• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

FEUERBACH SỰ ĐỐI LẬP GIỮA QUAN ĐIỂM DUY TÂM VÀ QUAN ĐIỂM DUY VẬT [Phần 1]

PHÚC KEYNES

New member
Xu
0
FEUERBACH SỰ ĐỐI LẬP GIỮA QUAN ĐIỂM DUY TÂM VÀ QUAN ĐIỂM DUY VẬT [Phần 2]

K. Marx và F. Engels
TOÀN TẬP
Tập 3. (1845-1847).
Nxb. Chính trị quốc gia, 1995
--- o0o ---

FEUERBACH
SỰ ĐỐI LẬP GIỮA QUAN ĐIỂM DUY TÂM VÀ QUAN ĐIỂM DUY VẬT
[Phần 2]


[1.] Lịch sử

Với những người Đức hoàn toàn không có tiền đề gì cả, chúng ta buộc phải bắt đầu bằng việc xác định tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể "làm ra lịch sử" [1]. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất trong những tư liệu để thoả mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất. Hơn nữa, đó là một hành vi lịch sử, một điều kiện cơ bản của mọi lịch sử mà (hiện nay cũng như hàng nghìn năm về trước) người ta phải thực hiện hằng ngày, hằng giờ, chỉ nhằm để duy trì đời sống con người. Dù hiện thực cảm giác được bị thu hẹp tới mức tối thiểu thành một chiếc gậy như đối với thánh Bru-nô thì hiện thực ấy cũng bao hàm hoạt động đã sản xuất ra chiếc gậy ấy. Vì vậy, khi làm sáng tỏ bất kỳ một hiện thực lịch sử nào, việc đầu tiên là phải quan sát sự kiện cơ bản đó với toàn bộ ý nghĩa và phạm vi của nó, và phải dành cho nó một vị trí xứng đáng. Ai cũng biết rằng người Đức chưa bao giờ làm như vậy, vì thế họ chưa bao giờ có cơ sở trần tục cho lịch sử cả và cũng vì thế, họ chưa bao giờ có được một nhà sử học. Mặc dù chỉ hiểu một cách hết sức phiến diện mối liên hệ giữa sự kiện đó với cái được gọi là lịch sử, nhất là khi họ còn bị trói buộc bởi hệ tư tưởng chính trị, nhưng người Pháp và người Anh cũng đã bước đầu thử tạo ra cho lịch sử một cơ sở duy vật, bằng cách là trước hết viết lịch sử của xã hội công dân, của thương nghiệp và của công nghiệp.

Điểm thứ hai là bản thân cái nhu cầu đầu tiên đã được thoả mãn, hành động thoả mãn và công cụ để thoả mãn mà người ta đã có được - đưa tới những nhu cầu mới; và sự sản sinh ra những nhu cầu mới này là hành vi lịch sử đầu tiên. Chính điều đó làm cho người ta thấy rõ ngay rằng cái trí tuệ lịch sử vĩ đại của những người Đức là con đẻ tinh thần của ai; những người Đức cho rằng nơi nào mà họ thiếu tài liệu thực chứng, nơi nào mà những điều ngốc nghếch về thần học, về chính trị, về văn học không có đất dung thân thì ở nơi đó không có lịch sử mà chỉ có "những thời tiền sử"; đồng thời họ cũng không hề giải thích cho chúng ta rõ rằng người ta đã chuyển như thế nào từ cái "thời tiền sử" vô nghĩa đó đến lịch sử thực sự. Nhưng mặt khác, tư biện lịch sử của họ lại đặc biệt sẵn lòng lao vào cái "thời tiền sử" đó, bởi vì nó tưởng rằng ở đây, nó có thể tránh được sự can thiệp của "sự thực thô bạo" và đồng thời ở đây, nó có thể hoàn toàn thả lỏng bản năng tư biện của nó và có thể dựng lên và vứt bỏ hàng nghìn giả thiết.

Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi nẩy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình. Gia đình đó lúc đầu là quan hệ xã hội duy nhất, về sau trở thành một quan hệ phụ thuộc (trừ ở Đức) khi mà những nhu cầu đã tăng lên đẻ ra những quan hệ xã hội mới và dân số đã tăng lên đẻ ra những nhu cầu mới; do đó phải khảo sát và nghiên cứu gia đình căn cứ vào những tư liệu kinh nghiệm hiện có, chứ không phải căn cứ vào "khái niệm gia đình", như người ta thường quen làm ở Đức[2]. Nhưng cần phải coi ba mặt đó của hoạt động xã hộikhông phải là ba giai đoạn khác nhau, mà chỉ là ba mặt, hay nói cho người Đức dễ hiểu, chỉ là ba "nhân tố", chúng tồn tại đồng thời với nhau ngay từ buổi đầu của lịch sử, từ khi con người đầu tiên xuất hiện, và chúng hiện vẫn còn biểu hiện ra trong lịch sử.

Như vậy là sự sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều cá nhân, không kể là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì. Do đó chúng ta thấy rằng một phương thức sản xuất nhất định hay một giai đoạn công nghiệp nhất định là luôn luôn gắn liền với một phương thức hợp tác nhất định hay một giai đoạn xã hội nhất định; rằng bản thân phương thức hợp tác ấy là một "sức sản xuất"; và cũng do đó mà thấy rằng tổng thể những lực lượng sản xuất mà con người đã đạt được, quyết định trạng thái xã hội; và vì vậy người ta luôn luôn phải nghiên cứu và viết "lịch sử loài người" gắn liền với lịch sử của công nghiệp và của trao đổi. Nhưng cũng rõ ràng là ở Đức, người ta không thể viết được một lịch sử như vậy, vì để làm việc đó thì người Đức không những thiếu năng lực hiểu biết và thiếu tài liệu mà còn thiếu cả "sự xác thực của cảm giác"; còn như ở bên kia sông Ranh người ta không thể rút được kinh nghiệm nào hết về những điều ấy, vì ở đó, lịch sử không còn diễn ra nữa. Như vậy là ngay từ đầu, đã có mối liên hệ vật chất giữa người với người, mối liên hệ này bị quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất và cũng lâu đời như bản thân loài người, - một mối liên hệ không ngừng mang những hình thức mới, và do đó, là "lịch sử", mà hoàn toàn không cần có bất cứ một điều nhảm nhí nào về chính trị hoặc về tôn giáo gắn bó thêm con người lại với nhau.

Chỉ đến bây giờ, sau khi đã xem xét bốn nhân tố, bốn mặt của những quan hệ lịch sử ban đầu, chúng ta mới thấy rằng con người cũng có cả "ý thức" nữa[3]. Song đó không phải là một ý thức bẩm sinh sinh ra đã là ý thức "thuần túy". Ngay từ đầu "tinh thần" đã phải chịu một điều bất hạnh là "bị vấy bẩn" bởi vật chất thể hiện ở đây dưới hình thức những lớp không khí chuyển động, những âm thanh, nói tóm lại là thể hiện dưới hình thức ngôn ngữ. Ngôn ngữ cũng tồn tại lâu như ý thức; ngôn ngữ là ý thức hiện thực, thực tiễn, tồn tại vì cả những người khác và chỉ do đó nó mới cũng tồn tại vì bản thân tôi nữa, và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ xuất hiện từ nhu cầu, từ sự tất yếu phải giao tiếp với những người khác[4]. Ở chỗ nào có một mối quan hệ thì mối quan hệ ấy tồn tại vì tôi; súc vật không "quan hệ" với cái gì cả và hoàn toàn không có "quan hệ" nào cả; đối với súc vật, quan hệ của nó với những súc vật khác không tồn tại với tính cách là quan hệ. Do đó ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại. Dĩ nhiên là lúc ban đầu, ý thức mới chỉ là ý thức về hoàn cảnh gần nhất có thể cảm giác được và là ý thức về mối liên hệ hạn chế với những người khác và vật khác ở bên ngoài cá nhân đang bắt đầu có ý thức về bản thân mình; đồng thời cũng là ý thức về tự nhiên, tức là cái lúc đầu đối lập với con người như một thế lực hoàn toàn xa lạ, vạn năng và không thể đụng tới được; tức là cái mà với nó, con người quan hệ một cách hoàn toàn động vật, cái mà trước nó con người phải khuất phục giống như con vật; do đó là ý thức hoàn toàn động vật về tự nhiên (sự thờ cúng giới tự nhiên).

Ở đây người ta thấy ngay rằng sự thờ cúng giới tự nhiên như vậy, hay là những quan hệ nhất định đó với giới tự nhiên, là do hình thức của xã hội quyết định và ngược lại. Ở đây, cũng như bất cứ nơi nào khác, sự đồng nhất giữa giới tự nhiên và con người cũng biểu hiện ở chỗ là quan hệ hạn chế của con người với giới tự nhiên quyết định quan hệ hạn chế của con người với nhau, và quan hệ hạn chế của con người với nhau lại quyết định quan hệ hạn chế của con người với giới tự nhiên, chính là vì tự nhiên vẫn còn hầu như chưa bị tiến trình lịch sử cải biến; nhưng mặt khác, ý thức về sự tất yếu phải quan hệ với những người xung quanh là bước đầu của ý thức về sự thật là nói chung con người sống trong xã hội. Bước đầu đó cũng mang tính động vật như chính đời sống xã hội ở giai đoạn ấy; đó là một ý thức quần cư đơn thuần, và trong trường hợp này, con người khác với con cừu chỉ là ở chỗ trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc bản năng của con người là bản năng đã được ý thức. Sau này, ý thức quần cư hay ý thức bộ lạc đó phát triển và được hoàn thiện nhờ sự tăng thêm năng suất, sự tăng thêm nhu cầu và nhờ sự tăng thêm dân số, cơ sở của sự tăng thêm năng suất và sự tăng thêm nhu cầu. Cùng với những cái đó, phân công lao động cũng phát triển, lúc đầu chỉ là phân công lao động trong hành vi theo giới tính và về sau là phân công lao động tự hình thành hoặc "hình thành một cách tự nhiên" do những thiên tính bẩm sinh (như thể lực chẳng hạn), do những nhu cầu, do những sự ngẫu nhiên, v.v. và v.v.. Phân công lao động chỉ trở thành sự phân công lao động thực sự từ khi xuất hiện sự phân chia thành lao động vật chất và lao động tinh thần [5]. Bắt đầu từ lúc đó, ý thức có thể thực sự tưởng tượng rằng nó là một cái gì khác chứ không phải là ý thức về thực tiễn hiện có, rằng nó có thể thực sự đại biểu cho cái gì đó mà không đại biểu cho một cái gì hiện thực cả; bắt đầu từ lúc đó, ý thức có khả năng tự giải thoát khỏi thế giới và chuyển sang xây dựng lý luận "thuần túy", thần học, triết học, đạo đức, v.v. Nhưng ngay cả khi lý luận đó, thần học đó, triết học đó, đạo đức đó, v.v., mâu thuẫn với những quan hệ hiện có thì điều đó cũng chỉ có thể xảy ra do chỗ những quan hệ xã hội hiện có đã mâu thuẫn với những lực lượng sản xuất hiện có. Vả lại, trong phạm vi các quan hệ của một dân tộc nhất định điều đó cũng có thể xảy ra, vì mâu thuẫn không biểu hiện ra ở trong phạm vi dân tộc đó, mà biểu hiện ra giữa ý thức dân tộc ấy với thực tiễn của những dân tộc khác[6], nghĩa là giữa ý thức dân tộc và ý thức phổ biến của dân tộc này hay của dân tộc khác (như điều đó hiện nay đang diễn ra ở Đức).

Nhưng, ý thức tự nó sẽ bắt đầu làm riêng rẽ một cái gì, điều đó hoàn toàn không quan trọng; tất cả sự thối nát đó chỉ mang lại cho chúng ta một kết luận, cụ thể là: ba nhân tố kể trên - lực lượng sản xuất, trạng thái xã hội và ý thức - có thể và phải phát sinh mâu thuẫn với nhau, vì sự phân công lao động mang lại khả năng, hơn thế nữa, mang lại cái hiện thực là hoạt động tinh thần và hoạt động vật chất, hưởng thụ và lao động, sản xuất và tiêu dùng, được phân công cho những cá nhân khác nhau: muốn cho những nhân tố đó không mâu thuẫn với nhau thì chỉ có cách là xoá bỏ sự phân công lao động đi. Ngoài ra, dĩ nhiên là "ma quỷ", "mối liên hệ", "đấng tối cao", "khái niệm", "hoài nghi" chỉ là biểu hiện tinh thần, duy tâm chủ nghĩa của cá nhân bị cô lập giả tạo, chỉ là biểu tượng của cá nhân đó, biểu tượng về những xiềng xích và giới hạn rất kinh nghiệm chủ nghĩa mà trong đó phương thức sản xuất ra đời sống và hình thức giao tiếp gắn liền với nó vận động.

Sự phân công lao động ấy, - nó chứa đựng tất cả những mâu thuẫn nói trên và đến lượt nó, lại dựa vào sự phân công lao động nảy sinh một cách tự nhiên trong gia đình và vào sự phân chia xã hội thành những gia đình riêng rẽ đối lập nhau, - đồng thời cũng bao hàm sự phân phối lao động và sản phẩm của lao động; một sự phân phối thật ra là không đồng đều cả về mặt số lượng lẫn chất lượng; vì vậy nó cũng bao hàm sở hữu, mà mầm mống và hình thái đầu tiên nằm trong gia đình, trong đó vợ và con cái là nô lệ của người đàn ông. Chiếm hữu nô lệ trong gia đình - đành rằng còn rất thô sơ và được che đậy - là hình thức sở hữu đầu tiên, một hình thức cũng đã hoàn toàn phù hợp với định nghĩa của các nhà kinh tế học hiện đại nói rằng sở hữu là quyền tự do chi phối sức lao động của người khác. Vả lại, sự phân công lao động và sở hữu tư nhân là những từ ngữ cùng nghĩa: bằng từ thứ nhất, người ta đứng về mặt hoạt động mà nêu lên điều mà bằng từ thứ hai, người ta đứng về mặt sản phẩm của hoạt động ấy mà nêu lên.

Thêm nữa, sự phân công lao động cũng đồng thời bao hàm mâu thuẫn giữa lợi ích của cá nhân riêng biệt hay của gia đình riêng biệt với lợi ích tập thể của tất cả các cá nhân liên hệ với nhau; hơn nữa, lợi ích tập thể này không phải chỉ tồn tại trong tưởng tượng, với tư cách là "lợi ích chung", mà trước hết, tồn tại trong hiện thực, với tư cách là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân có phân công lao động với nhau. Và cuối cùng, sự phân công lao động còn cung cấp cho chúng ta ví dụ đầu tiên về tình hình sau đây: chừng nào con người còn ở trong xã hội hình thành một cách tự nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi ích riêng và lợi ích chung, do đó chừng nào sự phân chia hoạt động còn được tiến hành không phải một cách tự nguyện mà một cách tự nhiên thì chừng đó hành động của bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người, và nô dịch con người, chứ không phải bị con người thống trị. Thật vậy, một khi bắt đầu có phân công lao động thì mỗi người đều có một phạm vi hoạt động nhất định và độc chuyên mà người đó buộc phải nhận lấy và không thể thoát khỏi được: người đó là người đi săn, người đánh cá, hoặc người chăn nuôi, hoặc là nhà phê phán có tính phê phán, và người đó vẫn cứ phải là như thế nếu không muốn mất những tư liệu sinh hoạt của mình; còn trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong một phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử tôi có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm việc phê phán, tùy theo sở thích của tôi mà chẳng bao giờ trở thành người đi săn, người đánh cá, người chăn nuôi hoặc nhà phê phán cả. Sự cố định ấy của hoạt động xã hội, sự củng cố sản phẩm của chính chúng ta thành một lực lượng vật chất thống trị chúng ta, thoát khỏi sự kiểm soát của chúng ta, đi ngược lại những mong mỏi của chúng ta và làm tan vỡ những tính toán của chúng ta, là một trong những nhân tố chủ yếu trong sự phát triển lịch sử cho đến ngày nay.

Chính do mâu thuẫn đó giữa lợi ích riêng và lợi ích chung mà lợi ích chung với danh nghĩa là nhà nước, mang một hình thức độc lập, tách rời khỏi những lợi ích thực tế của cá nhân và của tập thể, đồng thời cũng mang hình thức của một cộng đồng hư ảo. Song điều đó luôn luôn diễn ra trên cơ sở hiện thực của những mối liên hệ tồn tại trong mỗi tập đoàn gia đình hay tập đoàn bộ lạc - như những mối liên hệ về dòng máu, ngôn ngữ, phân công lao động trên quy mô lớn hơn và những lợi ích khác, - và đặc biệt, như chúng tôi sẽ trình bày sau này, trên cơ sở những lợi ích của các giai cấp; những giai cấp này, - tách ra là do kết quả của phân công lao động - đang tự tách ra trong mỗi tập đoàn người như vậy và trong các giai cấp đó, một giai cấp thống trị tất cả các giai cấp khác. Do đó chúng ta thấy rằng mọi cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà nước, đấu tranh giữa phái dân chủ, phái quý tộc và phái quân chủ, đấu tranh cho quyền bầu cử, v.v.. và v.v., chẳng qua chỉ là những hình thức hư ảo của những cuộc đấu tranh thực sự giữa các giai cấp khác nhau (các nhà lý luận Đức không có một mảy may khái niệm nào về điều đó, mặc dầu nó đã được chỉ ra cho họ một cách khá rõ trong "Deutsch - Französische Jahrbücher" và trong "Gia đình thần thánh") [7]. Cũng do đó mà giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị - ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường hợp của giai cấp vô sản, - thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu. Chính là vì các cá nhân chỉ theo đuổi lợi ích riêng của mình, - lợi ích mà họ coi là không nhất trí với lợi ích chung của họ, vì nói tóm lại cái phổ biến chỉ là một hình thức hư ảo của cái cộng đồng, - cho nên họ coi lợi ích chung đó là một cái gì "xa lạ", "không phụ thuộc" vào họ, nói một cách khác, nó lại là một thứ lợi ích "phổ biến" riêng biệt và đặc biệt, hoặc là bản thân các cá nhân buộc phải vận động trong giới hạn của tình trạng chia cắt ấy, như trong chế độ dân chủ. Mặt khác, cuộc đấu tranh thực tiễn của những lợi ích riêng biệt ấy - những lợi ích luôn luôn thực sựchống lại những lợi ích chung và những lợi ích chung hư ảo, - khiến cho cần thiết phải có can thiệp thực tiễn và sự kiềm chế những lợi ích riêng biệt bởi lợi ích "phổ biến" hư ảo, dướihình thức nhà nước đối với các cá nhân ấy, lực lượng xã hội, - tức là lực lượng sản xuất được nhân lên gấp bội và ra đời nhờ sự hợp tác của những cá nhân khác nhau do phân công lao động quy định, - biểu hiện không phải như một lực lượng kết hợp của bản thân họ, vì bản thân sự hợp tác đó xuất hiện không phải là một cách tự nguyện mà là một cách tự nhiên; mà biểu hiện như là một lực lượng xa lạ, ở bên ngoài họ, lực lượng mà họ cũng chẳng biết từ đâu đến và sẽ đi đâu, lực lượng mà do đó họ đã không thể chế ngự được, và trái lại, lực lượng ấy hiện đang trải qua một chuỗi những giai đoạn và trình độ phát triển chẳng những độc lập đối với ý chí và hành động của loài người mà trái lại còn điều khiển ý chí ấy và hành động ấy.

"Sự tha hoá" ấy - dùng từ đó để cho các nhà triết học dễ hiểu sự trình bày của chúng tôi, - dĩ nhiên là chỉ có thể bị xoá bỏ khi có hai tiền đề thực tiễn. Để trở thành một lực lượng "không thể chịu đựng được", nghĩa là một lực lượng mà người ta phải làm cách mạng để chống lại thì điều cần thiết là sự thahoá đó phải biến đa số trong nhân loại thành những người hoàn toàn "không có sở hữu", đồng thời mâu thuẫn với cái thế giới đầy dẫy của cải và học thức đang tồn tại thực sự, - cả hai điều kiện này đều giả định trước là phải có sự tăng lên to lớn của sức sản xuất. Mặt khác, sự phát triển ấy của những lực lượng sản xuất (cùng với sự phát triển này, sự tồn tại có tính chất lịch sử thế giới, chứ không phải có tính chất địa phương nhỏ hẹp, của con người đã thực hiện một cách kinh nghiệm chủ nghĩa) là tiền đề thực tiễn tuyệt đối cần thiết, vì không có nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn sẽ trở thành phổ biến; mà với sự thiếu thốn tột độ thì ắt sẽ bắt đầu trở lại một cuộc đấu tranh để dành những cái cần thiết, thế là người ta lại không tránh khỏi rơi vào cũng sự ti tiện trước đây. Hơn nữa, sự phát triển ấy là tiền đề tất yếu vì sự giao tiếp phổ biến của loài người chỉ có thể được xác lập bởi sự phát triển phổ biến ấy của lực lượng sản xuất, do đó một mặt sự tồn tại hiện tượng quần chúng "không có sở hữu" bộc lộ đồng thời trong mọi dân tộc (cạnh tranh phổ biến), - mỗi dân tộc phải phụ thuộc vào những cuộc đảo lộn xảy ra trong các dân tộc khác, - và sau cùng, những cá nhân có tính địa phương được thay bằng những cá nhân có tính lịch sử - thế giới, có tính phổ biến một cách kinh nghiệm. Không như vậy thì 1) chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể tồn tại như một hiện tượng có tính chất địa phương, 2) bản thân những lực lượng giao tiếp không thể phát triển như những lực lượng phổ biến và do đó là những lực lượng không ai chịu đựng được; chúng sẽ vẫn chỉ là những "trường hợp" có tính chất địa phương và được bao phủ bởi sự mê tín mà thôi, và 3) mọi việc mở rộng sự giao tiếp sẽ xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản địa phương. Chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể có được một cách kinh nghiệm như là hành động "tức khắc" và đồng thời của những dân tộc chiếm địa vị thống trị, điều này lại giả định là phải có sự phát triển phổ biến của lực lượng sản xuất và của sự giao tiếp có tính chất thế giới[8]gắn liền với chủ nghĩa cộng sản. Nếu không thế thì làm thế nào mà sở hữu, chẳng hạn, nói chung lại có được một lịch sử, lại mang những hình thức khác nhau? Làm thế nào mà sở hữu ruộng đất chẳng hạn lại có thể tùy theo những điều kiện khác nhau hiện có, mà ở Pháp thì chuyển từ chỗ phân tán đến chỗ tập trung vào trong tay một số ít người, và ở Anh thì chuyển từ chỗ tập trung trong tay một số người đến chỗ phân tán, như tình hình đang thực sự diễn ra hiện nay? Hoặc giả làm thế nào mà thương nghiệp chẳng qua chỉ là sự trao đổi sản phẩm giữa những cá nhân và những nước khác nhau, lại thống trị được toàn thế giới nhờ quan hệ cung cầu - cái quan hệ, theo lời một nhà kinh tế học Anh, đang bay lượn trên trái đất giống như thần số mệnh cổ đại, và phân phát bằng một bàn tay vô hình, hạnh phúc và đau khổ cho loài người, dựng lên và xoá bỏ những vương quốc, làm nảy sinh và tiêu diệt những dân tộc, - trong khi đó, cùng với việc xoá bỏ cơ sở, tức là sở hữu tư nhân, và việc thiết lập sự điều tiết cộng sản chủ nghĩa đối với sản xuất khiến cho con người đứng trước sản phẩm của bản thân mình không còn cảm thấy như đứng trước một vật xa lạ, thì thế lực của quan hệ cung cầu cũng biến mất, và con người lại chế ngự được trao đổi, sản xuất, phương thức quan hệ lẫn nhau của chính họ?

Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay. Những điều kiện của phong trào ấy là do những tiền đề hiện đang tồn tại đẻ ra. Ngoài ra, có một khối những người sống chỉ bằng lao động của mình, - tức là một khối sức lao động bị cắt rời khỏi tư bản hay khỏi mọi khả năng thoả mãn, dù là thoả mãn một cách hạn chế, nhu cầu của mình và do đó có đặc trưng là không phải chỉ tạm thời mất công ăn việc làm, là cái bảo đảm nguồn sinh sống và nói chung tình cảnh của họ hết sức bấp bênh; tất cả những điều đó - do cạnh tranh - giả định phải có thị trường thế giới. Như vậy là giai cấp vô sản chỉ có thể tồn tại trên quy mô của lịch sử thế giới, cũng như chủ nghĩa cộng sản, tức là hoạt động của giai cấp vô sản, hoàn toàn chỉ có thể tồn tại được với tư cách là một tồn tại "có tính lịch sử thế giới". Sự tồn tại có tính lịch sử thế giới của các cá nhân có nghĩa là sự tồn tại của những cá nhân trực tiếp gắn liền với lịch sử toàn thế giới.

Hình thức giao tiếp - cái mà trong tất cả các giai đoạn lịch sử từ trước đến nay đều được quyết định bởi lực lượng sản xuất và đến lượt nó lại quyết định lực lượng sản xuất, - là xã hội công nhân mà tiền đề và cơ sở, như trước đây đã chỉ ra, là gia đình đơn giản và gia đình phức hợp, cái mà người ta gọi là bộ lạc; định nghĩa chi tiết hơn về xã hội công dân thì chúng tôi đã trình bày ở trên kia. Như vậy, rõ ràng là xã hội công dân đó là trung tâm thực sự, vũ đài thực sự của toàn bộ lịch sử, và quan niệm cũ về lịch sử, cái quan niệm coi thường những quan hệ hiện thực và bó hẹp trong việc xem xét những sự biến lớn và vang dội, là một quan niệm vô lý biết bao[9].

Xã hội công dân bao trùm toàn bộ sự giao tiếp vật chất của các cá nhân trong một giai đoạn phát triển nhất định của lực lượng sản xuất. Nó bao trùm toàn bộ đời sống thương nghiệp và công nghiệp trong giai đoạn đó và do đó, vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và dân tộc, mặc dù, mặt khác, về đối ngoại nó vẫn phải hiện ra như là một dân tộc và về đối nội nó vẫn phải tự tổ chức thành một nhà nước. Thuật ngữ "xã hội công dân" xuất hiện trong thế kỷ XVIII khi những quan hệ sở hữu thoát khỏi thể cộng đồng [Gemeinwesen] cổ đại và trung cổ. Xã hội tư sản [burgerliche Gesellschaft] với tính cách là xã hội tư sản chỉ phát triển cùng với giai cấp tư sản; tuy nhiên, tổ chức xã hội trực tiếp sinh ra từ sản xuất và giao tiếp và trong mọi thời đại đều cấu thành cơ sở của nhà nước và của kiến trúc thượng tầng tư tưởng, vẫn luôn luôn được gọi bằng danh từ đó[10].

[2.] Về sự sản xuất ra ý thức

Trong lịch sử đã qua, điều sau đây là một sự thật hoàn toàn có tính chất kinh nghiệm: hoạt động của các cá nhân riêng rẽ ngày càng mở rộng thành hoạt động có tính lịch sử thế giới thì các cá nhân riêng rẽ ấy lại càng lệ thuộc vào một lực lượng xa lạ với họ (họ coi sự áp bức ấy là sự chơi khăm của cái gọi là "Tinh thần thế giới, v.v.), một lực lượng ngày càng trở nên đồ sộ và cuối cùng biểu hiện thành thị trường thế giới. Nhưng một điều khác cũng được xác định một cách kinh nghiệm như thế, đó là: lực lượng đó, mà các nhà lý luận Đức coi là rất thần bí, sẽ bị xoá bỏ bởi việc lật đổ trạng thái xã hội hiện hành bằng cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa (sau này chúng ta sẽ bàn tới cuộc cách mạng này) và bởi sự thủ tiêu chế độ tư hữu, một sự thủ tiêu đồng nhất với cuộc cách mạng ấy; và lúc đó, sự giải phóng mỗi cá nhân riêng rẽ cũng sẽ được thực hiện theo chừng mực lịch sử sẽ hoàn toàn biến thành lịch sử thế giới. Theo điều nói trên thì rõ ràng là sự phong phú thực sự về tinh thần của cá nhân là hoàn toàn phụ thuộc vào sự phong phú của những liên hệ hiện thực của họ. Chỉ có như vậy thì các cá nhân riêng rẽ mới được giải thoát ra khỏi những khuôn khổ dân tộc và địa phương khác nhau của mình, mới có được những liên hệ thực tiễn với nền sản xuất (kể cả nền sản xuất tinh thần) của toàn thế giới và mới có được khả năng hưởng thụ nền sản xuất của toàn thế giới về mọi lĩnh vực (tất cả những sáng tạo của con người). Sự phụ thuộc toàn diện, hình thức hình thành một cách tự nhiên ấy của sự hợp tác có tính lịch sử - thế giới của các cá nhân, sẽ được cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa biến thành sự kiểm soát và sự thống trị có ý thức đối với những lực lượng nảy sinh ra từ tác động lẫn nhau giữa những con người và cho đến nay vẫn chi phối và thống trị con người với tư cách là những lực lượng hoàn toàn xa lạ với con người. Quan niệm này có thể lại bị giải thích một cách tư biện - duy tâm chủ nghĩa, nghĩa là kỳ quặc, thành "sự tự sinh sôi của loài" ("xã hội với tư cách là chủ thể"), và do đó ngay cả cái chuỗi nối tiếp những cá nhân liên hệ với nhau có thể được hình dung là một cá nhân duy nhất thực hiện cái phép thần bí là tự sinh sôi ra mình. Ở đây, rõ ràng là các cá nhân tạo ra nhau, cả về mặt thể chất lẫn về mặt tinh thần, song họ tự tạo ra bản thân họ, không phải theo tinh thần những điều nhảm nhí của thánh Bru-nô, cũng không phải với ý nghĩa là "Kẻ duy nhất", là con người "được tạo ra".

Như vậy, quan niệm đó về lịch sử là: phải xuất phát từ chính ngay sự sản xuất vật chất ra đời sống trực tiếp để xem xét quá trình hiện thực của sản xuất và hiểu hình thức giao tiếp gắn liền với phương thức sản xuất ấy và do phương thức sản xuất ấy sản sinh ra - tức là xã hội công dân ở những giai đoạn khác nhau của nó - là cơ sở của toàn bộ lịch sử; rồi sau đó phải miêu tả hoạt động của xã hội công dân trong lĩnh vực sinh hoạt nhà nước, cũng như xuất phát từ xã hội công dân mà giải thích toàn bộ những sản phẩm lý luận khác nhau và mọi hình thái ý thức, tôn giáo, triết học, đạo đức, v.v., và theo dõi quá trình phát sinh của chúng trên cơ sở đó; nhờ vậy mà tất nhiên là có thể miêu tả được toàn bộ quá trình (và do đó cũng có thể miêu tả được cả sự tác động qua lại giữa những mặt khác nhau của quá trình đó). Khác với quan niệm duy tâm về lịch sử, quan niệm đó về lịch sử không đi tìm một phạm trù nào đó trong mỗi thời đại, mà nó luôn luôn đứng trên miếng đất hiện thực của lịch sử; nó không căn cứ vào tư tưởng để giải thích thực tiễn, nó giải thích sự hình thành của tư tưởng căn cứ vào thực tiễn vật chất, và do đó, nó đi tới kết luận rằng không thể đập tan được mọi hình thái và sản phẩm của ý thức bằng sự phê phán tinh thần, bằng việc quy chúng thành "Tự ý thức", hay biến chúng thành những "u hồn", "bóng ma", "tính kỳ quặc", v.v., mà chỉ bằng việc lật đổ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực đã sản sinh ra tất cả những điều nhảm nhí duy tâm đó; rằng không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực của lịch sử, của tôn giáo, của triết học và của mọi lý luận khác. Quan niệm đó chỉ ra rằng lịch sử không kết thúc bằng việc tự quy thành "Tự ý thức", coi đó là "Tinh thần của tinh thần", rằng mỗi giai đoạn của lịch sử đều gặp một kết quả vật chất nhất định, một tổng số nhất định những lực lượng sản xuất, một quan hệ - được tạo ra trong quá trình lịch sử - của những cá nhân với tự nhiên và với những người khác, quan hệ mà mỗi thế hệ nhận được của những tiền bối của mình, một khối lớn những lực lượng sản xuất, những tư bản và những điều kiện, tức là những thứ một mặt bị thế hệ mới làm biến đổi đi, song mặt khác lại quy định cho thế hệ mới những điều kiện sinh hoạt của chính thế hệ mới và làm cho thế hệ mới có một sự phát triển nhất định, một tính chất riêng biệt. Như vậy, quan niệm đó chỉ ra rằng con người tạo ra hoàn cảnh đến mức nào thì hoàn cảnh cũng tạo ra con người đến mức ấy. Tổng số những lực lượng sản xuất, những tư bản và những hình thức xã hội của sự giao tiếp mà mỗi cá nhân và mỗi thế hệ thấy hiện có, là cơ sở hiện thực của cái mà các nhà triết học hình dung là "thực thể", là "bản chất con người", của cái mà họ đã tôn sùng hoặc đả kích, một cơ sở hiện thực mà tác động và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của con người không hề bị ngăn trở bởi việc các nhà triết học ấy với tư cách là "Tự ý thức" và "Kẻ duy nhất" nổi dậy chống lại nó. Chính những điều kiện sinh hoạt mà những thế hệ khác nhau thấy có sẵn, cũng quyết định là những chấn động cách mạng đang tái diễn theo chu kỳ trong quá trình lịch sử, có đủ mạnh hay không để lật đổ cơ sở của toàn bộ chế độ hiện có; và nếu không có những yếu tố vật chất ấy của một cuộc cách mạng toàn diện - những yếu tố bao gồm một mặt là những lực lượng sản xuất hiện có và mặt khác là sự hình thành một khối đông đảo quần chúng cách mạng đang nổi dậy không những chống lại những điều kiện riêng biệt của xã hội cũ mà còn chống lại bản thân "sự sản xuất ra đời sống" trước đây, chống lại "toàn bộ hoạt động" làm cơ sở cho xã hội cũ đó, - thì lịch sử của chủ nghĩa cộng sản đã chứng tỏ, ý niệm về cuộc cách mạng này dù có được phát biểu hàng trăm lần đi nữa, cũng hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với sự phát triển thực tế cả.

Mọi quan niệm trước đây về lịch sử hoặc hoàn toàn không biết đến cơ sở hiện thực đó của lịch sử, hoặc chỉ coi đó là một cái thứ yếu, không có liên hệ gì với tiến trình của lịch sử. Do đó, lịch sử luôn luôn được viết theo một tiêu chuẩn nằm ở bên ngoài lịch sử; sự sản xuất hiện thực ra đời sống được hình dung là có trước lịch sử; còn lịch sử lại được hình dung là một cái gì tách rời đời sống thường ngày, tựa hồ như đứng ngoài thế giới và trên thế giới. Do đó, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên bị gạt ra khỏi lịch sử, kết quả là tạo ra sự đối lập giữa tự nhiên và lịch sử. Cho nên quan niệm đó chỉ có thể thấy lịch sử là những hành động chính trị của vương công và của nhà nước, những cuộc đấu tranh tôn giáo và đấu tranh lý luận nói chung, và đặc biệt là trong mỗi thời đại lịch sử, nó buộc phải tán thành ảo tưởng của thời đại đó. Giả thử một thời đại nào đó cho rằng nó do những động cơ thuần túy "chính trị" hay "tôn giáo" quyết định, thì mặc dầu "tôn giáo" và "chính trị" chỉ là những hình thức của những động cơ thực sự của nó, nhà sử học viết về thời đại đó vẫn tiếp nhận ý kiến ấy. "Sự tưởng tượng", "quan niệm" của những con người nhất định ấy về thực tiễn hiện thực của mình biến thành một lực lượng tích cực và quyết định duy nhất, nó chi phối và quyết định thực tiễn của những người đó. Nếu như hình thức thô sơ của sự phân công lao động ở người Ấn Độ và người Ai Cập sinh ra chế độ đẳng cấp trong nhà nước và trong tôn giáo của họ thì nhà sử học liên tưởng rằng chế độ đẳng cấp là lực lượng đã sinh ra hình thức xã hội thô sơ ấy. Trong khi người Pháp và người Anh ít ra cũng bám lấy ảo tưởng chính trị, là cái còn gần hiện thực nhất thì người Đức lại loay hoay trong lĩnh vực của "tinh thần thuần túy" và biến ảo tưởng tôn giáo thành động lực của lịch sử. Triết học của Hê-ghen về lịch sử và thành quả cuối cùng, đạt tới mức "biểu hiện thuần túy nhất", của toàn bộ cái khoa viết sử ấy của người Đức, tức là cái khoa viết sử không nói đến những lợi ích hiện thực, không hề đả động đến những lợi ích chính trị, mà chỉ nói đến những tư tưởng thuần túy; những tư tưởng thuần túy ấy về sau cũng được cả thánh Bru-nô coi là một chuỗi những "tư tưởng" xâu xé lẫn nhau để cuối cùng tiêu tan đi trong "Tự ý thức"[11]. Còn thánh Ma-xơ Stiếc-nơ, người không hiểu biết gì về toàn bộ lịch sử hiện thực thì coi quá trình lịch sử chỉ là lịch sử của "các hiệp sĩ", của bọn ăn cướp và của những ma quỷ mà dĩ nhiên là ông ta chỉ có thể thoát khỏi ảo ảnh của chúng nhờ "không tin vào thần thánh". Quan niệm ấy thì thật sự có tính chất tôn giáo: nó giả định rằng con người tôn giáo là con người đầu tiên, từ đó xuất phát toàn bộ lịch sử, và trong trí tưởng tượng của nó, nó thay thế sự sản xuất hiện thực ra những tư liệu sinh hoạt và ra bản thân đời sống, bằng sự sản xuất có tính chất tôn giáo ra những ảo tưởng. Toàn bộ quan niệm ấy về lịch sử, cùng với sự tan rã của nó và những hoài nghi, những dao động do sự tan rã ấy sản sinh ra, chỉ là một công việc thuần túy dân tộc của người Đức và chỉ có ý nghĩa địa phương đốivới nước Đức, chẳng hạn như cái vấn đề quan trọng vừa mới được thảo luận nhiều lần là làm thế nào để đi "từ vương quốc của thần thánh tới vương quốc của con người", làm như thể là "vương quốc của thần thánh" đó đã tồn tại lúc nào đó, ở đâu đó, chứ không phải chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của con người, và làm như thể là những nhà học giả đó không luôn luôn sống - mà chính họ cũng không biết điều này, - trong "vương quốc của con người", vương quốc mà hiện nay họ còn đang tìm đường đi tới, và làm như thể là cái trò giải trí khoa học - vì đây không phải là cái gì khác hơn là một trò giải trí, - nhằm giải thích tính kỳ quái của việc hình thành những vương quốc lý luận trên mây đó, ngược lại, lại không phải là nhằm chứng minh rằng những vương quốc đó đã nảy sinh ra từ những quan hệ hiện thực trên trần gian. Nói chung thì những người Đức ấy luôn luôn tìm cách quy cái điều vô nghĩa mà họ gặp, thành một điều tầm bậy khác nào đó, tức là cho rằng tất cả cái vô nghĩa ấy có một ý nghĩa đặc biệt mà ta cần phải phát hiện ra, trong khi đó thì thực ra vấn đề chỉ là ở chỗ giải thích những câu cú lý luận ấy bằng những quan hệ hiện thực hiện có mà thôi. Việc thủ tiêu một cách thực sự và thực tế những câu cú ấy, việc xoá bỏ những quan niệm ấy trong ý thức con người, như chúng ta đã nói, chỉ có thể thực hiện được bằng cách cải biến hoàn cảnh, chứ không phải bằng những suy diễn lý luận. Đối với đông đảo quần chúng, tức là đối với giai cấp vô sản, những quan niệm lý luận ấy không tồn tại và do đó không cần phải thủ tiêu chúng, và nếu như một lúc nào đó, quần chúng ấy đã có một vài quan niệm lý luận, thí dụ như tôn giáo chẳng hạn, thì những quan niệm này cũng đã bị hoàn cảnh thủ tiêu từ lâu rồi.

Tính chất thuần túy dân tộc của những vấn đề ấy và của việc giải quyết những vấn đề ấy còn bộc lộ ra ở chỗ các nhà lý luận nghĩ một cách hoàn toàn nghiêm chỉnh rằng những điều bịa đặt như "Người thần", "Con người", v.v., đã chi phối những thời đại riêng biệt của lịch sử, thánh Bru-nô thậm chí còn khẳng định rằng chỉ có "sự phê phán và những nhà phê phán mới làm nên lịch sử". Và khibản thân các nhà lý luận ấy bắt tay vào những công trình lịch sử thì họ nhảy hết sức nhanh qua toàn bộ quá khứ, chuyển ngay từ "văn hoá Mông Cổ" sang lịch sử thực sự "phong phú về nội dung", tức là sang lịch sử của "Hallische Jahrücher" và "Deutsche Jahrbücher"[12] và của sự thoái hoá của trường phái Hê-ghen thành cuộc cãi lộn chung. Tất cả những dân tộc khác, tất cả những sự kiện hiện thực khác đều bị lãng quên, theatrum mundi[13] bị giới hạn trong khuôn khổ hội chợ sách ở Lai-pxích và trong những cuộc tranh luận lẫn nhau giữa "Sự phêphán", "Con người" và "Kẻ duy nhất". Nếu như có lúc nào đó, các nhà lý luận phải nghiên cứu những đề tài lịch sử thật sự, chẳng hạn như lịch sử thế kỷ XVIII thì họ chỉ đưa ra lịch sử của các quan niệm, tách rời những sự kiện và những sự phát triển thực tiễn làm cơ sở cho những quan niệm ấy, và hơn nữa họ chỉ trình bày lịch sử ấy nhằm mục đích biểu hiện thời đại được nghiên cứu như là một giai đoạn chuẩn bị không hoàn bị, một giai đoạn dọn đường còn bị hạn chế của thời đại lịch sử thật sự, tức là của thời đại những cuộc đấu tranh của những nhà triết học Đức từ 1840 đến 1844. Để cho phù hợp với mục đích viết một lịch sử quá khứ nhằm làm sáng ngời sự vinh quang của một cá nhân phi lịch sử và những cuồng tưởng của người đó, họ không hề nhắc đến những sự kiện lịch sử hiện thực, thậm chí cả những sự can thiệp thật sự của chính trị vào lịch sử, mà thay bằng một câu chuyện không dựa trên cơ sở nghiên cứu, nhưng lại dựa vào những hư cấu và những câu chuyện văn học dông dài - như thánh Bru-nô đã làm trong cuốn lịch sử thế kỷ XVIII hiện đã bị lãng quên của ông ta. Những con buôn tư tưởng kiêu kỳ và khoác lác ấy tưởng rằng họ đứng rất cao vượt lên trên mọi thành kiến dân tộc, nhưng trong thực tế họ còn mang tính chất dân tộc hẹp hòi nặng hơn cả những tên phi-li-xtanh trong các quán bia đang mơ tưởng đến sự thống nhất nước Đức. Họ hoàn toàn không thừa nhận tính lịch sử của những hành động của các dân tộc khác; họ sống ở nước Đức, dựa vào nước Đức và vì nước Đức; họ biến bài ca vùng Ranh[14] thành bài thánh ca và chinh phục An-da-xơ và Lo-ren-nơ bằng cách cướp bóc triết học Pháp chứ không phải cướp bóc nhà nước Pháp, và bằng cách Đức hoá tư tưởng Pháp chứ không phải Đức hoá các tỉnh Pháp. Ông Vê-nê-đây là người theo chủ nghĩa thế giới, bên cạnh các thánh Bru-nô và Ma-xơ là những người đã giương cao ngọn cờ sự thống trị có tính chất thế giới của lý luận để tuyên bố sự thống trị thế giới của nước Đức.

Qua toàn bộ sự phân tích ấy ta cũng thấy rõ là Phoi-ơ-bắc đã lầm lẫn biết chừng nào, khi ông ta dựa vào cái định nghĩa "con người xã hội" ("Wigand's Vierteljahrsschrift", 1845, t.2)[15]để tuyên bố mình là người cộng sản và biến quy định ấy thành vị ngữ của "con người", tưởng rằng làm như vậy là có thể biến danh từ "người cộng sản", một danh từ dùng để chỉ, trong thế giới hiện nay, người tin theo một đảng cách mạng nhất định, trở lại thành một phạm trù đơn giản. Toàn bộ suy diễn của Phoi-ơ-bắc về vấn đề quan hệ giữa người với người chỉ nhằm chứng minh rằng người ta cần lẫn nhau và bao giờ cũng vẫn như vậy. Ông muốn xác lập ý thức về sự việc đó, vậy là như các nhà lý luận khác, ông chỉ muốn gây ra một ý thức đúng đắn về một sự việc hiện có, trong khi điều quan trọng đối với một người cộng sản thật sự là lật đổ cái hiện có ấy. Ngoài ra, chúng ta hoàn toàn thừa nhận rằng Phoi-ơ-bắc khi cố gắng tạo ra ý thức về chính sự việcấy, đã tiến xa đến cái mức mà nói chung một nhà lý luận có thể đạt tới mà vẫn còn là nhà lý luận và nhà triết học. Nhưng điều đáng chú ý là thánh Bru-nô và thánh Ma-xơ lập tức đem quan niệm của Phoi-ơ-bắc về người cộng sản thay cho người cộng sản thực sự và họ đã làm một phần như vậy để có thể đấu tranh chống chủ nghĩa cộng sản coi là "tinh thần của tinh thần", là một phạm trù triết học, là một đối thủ ngang hàng với mình, còn thánh Bru-nô thì làm thế lại còn vì những lợi ích thực dụng nữa.

Để dẫn chứng về việc thừa nhận và đồng thời về việc không hiểu cái hiện có, điều mà Phoi-ơ-bắc vẫn tiếp tục đồng tình với những đối thủ của chúng ta, chúng ta hãy nhắc đến một đoạn trong "Triết học tương lai"[16], trong đó ôngchứng minh rằng sự tồn tại của một vật hay của một người cũng đồng thời là bản chất của nó, rằng những điều kiện tồn tại, cách sống và hoạt động nhất định của một động vật hay con người nào đó là những cái làm cho "bản chất" của động vật đó hay của con người đó cảm thấy thoả mãn. Ở đây, mỗi ngoại lệ đều được xem một cách dứt khoát là trường hợp rủi ro, một sự bất bình thường, mà người ta không thể thay đổi được. Vậy, nếu như hàng triệu người vô sản không cảm thấy thoả mãn chút nào về những điều kiện sinh hoạt của họ, nếu "tồn tại" của họ không phù hợp một chút nào với...[17]... thật ra là đối với nhà duy vật thực tiễn tức là đối với người cộng sản thì tất cả vấn đề là ở chỗ cách mạng hoá thế giới hiện có, tấn công và thay đổi một cách thực tiễn trạng thái sự vật hiện có. Nếu đôi khi người ta thấy Phoi-ơ-bắc cũng có những quan điểm tương tự thì tuy vậy những quan điểm ấy không bao giờ vượt xa hơn những điều trực giác rời rạc và ảnh hưởng rất không đáng kể đến thế giới quan chung của ông, nên chỉ có thể thấy đó là những mầm mống có khả năng phát triển thôi. "Quan niệm" của Phoi-ơ-bắc về thế giới cảm giác được chỉ giới hạn một mặt ở sự ngắm nhìn thế giới đó và mặt khác, ở cảm giác đơn thuần. Phoi-ơ-bắc nói "Con người với tính cách là con người", chứ không nói "con người lịch sử, hiện thực". "Con người với tính cách là con người" thật ra là "người Đức". Trong trường hợp thứ nhất, tức là khingắm nhìn thế giới cảm giác được, ông nhất thiết không khỏi vấp phải những sự vật mâu thuẫn với ý thức và tình cảm của ông, phá hoại sự hài hoà của tất cả các bộ phận của thế giới cảm giác được mà ông đã giả định, và đặc biệt là sự hài hoà giữa con người với tự nhiên. Muốn loại trừ sự vướng mắc đó, ông buộc phải cầu cứu đến cách nhìn hai mặt, một cách nhìn đứng giữa cách nhìn phàm tụctức là chỉ nhìn thấy "cái gì mắt nhìn thấy được" và cách nhìn cao hơn, cách nhìn triết học, tức là nhìn thấy được "bản chất thực sự" của sự vật. Ông không thấy rằng thế giới cảm giác được bao quanh ông không phải là một sự vật đã tồn tại trực tiếp từ ngàn xưa và luôn luôn giống bản thân nó, mà lại là sản phẩm của công nghiệp và của trạng thái xã hội, và hơn nữa với cái nghĩa là đó là một sản phẩm lịch sử, một kết quả hoạt động của cả một loạt thế hệ sau đứng lên vai thế hệ trước, tiếp tục phát triển công nghiệp, và phương thức giao tiếp của mình và cải biến chế độ xã hội của mình tùy theo sự biến đổi của những nhu cầu của mình. Ngay bản thân những đối tượng của cái "sự xác thực cảm giác được" đơn giản nhất, Phoi-ơ-bắc cũng chỉ có được nhờ sự phát triển xã hội, nhờ công nghiệp và những sự trao đổi thương nghiệp. Người ta biết rằng cây anh đào, cũng như hầu hết những cây ăn quả khác, được du nhập trồng ở vĩ tuyến chúng ta cũng là nhờ thương nghiệp đem vào cách đây chỉ chừng vài thế kỷ, và như thế là chỉ nhờ vào hành động đó của một xã hội nhất định vào một thời kỳ nhất định mà Phoi-ơ-bắccó được "sự xác thực cảm giác được" về cây anh đào.

Vả lại, trong quan niệm đó, quan niệm xem xét những sự vật đúng y như chúng ta đang tồn tại trong thực tế và đang diễn ra trong thực tế thì bất cứ vấn đề triết học sâu sắc nào cũng chỉ đơn giản biến thành một sự kiện kinh nghiệm thôi; điều này, sau đây chúng ta sẽ thấy rõ hơn. Chẳng hạn, vấn đề quan trọng - vấn đề quan hệ của con người với tự nhiên (hoặc thậm chí nói như Bru-nô (tr.110)[18], "những mâu thuẫn trong tự nhiên và trong lịch sử", làm như thể đó là hai "sự vật" tách rời nhau, làm như thể con người không bao giờ đứng trước một tự nhiên có tính chất lịch sử và một lịch sử có tính chất tự nhiên), một vấn đề đã sản sinh ra tất cả những "tác phẩm vô cùng vĩ đại" nói về "thực thể" và "tự ý thức", - tự nó sẽ không còn là vấn đề nữa, nếu hiểu rằng "sự thống nhất của con người với tự nhiên", sự thống nhất nổi tiếng ấy, đã luôn luôn tồn tại trong công nghiệp và đã tồn tại dưới những hình thức khác nhau trong mỗi thời kỳ tùy theo sự phát triển nhiều hay ít của công nghiệp cũng y như "cuộc đấu tranh" của con người với tự nhiên dẫn tới chỗ những lực lượng sản xuất của con người được phát triển trên một cơ sở thích hợp. Về phía chúng, công nghiệp và thương nghiệp, sản xuất và trao đổi những tư liệu sinh hoạt cần thiết quyết định sự phân bố, cơ cấu của các giai cấp xã hội khác nhau, để rồi đến lượt chúng, lại bị quyết định, trong phương thức hoạt động của chúng, bởi sự phân bố và cơ cấu ấy. Vì vậy cho nên ở Man-se-xtơ chẳng hạn, là nơi mà mới cách đây một thế kỷ, chỉ có những cái xa quay sợi và những khung cửi dệt tay thì Phoi-ơ-bắc lại chỉ thấy rặt có công xưởng và máy móc mà thôi; hay là hiện nay ông chỉ thấy những đồng cỏ và bãi lầy ở nông thôn La Mã nơi mà, vào thời Ô-guy-xtơ, lại chỉ có rặt những vườn nho và biệt thự của những nhà tư bản La Mã. Phoi-ơ-bắc đặc biệt nói đến trực quan của khoa học tự nhiên, ông nhắc tới những điều bí mật mà chỉ có con mắt của nhà vật lý học và nhà hoá học mới nhìn thấy được; nhưng nếu không có công nghiệp và thương nghiệp thì khoa học tự nhiên sẽ ra sao? Thậm chí cái khoa học tự nhiên gọi là "thuần túy" ấy thì chỉ nhờ thương nghiệp và công nghiệp, nhờ hoạt động vật chất của con người mới đạt được mục đích của nó và mới có được tư liệu. Hoạt động đó, lao động đó và sự sáng tạo vật chất không ngừng đó, sự sản xuất đó là cơ sở của toàn bộ thế giới cảm giác được, đúng y như thế giới hiện đang tồn tại, đến mức là nếu như nó bị ngưng lại dù chỉ một năm thì Phoi-ơ-bắc không những sẽ thấy những biến đổi lớn lao trong thế giới tự nhiên, mà toàn bộ thế giới loài người và năng lực quan sát của bản thân ông, thậm chí cả sự tồn tại của bản thân ông cũng chẳng mấy chốc cũng sẽ không còn nữa. Dĩ nhiên là trong tình huống đó vị trí thứ nhất của giới tự nhiên bên ngoài vẫn cứ tồn tại và dĩ nhiên là tất cả những điều đó không thể áp dụng cho những con người nguyên thủy sinh ra bằng con đường generatio aequivoca[19]; song sự phân biệt như vậy chỉ có ý nghĩa chừng nào con người được coi là một cái gì khác biệt với tự nhiên. Hơn nữa cái giới tự nhiên có trước lịch sử loài người ấy lại không phải là giới tự nhiên trong đó Phoi-ơ-bắc đang sống; ngày nay giới tự nhiên ấy không còn tồn tại ở đâu cả, có lẽ chỉ trừ ở mấy hòn đảo san hô mới hình thành ở Ô-xtơ-rây-li-a, như vậy nó cũng không tồn tại cả đối với Phoi-ơ-bắc.

Đành rằng so với các nhà duy vật "thuần túy" thì Phoi-ơ-bắc có ưu điểm lớn là ông thấy rằng con người cũng là một "đối tượng của cảm giác"; nhưng hãy cứ gạt bỏ việc ông coi con người chỉ là "đối tượng của cảm giác" chứ không phải là "hoạt động cảm giác được", vì cả ở đây nữa ông vẫn còn bám vào lý luận và không xem xét con người trong mối quan hệ xã hội nhất định của họ, trong những điều kiện sinh hoạt hiện có của họ, những điều kiện làm cho họ trở thành những con người đúng như họ đang tồn tại trong thực tế thì Phoi-ơ-bắc cũng không bao giờ đi tới được những con người hành động đang tồn tại thực sự, mà ông vẫn cứ dừng lại ở một sự trừu tượng: "Con người" và chỉ đóng khung ở chỗ thừa nhận con người "hiện thực, cá thể, bằng xương, bằng thịt" trong tình cảm thôi, nghĩa là ông không biết đến những "quan hệ con người", "giữa người với người" nào khác, ngoài tình yêu và tình bạn, hơn nữa lại là tình yêu và tình bạn được lý tưởng hoá. Ông không phê phán những điều kiện sinh hoạt hiện tại. Như vậy là Phoi-ơ-bắc không bao giờ hiểu được rằng thế giới cảm giác được là tổng số những hoạt động sống và cảm giác được của những cá nhân hợp thành thế giới ấy, vì vậy khi ông nhìn thấy chẳng hạn một đám người đói, còi cọc, kiệt quệ vì lao động và ho lao, chứ không phải những người khoẻ mạnh thì ông buộc phải lẩn trốn vào trong "quan niệm cao hơn" và trong "sự bù trừ trong loài", một sự "bù trừ" lý tưởng, nghĩa là ông lại rơi vào chủ nghĩa duy tâm đúng ở chỗ mà người duy vật cộng sản chủ nghĩa nhìn thấy cả sự tất yếu lẫn điều kiện của một sự cải tạo cả nền công nghiệp lẫn cơ cấu xã hội.

Khi Phoi-ơ-bắc là nhà duy vật thì ông không bao giờ đề cập đến lịch sử; còn khi ông xem xét đến lịch sử thì ông không phải là nhà duy vật. Ở Phoi-ơ-bắc, lịch sử và chủ nghĩa duy vật hoàn toàn tách rời nhau, điều này đã được nói rõ ở trên[20].

Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của những thế hệ riêng rẽ trong đó mỗi thế hệ đều khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả những thế hệ trước để lại; do đó, mỗi thế hệ một mặt tiếp tục cái hoạt động được truyền lại, trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác, lại biến đổi những hoàn cảnh cũ bằng một hoạt động hoàn toàn thay đổi; những sự kiện đó, người ta đã xuyên tạc chúng bằng tư biện khiến cho dường như lịch sử sau là mục đích của lịch sử trước; dường như chẳng hạn mục đích cơ bản của sự phát hiện ra châu Mỹ là giúp cho Cách mạng Pháp bùng nổ. Qua đó, lịch sử có những mục đích riêng của nó và biến thành một "nhân vật bên cạnh những nhân vật khác" (ví dụ như: "Tự ý thức", "Phê phán", "Kẻ duy nhất", v.v.); còn cái mà người ta chỉ bằng những danh từ "sứ mệnh", "mục đích", "mầm mống", "tư tưởng" của lịch sử trước, chẳng qua chỉ là sự trừu tượng rút ra từ lịch sử sau, sự trừu tượng rút ra từ ảnh hưởng tích cực của lịch sử trước đối với lịch sử tiếp theo.

Những lĩnh vực riêng biệt tác động lẫn nhau càng mở rộng ra trong quá trình phát triển đó, sự biệt lập ban đầu giữa các dân tộc riêng biệt càng bị phá huỷ bởi phương thức sản xuất đã được cải tiến, bởi sự giao tiếp và bởi sự phân công lao động do đó mà hình thành ra một cách tự nhiên giữa các dân tộc khác nhau thì lịch sử càng biến thành lịch sử thế giới; thành thử nếu, chẳng hạn, người ta sáng chế ra ở Anh một chiếc máy cướp mất cơm ăn của vô số người lao động ở Ấn Độ và Trung Quốc và đảo lộn toàn bộ hình thức tồn tại của những quốc gia này thì sáng chế đó sẽ trở thành một sự kiện của lịch sử thế giới; cũng như vậy, đường và cà-phê hồi giữa thế kỷ XIX đã trở thành quan trọng đối với lịch sử thế giới, vì sự khan hiếm những sản phẩm ấy, do việc Na-pô-lê-ông phong toả lục địa gây ra, đã thúc đẩy người Đức nổi dậy chống lại Na-pô-lê-ông, và như vậy là đã trở thành cơ quan thực sự của những cuộc chiến tranh giải phóng vẻ vang năm 1813. Từ đó ta thấy rằng sự biến đổi lịch sử thành lịch sử toàn thế giới không phải là hành vi trừu tượng nào đó của "tự ý thức", của tinh thần thế giới hay của một con ma siêu hình nào đó, mà là một hành động hoàn toàn vật chất, có thể kiểm nghiệm bằng kinh nghiệm, một hành động mà mỗi cá nhân - đúng như cá nhân đó đang tồn tại trong đời sống thực tế, đang ăn, uống và mặc quần áo, - đều là một bằng chứng.

Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội. Giai cấp nào chi phối những tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chi phối luôn cả những tư liệu sản xuất tinh thần, thành thử nói chung tư tưởng của những người không có tư liệu sản xuất tinh thần cũng đồng thời bị giai cấp thống trị đó chi phối. Những tư tưởng thống trị không phải là cái gì khác mà chỉ là sự biểu hiện tinh thần của những quan hệ vật chất thống trị, chúng là những quan hệ vật chất thống trị được biểu hiện dưới hình thức tư tưởng; do đó, là sự biểu hiện của chính ngay những quan hệ làm cho một giai cấp trở thành giai cấp thống trị; do đó, đó là những tư tưởng của sự thống trị của giai cấp ấy. Ngoài những cái khác ra, những cá nhân hợp thành giai cấp thống trị cũng còn có một ý thức và do đó, họ tư duy; chừng nào họ thống trị với tư cách là giai cấp và quyết định quy mô và phạm vi của một thời đại lịch sử thì dĩ nhiên là họ thống trị về mọi mặt, cho nên ngoài ra, họ cũng thống trị với tư cách là những người đang tư duy, là những người sản xuất ra tư tưởng, điều tiết sự sản xuất và sự phân phối những tư tưởng của thời đại họ; bởi vậy, những tư tưởng của họ là những tư tưởng thống trị của thời đại. Thí dụ, vào một thời kỳ và ở một nước mà thế lực của vua chúa, giai cấp quý tộc và giai cấp tư sản tranh nhau quyền thống trị, mà do quyền thống trị bị phân chia thì học thuyết phân quyền tỏ ra là tư tưởng thống trị, nó được người ta coi là "quy luật vĩnh cửu".

Sự phân công lao động mà trên đây (tr.[30-31]) chúng ta đã coi là một trong những lực lượng chủ chốt của lịch sử trước đây, giờ đây lại cũng biểu hiện ra trong giai cấp thống trị dưới hình thức sự phân công giữa lao động tinh thần và lao động vật chất, thành thử trong giai cấp ấy, một bộ phận là những nhà tư tưởng của giai cấp ấy (đó là những nhà tư tưởng tích cực, có năng lực khái quát của giai cấp ấy, những nhà tư tưởng lấy việc chế tạo những ảo tưởng của giai cấp ấy về bản thân mình, làm nguồn sống chủ yếu) trong khi những người khác có thái độ thụ động hơn đối với những tư tưởng và ảo tưởng ấy và sẵn sàng tiếp thu chúng, vì trong thực tế, họ là những thành viên tích cực của giai cấp ấy và có ít thời giờ hơn để tạo ra những ảo tưởng và tư tưởng về bản thân mình. Bên trong giai cấp ấy, sự phân chia như vậy thậm chí có thể phát triển thành một sự đối lập và đối địch nào đó giữa hai bộ phận. Nhưng một khi có một cuộc xung đột thực tiễn khiến cho bản thân giai cấp bị đe doạ thì sự đối địch đó tự tiêu tan, thế là cũng tiêu tan cái bề ngoài dường như những tư tưởng thống trị không phải là những tư tưởng của giai cấp thống trị và dường như chúng có một quyền lực khác với quyền lực của giai cấp đó. Sự tồn tại của những tư tưởng cách mạng trong một thời đại nhất định đã giả định là phải có sự tồn tại của một giai cấp cách mạng và trên đây, chúng ta đã nói tất cả những điều cần nói về những tiền đề của sự tồn tại của giai cấp cách mạng ấy rồi (tr.[32-35]).

Nhưng nếu trong khi xem xét tiến trình của lịch sử, người ta tách những tư tưởng của giai cấp thống trị khỏi bản thân của giai cấp thống trị ấy và làm cho chúng có một sự tồn tại độc lập; nếu người ta cứ khăng khăng cho rằng những tư tưởng này khác đã thống trị trong một thời đại nào đó mà không lưu ý đến cả những điều kiện sản xuất lẫn người sản xuất ra những tư tưởng ấy, tức là hoàn toàn không tính đến những cá nhân và hoàn cảnh thế giới làm cơ sở cho những ý niệm ấy, thì người ta có thể nói chẳng hạn rằng trong thời kỳ thống trị của giai cấp quý tộc, những khái niệm danh dự, trung thành, v.v., thống trị, còn trong thời kỳ thống trị của giai cấp tư sản, những khái niệm tự do, bình đẳng, v.v., thống trị. Nói chung, giai cấp thống trị tự mình tạo ra cho mình những ảo tưởng tương tự. Quan niệm ấy về lịch sử, - là quan niệm chung của tất cả các nhà sử học, đặc biệt là từ thế kỷ XVIII, - tất sẽ vấp phải hiện tượng này là những tư tưởng thống trị ngày càng trở nên trừu tượng thêm, nghĩa là ngày càng mang hình thức phổ biến. Thật ra, mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống trị trước mình, muốn thực hiện được mục đích của mình, đều nhất thiết phải biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên trong xã hội hay nói một cách trừu tượng: phải gắn cho những tư tưởng của bản thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện những tư tưởng đó thành những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến. Chỉ vì nó đứng đối lập với một giai cấp khác, nên giai cấp làm cách mạng đã không xuất hiện ngay từ đầu với tư cách là một giai cấp mà với tư cách là một đại biểu cho toàn bộ xã hội; nó xuất hiện với tư cách là toàn bộ cái khối đông đảo của xã hội đương đầu với một giai cấp thống trị duy nhất[21]. Sở dĩ có thể làm như vậy là vì lúc ban đầu, lợi ích của nó còn thực sự gắn liền với lợi ích chung của các giai cấp không thống trị khác, vì dưới sức ép của những quan hệ tồn tại trước đó, lợi ích ấy còn chưa thể phát triển thành lợi ích riêng biệt của một giai cấp riêng biệt. Vì vậy, thắng lợi của giai cấp ấy cũng có lợi cho nhiều cá nhân trong những giai cấp khác không đạt được địa vị thống trị, song chỉ có lợi trong chừng mực thắng lợi ấy khiến cho các cá nhân này có khả năng vươn lên hàng giai cấp thống trị. Khi giai cấp tư sản Pháp lật đổ sự thống trị của giai cấp quý tộc thì do đó, nó đã khiến cho nhiều người vô sản có khả năng vươn lên trên giai cấp vô sản, nhưng chỉ trong chừng mực bản thân họ trở thành tư sản. Như vậy, mỗi giai cấp mới đều chỉ xây dựng sự thống trị của mình trên một cơ sở rộng hơn cơ sở của giai cấp đã thống trị trước nó; nhưng ngược lại sau đó thì sự đối lập của giai cấp không thống trị với giai cấp giờ đây đã nắm được quyền thống trị lại càng phát triển sâu sắc và gay gắt hơn. Hai sự việc đó dẫn tới chỗ là cuộc đấu tranh mà giai cấp không thống trị phải tiến hành chống lại giai cấp thống trị mới, đến lượt nó, lại nhằm mục đích phủ định chế độ xã hội trước đó một cách kiên quyết hơn và triệt để hơn tất cả các giai cấp đã giành được quyền thống trị trước kia.

