Em hãy phân tích bài Đồng chí của Chính Hữu

thich van hoc

Moderator
Thành viên BQT
ĐỀ BÀI

Em hãy phân tích bài Đồng chí của Chính Hữu.

BÀI LÀM

Trong những tháng ngày kháng chiến trường kỳ chống ngoại xâm của dân tộc, biết bao người đã hăng hái lên đường. Chiến trường là nơi hội tụ của hàng triệu tấm lòng yêu nước. Họ ra đi bỏ lại sau lưng một vòm trời thân thuộc, một giếng nước, gốc đa, mái đình cổ kính… để dấn thân vào cuộc sống gian lao đầy thử thách. Dần dần tình cảm giữa người và người càng trở nên sâu sắc, nó đan kết thành mối tình đồng chí. Nửa thế kỷ đã chắp cánh bay đi nhưng bài thơ Đồng chí của Chính Hữu vẫn còn đó, đọng mãi trong tâm hồn mỗi người, giúp ta hiểu rõ hơn cuộc kháng chiến chống Pháp của ông cha mình.

Quê hương anh nước mặn đồng chua
.....

Đầu súng trăng treo.


Quê hương mỗi người mỗi khác, cũng như quê hương của những người trai hùng đều có nét đặc biệt riêng của nó.

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi ngừơi xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.

Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động, chỉ quen với việc cấy cày, xem con trâu là bạn. Họ đến từ nơi “nước mặn đồng chua” hay “đất cày lên sỏi đá” và chẳng ai quen ai, họ chỉ là đôi người xa lạ ở hai phương trời. Câu thơ gợi lên sự cảm thông suy nghĩ đồng điệu của những con người cùng cảnh ngộ. Thành ngữ “nước mặn đồng chua” đi vào thơ thật tự nhiên, giản dị như cuộc sống lam lũ gian nan của họ và họ đã:

Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ


“Súng bên súng” và “đầu bên đầu”, họ đã thật sự cùng chung hành động, chung chí hướng rồi đây! Trong đêm lạnh giá, gian khổ, họ chia sẻ cho nhau chiếc chăn đơn và suy nghĩ về những gì tươi sáng của cuộc đời. Đọc đến đây, ta không khỏi nhớ đến hai câu thơ của Tố Hữu:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng

Mong manh quá phải không? Chiếc chăn đơn làm sao sưởi ấm đêm trường! Thế nhưng nó đã ấp ủ tình đồng chí từ rất lâu.

Tiếng thơ da diết phút chốc bỗng ngắt riêng ra thành hai tiếng hay đúng hơn là một câu thơ: “Đồng chí”, buộc độc giả phải dừng lại ngẫm nghĩ điều mà hai tiếng ấy đã gợi lên. Phải chăng tình đồng đội của họ đầy ắp đến không còn gì để tả xiết hay nó quá thân thương? Họ cùng chung con đường, chung lý tưởng và tình bạn được nâng cao mãi thành mối tình “đồng chí”. Hai tiếng “đồng chí” nghe sao quen thuộc, giản dị được đúc nên do quá trình bồi đắp của tình cảm con người! Và dấu chấm than đi sau hai tiếng ấy bỗng chứa chất và ngân rung mãi sợi dây tình cảm. Hai tiếng, hai tiếng thôi mà nói được rất nhiều…

Đọc tiếp bài thơ, ta càng thấy tình đồng chí sâu sắc đến dường nào.

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nứơc gốc đa nhớ ngừơi ra lính

Quả thực, họ đã gác bỏ mọi thứ vốn đã ấp ủ và gắn chặt họ với xóm làng thân thuộc. Họ ra đi để tìm một lý tưởng cao hơn nữa, đó là tình yêu đất nước, yêu quê hương. Đến đây, ta liên tưởng đến hai câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Người lính ra đi còn biết làm gì khác ngoài giải phóng cho chính quê hương mình. Đồng ruộng và gian nhà kia đang bị nỗi hoang vắng bao trùm. Ruộng thì gửi bạn thân cày, gian nhà thì “mặc kệ” gió lung lay. Dường như tất cả đều vô tư lự, cứ để cho nó tự nhiên đến. “Mặc kệ” hay “đầu không ngoảnh lại” buộc thốt lên chẳng qua để chế ngự những tình cảm bên trong vốn thắm thiết đang dằn vặt họ.

Nhưng không, hãy nhìn giếng nước và gốc đa kia đi! Chúng cũng có tâm hồn đấy chứ! Chúng cũng nhớ người trai ra đi vì nghĩa cả. Từ “nhớ” như xoáy vào lòng người ra đi bởi những cái tưởng như không là gì mà biết nhớ nhung, chời đợi. Đó là những lúc tựa gối bên nhau, họ lại kể cho nhau nghe chuyện quê nhà. Chỉ với ba câu thơ thôi mà đã diễn tả được cái xác xơ, tiêu điều của quê hương anh thời lửa đạn. Họ phải ra đi, ra đi để giải phóng cho quê hương mình, có gì đâu để mà tiếc mà thương.

Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Những đêm trời trở rét, họ đã và phải hứng chịu tất cả. Còn gì đáng sợ bằng những cơn sốt rét hành hạ bản thân anh, chúng như con ma rừng ám ảnh chiến sĩ Trường Sơn heo hút. Dẫu cho vầng trán có đẫm mồ hôi vì cơn sốt rét, dẫu cho:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá.

Thì anh vẫn:
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay.

Đêm nay gió rét lại về và đêm nay các anh lại phải đứng chờ giặc. Cảm động làm sao khi giữa trời khuya lộng gió có những con người đứng gác trên núi đá cheo leo hay giữa đồng không mông quạnh. Sương muối rót vào lòng khác chi ướp một tảng băng vào người. Thế nhưng các anh vẫn đứng đó vàe các anh mãi đứng đó, đứng để chờ giặc hay đứng để chờ một ngày mai rực rỡ!

Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo!

Từ “đứng” chung hành động và từ “chờ” cũng lại chung cùng một hành động. Ý thơ thật hiên ngang mà cũng thật thầm kín.

Hình ảnh “đầu súng trăng treo” quả là sinh động. Hai hình ảnh súng và trăng sao gần gũi đến lạ. Chúng dường như đã sẵn là xa nhau đến vời vợi mà giờ đây lại kề cận bên nhau. Súng – hình ảnh chiến sĩ; trăng – hình ảnh thi sĩ. Súng – chiến trường ác liệt, trăng – hình ảnh thanh bình. Không phải ngẫu nhiên thơ Chính Hữu lại có hình ảnh súng và trăng lãng mạn. Dường như nó đã được đặt sẵn lúc nào không hay bởi người chiến sĩ đôi lúc cũng phải thả hồn mình để bay bổng lên cao, hay bị chị Hằng làm say bởi ánh sáng tựa như mơ hồ của trăng mây và gió. Thơ Chính Hữu trữ tình và lãng mạn, nó thấm đượm tinh thần đồng đội và cao hơn nữa là tình “đồng chí”. Hình ảnh trăng và súng là một bởi nó đã gắn bó với ông trong suốt trường kỳ cách mạng.

Đọc thơ Chính Hữu, chắc ai cũng ít nhiều hiểu được tâm tư tình cảm của người chiến sĩ. Những con người đã quên mình vì sự nghiệp giải phóng cho quê hương, đất nước.

NGUYỄN THỊ KIM HUỆ
Lớp 9A2, Trường THCS Bến Cát, Bình Dương*

 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Đề bài: Từ hiểu biết về bài “Đồng chí”, em hãy viết một đoạn thơ theo luận đề: Đồng chí mang một vẻ đẹp của thời đại mới.

Gợi ý


- Vẻ đẹp của thời đại mới trong hình tượng thơ ở đây là tình đồng chí, đồng đội gắn với giai cấp của người lính.

- Bài thơ khai thác đời sống nội tâm, tình cảm của người lính, vẻ đẹp của bài thơ Đồng chí là vẻ đẹp đời sống tâm hồn người lính, nơi phát ra vầng sáng lung linh nhất của tình đồng chí, đồng đội: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

- Khi người lính: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” là họ đã truyền cho nhau hơi ấm để chống chọi với cái rét run người nơi đại ngàn. Những đêm rừng hoang sương muối…

- Trong cái cầm tay nhau ấy, hình ảnh đất nước, và tình thần đoàn kết giai cấp được diễn đạt thật cao đẹp, cô đọng và thuyết phục.

- Từ tình cảm cao đẹp và lí tưởng sáng ngời: “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” đó mà hình ảnh người lính được nâng lên tầm cao khái quát trong đó có sự hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn, trữ tình. Đầu súng trăng treo mang ý nghĩa sâu sắc cho tinh thần thời đại.
 
Đề bài: Ý nghĩa của nhan đề bài thơ Đồng chí

Gợi ý

- Đồng chí là tên gọi của một tình cảm mới, đặc biệt xuất hiện và phổ biến trong những năm cách mạng và kháng chiến.

- Tên bài thơ gợi chủ đề của tác phẩm: viết về tình đồng chí ở những người lính trong chống Pháp – những người nông dân ra lính. Với họ tình đồng chí là một tình cảm mới mẻ.

- Tình đồng chí là cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách mạng, trong bài thơ tác giả đã tập trung làm nổi bật nội dung này.

- Là nốt nhấn và là lời khẳng định về tình đồng chí.
 
PHÂN TÍCH BÀI THƠ ĐỒNG CHÍ CