầng hai của ngôi nhà 48 phố Hàng Ngang, Bác Hồ đã chủ trì phiên họp của Thường vụ Trung ương Đảng đầu tiên ở Hà Nội và bắt tay vào viết bản Tuyên ngôn Độc lập. Văn bản này được Bác Hồ đọc giữa trưa ngày mùng hai tháng chín năm 1945 trước nửa triệu đồng bào, tai quảng trường Ba Đình.
Một văn kiện lịch sử to lớn:
Bản Tuyên ngôn độc lập chỉ có vỏn vẹn 1.120 từ. Thế nhưng, những giá trị lịch sử của nó lại hết sức to lớn. Cho đến nay, không ai có thể tìm được một văn bản thứ hai, khái quát đầy đủ, toàn diện về lịch sử Việt Nam của hơn 80 năm trước ngày độc lập. Ở đó, có những đánh giá khái quát: … hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Lại có những chi tiết thật cụ thể, điển hình: Trước ngày 9 tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt Minh lần nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Song, giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập không chỉ ở sự khái quát lịch sử. Với trí tuệ mẫn tiệp đến kì lạ, Hồ Chủ tịch đã phân tích thế cuộc trong và ngoài nước một cách sắc sảo và dự báo những gì sẽ diễn ra sau đó. Vì thế, giữa Ba Đình, trên đất nước Việt Nam, Người “trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng”: Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Hai cuộc trường kì kháng chiến của dân tộc ta sau đó đã được Bác Hồ chuẩn bị tâm thế từ buổi trưa mùa thu lịch sử ấy! Điều này cũng giải thích vì sao sau khi viết xong bản Tuyên ngôn Độc lập, Bác Hồ dành cho ông Archimedes L. A Patti, một người Mĩ trong toán OSS, sau này trở thành nhà báo nổi tiếng, vinh dự làm người đầu tiên được nghe toàn bộ văn kiện đặc biệt này trước khi Người công bố với quốc dân và thế giới (Archimedes L. A Patti, Tại sao Việt Nam?).
Nền tảng của chủ nghĩa nhân văn mới:
Năm 1946, trả lời các nhà báo Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bực là làm sao cho đất nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Sau này, khi đất nước chưa bị chia cắt, Người nói: Miền Nam trong trái tim tôi. Còn trước đó, ở Tuyên ngôn Độc lập, một văn bản chính trị, Bác Hồ vẫn không giấu tình cảm của mình. Trái tim Người nghẹn ngào khi nói về những nỗi thống khổ của nhân dân dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít: Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của dân ta trong bể máu… Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ, hơn hai triệu đồng bào ta chết đói. Nhưng trái tim ấy cũng vang lên sung sướng, tự hào khi: Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!
Hồ Chủ tịch là người yêu nước, dĩ nhiên phải chứa chấp lòng căm thù thực dân Pháp. Song, Bác lại là người có trái tim nhân hậu lớn. Trái tim ấy thuộc về truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trước thế giới, Người nói về nhân nghĩa mà dân tộc này đã đối xử với kẻ thù của mình: …đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.
Không chỉ đấu tranh cho quyền độc lập, tự do cho dân tộc, đất nước mình, Hồ Chí Minh còn khẳng định: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Ngày nay, những lí lẽ như thế không phải xa lạ, nhưng không phải ở đâu trên trái đất này cũng được tôn trọng. Còn 60 năm về trước, đây lại là điều hoàn toàn mới mẻ. Bác Hồ là vị lãnh tụ đầu tiên trên thế giới đã gắn vấn đề quyền con người với quyền dân tộc. Ở Người, không có một chủ nghĩa nhân đạo chung chung, chủ nghĩa này được khởi thủy từ nhận định của K. Marx: Một dân tộc đi áp bức dân tộc khác không phải là một dân tộc tự do. Và, cũng vì thế, không thể có quyền con người khi quyền dân tộc chưa giành được. Chính chủ nghĩa nhân đạo hiện thực và cách mạng này sẽ là ngọn cờ tư tưởng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa mấy mươi năm qua.
Với người cộng sản, lòng thương xót con người không chưa đủ. Tình thương ấy phải trở thành khát vọng và hiện thực về cuộc sống tự do và hạnh phúc hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người như thế.