Toàn bộ cái bề ngoài đó, cái bề ngoài tựa hồ như sự thống trị của một giai cấp nhất định chỉ là sự thống trị của những tư tưởng nhất định, tất sẽ tự tiêu tan, một khi sự thống trị của bất cứ giai cấp nào không còn là hình thức của chế độ xã hội nữa, nghĩa là một khi không còn cần phải biểu hiện lợi ích riêng thành lợi ích chung, hoặc biểu hiện "cái phổ biến" thành cái thống trị nữa.

Một khi đã tách những tư tưởng thống trị khỏi những cá nhân đang thống trị và trước hết khỏi những quan hệ sinh ra từ một giai đoạn nhất định của một phương thức sản xuất, và do đó đi đến kết luận là những tư tưởng luôn luôn thống trị trong lịch sử, thì người ta rất dễ từ những tư tưởng khác nhau đó, trừu tượng ra "ý niệm", tư tưởng, v.v., coi đó là yếu tố thống trị trong lịch sử, và bằng cách đó hiểu tất cả những ý niệm và khái niệm riêng rẽ ấy là những "sự tự quy định" của cái khái niệm đang phát triển trong lịch sử. Trong trường hợp như vậy thì hoàn toàn tự nhiên là người ta có thể rút từ khái niệm con người, từ con người trong tưởng tượng, từ bản chất con người, từ "Con người" ra tất cả những quan hệ giữa người với người. Triết học tư biện đã làm như thế. Chính Hê-ghen, trong phần cuối của cuốn "Triết học lịch sử"[22], đã thú nhận rằng ông "xem xét sự vận động đi lên chỉ riêng của khái niệm mà thôi" và trong lịch sử, ông đã trình bày "thần luận chân chính" (tr.446). Thế là bây giờ, người ta lại có thể lại quay trở về với những người sản xuất ra "khái niệm", với những nhà lý luận, nhà tư tưởng, nhà triết học, để đi đến kết luận rằng những nhà triết học, nhà tư tưởng với tư cách như vậy, xưa nay vẫn thống trị trong lịch sử, - nghĩa là đi đến kết luận mà Hê-ghenđã phát biểu như chúng ta đã thấy. Thật ra toàn bộ trò ảo thuật nhằm chứng minh sự thống trị tối cao của tinh thần trong lịch sử (mà Stiếc-nơ gọi là hệ thống cấp bậc) quy lại là ba nỗ lực sau đây:

Số 1. Phải tách những tư tưởng của những cá nhân thống trị - hơn nữa, lại là những cá nhân thống trị do những nguyên nhân kinh nghiệm, trong những điều kiện kinh nghiệm và với tư cách là những cá nhân vật chất, - ra khỏi bản thân những cá nhân thống trị đó, và do đó phải thừa nhận sự thống trị của tư tưởng hoặc ảo tưởng trong lịch sử.

Số 2. Phải đem lại một trật tự cho sự thống trị ấy của những tư tưởng, phải chứng minh rằng có một mối liên hệ thần bí nào đó giữa những tư tưởng thống trị kế tiếp nhau. Người ta có thể đạt được điều đó bằng cách xem những tư tưởng thống trị là những "sự tự quy định của khái niệm" (có thể làm như thế, vì những tư tưởng ấy thật sự có liên hệ với nhau bởi cơ sở kinh nghiệm của chúng; hơn nữa vì nếu xem chúng là những tư tưởng thuần túy thì chúng trở thành những sự tự khác biệt, những khác biệt do tư duy sản sinh ra).

Số 3. Để vứt bỏ mặt thần bí của "khái niệm tự quy định" đó, người ta nhân cách hoá nó thành "Tự ý thức" - hoặc để tỏ ra mình là người duy vật thực sự, người ta biến nó thành một loạt nhân vật đại biểu cho "khái niệm" trong lịch sử, tức là thành "những nhà tư duy", những "nhà triết học", nhà tư tưởng, mà bây giờ người ta coi là những người làm ra lịch sử, là "hội đồng những người bảo vệ", là những người thống trị[23]. Bằng c
 
FEUERBACH SỰ ĐỐI LẬP GIỮA QUAN ĐIỂM DUY TÂM VÀ QUAN ĐIỂM DUY VẬT [Phần 3]

K. Marx và F. Engels
TOÀN TẬP
Tập 3. (1845-1847). "Hệ tư tưởng Đức".
Nxb. Chính trị quốc gia, 1995
--- o0o ---


FEUERBACH
SỰ ĐỐI LẬP GIỮA QUAN ĐIỂM DUY TÂM VÀ QUAN ĐIỂM DUY VẬT
[Phần 3]


[B. CƠ SỞ THỰC TẾ CỦA HỆ TƯ TƯỞNG]

[1.] Sự giao tiếp và sức sản xuất

Sự phân công lớn nhất giữa lao động vật chất và lao động tinh thần là sự tách rời giữa thành thị với nông thôn. Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn xuất hiện cùng với bước quá độ từ thời đại dã man lên thời đại văn minh, từ chế độ bộ lạc lên nhà nước, từ tính địa phương lên dân tộc và cứ tồn tại mãi suốt toàn bộ lịch sử văn minh cho đến ngày nay (Đồng minh chống những đạo luật về ngũ cốc[1]).

Cùng với thành thị đã xuất hiện những sự cần thiết phải có sự cai trị, cảnh sát, thuế khoá, v.v., tóm lại là cần phải có cơ quan công cộng, do đó phải có chính trị nói chung. Ở đây, lần đầu tiên xuất hiện sự phân chia dân cư thành hai giai cấp lớn, một sự phân chia trực tiếp dựa trên sự phân chia lao động và trên công cụ sản xuất. Thành thị đã là sự tập trung dân cư, công cụ sản xuất, tư bản, hưởng thụ, nhu cầu, còn nông thôn lại cho thấy điều hoàn toàn ngược lại, sự biệt lập và phân tán. Sự đối lập giữa thành thị và nông thôn chỉ có thể tồn tại trong khuôn khổ của sở hữu tư nhân. Nó biểu hiện rõ nét nhất sự phụ thuộc của cá nhân vào sự phân công lao động, vào một hoạt động nhất địnhbắt buộc đối với cá nhân, sự lệ thuộc ấy biến người này thành một con vật ở thành thị và người kia thành một con vật ở nông thôn, cả hai người đều ngu dốt như nhau và hằng ngày lại tái sản sinh ra sự đối lập giữa lợi ích của cả hai phía. Ở đây, lao động lại vẫn là cái chủ yếu nhất, là một lực lượng đè lên các cá nhân; và chừng nào lực lượng ấy còn tồn tại thì chừng ấy vẫn còn sở hữu tư nhân. Xoá bỏ sự đối lập giữa thành thị và nông thôn là một trong những điều kiện đầu tiên của đời sống cộng đồng, và điều kiện ấy, đến lượt nó, lại phụ thuộc vào một số lớn tiền đề vật chất mà chỉ có ý chí không thôi thì không thể thực hiện được - điều mà ai cũng nhìn thấy ngay được. (Những điều kiện ấy còn cần được nghiên cứu kỹ lưỡng thêm nữa). Người ta cũng có thể coi sự tách rời giữa thành thị với nông thôn là sự tách rời giữa tư bản với sở hữu ruộng đất, là bước đầu của sự tồn tại độc lập và của sự phát triển độc lập của tư bản đối với sở hữu ruộng đất, là bước đầu của một sở hữu chỉ dựa trên lao động và trao đổi mà thôi.

Trong những thành thị thời trung cổ tức là những thành thị không phải đã có sẵn từ thời lịch sử trước mà mới được lập nên bởi những nông nô đã được tự do thì sở hữu duy nhất của mỗi cá nhân là lao động riêng biệt của cá nhân đó, nếu không kể số vốn nho nhỏ, hầu như chỉ gồm có những công cụ thủ công tối cần thiết mà anh ta đem theo. Sự cạnh tranh của những nông nô không ngừng chạy trốn vào thành thị, chiến tranh liên miên của nông thôn chống lại thành thị và do đó sự cần thiết phải có một lực lượng quân sự có tổ chức của thành thị; mối liên hệ hình thành từ việc chiếm hữu chung về một việc làm chuyên môn nhất định; sự cần thiết có những nhà sở chung để bán hàng hoá của mình, - trong thời kỳ đó người thợ thủ công đồng thời cũng là người buôn bán, - và gắn liền với việc ấy là việc không cho phép những người ngoài được vào những nhà sở đó, sự đối lập về lợiích giữa những nghề thủ công khác nhau; sự cần thiết phải bảo vệ nghề nghiệp mà người ta phải tốn nhiều công sức mới học được, và tổ chức phong kiến của cả nước - đó là những nguyên nhân làm cho những người lao động trong mỗi nghề thủ công riêng rẽ họp thành phường hội. Ở đây, chúng ta không cần nghiên cứu tỉ mỉ những sự biến đổi rất nhiều của tổ chức phường hội trong quá trình phát triển lịch sử về sau. Suốt thời kỳ trung cổ, nông nô không ngừng bỏ chạy vào thành thị. Những nông nô bị chúa đất truy nã ở nông thôn, kéo vào thành thị từng người một, ở đây đã có sẵn một cộng đồng có tổ chức mà họ bất lực không chống lại được, và buộc phải nhận ở trong đó một vị trí do nhu cầu của người ta về lao động của họ cũng như do lợi ích của những người cạnh tranh với họ, những người cạnh tranh có tổ chức, ở thành thị, quyết định. Những người lao động ấy, đến thành thị một cách lẻ tẻ, không bao giờ có thể họp thành một lực lượng được, vì nếu như lao động của họ là lao động phường hội và cần phải học tập thì các thợ cả của phường hội bắt họ phải tuân theo luật lệ của mình và tổ chức họ tùy theo lợi ích của mình, hoặc nếu như lao động của họ không cần phải học tập và vì vậy không phải là lao động phường hội mà là lao động công nhật thì họ không thể tự tổ chức lại được và mãi mãi vẫn là tầng lớp bình dân, không có tổ chức. Nhu cầu của thành thị về lao động công nhật đã tạo ra tầng lớp bình dân.

Những thành thị đó là những "hiệp hội" thực sự, chúng được sản sinh ra từ nhu cầu trực tiếp, từ sự quan tâm bảo vệ sở hữu và tăng thêm những tư liệu sản xuất và những phương tiện tự vệ của các thành viên riêng rẽ. Tầng lớp bình dân của những thành thị đó, gồm những cá nhân không quen biết nhau, đến thành thị lẻ tẻ từng người, nên trở thành không có tổ chức trước một lực lượng có tổ chức, được trang bị để tiến hành chiến tranh và theo dõi họ một cách đố kỵ, nên tầng lớp ấy không có quyền lực gì cả. Thợ bạn và thợ học việc được tổ chức trong mỗi nghề sao cho phù hợp nhất với lợi ích của thợ cả; mối quan hệ gia trưởng giữa họvà thợ cả tạo ra cho thợ cả một thế lực gấp đôi. Một là thợ cả có một ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ đời sống của thợ bạn; hai là công việc của những thợ bạn làm việc cho cùng một thợ cả là một mối dây thực sự gắn bó họ với nhau chống lại những thợ bạn của các thợ cả khác và làm cho họ tách biệt với những thợ bạn này; cuối cùng thợ bạn đã gắn bó với chế độ hiện có vì cái lợi đơn giản là muốn chính mình trở thành thợ cả. Vì vậy, nếu như đám bình dân đôi khi đã nổi loạn chống lại toàn bộ chế độ thành thị, - những cuộc nổi loạn này không đạt được kết quả vì họ bất lực, - thì những người thợ bạn lại không vượt quá những xung đột vụn vặt trong nội bộ những phường hội riêng rẽ, những xung đột gắn liền với bản thân sự tồn tại của chế độ phường hội. Những cuộc khởi nghĩa lớn trong thời kỳ trung cổ đều phát sinh từ nông thôn, nhưng cũng đều bị thất bại vì sự phân tán và tình trạng hết sức lạc hậu của nông dân, do sự phân tán ở đó gây ra.

Ở thành thị, sự phân công lao động giữa các phường hội riêng biệt được tiến hành [hoàn toàn có tính chất nguyên thủy] nhưng hoàn toàn không được xác lập giữa những người lao động riêng rẽ, ở bên trong các phường hội. Mỗi người lao động phải biết làm cả một loạt công việc, phải có khả năng làm được mọi việc có thể làm được bằng công cụ của mình; sự trao đổi hạn chế, sự liên hệ còn ít giữa các thành thị với nhau, tình trạng dân cư thưa thớt và những nhu cầu ít ỏi không tạo điều kiện thuận lợi cho một sự phân công lao động phát triển hơn, và vì vậy người nào muốn trở thành thợ cả thì phải nắm vững toàn bộ nghề của mình. Vì thế, những người thủ công thời trung cổ lại còn quan tâm đến công việc chuyên môn của mình, đến việc làm thành thạo trong công việc, một sự thành thạo có thể vươn lên đến một năng khiếu nghệ thuật hạn chế nào đó. Nhưng cũng vì thế mà mỗi người thủ công thời trung cổ để toàn tâm toàn ý vào công việc của mình, anh ta tỏ ra gắn bó tận tụy như nô lệ đối với công việc của anh ta vàbị phụ thuộc vào nó nhiều hơn người công nhân hiện đại là người thờ ơ với công việc của mình.

Tư bản ở những thành thị đó là tư bản tự nhiên, gồm có nhà cửa, công cụ thủ công và khách hàng tự nhiên từ trước truyền lại; và tư bản ấy buộc phải truyền từ đời cha cho đời con vì sự giao tiếp còn chưa phát triển và lưu thông còn thiếu khiến cho tư bản đó không có khả năng thực hiện được. Khác với tư bản hiện đại, tư bản này không thể trị giá bằng tiền - trong trường hợp trị giá bằng tiền thì tư bản ấy là vật gì cũng không quan trọng, - mà trực tiếp gắn liền với lao động hoàn toàn xác định của người sở hữu nó, hoàn toàn không tách rời lao động đó, và do đó, nó là một tư bản gắn liền vào một đẳng cấp.

Sự mở rộng của phân công lao động tiếp theo đó là sự tách rời giữa sản xuất với thương nghiệp, là sự hình thành ra một giai cấp riêng biệt những thương nhân, một sự tách rời đã có sẵn trong các thành thị cổ (với những người Do Thái trong số những người khác) và xuất hiện rất nhanh trong các thành thị mới thành lập. Điều đó tạo ra khả năng có quan hệ thương nghiệp vượt ra ngoài phạm vi của khu vực gần gũi nhất, một khả năng mà sự thực hiện là tùy thuộc vào những phương tiện giao thông hiện có, vào tình trạng an ninh công cộng trên đường đi do những quan hệ chính trị quyết định (người ta biết rằng trong suốt thời kỳ trung cổ, thương nhân đều đi thành đoàn có vũ trang) và còn phụ thuộc vào sự phát triển nhiều hay ít của những nhu cầu của địa phương mà sự giao tiếp có thể với tới được, sự phát triển nhiều hay ít này của các nhu cầu là do trình độ văn hoá tương ứng quyết định.

Cùng với sự tập trung các quanhệ thương mại vào tay một giai cấp riêng biệt, cùng với việc thương nghiệp được mở rộng, nhờ có thương nhân, ra ngoài phạm vi những khu vực gần gũi nhất của thành thị, lập tức xuất hiện tác động qua lại giữa sản xuất và thương nghiệp. Các thành thị quan hệ với nhau, những công cụ lao động mới đã được đưa từ thành thị này đến thành thị khác, và sự phân công giữa sản xuất và thương nghiệp chẳng baolâu tạo ra một sự phân công sản xuất mới giữa những thành thị khác nhau; chẳng bao lâu mỗi thành thị kinh doanh một ngành công nghiệp chiếm ưu thế nào đó. Tính hạn chế lúc ban đầu tức là tính địa phương, dần dần tiêu tan.

Trong thời trung cổ, trong mỗi thành thị, những thị dân buộc phải liên hợp lại với nhau để tự bảo vệ chống lại bọn quý tộc nông thôn; sự mở rộng của thương nghiệp và sự xây dựng những đường giao thông làm cho mỗi thành thị riêng lẻ có khả năng biết đến những thành thị khác đã đấu tranh chống cũng kẻ địch ấy để bảo vệ cũng những lợi ích ấy. Giai cấptư sản chỉ nảy sinh ra rất chậm chạp từ cái số đông đảo những khối thị dân địa phương của các thành thị khác nhau. Sự đối lập với những quan hệ hiện có và cả với phương thức lao động do sự đối lập ấy quy định, đã biến những điều kiện sinh hoạt của mỗi người thị dân nói riêng, thành những điều kiện sinh hoạt chung cho tất cả mọi người thị dân, và độc lập đối với mỗi người thị dân nói riêng. Những thị dân đã tạo ra những điều kiện ấy trong chừng mực họ thoát khỏi những mối liênhệ phong kiến và được những điều kiện ấy tạo ra, trong chừng mực bản thân họ được quy định bởi sự đối lập của họ với chếđộ phong kiến đã tồn tại. Cùng với sự xuất hiện mối liên hệ giữa các thành thị riêng lẻ, những điều kiện chung đối với họ ấy phát triển thành những điều kiện giai cấp. Những điều kiện như nhau, sự đối lập như nhau, những lợi ích như nhau, nói chung và toàn bộ, phải tạo ra ở khắp mọi nơi những tập quán như nhau. Bản thân giai cấp tư sản chỉ dần dần phát triển lên cùng với những điều kiện riêng của giai cấp ấy; đến lượt nó, nó lại phân chia ra thành những bộ phận khác nhau tùy theo sự phân công lao động, và cuối cùng nó thu hút tất cả những giai cấp có của đã tồn tại từ trước[2],(đồng thời giai cấp tư sản biến số đông các giai cấp không có của đã tồn tại trước nó và một phần những giai cấp có của trước kia thành một giai cấp mới - giai cấp vô sản) trong chừng mực mà toàn bộ sở hữu hiện có được chuyển thành tư bản thương nghiệp hay công nghiệp. Những cá nhân riêng lẻ chỉ hình thành một giai cấp chừng nào họ phải tiến hành cuộc đấu tranh chung chống lại một giai cấp khác; còn thì họ lại đối địch với nhau trong cuộc cạnh tranh. Mặt khác, giai cấp đến lượt nó lại trở thành độc lập đối với những cá nhân, thành thử các cá nhân thấy những điều kiện sinh hoạt của mình đã được quy định sẵn, đã được giai cấp của họ quy định cho họ vị trí trong đời sống, đồng thời cả sự phát triển cá nhân của họ; họ lệ thuộc vào giai cấp của họ. Sự lệ thuộc của các cá nhân riêng lẻ vào sự phân công lao động cũng là một hiện tượng giống như thế và hiện tượng này chỉ có thể bị xoá bỏ nếu sở hữu tư nhân và bản thân lao động bị xoá bỏ[3]. Sự lệ thuộc ấy của cá nhân vào giai cấp đồng thời lại phát triển như thế nào thành sự lệ thuộc vào đủ mọi thứ quan niệm, v.v., điều đó chúng tôi đã nhiều lần chỉ ra rồi.

Những lực lượng sản xuất, nhất là những phát minh, đã đạt được ở một địa phương có mất đi hay không đối với sự phát triển sau này, điều đó chỉ phụ thuộc vào sự mở rộng của giao tiếp thôi. Chừng nào sự giao tiếp còn hạn chế trong phạm vi những địa phương lân cận trực tiếp thì người ta phải làm lại mỗi phát minh trong từng địa phương, và chỉ cần gặp những sựngẫu nhiên thuần túy, như sự xâm nhập của các dân dã man hoặc ngay cả những cuộc chiến tranh thông thường, cũng đủ để cho một nước nào đó có những lực lượng sản xuất và những nhu cầu đã phát triển, buộc phải bắt đầu lại tất cả từ đầu. Trong buổi đầu của lịch sử, người ta phải hàng ngày làm lại từng phát minh một trong riêng từngđịa phương một. Ví dụ của những người Phê-ni-xi[4]chỉ rõ rằng những lực lượng sản xuất phát triển, ngay cả trong tình hình của một nền thương nghiệp tương đối rộng, cũng ít được bảo đảm khỏi bị hoàn toàn hủy hoại vì phần lớn những phát minh của họ đã bị mất đi trong một thời gian dài, do chỗ dân tộc họ bị loại khỏi hoạt động thương nghiệp và bị A-lếch-xan-đrơ chinh phục khiến cho dân tộc họ bị suy sụp. Ở thời trung cổ, nền hội hoạ trên thủy tinh chẳng hạn cũng có chung một số phận như vậy. Chỉ khi nào sự giao tiếp trở thành một sự giao tiếp thế giới có công nghiệp lớn làm cơ sở và chỉ khi nào mọi dân tộc đều bị lôi cuốn vào cuộc đấu tranh cạnh tranh thì việc bảo tồn những lực lượng sản xuất đã tạo ra mới được bảo đảm.

Kết quả trực tiếp nhất của phân công lao động giữa các thành thị khác nhau là sự ra đời của công trường thủ công, tức là những ngành sản xuất đã vượt khỏi khuôn khổ chế độ phường hội. Tiền đề lịch sử của sự phồn vinh ban đầu của công trường thủ công - ở I-ta-li-avà sau đó ở Phlan-đrơ - là sự giao tiếp với các nước ngoài. Ở những nước khác, ví dụ như ở Anh và ở Pháp, thì công trường thủ công lúc đầu còn bó hẹp vào thị trường trong nước. Ngoài những tiền đề nói trên thì công trường thủ công muốn được xác lập, còn cần đến một sự tập trung đã lớn hơn của dân cư, - nhất là ở nông thôn, - và của tư bản đã bắt đầu được tích luỹ trong tay một số ít người, một phần trong các phường hội, bất chấp những luật lệ của phường hội, một phần trong tay các thương nhân.

Thứ lao động ngay từ đầu gắn liền với máy móc dù còn ở dưới hình thức hết sức thô sơ, đã nhanh chóng tỏ ra là thứ lao động có khả năng phát triển nhất. Nghề dệt mà cho tới lúc đó, ở nông thôn, nông dân vẫn làm như một nghề phụ nhằm tự cung cấp lấyquần áo cần thiết, là thứ lao động đầu tiên được thúc đẩy và đã phát triển rộng hơn nhờ sự giao tiếp được mở rộng. Nghề dệt là hoạt động công trường thủ công đầu tiên và vẫn là hoạt động công trường thủ công chủ yếu. Số cầu về vải để may mặc tăng lên cùng với sự tăng dân số, việc tích luỹ và động viên tư bản hình thành một cách tự nhiên bắt đầu diễn ra nhờ lưu thông được đẩy mạnh, nhu cầu về xa xỉ phẩm sinh ra từ đó và nói chung được sự phát triển dần dần của thương mại khuyến khích, - tất cả những cái đó đã thúc đẩy nghề dệt phát triển về lượng và về chất, làm cho nó thoát ra khỏi hình thức sản xuất cũ. Bên cạnh nông dân còn tiếp tục dệt vải để tự cung tự cấp - những người này vẫn tồn tại và tiếp tục tồn tại, - thì ở thành thị xuất hiện một giai cấp mới những người thợ dệt mà vải của họ là dành cho toàn bộ thị trường trong nước và phần lớn cho cả thị trường nước ngoài nữa.

Nghề dệt, một loại lao động thường không đòi hỏi nhiều sự khéo léo và nhanh chóng tự phân ra thành rất nhiều ngành, nên do toàn bộ bản chất của nó, nó chống lại những ràng buộc của phường hội. Vì vậy nghề dệt phần lớn được tiến hành trong những làng và thị trấn không có tổ chức phường hội và dần trở thành thành thị, thậm chí nhanh chóng trở thành những thành thị phồn vinh nhất của mỗi nước.

Với sự xuất hiện của công trường thủ công không còn bị sự ràng buộc của phường hội thì những quan hệ sở hữu cũng lập tức biến đổi. Sở dĩ có bước tiến đầu tiên vượt qua thứ tư bản đẳng cấp được hình thành một cách tự nhiên là do sự xuất hiện của những thương nhân, tức là những người mà tư bản của họ ngay từ đầu đã là một thứ tư bản hoạt động, một thứ tư bản theo ý nghĩa hiện đại của danh từ đó nếu chúng ta có thể nói như vậy, khi vận dụng vào những điều kiện lúc bấy giờ. Bước tiến thứ hai diễn ra cùng với sự xuất hiện của công trường thủ công, công trường thủ công, đến lượt nó, lại huy động cả cái khối lớn tư bản hình thành một cách tự nhiên và nói chung làm tăng thêm sốlượng tư bản hoạt động so với số lượng tư bản hình thành một cách tự nhiên.

Đồng thời, công trường thủ công cũng trở thành chốn nương thân cho những nông dân chống lại những phường hội đã loại họ ra hoặc trả công cho họ một cách tồi tệ, giống như xưa kia những thành thị theo chế độ phường hội đã là chốn nương thân cho những nông dân chống lại [bọn quý tộc áp bức họ].

Cùng một lúc với sự ra đời của công trường thủ công, là thời kỳ có nhiều người đi lang thang vì các đội hộ vệ võ trang của phong kiến đã bị bãi bỏ, và những đội quân mà người ta đã tập hợp lại và được bọn vua chúa dùng để chống lại những chư hầu của chúng, đã bị giải tán, vì nghề làm ruộng được cải tiến và những vùng đất cày cấy rộng lớn bị biến thành bãi chăn nuôi. Do đó chúng ta cũng đã thấy rõ rằng tình trạng lang thang ấy gắn liền với sự tan rã của chế độ phong kiến. Ngay từ thế kỷ XIII, đã có một vài thời kỳ như vậy, nhưng tình trạng lang thang này chỉ trở thành phổ biến và kéo dài vào cuối thế kỷ XV và vào đầu thế kỷ XVI. Những người lang thang ấy đông đến nỗi riêng vua Hen-ri VIII ở Anh đã ra lệnh treo cổ tới 72 000 người; sau khi họ bị đẩy đến tình trạng thiếu thốn cùng cực thì người ta mới buộc được họ lao động và làm được như vậy thì cũng gặp phải những khó khăn rất lớn và còn phải khắc phục sự chống đối lâu dài. Sự phát đạt nhanh chóng của những công trường thủ công, đặc biệt là ở Anh, đã dần dần thu hút họ.

Với sự ra đời của công trường thủ công, các dân tộc khác nhau bắt đầu cạnh tranh với nhau, tiến hành cuộc đấu tranh thương nghiệp bằng chiến tranh, chế độ thuế quan bảo hộ và những chế độ cấm đoán, không như trước kia khi quan hệ với nhau họ tiến hành những cuộc trao đổi vô hại với nhau. Từ nay, thương nghiệp đã mang ý nghĩa chính trị.

Với sự ra đời của công trường thủ công, quan hệ của người lao động với người chủ cũng thay đổi. Trong các phường hội, giữa thợ bạn và thợ cả, vẫn tồn tại quan hệ gia trưởng; trong công trường thủ công, quan hệ gia trưởng bị thay bằng quan hệ tiền bạc giữa công nhân và nhà tư bản; nếu ở nông thôn và những thành thị nhỏ quan hệ này vẫn còn mang màu sắc gia trưởng, thì ở các thành thị lớn thực sự có tính chất công trường thủ công, màu sắc gia trưởng hầu như biến mất rất sớm.

Công trường thủ công và toàn bộ sự phát triển của sản xuất nói chung đã đạt được sự tăng tiến phi thường, nhờ sự mở rộng của sự giao tiếp mà việc tìm ra châu Mỹ và con đường biển sang Đông Ấn Độ đã mang lại. Những sản phẩm mới, nhập từ đó về, đặc biệt là những khối lớn vàng và bạc tham gia vào lưu thông đã hoàn toàn làm biến đổi vị trí của các giai cấp đối với nhau và giáng một đòn nặng vào sở hữu ruộng đất phong kiến và vào những người lao động; những cuộc viễn chinh của bọn phiêu lưu, việc chinh phục thuộc địa, và trước hết là các thị trường mang quy mô thị trường thế giới, một việc bây giờ đã có thể thực hiện được và đã được thực hiện ngày một nhiều hơn, - tất cả những cái đó đã tạo ra một giai đoạn mới của sự phát triển lịch sử, mà ở đây, nói chung, chúng ta không cần phải nói thêm. Việc chinh phục những đất đai mới phát hiện đã cung cấp thêm cho cuộc đấu tranh thương nghiệp giữa các dân tộc với nhau một chất nuôi dưỡng mới và do đó cuộc đấu tranh ấy có quy mô lớn hơn và có tính chất quyết liệt hơn.

Sự phát triển của thương nghiệp và của công trường thủ công đẩy nhanh việc tích luỹ tư bản hoạt động, trong khi đó thì trong các phường hội không được kích thích để mở rộng sản xuất, tư bản hình thành một cách tự nhiên vẫn nguyên như cũ hay thậm chí còn giảm đi. Thương nghiệp và công trường thủ công tạo ra giai cấp tư sản lớn; giai cấp tiểu tư sản thì tập trung trong các phường hội, bây giờ họ không còn thống trị các thành thị như trước kia mà buộc phải phục tùng sự thống trị của những thương nhân lớn và những chủ công trường thủ công[5]. Do đó phường hội suy tàn ngay khi nó tiếp xúc với công trường thủ công.

Trong thời kỳ chúng tôi vừa nói, quan hệ giao tiếp giữa các dân tộc mang hai hình thức khác nhau. Ban đầu số lượng vàng và bạc lưu thông ít ỏi dẫn đến việc cấm xuất khẩu những kim loại đó; mặt khác, công nghiệp, mà đại bộ phận được du nhập từ ngoài vào, trở nên cần thiết để có việc làm cho dân số ngày một tăng của thành thị, thì không thể không cần đến những đặc quyền, dĩ nhiên là để có thể không những chống lại sự cạnh tranh bên trong mà chủ yếu là chống lại sự cạnh tranh bên ngoài. Nhờ những sự cấm đoán ban đầu đó, những đặc quyền phường hội có tính địa phương được mở rộng ra cho cả nước. Thuế quan bắt nguồn từ những khoản cống nạp mà bọn chúa phong kiến bắt các thương nhân đi qua lãnh thổ mình phải nộp để khỏi bị cướp bóc, khoản thuế đó sau này cũng được thành thị đặt ra, và khi các nhà nước hiện đại xuất hiện thì khoản đó trở thành thủ đoạn thuận tiện nhất để thu tiền cho kho bạc.

Sự xuất hiện của vàng bạc Mỹ trên thị trường châu Âu, sự phát triển dần dần của công nghiệp, bước tiến nhanh chóng của thương nghiệp và những hậu quả của nó, tức là sự phát đạt của giai cấp tư sản ngoài phường hội và tiền được lưu thông ngày càng rộng rãi, - tất cả những cái đó làm cho những biện pháp nói trên có một ý nghĩa khác. Nhà nước ngày càng khó mà không cần đến tiền, bây giờ nó phải duy trì việc cấm xuất khẩu vàng bạc vì những lý do tài chính; bọn tư sản - những kẻ mà đối với chúng số lượng tiền bạc vừa được tung ra thị trường ấy đã trở thành đối tượng chủ yếu để đầu cơ, - đều hoàn toàn thoả mãn; những đặc quyền trước kia trở thành một nguồn thu nhập của chính phủ vàđược đem bán lấy tiền; trong luật lệ thuế quan, xuất hiện thuế xuất khẩu, loại thuế chỉ gây trở ngại cho sự phát triển của công nghiệp và nhằm những mục đích tài chính đơn thuần.

Thời kỳ thứ hai bắt đầu từ giữa thế kỷ XVII và kéo dài đến gần cuối thế kỷ XVIII. Thương nghiệp và hàng hải phát triển nhanh hơn công trường thủ công; công trường thủ công chỉ còn đóng vai trò thứ yếu; thuộc địa bắt đầu trở thành những khách hàng tiêu thụ lớn; qua những cuộc chiến đấu lâu dài, các nước chia nhau thị trường thế giới đã được mở ra. Thời kỳ này mở đầu bằng những luật hàng hải và những độc quyền ở thuộc địa. Cạnh tranh giữa các dân tộc được người ta ra sức ngăn chặn bằng những thuế suất, những điều cấm đoán, những hiệp nghị; và rút cục lại cuộc cạnh tranh được tiến hành và giải quyết bằng chiến tranh, (nhất là bằng chiến tranh trên mặt biển). Cường quốc mạnh nhất trên mặt biển, nước Anh, chiếm ưu thế về thương nghiệp và công trường thủ công. Như vậy là đã có sự tích tụ những thứ đó vào độc một nước.

Công trường thủ công được luôn luôn bảo vệ trên thị trường trong nước bằng thuế quan bảo hộ, trên thị trường thuộc địa bằng độc quyền, và trên thị trường ngoài nước bằng thuế quan chênh lệch. Người ta bảo hộ việc chế biến những nguyên liệu sản xuất trong nước (len và lanh ở Anh, tơ ở Pháp), cấm xuất khẩu nguyên liệu sản xuất trong nước (len ở Anh), coi nhẹ hoặc hoàn toàn cấm việc chế biến nguyên liệu nhập khẩu (bông ở Anh). Như vậy, dĩ nhiên là nước chiếm ưu thế về thương nghiệp hàng hải và về thế lực thuộc địa bảo đảm được cho mình sự phát triển cao nhất, cả về lượng lẫn về chất, của công trường thủ công. Công trường thủ công hoàn toàn không thể thiếu sự bảo hộ, vì một sự thay đổi nhỏ nhất trong các nước khác cũng đủ làm cho nó mất thị trường tiêu thụ và có thể suy sụp; vì nếu người ta dễ dàng du nhập công trường thủ công vào trong một nước trong những điều kiện ít nhiều thuận lợi, thì cũng chính vì thế mà người ta dễ phá hủynó. Đồng thời, do phương thức kinh doanh của nó, nhất là phương thức kinh doanh của nó ở nông thôn trong thế kỷ XVIII, công trường thủ công gắn chặt với những điều kiện sinh hoạt của đông đảo quần chúng đến mức không một nước nào dám liều đụng đến sự tồn tại của nó bằng cách cho phép cạnh tranh tự do. Do đó chừng nào nó xuất khẩu được sản phẩm thì công trường thủ công hoàn toàn lệ thuộc vào sự mở rộng hay sự hạn chế của thương nghiệp, và nó tác động trở lại thương nghiệp một cách tương đối yếu. Điều đó nói lên ý nghĩa thứ yếu của công trường thủ công và cũng nói lên ảnh hưởng của thương nhân hồi thế kỷ XVIII. Chính thương nhân, và đặc biệt những chủ tàu biển, là những người tha thiết đòi hỏi, hơn ai hết, sự bảo hộ của nhà nước và những độc quyền; đành rằng những chủ công trường thủ công cũng đòi và đã đạt được sự bảo hộ đó, nhưng về mặt ý nghĩa chính trị thì bao giờ họ cũng đứng sau thương nhân. Những thành phố thương nghiệp, đặc biệt những thành phố ven biển, đã đạt tới trình độ tương đối văn minh và trở thành những thành phố của giai cấp tư sản lớn, trong khi đó thì trong các thành phố công xưởng, thế lực tự phát tiểu tư sản vẫn tiếp tục ngự trị. Xem Ây-kin, chẳng hạn16. Thế kỷ XVIII là thế kỷ thương nghiệp. Về điểm này, Pin-tô nói rõ ra rằng17: "Thương nghiệp là con cưng của thế kỷ" và "ít lâu nay, người ta chỉ nói đến thương nghiệp, đến hàng hải và đến đội tàu biển"[6].

Thời kỳ này còn có đặc điểm là sự bãi bỏ việc cấm xuất khẩu vàng bạc, là sự ra đời của việc buôn bán tiền tệ, của ngân hàng, của quốc trái, của tiền giấy, của đầu cơ cổ phiếu và chứng khoán, là việc đầu cơ mọi thứ hàng, là sự phát triển hệ thống tiền tệ nói chung. Tư bản lại mất thêm một phần lớn tính chất tự nhiên ban đầu mà nó hãy còn mang theo.Sự tập trung của thương nghiệp và của công trường thủ công vào một nước, nước Anh, tăng lên không ngừng từ thế kỷ XVII, đã dần dần tạo ra cho nước đó một thị trường thế giới tương xứng, và do đó cũng tạo ra một nhu cầu về sản phẩm công trường thủ công của Anh mà những lực lượng sản xuất công nghiệp trước kia không thoả mãn được nữa. Nhu cầu vượt quá những lực lượng sản xuất ấy chính là động lực đưa đến thời kỳ phát triển thứ ba, kể từ thời trung cổ, của sở hữu tư nhân, bằng cách tạo ra công nghiệp lớn - việc sử dụng những lực lượng tự nhiên vào mục đích công nghiệp, việc sản xuất bằng máy móc và phân công lao động rộng rãi nhất. Những điều kiện khác của giai đoạn mới đó - như tự do cạnh tranh ở trong nước, việc hoàn thiện cơ học lý thuyết (môn cơ học mà Niu-tơn hoàn thành, là khoa học phổ cập nhất ở Pháp và Anh hồi thế kỷ thứ XVIII nói chung), v.v. - đã có ở Anh rồi. (Còn tự do cạnh tranh trong nước thì ở đâu cũng phải thông qua cách mạng mới giành được - năm 1640 và 1688 ở Anh, năm 1789 ở Pháp). Chẳng baolâu, cạnh tranh buộc những nước muốn giữ vai trò lịch sử của mình phải dùng đến những biện pháp thuế quan mới để bảo vệ công trường thủ công của mình (vì những thuế quan cũ không còn đủ để chống lại công nghiệp lớn nữa) và sau đó buộc phải thực hiện công nghiệp lớn dưới sự bảo hộ của thuế quan bảo hộ. Mặc dù đã có những biện pháp bảo hộ đó, công nghiệp lớn vẫn làm cho cạnh tranh trở thành phổ biến (cạnh tranh chính là tự do mậu dịch thực tế, trong đó những thuế quan bảo hộ chỉ là thủ đoạn nhất thời, là vũ khí phòng ngự trong phạm vi của tự do mậu dịch), công nghiệp lớn tạo ra những phương tiện giao thông và thị trường thế giới hiện đại, đặt thương nghiệp dướisự thống trị của mình, biến mọi tư bản thành tư bản công nghiệp và do đó sản sinh ra sự lưu thông nhanh chóng (hệ thống tiền tệ phát triển) và sự tập trung của tư bản. Bằng biện pháp cạnh tranh phổ biến, công nghiệp lớn buộc tất cả các cá nhân phải sử dụng toàn bộ tinh lực của mình một cách cực kỳ khẩn trương. Hễ có thể làm được thì nó ra sức thủ tiêu hệ tư tưởng,tôn giáo, đạo đức, v.v., còn khi không thể làm được việc đó thì nó biến những thứ đó thành những điều dối trá trắng trợn. Chính nó đã lần đầu tiên tạo ra lịch sử thế giới, khi nó làm cho mỗi nước văn minh và mỗi cá nhân trong nước đó muốn thoả mãn nhu cầu của mình thì phải phụ thuộc vào toàn thế giới và khi nó thủ tiêu tính biệt lập trước kia hình thành một cách tự nhiên của các nước riêng lẻ. Nó bắt khoa học tự nhiên phải phục tùng tư bản và làm cho phân công lao động mất hết những vết tích cuối cùng của tính chất tự nhiên của nó. Nói chung, nó xoá bỏ tính chất tự nhiên trong chừng mực nó có thể làm được điều đó trong phạm vi lao động và đã biến tất cả những quan hệ tự nhiên thành những quan hệ tiền bạc. Thay cho những thành thị hình thành một cách tự nhiên trước kia, nó tạo ra những thành thị công nghiệp lớn, hiện đại phát triển nhanh như chớp. Xâm nhập tới đâu là ở đó, nó tiêu diệt thủ công nghiệp và nói chung tất cả các giai đoạn trước kia của công nghiệp. Nó hoàn thành chiến thắng của thành thị thương nghiệp đối với nông thôn. [Tiền đề đầu tiên của nó] là hệ thống tự động. [Sự phát triển của nó] đã tạo ra một khối lớn những lực lượng sản xuất mà [sở hữu] tư nhân đã cản trở, cũng như trước kia chế độ phường hội đã cản trở công trường thủ công và kinh doanh tiểu nông đã cản trở thủ công nghiệp đang phát triển. Dưới sự thống trị của sở hữu tư nhân, những lực lượng sản xuất ấy chỉ phát triển phiến diện; đối với đa số, chúng đã trở thành những lực lượng phá hoại, và số lớn những lực lượng sản xuất ấy đã hoàn toàn không được sử dụng trong chế độ tư hữu. Nói chung, công nghiệp lớn tạo ra ở khắp nơi những quan hệ như nhau giữa các giai cấp xã hội và do đó xoá bỏ tính chất riêng biệt của những dân tộc khác nhau. Và sau hết, trong khi giai cấp tưsản của mỗi dân tộc còn duy trì những lợi ích dân tộc riêng biệt thì công nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp cùng có những lợi ích như nhau trong tất cả các dân tộc, một giai cấp không còn tính riêng biệt dân tộc nữa, một giai cấp thực sự đoạn tuyệt với toàn bộ thế giới cũ và đồng thời đối lập với thế giới cũ. Công nghiệp lớn làm cho người công nhân không những không chịu đựng nổi mối quan hệ của họ với nhà tư bản, mà còn không chịu đựng nổi cả bản thân lao động nữa.

Đương nhiên là công nghiệp lớn không phát triển đồng đều ở tất cả mọi địa phương của một nước. Nhưng điều đó không ngăn cản phong trào có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, vì những người vô sản do công nghiệp lớn sản sinh ra thì đứng đầu phong trào đó và lôi cuốn tất cả khối đông đảo quần chúng theo mình, và vì những công nhân không được thu hút vào trong công nghiệp lớn lại bị nền công nghiệp lớn ấy đẩy vào một tình trạng sinh hoạt tồi tệ hơn những công nhân trong bản thân công nghiệp lớn ấy. Cũng như vậy, những nước có công nghiệp lớn phát triển tác động đến những nước plus ou moins[7]không có công nghiệp trong chừng mực những nước này bị nền mậu dịch quốc tế lôi cuốn vào cuộc đấu tranh cạnh tranh phổ biến[8]!

Những hình thức khác nhau đó cũng là những hình thức tổ chức lao động, và do đó cũng là những hình thức sở hữu. Mỗi thời kỳ đều có một sự kết hợp những lực lượng sản xuất hiện có, trong chừng mực nhu cầu làm cho sự kết hợp ấy trở thành tất yếu.


[2.] Quan hệ của nhà nước và của pháp quyền với sở hữu

Hình thức sở hữu đầu tiên trong thế giới thời cổ cũng như trong thời trung cổ, là sở hữu bộ lạc; ở những người La Mã, hình thức này chủ yếu là do chiến tranh quy định, còn ở người Đức, là do chăn nuôi quy định. Ở những dân thời cổ, do nhiều bộ lạc sống chung trong cùng một thành thị, - sở hữu bộ lạc mang hình thức sở hữu nhà nước, và quyền của mỗi cá nhân đối với sở hữu đó chỉ là sự chiếm hữu [possessio] đơn giản, nhưng cũng như sở hữu bộ lạc nói chung, quyền sở hữu này chỉ hạn chế ở sở hữu ruộng đất thôi. Trong những dân thời cổ, cũng như trong các dân tộc hiện đại, sở hữu thật sự tư nhân chỉ bắt đầu với sở hữu động sản thôi. - (Chế độ nô lệ và cộng đồng [Gemeinwesen]) (dominium ex jure Quiritum[9]). Ở những dân tộc nảy sinh từ thời trung cổ, sở hữu bộ lạc tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau - sở hữu ruộng đất phong kiến, sở hữu động sản phường hội, tư bản công trường thủ công - đến tư bản hiện đại, thứ tư bản do nền công nghiệp lớn và sự cạnh tranh phổ biến sinh ra, tức là sở hữu tư nhân thuần túy, đã trút bỏ mọi vẻ bề ngoài của tính cộng đồng [Gemeinwesen] và loại trừ mọi tác động của nhà nước đối với sự phát triển của sở hữu. Tương ứng với sở hữu tư nhân hiện đại đó, là nhà nước hiện đại; nhà nước này bị những người tư hữu nắm lấy dần dần bằng thuế khoá và hoàn toàn rơi vào tay họ qua công trái; bản thân sự tồn tại của nhà nước đó được điều tiếtbởi sự lên xuống của thị giá chứng khoán nhà nước ở Sở giao dịch, sự tồn tại ấy hoàn toàn phụ thuộc vào tín dụng thương nghiệp mà những người tư hữu, những nhà tư sản, cấp cho nhà nước. Vì giai cấp tư sản không còn là một đẳng cấp nữa mà là một giai cấp, nên nó bắt buộc phải tự tổ chức không phải trên quy mô địa phương mà trên quy mô toàn quốc, và phải gán cho những lợi ích thông thường của nó một hình thức phổ biến. Do chỗ sở hữu tư nhân được giải thoát khỏi cộng đồng [Gemeinwesen] nên nhà nước đã tồn tại độc lập bên cạnh và bên ngoài xã hội công dân, nhưng thực ra nhà nước ấy chẳng phải là cái gì khác mà chỉ là hình thức tổ chức mà những người tư sản buộc phải dùng đến để bảo đảm lẫn cho nhau sở hữu và lợi ích của họ, ở ngoài nước cũng như ở trong nước. Ngày nay, sự độc lập của nhà nước chỉ tồn tại ở những nước trong đó đẳng cấp chưa hoàn toàn phát triển thành giai cấp, trong đó đẳng cấp - đã bị xoá bỏ ở những nước tiên tiến hơn, - vẫn tiếp tục đóng một vai trò nào đó, khi nó tạo thành một sự lai tạp không chủ định, do đó trong những nước ấy không một bộ phận nào trong dân cư lại có thể thống trị được những bộ phận khác. Tình hình ở nước Đức chính là như vậy. Ví dụ hoàn hảo nhất về nhà nước hiện đại là nước Mỹ. Tất cả các nhà văn hiện đại Pháp, Anh và Mỹ đều quả quyết rằng nhà nước tồn tại chỉ vì sở hữu tư nhân, thành thử tư tưởng ấy đã thấm vào trong ý thức của con người thông thường.

Vì nhà nước là hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức dưới đó toàn bộ xã hội công dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung, nên từ đó có thể rút ra kết luận là mọi thiết chế công cộng đều thông qua nhà nước và mang một hình thức chính trị. Do đó mà có ảo tưởng cho rằng luật pháp là dựa vào ý chí, hơn nữa lại dựa vào một ý chí tự do, tách rời cơ sở hiện thực của nó. Cũng như vậy, quyền, đến lượt nó, được quy thành luật.

Tư pháp phát triển đồng thời với sở hữu tư nhân, từ quá trình tan rã của hình thức cộng đồng [Gemeinwesen]hình thành một cách tự nhiên. Ở dân La Mã, sự phát triển của sở hữu tư nhân và tư pháp không có những hậu quả công nghiệp và thương nghiệp, nào khác, vì toàn bộ phương thức sản xuất của họ không thay đổi[10]. Ở những dân tộc hiện đại mà công thương nghiệp đã làm tan rã hình thức cộng đồng [Gemeinwesen] phong kiến thì sự ra đời của sở hữu tư nhân và tư pháp đánh dấu bước đầu của một giai đoạn mới có khả năng phát triển hơn nữa. A-man-phi, thành thị của thời trung cổ có một nền thương nghiệp hàng hải rộng lớn, là thành thị đầu tiên chế định ra luật hàng hải. Trước hết ở I-ta-li-a và sau đó ở các nước khác, một khi công nghiệp và thương nghiệp làm cho sở hữu tư nhân phát triển nhiều hơn nữa, thì tư pháp đã được soạn ra một cách kỹ càng ở La Mã lập tức được tiếp thu và được nâng lên thành một quyền uy. Về sau, khi giai cấp tư sản đã đạt được nhiều quyền lực đến mức làm cho bọn vua chúa phải bảo vệ lợi ích của giai cấp ấy, dựa vào sự giúp sức của giai cấp tư sản để lật đổ quý tộc phong kiến thì trong tất cả các nước - ở Pháp vào thế kỷ XVI - luật pháp bắt đầu phát triển thực sự ở khắp mọi nơi, trừ nước Anh, trên cơ sở luật La Mã. Nhưng ngay cả ở nước Anh, để tiếp tục phát triển tư pháp (đặc biệt là trong phần liên quan đến sở hữu động sản), người ta vẫn phải áp dụng những nguyên tắc của luật La Mã. (Không nên quên rằng luật pháp, cũng y như tôn giáo, không có lịch sử riêng của nó).

Trong tư pháp, những quan hệ sở hữu hiện có được biểu hiện ra là kết quả của ý chí chung. Bản thân cái jus utendi et abutendi[11]đã chứng minh một mặt là sở hữu tư nhân đã trở thành hoàn toàn độc lập đối với cộng đồng và mặt khác là cái ảo tưởng chorằng bản thân sở hữu tư nhân chỉ đơn thuần dựa vào ý chí tư nhân, vào sự tuỳ tiện định đoạt các vật thôi. Trong thực tế, khái niệm abuti[12]có những giới hạn kinh tế rất xác định đối với người tư hữu, nếu như anh ta không muốn rằng sở hữu của anh ta, và cùng với sở hữu đó là jus abutendi[13]của anh ta, chuyển vào tay người khác; vì nếu chỉ xem xét vật trong những mối quan hệ của nó với ý chí của người tư hữu thì vật hoàn toàn không phải là vật mà chỉ trong quá trình giao tiếp và độc lập đối với quyền (mối quan hệmà các nhà triết học gọi là ý niệm[14]) thì vật mới trở thành vật, thành một sở hữu hiện thực. Khi quan hệ sở hữu phát triển hơn nữa thì cái ảo tưởng pháp lý đó, cái ảo tưởng quy quyền và độc một mình ý chí, không tránh khỏi đưa đến tình hình là một người nào đó có thể có một quyền lực pháp lý nào đó đối với một vật mà trên thực tế lại không chiếm hữu vật đó. Ví dụ, do cạnh tranh một miếng đất nào đó không đem lại địa tô nữa, nhưng người sở hữu miếng đất vẫn tiếp tục có quyền lực pháp lý cùng với jus utendi et abutendi đối với miếng đất ấy. Nhưng quyền ấy chẳng được tích sự gì cho anh ta cả: với tư cách là người sở hữu ruộng đất, anh ta chẳng có gì hết nếu như ngoài ra, anh ta lại không có đủ vốn để cày cấy mảnh đất của mình. Ảo tưởng ấy của các luật gia giải thich vì sao họ và bất cứ bộ luật nào cũng đều cho rằng việc những cá nhân đặt quan hệ với nhau, như ký kết giao kèo chẳng hạn, là thuần túy ngẫu nhiên, và coi những quan hệ đó là những quan hệ mà người ta có thể tùy ý tham gia hay không và nội dung của những quan hệ ấy là hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn tùy tiện có tính chất cá nhân của những bên ký kết.

Mỗi khi sự phát triển của công thương nghiệp tạo ra những hình thức giao tiếp mới, chẳng hạn như những công ty bảo hiểm, v.v., thì luật pháp buộc phải luôn luôn chấp nhận đó là những hình thức mới của việc chiếm hữu sở hữu.


[3. Những công cụ sản xuất tự nhiên và những công cụ sản xuất do nền văn minh tạo ra và các hình thức sở hữu]

...[15]*Từ điểm thứ nhất, chúng ta có được tiền đề là sự phân công lao động đã phát triển và một nền thương nghiệp rộng lớn; từ điểm thứ hai, chúng ta có tính địa phương. Trong trường hợp thứ nhất, các cá nhân phải được tập hợp lại với nhau; trong trường hợp thứ hai, bản thân họ xuất hiện với tư cách là công cụ sản xuất bên cạnh những công cụ sản xuất đã có. Thế là ở đây, xuất hiện sự khác nhau giữa những công cụ sản xuất tự nhiên và những công cụ sản xuất do nền văn minh tạo ra. Ruộng (nước, v.v.) có thể coi là công cụ sản xuất tự nhiên. Trong trường hợp thứ nhất, nghĩa là với những công cụ sản xuất tự nhiên thì các cá nhân bị phụ thuộc vào tự nhiên; trong trường hợp thứ hai, họ bị phụ thuộc vào một sản phẩm của lao động. Vì vậy, trong trường hợp thứ nhất, sở hữu (sở hữu ruộng đất) cũng xuất hiện ra là sự thống trị trực tiếp và tự nhiên; còn trong trường hợp thứ hai, sở hữu xuất hiện ra là sự thống trị của lao động, đặc biệt là của lao động tích luỹ, của tư bản. Trường hợp thứ nhất giả định trước rằng các cá nhân được liên hiệp lại với nhau bằng một mối liên hệ nào đó - hoặc là gia đình, bộ lạc, hay thậm chí đất đai, v.v.; trường hợp thứ hai giả định trước rằng họ không phụ thuộc lẫn nhau và chỉ gắn bó với nhau bằng sự trao đổi thôi. Trong trường hợp thứ nhất,sự trao đổi thì chủ yếu là trao đổi giữa người với tự nhiên, một sự trao đổi trong đó lao động của con người được đổi lấy sản phẩm của tự nhiên; trong trường hợp thứ hai thì chủ yếu là trao đổi giữa người với người. Trong trường hợp thứ nhất, con người chỉ cần có một trí tuệ trung bình là đủ, hoạt động chân tay và hoạt động trí óc còn hoàn toàn chưa tách rời nhau; trong trường hợp thứ hai, sự phân công giữa lao động trí óc và lao động chân tay phải được hoàn thành trong thực tiễn rồi. Trong trường hợp thứ nhất, sự thống trị của người có sở hữu đối với những người không có sở hữu có thể dựa vào những quan hệ con người, vào một dạng nào đó của thể cộng đồng [Gemeinwesen], trong trường hợp thứ hai, sự thống trị ấy đã phải mang hình thức vật chất, thể hiện dưới dạng một cái thứ ba, - tiền. Trong trường hợp thứ nhất, công nghiệp nhỏ tồn tại nhưng phụ thuộc vào việc sử dụng những công cụ sản xuất tự nhiên, vì vậy ở đây không có sự phân phối lao động giữa những cá nhân khác nhau; trong trường hợp thứ hai, công nghiệp dựa vào phân công lao động và chỉ nhờ sự phân công lao động đó mới tồn tại được.

Cho tới bây giờ, chúng ta vẫn xuất phát từ công cụ sản xuất, và ở đây đã thể hiện rõ tính tất yếu của sở hữu tư nhân ở những giai đoạn phát triển công nghiệp nhất định. Trong industrie extractive[16], sở hữu tư nhân còn hoàn toàn ăn khớp với lao động; trong công nghiệp nhỏ và trong toàn bộ nông nghiệp, cho tới nay, sở hữu là hậu quả tất yếu của những công cụ sản xuất hiện có; trong công nghiệp lớn thì mâu thuẫn giữa công cụ sản xuất và sở hữu tư nhân chỉ là sản vật của nền công nghiệp lớn, và nền công nghiệp lớn này phải đạt đến một trình độ phát triển cao mới có thể tạo ra mâu thuẫn đó. Như vậy là chỉ với công nghiệp lớn, mới có khả năng xoá bỏ được sở hữu tư nhân.

Trong công nghiệp lớn và trong cạnh tranh, tất cả các điều kiện tồn tại, tất cả những tính quy định, tất cả những tính phiến diện của các cá nhân đều hoà vào trong hai hình thức đơn giản nhất; sở hữu tư nhân và lao động. Tiền tệ làm cho mọi hình thức giao tiếp và bản thân sự giao tiếp trở thành cái ngẫu nhiên đối với các cá nhân. Như vậy là, tiền tệ đã bao hàm điều sau đây: mọi sự giao tiếp trước đây chỉ là những sự giao tiếp của các cá nhân trong những điều kiện nhất định, chứ không phải là những sự giao tiếp giữa các cá nhân với tư cách là những cá nhân. Những điều kiện ấy rút lại chỉ còn có hai: lao động tích luỹ hay sở hữu tư nhân, và lao động hiện thực. Nếu một trong hai điều kiện ấy không còn nữa thì sự giao tiếp cũng ngừng lại. Bản thân những nhà kinh tế học hiện đại - như Xi-xmôn-đi, Séc-buy-li-ê, v.v. - cũng đem association des individus[17]đối lập với association des capitaux[18]. Mặt khác, bản thân các cá nhân cũng hoàn toàn bị sự phân công lao động chi phối, và do đó họ ở vào hoàn cảnh hoàn toàn phụ thuộc lẫn nhau. Sở hữu tư nhân, trong chừng mực mà trong khuôn khổ của lao động nó đối lập với lao động, thì phát triển lên do sự cần thiết phải tích luỹ. Lúc đầu, đại bộ phận của nó vẫn tiếp tục duy trì hình thức cộng đồng [Gemeinwesen], nhưng trong sự phát triển về sau, nó ngày càng xích gần lại hình thức hiện đại của sở hữu tư nhân. Ngay từ đầu, sự phân công lao động đã bao hàm sự phân chia điều kiện lao động, công cụ lao động và vật liệu, và do đó cũng bao hàm cả sự chia nhỏ tư bản tích luỹ giữa những người sở hữu khác nhau, và do đó bao hàm cả sự chia cắt giữa tư bản và lao động, cũng như những hình thức khác nhau của bản thân chế độ sở hữu nữa. Sự phân công lao động càngphát triển và tích luỹ ngày càng tăng thì sự chia cắt ấy càng trở nên rõ rệt. Bản thân lao động chỉ có thể tồn tại với điều kiện có sự chia cắt đó.

Như vậy là ở đây biểu lộ hai sự kiện[19]. Một là, những lực lượng sản xuất xuất hiện như một cái gì đó hoàn toàn độc lập và tách rời các cá nhân như một thế giới riêng, ở bên cạnh các cá nhân; sở dĩ như vậy là vì các cá nhân, mà lực lượng sản xuất là lực lượng của họ, tồn tại với tư cách là những cá nhân phân tán và đối lập với nhau, trong khi đó thì mặt khác, những lực lượng ấy chỉ là lực lượng hiện thực trong sự giao tiếp và sự liên hệ giữa các cá nhân ấy. Như vậy, một mặt chúng ta có một tổng thể những lực lượng sản xuất, nó mang một hình thức tựa như một hình thức vật chất và đối với bản thân các cá nhân, nó đã không còn là lực lượng của các cá nhân nữa mà là lực lượng của sở hữu tư nhân và do đó chỉ là lực lượng của các cá nhân chừng nào những cá nhân này là những kẻ tư hữu. Trong bất cứ thời kỳ nào trước kia, không bao giờ những lực lượng sản xuất lại mang hình thức ấy, một hình thức không có liên quan gì với sự giao tiếp giữa các cá nhân với tư cách là các cá nhân, vì sự giao tiếp ấy còn là sự giao tiếp hạn chế. Mặt khác, đối lập với những lực lượng sản xuất ấy, ta thấy có đa số các cá nhân mà những lực lượng ấy đã bị tách khỏi, do đó những cá nhân ấy bị tước mất mọi nội dung hiện thực của đời sống của họ, và trở thành những cá nhân trừu tượng, nhưng cũng chính do đó, họ mới có khả năng liên hệ với nhau với tư cách là những cá nhân.

Mối liên hệ duy nhất còn gắn liền họ với lực lượng sản xuất và với sự tồn tại của bản thân họ - tức là lao động - đã mất mọi vẻ bề ngoài là sự tự mình hoạt động và chỉ duy trì đời sống của họ bằng cách làm cho nó tàn lụi đi. Trong khi ở những thời kỳ trước kia, sự tự mình hoạt động và sự sản xuất ra đời sống vật chất bị tách rời nhau chỉ vì chúng rơi vào những người khác nhau và vì sự sản xuất ra đời sống vật chất còn được coi là một phương thức thứ yếu của sự tự mình hoạt động do tính hạn chế của bản thân các cá nhân mà ra, thì hiện nay sự tự mình hoạt động và sự sản xuất ra đời sống vật chất đã tách rời nhau đến mức nói chung, đời sống vật chất xuất hiện với tính cách là mục đích, còn sự sản xuất ra đời sống vật chất ấy, tức là lao động, (hiện nay lao động là hình thức duy nhất có thể có, nhưng như chúng ta thấy, là hình thức phủ định của sự tự mình hoạt động) xuất hiện với tính cách là phương tiện.

Như vậy, tình hình hiện nay đã đi đến chỗ là các cá nhân phải chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất hiện có, không những chỉ để thực hiện sự tự mình hoạt động, mà nói chung là để bảo đảm sự tồn tại của mình. Sự chiếm hữu đó trước hết được quy định bởi đối tượng cần chiếm hữu, ở đây là những lực lượng sản xuất đã phát triển thành một tổng thể xác định và chỉ tồn tại trong khuôn khổ của sự giao tiếp phổ biến. Dưới góc độ này, sự chiếm hữu đó đã nhất thiết phải có tính chất phổ biến, phù hợp với những lực lượng sản xuất và với sự giao tiếp. Bản thân sự chiếm hữu những lực lượng đó chẳng phải là cái gì khác hơn là sự phát triển những năng lực cá nhân cho phù hợp với những công cụ sản xuất vật chất. Chỉ riêng vì lẽ đó thôi, sự chiếm hữu một tổng thể nhất định những công cụ sản xuất cũng đã là sự phát triển một tổng thể nhất định những năng lực trong bản thân các cá nhân. Ngoài ra, sự chiếm hữu đó còn được quy định bởi những cá nhân chiếm hữu. Chỉ có những người vô sản thời nay, hoàn toàn bị tước mất mọi sự tự mình hoạt động, mới có khả năng đạt tới sự tự mình hoạt động đầy đủ, không hạn chế, đó là sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất và do đó, phát triển tổng thể các năng lực. Tất cả những sự chiếm hữu cách mạng trước kia đều bị hạn chế. Những cá nhân, màsự tự mình hoạt động bị hạn chếbởi một công cụ sản xuất hạn chế và một sự giao tiếp hạn chế, đã chiếm hữu công cụ sản xuất hạn chế ấy và do đó chỉ đạt đến một sự hạn chế mới. Công cụ sản xuất của họ trở thành sở hữu của họ, nhưng bản thân họ vẫn lệ thuộc vào sự phân công lao động và vào công cụ sản xuất của chính họ. Trong tất cả những sự chiếm hữu đã qua, một khối lớn các cá nhân vẫn lệ thuộc vào một công cụ sản xuất duy nhất; trong sự chiếm hữu của những người vô sản, một khối lượng lớn các công cụ sản xuất phải nhất thiết lệ thuộc vào từng cá nhân, còn sở hữu thì phải lệ thuộc vào tất cả mọi cá nhân. Sự giao tiếp phổ biến hiện đại không thể bị lệ thuộc vào từng cá nhân bằng bất cứ cách nào, mà chỉ bằng cách lệ thuộc vào mọi cá nhân.

Ngoài ra, sự chiếm hữu còn được quy định bởi phương thức thực hiện sự chiếm hữu. Sự chiếm hữu chỉ có thể được thực hiện bằng sự liên hợp, - do tính chất của bản thân giai cấp vô sản, sự liên hợp này chỉ có thể là một sự liên hợp phổ biến, - và bằng một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng này một mặt lật đổ thế lực của phương thức sản xuất và của sự giao tiếp trước đó và cả của cơ cấu xã hội cũ và mặt khác, phát triển tính phổ biến của giai cấp vô sản và nghị lực mà giai cấp vô sản cần có để thực hiện sự chiếm hữu ấy, hơn nữa cuộc cách mạng này sẽ làm cho giai cấp vô sản trút bỏ được mọi cái rơi rớt lại từ địa vị xã hội cũ của mình.

Chỉ tới giai đoạn đó thì sự tự mình hoạt động mới ăn khớp với đời sống vật chất, điều đó tương ứng với sự phát triển của các cá nhân thành những cá nhân hoàn chỉnh và với sự xoá bỏ mọi tính tự phát. Và hệt như vậy sự chuyển hoá của lao động thành sự tự mình hoạt động thì tương ứng với sự chuyển hoá của sự giao tiếp bắt buộc trước kia thành sự giao tiếp của các cá nhân với tư cách là những cá nhân. Những cá nhân liên hợp mà chiếm hữu toàn bộ tổng thể những lực lượng sản xuất thì chế độ tư hữu cũng bị thủ tiêu. Nếu như trong lịch sử từ trước tới nay, mỗi điều kiện riêng biệt bao giờ cũng là ngẫu nhiên, thì bây giờ chính sự biệtlập của bản thân các cá nhân, tức là con đường kiếm kế sinh nhai riêng biệt của mỗi người, lại trở thành ngẫu nhiên.

Những cá nhân không còn lệ thuộc vào sự phân công lao động nữa được các nhà triết học coi là điều lý tưởng và đặt tên là "Con người", và toàn bộ quá trình phát triển mà chúng ta đã miêu tả được họ coi là quá trình phát triển của "Con người", đến mức là trong mỗi giai đoạn lịch sử đã qua, họ đem "Con người" thay cho những cá nhân đã tồn tại và đã coi "Con người" là động lực của lịch sử. Như vậy, toàn bộ quá trình được họ coi là quá trình tự tha hoá của "Con người"; sở dĩ như vậy là vì về cơ bản, họ đã luôn luôn đem cá nhân trung bình của giai đoạn sau thay cho những cá nhân của giai đoạn trước và đem ý thức của thời sau gắn cho các cá nhân của thời trước. Nhờ sự đảo ngược ấy, một sự đảo ngược ngay từ đầu đã gạt bỏ những điều kiện hiện thực, mà người ta đã có thể biến toàn bộ lịch sử thành một quá trình phát triển của ý thức.

*
* *

Sau cùng, quan niệm lịch sử mà chúng ta vừa trình bày còn cho chúng ta kết luận như sau: 1) Trong quá trình phát triển của những lực lượng sản xuất có một giai đoạn mà trong đó xuất hiện những lực lượng sản xuất và những phương tiện giao tiếp chỉ có thể gây tác hại trong khuôn khổ những quan hệ hiện có, và đã không còn là những lực lượng sản xuất nữa mà lại là những lực lượng phá hoại (máy móc và tiền). Gắn liền với sự kiện này, xuất hiện một giai cấp buộc phải chịu đựng tất cả gánh nặng của xã hội mà không được hưởng những phúc lợi của xã hội, một giai cấp bị gạt ra ngoài xã hội nên không khỏi đối lập một cách kiên quyết nhất với tất cả các giai cấp khác, một giai cấp do đa số thành viên của xã hội họp thành và là giai cấp sản sinh ra ý thức về tính tất yếu của một cuộc cách mạng triệt để, ý thức cộng sản chủ nghĩa, ý thức mà dĩ nhiên là sự quan sát tình cảnh của giai cấp đó có thể làm nảy sinh ra trong các giai cấp khác; 2) những điều kiện trong đó những lực lượng sản xuất nhất định có thể được sử dụng, là những điều kiện thống trị của một giai cấp nhất định trong xã hội, giai cấp mà quyền lực xã hội của nó - quyền lực do sở hữu của nó mang lại, - thường có sự biểu hiện duy tâm - thực tiễn dưới hình thức nhà nước riêng của mỗi thời kỳ, và vì vậy, mọi cuộc đấu tranh cách mạng đều nhằm chống giai cấp đã thống trị cho đến lúc bấy giờ[20]; 3) trong hết thảy các cuộc cách mạng trước đây, tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên như cũ, - và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một sự phân phối lao động mới cho những người khác; trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa là nhằm chống lại tính chất hoạt động trước đây, nó xoá bỏ lao động[21]và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản thân các giai cấp, vì nó được thực hiện bởi một giai cấp không còn được coi là một giai cấp trong xã hội nữa, không được thừa nhận là giai cấp và đã biểu hiện sự tan rã của mọi giai cấp, của mọi dân tộc, v.v., trong khuôn khổ xã hội ngày nay; và 4) để cho ý thức cộng sản chủ nghĩa đó nảy sinh ra được trong đông đảo quần chúng, cũng như để đạt được chính ngay mục đích ấy thì cần phải có một sự biến đổi của đông đảo quần chúng, sự biến đổi này chỉ có thể thực hiện được trong một phong trào thực tiễn, trong cách mạng; do đó,cách mạng là tất yếu không những vì không thể lật đổ giai cấp thống trị bằng một phương thức nào khác mà còn vì chỉ có trong cách mạng giai cấp đi lật đổ giai cấp khác mới có thể quét sạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt theo mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội[22].

(còn tiếp)

Nguồn: C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập. Tập 3. (1845-1847). "Hệ tư tưởng Đức". Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia, 1995. Bản điện tử: https://www.cpv.org.vn


[1]
Đồng minh chống những đạo luật về ngũ cốcdo các chủ xưởng ở Man-se-xtơ là Cốp-đen và Brai-tơ lập ra. Cái gọi là những đạo luật về ngũ cốc nhằm hạn chế hoặc cấm chỉ nhập khẩu ngũ cốc, được thi hành ở anh vì lợi ích của bọn đại địa chủ - bọn địa chủ quý tộc. Đề ra yêu sách đòi hoàn toàn tự do mậu dịch, Đồng minh đòi huỷ bỏ những đạo luật về ngũ cốc nhằm mục đích hạ thấp tiền công của công nhân và làm suy yếu địa vị kinh tế và chính trị của bọn quý tộc ruộng đất. Trong cuộc đấu tranh chống bọnđịa chủ, Đồng minh đã tìm cách lợi dụng quần

chúng công nhân. Nhưng chính thời gian đó, những công nhân tiên tiến của nước Anh đã bước lên con đường của một phong trào công nhân độc lập đã định hình về phương diện chính trị (phong trào Hiến chương).
Cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản công nghiệp và tầng lớp quý tộc ruộng đất về vấn đề những đạo luật về ngũ cốc đã kết thúc bằng việc thông qua vào năm 1846 dự luật huỷ bỏ những đạo luật về ngũ cốc.(chú thích của Nxb. Chính trị Quốc gia)


[2]Mác ghi ở ngoài lề: "Trước hết nó thu hút những ngành lao động trực thuộc nhà nước, rồi tất cả những nghề nghiệp ± [ít nhiều] có tính chất tư tưởng".


[3]Về ý nghĩa của những chữ "lao động bị xoá bỏ" (Aufhebung der Arbeit).


[4]Mác ghi ở ngoài lề: "và nghề sản xuất thủy tinh của thời trung cổ".


[5]Mác ghi ở ngoài lề: "Giai cấp tiểu tư sản, giai cấp trung đẳng, giai cấp tư sản lớn".


[6]Sự vận động của tư bản tuy có nhanh lên một cách rõ rệt nhưng vẫn còn tương đối chậm. Sự chia cắt thị trường thế giới thành từng bộ phận riêng biệt, mỗi bộ phận do từng nước riêng biệt khai thác, sự xoá bỏ cạnh tranh giữa các nước, sự vụng về của bản thân sản xuất và việc hệ thống tiền tệ chỉ mới trải qua giai đoạn phát triển bước đầu, - tất cả những cái đó kìm hãm rất nhiều lưu thông. Kết quả của tình hình đó là tinh thần con buôn nhỏ nhen bần tiện đang còn thấm sâu vào tất cả những thương nhân và tất cả những phương thức buôn bán thời ấy. So với những chủ công trường thủ công, hơn nữa so với những người thủ công nghiệp thì dĩ nhiên họ là những người tư sản lớn, nhưng so với những thương nhân và những nhà công nghiệp của thời kỳ sau thì họ vẫn chỉ là những người tư sản nhỏ mà thôi.


[7]- ít nhiều


[8]Cạnh tranh làm cho các cá nhân biệt lập với nhau, không phải chỉ những người tư sản, mà đặc biệt là những người vô sản cũng biệt lập với nhau, mặc dù nó tập hợp họ lại. Vì vậy, phải trải qua một thời gian dài, các cá nhân mới có thể liên hợp lại với nhau, đấy là chưa nói rằng muốn có sự liên hợp ấy - nếu sự liên hợp này không phải chỉ là sự liên hợp địa phương, - thì nền công nghiệp lớn trước hết phải tạo ra những phương tiện cần thiết, tức là những thành thị công nghiệp lớn và những phương tiện giao thông rẻ tiền và nhanh chóng và vì vậy, chỉ sau những cuộc đấu tranh lâu dài, mới có thể chiến thắng được mọi lực lượng có tổ chức đối lập với những cá nhân biệt lập sống trong những điều kiện hàng ngày tái tạo ra sự
 
Karl Marx & Friedrich Engels
TOÀN TẬP, Tập 3
(Hệ tư tưởng Đức)
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995
--- o0o ---

FEUERBACH VÀ SỰ ĐỐI LẬP
GIỮA QUAN ĐIỂM DUY VẬT VÀ QUAN ĐIỂM DUY TÂM


Cứ tin lời các nhà tư tưởng Đức thì nước Đức, trong những năm gần đây, đã trải qua một cuộc đảo lộn chưa từng có. Quá trình tan rã của hệ thống Hê-ghen bắt đầu từ Stơ-rau-xơ [1] đã biến thành một cuộc sôi động âm ỉ toàn thế giới, lôi cuốn tất cả “những lực lượng của quá khứ”. Trong sự hỗn độn khắp nơi đó, những cường quốc hùng mạnh đã xuất hiện để rồi lại chìm nghỉm đi liền ngay đó, những anh hùng đã xuất hiện trong khoảnh khắc để rồi lại bị những đối thủ táo bạo hơn và mạnh hơn quẳng vào bóng tối. Đó là cuộc cách mạng mà so với nó, Cách mạng Pháp chỉ là một trò trẻ con; đó là một cuộc chiến đấu thế giới mà so với nó, cuộc chiến đấu của các Đi-a-đốc [2] chẳng có nghĩa lý gì. Những nguyên lý thay thế lẫn nhau, những anh hùng tư tưởng đẩy nhau ngã với một tốc độ nhanh chưa từng thấy, và chỉ trong ba năm từ 1842 đến 1845 ở nước Đức, người ta đã dọn sạch được nhiều hơn trong ba thế kỷ trước kia.

Tất cả cái đó người ta cho là đều diễn ra trong lĩnh vực của tư duy thuần túy.

Dù sao đi nữa, chúng ta cũng đang đứng trước một sự kiện lýthú: quá trình tan rã của tinh thần tuyệt đối. Khi tia lửa cuối cùng của sự sống của tinh thần tuyệt đối vừa tắt đi thì những bộ phận khác nhau của cái caput mortuum [3] ấy bắt đầu phân giải, tham gia vào những hỗn hợp mới và hình thành những chất mới. Những người làm nghề triết học từ trước tới nay vẫn sống bằng việc khai thác tinh thần tuyệt đối, bây giờ lại lao vào những hỗn hợp mới đó. Và ai nấy đều hết sức hăng hái tiêu thụ cái phần mà anh ta tình cờ kiếm được. Việc đó không thể tiến hành không có cạnh tranh. Lúc đầu cạnh tranh còn mang tính chất khá nghiêm túc và có tính chất tư sản. Nhưng về sau, khi thị trường Đức đã đầy ứ và khi mặc dù mọi cố gắng, hàng hoá cũng không tiêu thụ được trên thị trường thế giới nữa thì theo lệ thường ở Đức, tình hình kinh doanh đã bị xấu đi bởi một nền sản xuất bằng công xưởng và có tính chất giả tạo, bởi việc hạ thấp phẩm chất, việc làm giả nguyên liệu, việc làm giả nhãn hiệu, việc bán khống, việc dùng tín phiếu giả và một hệ thống tín dụng không có cơ sở hiện thực nào. Cuộc cạnh tranh ấy biến thành một cuộc đấu tranh gay gắt mà bây giờ người ta mô tả và tán dương với chúng ta như một cuộc cách mạng có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới, một nhân tố đã mang lại những kết quả và những thành tựu vĩ đại nhất.

Muốn đánh giá đúng toàn bộ cái trò bịp bợm triết học đó, nó thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị dân Đức trung thực một tình cảm dân tộc dễ chịu, muốn nêu rõ tính nhỏ nhen, tính thiển cận địa phương của toàn bộ phong trào của phái Hê-ghen trẻ đó, và đặc biệt muốn vạch rõ sự trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến công hiện thực của vị anh hùng đó, với những ảo tưởng của họ về chính những chiến công ấy thì cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo một quan điểm ở bên ngoài nước Đức. [4]

A. HỆ TƯ TƯỞNG NÓI CHUNG, HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC NÓI RIÊNG

Ngay trong những cố gắng gần đây nhất của nó, sự phê phán của Đức vẫn không rời bỏ miếng đất triết học. Không hề nghiên cứu những tiền đề triết học chung của nó, nhưng tất cả những vấn đề mà nó đề ra đều nảy sinh từ miếng đất của một hệ thống triết học nhất định-hệ thống Hê-ghen. Không phải chỉ trong những lời giải đáp của nó mà ngay cả trong bản thân các vấn đề, cũng đã có sự thần bí hoá rồi. Sự lệ thuộc ấy vào Hê-ghen là nguyên nhân giải thích tại sao không một ai trong những nhà phê phán mới xuất hiện ấy lại dám thử phê phán một cách toàn diện hệ thống Hê-ghen, mặc dù mỗi người trong bọn họ đều quả quyết rằng mình đã vượt quá Hê-ghen. Cuộc luận chiến của họ chống lại Hê-ghen và chống lại nhau chỉ đóng khung ở chỗ mỗi người trong bọn họ tách riêng một mặt nào đó của hệ thống Hê-ghen và đem mặt đó chống lại toàn bộ hệ thống cũng như chống lại những mặt do những người khác tách riêng ra. Thoạt đầu, người ta tách lấy những phạm trù của Hê-ghen dưới dạng thuần túy, chưa bị bóp méo, thí dụ như phạm trù thực thể và tự ý thức; về sau người ta tầm thường hoá những phạm trù ấy, gọi chúng bằng những tên trần tục hơn, thí dụ như “loài”, “kẻ duy nhất”, “con người”, v.v..

Toàn bộ sự phê phán triết học ở Đức, từ Stơ-rau-xơ đến Stiếc-nơ [5], đều bó tròn trong việc phê phán những quan niệm tôn giáo[6]. Người ta xuất phát từ tôn giáo chính cống và từ tinh thần hoá chính cống. Cái mà trước kia người ta coi là ý thức tôn giáo, là quan niệm tôn giáo thì sau này lại được quy định theo nhiều cách khác nhau. Toàn bộ bước tiến là ở chỗ những quan niệm siêu hình, quan niệm chính trị, quan niệm pháp luật, quan niệm đạo đức và những quan niệm khác mà người ta cho là những quan niệm thống trị, đều được liệt vào lĩnh vực những quan niệm tôn giáo hay thần học; cũng như ở chỗ người ta tuyên bố rằng ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức là ý thức tôn giáo hay ý thức thần học, rằng con người chính trị, con người pháp luật và con người đạo đức – xét cho cùng “con người nói chung” – là con người tôn giáo. Người ta lấy sự thống trị của tôn giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà nước, v.v.. Ở tứ phía, vẫn chỉ là những giáo điều và lòng tin vào giáo điều. Thế giới được thần thánh hoá theo một quy mô ngày càng rộng, cho đến khi thánh Ma-xơ đáng kính có thể thần thánh hoá thế giới en bloc [7] và do đó thanh toán vĩnh viễn hẳn thế giới.

Phái Hê-ghen già cho rằng bất cứ cái gì họ cũng hiểu được khi đã quy cái đó vào một phạm trù của lô-gích học Hê-ghen. Phái Hê-ghen trẻ thì phê phán tất cả mọi cái, bằng cách thay thế mọi cái bằng những quan niệm tôn giáo hoặc tuyên bố rằng mọi cái là có tính thần học. Phái Hê-ghen trẻ cũng như phái Hê-ghen già đều nhất trí tin tưởng rằng tôn giáo, khái niệm, cái phổ biến thống trị trong thế giới hiện có. Chỉ có điều là phái này thì chống lại sự thống trị ấy, coi đó là một sự tiếm đoạt, còn phái kia lại tán dương sự thống trị ấy là hợp pháp.

Phái Hê-ghen trẻ cho rằng những quan niệm, ý niệm, khái niệm, nói chung những sản phẩm của ý thức mà họ gán cho là có một sự tồn tại độc lập, đều là những xiềng xích thực sự đối với con người, – giống như phái Hê-ghen già tuyên bố rằng chúng là những sợi dây ràng buộc thực sự đối với xã hội loài người, – cho nên dĩ nhiên phái Hê-ghen trẻ chỉ cần tiến hành đấu tranh chống lại những ảo tưởng đó của ý thức mà thôi. Vì theo họ tưởng tượng, những quan hệ của con người, tất cả mọi hành động và cử chỉ của con người, mọi xiềng xích và giới hạn đối với con người đều là sản phẩm của ý thức của họ, nên phái Hê-ghen trẻ đã đề xuất một cách lô-gích với con người một yêu cầu đạo đức là: đổi ý thức hiện nay của mình lấy ý thức con người, có tính phê phán hay ích kỷ và do đó, xoá bỏ những giới hạn đối với mình. Đòi hỏi đổi ý thức như vậy thì chẳng khác gì đòi hỏi giải thích một cách khác cái gì đang tồn tại, nghĩa là thừa nhận cái đang tồn tại bằng cách giải thích nó khác đi. Mặc dầu họ đã dùng những lời lẽ khoa trương dường như “làm đảo lộn thế giới”, các nhà tư tưởng của phái Hê-ghen trẻ vẫn là những kẻ đại bảo thủ. Những người trẻ nhất trong bọn họ đã tìm được từ ngữ chính xác để chỉ hoạt động của họ, khi họ tuyên bố rằng họ chỉ đấu tranh chống lại “những câu nói”. Họ chỉ quên có một điều là: ngoài những câu nói ra, họ chẳng có cái gì khác hơn để chống lại những câu nói ấy, và nếu họ chỉ đấu tranh chống lại những câu nói của thế giới thôi thì họ tuyệt nhiên chẳng đấu tranh gì chống lại thế giới hiện thực, hiện tồn ấy cả. Kết quả duy nhất mà sự phê phán triết học ấy có thể đạt được là đem lại một đôi điều thuyết minh về mặt lịch sử tôn giáo, – nhưng lại rất phiến diện – cho đạo Cơ Đốc; tất cả những điều khẳng định khác của họ chỉ là những sự tô điểm thêm nữa cho cái tham vọng của họ cho rằng với những điều thuyết minh không đáng kể ấy, họ đã làm nên những phát hiện có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới.

Không một người nào trong những nhà triết học đó có ý nghĩa tự hỏi xem mối liên hệ giữa triết học Đức với hiện thực Đức là như thế nào, mối liên hệ giữa sự phê phán của họ với hoàn cảnh vật chất của chính bản thân họ là như thế nào.

Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy.

Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống [8]. Vì vậy, điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên. Đương nhiên là ở đây, chúng ta không thể đi sâu nghiên cứu thể chất của bản thân con người, cũng như những điều kiện tự nhiên mà con người thấy có sẵn như điều kiện địa chất, điều kiện địa lý, điều kiện khí hậu và những điều kiện khác [9]. Mọi khoa ghi chép lịch sử đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy và những thay đổi của chúng do hoạt động của con người gây ra trong quá trình lịch sử.

Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình.

Phương thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình, phụ thuộc trước hết vào tính chất của chính những tư liệu sinh hoạt mà con người thấy có sẵn và phải tái sản xuất ra. Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ. Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất ra cũng như với cách họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ.

Sự sản xuất ấy bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên cùng với sự tăng thêm của dân số. Bản thân sự sản xuất ấy lại có tiền đề là sự giao tiếp (Verkehr) giữa những cá nhân với nhau. Hình thức của sự giao tiếp ấy, đến lượt nó, lại do sự sản xuất quy định. [10]

Những quan hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi dân tộc đó về mặt lực lượng sản xuất, sự phân công lao động và sự giao tiếp nội bộ. Nguyên lý đó được mọi người thừa nhận. Song không phải chỉ riêng quan hệ của dân tộc này với các dân tộc khác, mà cả toàn bộ kết cấu trong của bản thân dân tộc đã cùng phụ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất và của sự giao tiếp bên trong và bên ngoài của dân tộc ấy. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động. Bất cứ sức sản xuất mới nào, trong chừng mực không phải chỉ là sự mở đầu đơn thuần về số lượng những lực lượng sản xuất mà người ta đã biết cho đến lúc đó (ví dụ như sự khai phá đất đai mới), cũng đều mang lại kết quả là sự phát triển nữa của phân công lao động.

Sự phân công lao động trong nội bộ một dân tộc trước hết dẫn đến tách rời giữa lao động công nghiệp và thương nghiệp với lao động nông nghiệp, và do đó dẫn đến sự tách rời giữa thành thịnông thôn, và sự đối lập giữa lợi ích của thành thị và nông thôn. Sự phát triển thêm nữa của sự phân công lao động dẫn tới sự tách rời giữa lao động thương nghiệp với lao động công nghiệp. Đồng thời, do sự phân công lao động trong nội bộ những ngành khác nhau ấy mà các loại phân công chi tiết khác nhau giữa các cá nhân hợp tác với nhau trong một loại lao động nhất định cũng phát triển. Mối quan hệ lẫn nhau giữa những sự phân công chi tiết khác nhau này được quy định bởi phương thức sử dụng lao động nông nghiệp, lao động công nghiệp và lao động thương nghiệp (chế độ gia trưởng, chế độ nô lệ, đẳng cấp, giai cấp). Khi sự giao tiếp phát triển hơn nữa thì những mối quan hệ như thế cũng xuất hiện cả trong mối liên hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau.

Những giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu, nghĩa là mỗi giai đoạn của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, tùy theo quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động.

Hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc5. Nó phù hợp với giai đoạn chưa phát triển của sản xuất, khi người ta sống bằng săn bắn và đánh cá, bằng chăn nuôi, hay nhiều lắm là bằng trồng trọt. Trong trường hợp sau thì phải có một số lớn đất đai chưa khai khẩn. Trong giai đoạn ấy, sự phân công lao động còn rất ít phát triển và hạn chế ở chỗ mở rộng hơn nữa sự phân công lao động hình thành một cách tự nhiên trong gia đình. Do đó, cơ cấu xã hội chỉ giới hạn ở sự mở rộng của gia đình: tù trưởng của bộ lạc với ở bên dưới họ, là những thành viên của bộ lạc và cuối cùng là những nô lệ. Chế độ nô lệ tiềm tàng trong gia đình chỉ phát triển dần dần cùng với sự tăng thêm của dân số và của nhu cầu và cùng với việc mở rộng sự giao tiếp đối ngoại, dưới hình thức chiến tranh cũng như dưới hình thức trao đổi.

Hình thức sở hữu thứ hai là sở hữu công xã và sở hữu nhà nước thời cổ; sở hữu này ra đời chủ yếu từ sự tập hợp – bằng hiệp ước hay bằng chinh phục – nhiều bộ lạc thành một thành thị, và dưới chế độ sở hữu này chế độ nô lệ vẫn tiếp tục được duy trì. Cùng với sở hữu công xã thì sở hữu tư nhân về động sản và sau này cả về bất động sản cũng đã phát triển nhưng dưới một hình thức sở hữu ngoại lệ và phụ thuộc vào sở hữu công xã. Chỉ có đứng trong cộng đồng của mình, những công dân mới có quyền lực đối với những nô lệ đang lao động và vì vậy họ cũng đã bị trói buộc vào hình thức sở hữu công xã. Hình thức đó là tư hữu công xã của những công dân tích cực, tức là những người, đứng trước nô lệ, buộc phải duy trì hình thức tự nhiên ấy của sự liên hợp. Vì vậy, toàn bộ cơ cấu xã hội xây dựng trên nền tảng tư hữu công xã ấy – và cùng với nó, quyền lực của nhân dân, – phải tan rã theo mức phát triển của tư hữu bất động sản. Sự phân công lao động đã phát triển hơn. Chúng ta đã thấy có sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, và về sau – sự đối lập giữa những quốc gia đại biểu cho lợi ích của thành thị – và những quốc gia đại biểu cho lợi ích của nông thôn; và ngay bên trong các thành thị, chúng ta thấy có sự đối lập giữa công nghiệp và thương nghiệp hàng hải. Những quan hệ giai cấp giữa công dân và nô lệ đã phát triển hoàn toàn.

Toàn bộ quan niệm đó về lịch sử hình như là mâu thuẫn với việc đi chinh phục. Cho tới nay, người ta vẫn coi bạo lực, chiến tranh, cướp bóc, giết người và ăn cắp, v.v., là động lực của lịch sử. Ở đây, chúng tôi chỉ có thể nói đến những điểm chủ yếu và vì vậy, chúng tôi chọn ra một ví dụ nổi bật nhất – sự phá hủy một nền văn minh lâu đời bởi dân man rợ và sự hình thành từ đó ra một cơ cấu xã hội hoàn toàn mới (La Mã và dân man rợ, chủ nghĩa phong kiến và nước Gô-lơ, Đế chế La Mã phương Đông và người Thổ Nhĩ Kỳ). Như chúng ta đã nói ở trên, bản thân chiến tranh của dân man rợ xâm lược còn là hình thức bình thường của sự giao tiếp mà người ta sử dụng càng rộng rãi tùy theo sự tăng thêm dân số càng tạo ra nhu cầu về tư liệu sản xuất mới, vì phương thức sản xuất cổ truyền thô sơ là phương thức duy nhất có thể có của dân đó. Ngược lại, ở I-ta-li-a, sự tập trung tài sản ruộng đất (không phải chỉ do việc mua bán và nợ nần mà còn do sự thừa kế tạo nên vì lối sống đồi trụy và tình trạng hiếm có cưới xin lúc bấy giờ đã làm cho những dòng họ lâu đời tàn lụi dần đi và tài sản của họ rơi vào tay một số ít người), hơn nữa những ruộng đất canh tác bị biến thành bãi chăn nuôi (điều này không phải chỉ do những nguyên nhân kinh tế thông thường hiện vẫn phát huy tác dụng gây nên mà còn do việc nhập khẩu thóc lúa cướp được hay thu được với tư cách là đồ cống nạp và cả việc thiếu người tiêu thụ thóc lúa I-ta-li-a – do tình trạng đó đẻ ra – gây nên) đã khiến cho số dân tự do hầu như biến mất; ngay nô lệ cũng không ngừng chết dần chết mòn và phải được thường xuyên thay thế bằng nô lệ mới. Chế độ chiếm hữu nô lệ vẫn là cơ sở của toàn bộ nền sản xuất. Những bình dân, ở giữa dân tự do và nô lệ, không bao giờ vươn được lên quá mức độ người vô sản áo rách. Vả lại, La Mã chưa bao giờ vượt qua được giai đoạn là thành thị, nó bị cột chặt vào các địa phương bằng những mối liên hệ hầu như thuần túy chỉ là những mối liên hệ chính trị mà dĩ nhiên là những sự kiện chính trị có thể phá vỡ.

Cùng với sự phát triển của sở hữu tư nhân, ở đây lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện những quan hệ mà chúng ta sẽ lại thấy trong chế độ tư hữu hiện đại, nhưng với quy mô lớn hơn. Một mặt là sự tích tụ của sở hữu tư nhân, được bắt đầu rất sớm ở La Mã (bằng chứng là luật ruộng đất của Li-xi-ni-út [Licinius)6 và phát triển rất nhanh từ khi có những cuộc nội chiến và nhất là dưới thời Đế chế; mặt khác, gắn liền với tình hình trên, là sự biến đổi của những tiểu nông bình dân thành một giai cấp vô sản mà do địa vị trung gian của nó giữa những công nhân có của và những nô lệ, nó không phát triển độc lập được.

Hình thức thứ ba là sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp. Nếu điểm xuất phát của thời cổ là thành thị và lãnh thổ nhỏ của nó thì điểm xuất phát của thời trung cổ lại là nông thôn. Dân cư hiện có thưa thớt và rải rác trên một diện tích rộng, và những người chinh phục mới tới cũng chẳng làm tăng thêm được dân số là bao, đã quyết định sự thay đổi đó của điểm xuất phát. Vì vậy, trái với Hy Lạp và La Mã, sự phát triển phong kiến bắt đầu trên một địa vực rộng hơn nhiều, một địa vực được chuẩn bị bởi những cuộc chinh phục của La Mã và bởi sự mở rộng nông nghiệp mà những cuộc chinh phục ấy đã tạo ra lúc ban đầu. Những thế kỷ cuối cùng của Đế quốc La Mã suy tàn và chính cuộc chinh phục của những người man rợ đối với đế quốc này đã phá hủy một khối lớn những lực lượng sản xuất: nông nghiệp suy sụp, công nghiệp suy đồi vì thiếu nơi tiêu thụ, thương nghiệp đình đốn hay bị bạo lực làm gián đoạn, dân cư ở nông thôn cũng như ở thành thị đều giảm sút. Dưới ảnh hưởng của chế độ quân sự của người Giéc-manh thì hoàn cảnh vốn có đó và cách thức tổ chức chinh phục do hoàn cảnh đó đẻ ra, đã phát triển chế độ sở hữu phong kiến. Cũng như sở hữu bộ lạc và sở hữu công xã, sở hữu phong kiến cũng dựa vào một cộng đồng nhất định, nhưng những kẻ đối lập với cộng đồng này với tư cách là giai cấp trực tiếp sản xuất, không phải là những nô lệ như trong thế giới cổ đại, mà là những người tiểu nông bị nô dịch. Cùng với sự phát triển đầy đủ của chế độ phong kiến, sự đối lập với thành thị cũng xuất hiện. Cơ cấu đẳng cấp của chế độ chiếm hữu ruộng đất và các đội hộ vệ võ trang gắn liền với cơ cấu đẳng cấp đó, đã đem lại cho quý tộc quyền lực đối với nông nô. Cơ cấu phong kiến đó, cũng như chế độ sở hữu công xã thời cổ, vẫn là sự kết hợp nhằm chống lại giai cấp sản xuất bị thống trị; chỉ có hình thức kết hợp và quan hệ với những người sản xuất trực tiếp là khác nhau vì những điều kiện sản xuất cũng khác nhau.

Phù hợp với cơ cấu phong kiến ấy của chế độ chiếm hữu ruộng đất thì ở thành thị có sở hữu phường hội, tức là tổ chức phong kiến của thủ công nghiệp. Ở đây, sở hữu thì chủ yếu là lao động của mỗi cá nhân riêng rẽ. Sự cần thiết phải liên hiệp lại để chống giai cấp quý tộc ăn cướp đã liên hiệp lại, nhu cầu có thị trường chung trong thời kỳ mà nhà công nghiệp đồng thời là nhà buôn, sự cạnh tranh ngày một tăng của nông nô chạy trốn lũ lượt vào thành thị đang phồn thịnh, cơ cấu phong kiến của cả nước, - tất cả những cái đó đã sản sinh ra phường hội; những tư bản nhỏ do một số thợ thủ công riêng lẻ dần dần dành dụm được và số lượng không thay đổi của họ trong dân cư ngày càng đông lên, đã phát triển chế độ thợ bạn và thợ học nghề khiến cho ở thành thị nảy sinh ra một thang bậc đẳng cấp giống như thang bậc đẳng cấp trong cư dân nông thôn.

Như vậy là trong thời đại phong kiến, hình thức chủ yếu của sở hữu, một mặt là sở hữu ruộng đất, với lao động của nông nô đã bị cột chặt vào nó, mặt khác là lao động bản thân tiến hành với một tư bản nhỏ chi phối lao động của thợ bạn. Cơ cấu của cả hai hình thức đó đều được quyết định bởi những quan hệ sản xuất bị hạn chế - nền canh tác ruộng đất thô sơ với quy mô nhỏ và công nghiệp kiểu thủ công. Trong thời kỳ chế độ phong kiến phồn vinh, sự phân công lao động cũng không tiến triển được mấy. Mỗi nước đều mang trong lòng nó sự đối lập giữa thành thị và nông thôn; đành rằng sự phân chia đẳng cấp là rất rõ nét, nhưng ngoài sự phân hoá thành vua chúa, quý tộc, tăng lữ và nông dân ở nông thôn, và sự phân hoá thành thợ cả, thợ bạn, thợ học nghề, rồi chẳng bao lâu thành cả dân làm công nhật ở thành thị thì chưa có sự phân công lao động quan trọng nào cả. Trong nông nghiệp, cái gây khó khăn cho phân công lao động là lối canh tác manh mún, bên cạnh lối canh tác này đã xuất hiện nền công nghiệp gia đình của bản thân nông dân; còn trong công nghiệp thì hoàn toàn không có phân công lao động bên trong mỗi nghề thủ công riêng rẽ, và cũng chỉ có phân công lao động rất ít giữa các nghề thủ công với nhau. Sự phân công giữa công nghiệp và thương nghiệp đã tồn tại từ trước trong những thành thị cũ, nhưng mãi sau này mới phát triển trong những thành thị mới, khi các thành thị bắt đầu quan hệ với nhau.

Sự hợp nhất những vùng tương đối rộng thành những vương quốc phong kiến là một nhu cầu của giai cấp quý tộc ruộng đất cũng như của thành thị. Do đó, bất cứ ở đâu, tổ chức của giai cấp thống trị - giai cấp quý tộc - cũng có một ông vua đứng đầu.

Vậy thì tình hình là như sau: những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một phương thức nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất định. Trong từng trường hợp riêng biệt một, sự quan sát theo kinh nghiệm phải vạch rõ, căn cứ vào kinh nghiệm và không hề thần bí hoá, không hề tư biện, mối liên hệ giữa cơ cấu xã hội và chính trị với sự sản xuất. Cơ cấu xã hội và nhà nước luôn luôn nảy sinh ra từ quá trình sinh sống của những cá nhân nhất định, không phải của những cá nhân đúng như bản thân những cá nhân ấy có thể tự hình dung hay đúng như người khác có thể hình dung, mà là của những cá nhân đúng như trong hiện thực, nghĩa là đúng như họ đang hành động, sản xuất một cách vật chất, tức là đúng như họ hành động trong những giới hạn, tiền đề và điều kiện vật chất nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ. [11]

Sự sản xuất ra những ý niệm, những quan niệm và ý thức thì lúc đầu là trực tiếp gắn liền mật thiết với hoạt động vật chất và với sự giao tiếp vật chất của con người – ngôn ngữ của cuộc sống hiện thực. Ở đây, những quan niệm, tư duy, sự giao tiếp tinh thần của con người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của các quan hệ vật chất của họ. Đối với sự sản xuất tinh thần, đúng như nó biểu hiện trong ngôn ngữ của chính trị, của luật pháp, của tôn giáo, của siêu hình học, v.v., trong một dân tộc thì cũng thế. Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, v.v. của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất của những sự giao tiếp đó. Ý thức [das Bewubtsein] không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức [das bewubt Sein], và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của con người. Nếu như trong toàn bộ hệ tư tưởng, con người và những quan hệ của họ bị đảo ngược như trong một camera obscura [12]thì hiện tượng đó cũng sinh ra từ quá trình đời sống lịch sử của con người, hoàn toàn đúng y như hình ảnh đảo ngược của những vật trên võng mạc là sinh ra từ quá trình đời sống thể chất trực tiếp của con người.

Hoàn toàn trái với triết học Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây chúng ta từ dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không xuất phát từ những điều mà con người nói, tưởng tượng, hình dung, chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt; không, chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời sống ấy. Ngay cả những ảo tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng là những vật thăng hoa tất yếu của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá trình có thể xác định được bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật chất. Như vậy thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ tư tưởng cùng với những hình thái ý thức tương ứng với chúng, liền mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển; chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức. Theo cách xem xét thứ nhất, người ta xuất phát từ ý thức, coi đó là cá nhân sống; theo cách thứ hai, là cách phù hợp với đời sống hiện thực, người ta xuất phát từ chính ngay những cá nhân sống, hiện thực và coi ý thức chỉ là ý thức của họ mà thôi.

Cách xem xét này không phải không có tiền đề. Nó xuất phát từ những tiền đề hiện thực và không phút nào xa rời những tiền đề ấy. Những tiền đề ấy là những con người, không phải những con người ở trong một tình trạng biệt lập và cố định tưởng tượng mà là những con người trong quá trình phát triển – quá trình phát triển hiện thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm – của họ dưới những điều kiện nhất định. Một khi người ta mô tả quá trình hoạt động sinh sống ấy thì lịch sử không còn là một tập hợp những sự kiện chết như ở những người kinh nghiệm chủ nghĩa là những người vẫn còn là trừu tượng, hay cũng không còn là hoạt động tưởng tượng của những chủ thể tưởng tượng, như ở các nhà duy tâm chủ nghĩa nữa.

Chính nơi mà tư biện dừng lại, – chính trong đời sống hiện thực – là nơi bắt đầu khoa học thực sự, thực chứng, sự miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự phát triển của con người. Những luận điệu trống rỗng về ý thức chấm dứt; thay cho những luận điệu đó phải là tri thức thực sự. Hiện thực mà được mô tả thì triết học độc lập sẽ mất môi trường tồn tại. Cùng lắm thì người ta cũng chỉ có thể thay thế nó bằng sự tổng hợp những kết quả chung nhất mà người ta có thể trừu tượng hoá từ việc quan sát sự phát triển lịch sử của con người. Những sự trừu tượng này, tách rời khỏi lịch sử hiện thực thì tự bản thân chúng hoàn toàn chẳng có giá trị gì hết. Chúng chỉ có thể dùng để sắp xếp tư liệu lịch sử được dễ dàng hơn, để chỉ ra thứ tự của các tầng lớp riêng rẽ của những tư liệu ấy. Nhưng khác với triết học, những sự trừu tượng ấy hoàn toàn không mang lại một phương pháp hay một sơ đồ theo đó người ta có thể sắp xếp các thời đại lịch sử cho ăn khớp. Ngược lại, khó khăn chỉ bắt đầu khi người ta bắt tay vào xem xét và sắp xếp tư liệu ấy, – dù đó là tư liệu của một thời đại đã qua hay của thời hiện tại, – và khi bắt tay vào việc thực sự miêu tả tư liệu ấy. Việc loại trừ những khó khăn đó tùy thuộc vào những tiền đề mà chúng ta hoàn toàn không thể đề ra ở đây được mà là những tiền đề chỉ xuất hiện từ việc nghiên cứu quá trình của đời sống hiện thực và của hoạt động của những cá nhân trong từng thời đại một. Ở đây, chúng ta lấy ra một vài sự trừu tượng ấy mà chúng ta sử dụng để đối lập lại hệ tư tưởng, và giải thích những sự trừu tượng ấy bằng những ví dụ lịch sử.

(còn tiếp)

Nguồn: C.Mác và Ph.Ăng-ghen. Toàn tập. Tập 3. (1845-1847). Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia, 1995. Bản điện tử: https://www.cpv.org.vn

[1]
Stơ-rau-xơ (Strauß), Đa-vít Phri-đrích (1808 – 1874) – nhà triết học và nhà chính luận Đức, một phần tử xuất sắc của phái Hên-ghen trẻ; sau năm 1866, là một phần tử dân tộc tự do chủ nghĩa.



[2]Đi-a-đốc [Diadochi] là những tướng lĩnh của A-lếch-xan-đrơ Ma-xê-đoan đã tiến hành đấu tranh khốc liệt với nhau để tranh quyền sau khi A-lếch-xan-đrơ chết. Trong quá trình diễn biến của cuộc đấu tranh ấy (cuối thế kỷ IV đến đầu thế kỷ III trước công nguyên) chế độ quân chủ A-lếch-xan-đrơ vốn là một liên minh quân sự – hành chính không bền vững, đã bị phân liệt thành nhiều nhà nước riêng biệt.


[3]nghĩa đen: cái đầu chết; ở đây: hài cốt.


[4]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Vì vậy, trước khi phê phán riêng những đại biểu khác nhau của phong trào đó, chúng tôi nêu lên một số những nhận xét chung, để làm sáng tỏ những tiền đề tư tưởng chung của họ. Những nhận xét ấy cũng đủ để nói rõ quan điểm phê phán của chúng tôi, trong chừng mực chúng là cần thiết để hiểu được những lời phê phán tiếp đó và đủ để làm cơ sở cho những lời phê phán ấy. Sở dĩ những nhận xét này là nhằm chính vào Phoi-ơ-bắc, đó là vì ông là người duy nhất đã ít nhất là tiến được một vài bước và là người duy nhất mà tác phẩm có thể đem nghiên cứu de bonne foi (một cách nghiêm túc) được.
1. Hệ tư tưởng nói chung, triết học Đức nói riêng.
A. Chúng ta chỉ biết có một khoa học duy nhất, khoa học lịch sử. Có thể xem xét lịch sử dưới hai mặt, có thể chia lịch sử ra thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời nhau. Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau. Ở đây, chúng ta không nói đến lịch sử tự nhiên, tức là cái người ta gọi là khoa học tự nhiên; trái lại,chúng ta phải nghiên cứu lịch sử nhân loại, bởi vì, hầu như toàn bộ hệ tư tưởng quy lại thành hoặc là một quan niệm sai về nhân loại, hoặc là đi đến chỗ hoàn toàn bỏ qua lịch sử đó. Bản thân hệ tư tưởng chẳng qua cũng chỉ là một trong những mặt của lịch sử đó”.


[5]Stiếc-nơ (Stirner), Ma-xơ (bút danh của Ca-xpa Smít) (1806 – 1856) – nhà triết học Đức, theo phái Hê-ghen trẻ, một trong những nhà tư tưởng của chủ nghĩa cá nhân tư sản và chủ nghĩa vô chính phủ.


[6]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “nó có tham vọng làm kẻ cứu tinh tuyệt đối của thế giới, cứu thế giới khỏi mọi tai họa. Tôn giáo đã luôn luôn được coi là nguyên nhân cuối cùng gây ra mọi quan hệ bị những nhà triết học ấy căm ghét là kẻ thù từ thủa xa xưa và luôn bị đối xử như vậy”.


[7]toàn bộ từ đầu đến cuối.


[8]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Hành động lịch sử đầu tiên của những cá nhân đó, hành động mà nhờ đó họ khác với loài vật, không phải là việc họ tư duy mà là việc họ bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho họ“.


[9]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Nhưng những điều kiện ấy không những chỉ quy định tổ chức cơ thể nguyên thủy, nảy sinh một cách tự nhiên của con người, đặc biệt là những sự khác biệt về chủng tộc giữa họ với nhau mà còn quy định toàn bộ sự phát triển sau này hoặc sự không phát triển sau này của tổ chức ấy cho đến ngày nay”.


[10]Thuật ngữ “Verkehr” trong “Hệ tư tưởng Đức” có một nội dung rất rộng. Thuật ngữ này bao hàm sự giao tiếp về vật chất và tinh thần của những cá nhân, của những tập đoàn xã hội và của nhiều nước. Mác và Ăng-ghen đã chỉ ra trong tác phẩm này rằng sự giao tiếp về vật chất, trước hết là sự giao tiếp của con người trong quá trình sản xuất, là cơ sở của bất cứ sự giao tiếp nào khác. Những thuật ngữ “Verkehrsform”, “Verkehrsweise”, “Verkehrsverhältnisse” (“hình thái giáo tiếp”, “phương thức giao tiếp”, “quan hệ giao tiếp”), được dùng trong “Hệ tư tưởng Đức” biểu thị khái niệm quan hệ sản xuất đã được hình thành ở Mác và Ăng-ghen trong thời gian ấy.


[11]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Những quan niệm của những cá nhân ấy về mình là những ý niệm hoặc về những quan hệ của họ với tự nhiên, hoặc về những quan hệ giữa họ với nhau, hoặc về bản chất tự nhiên của họ. Rõ ràng là trong tất cả các trường hợp này, những quan niệm ấy đều là sự biểu hiện có ý thức – hiện thực hay tưởng tượng – của những quan hệ hiện thực và hoạt động hiện thực của họ, của sản xuất của họ, của sự giao tiếp của họ, của tổ chức xã hội và chính trị của họ. Chỉ có thể đưa ra một giả thiết ngược lại với điều nói trên, nếu như ngoài tinh thần của những cá nhân hiện thực và bị quy định bởi vật chất, người ta giả định rằng còn có một tinh thần đặc biệt nào đó nữa. Nếu sự biểu hiện có ý thức của những cá nhân ấy về các quan hệ hiện thực là một sự biểu hiện hư ảo, nếu như trong những quan niệm của họ, họ đặt hiện thực ngược đầu xuống đất thì hiện tượng đó lại cũng là một hậu quả của tính hạn chế của phương thức hoạt động vật chất của họ và cũng những quan hệ xã hội hạn chế của họ do phương thức hoạt động ấy sản sinh ra”.


[12]– buồng tối của máy ảnh.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top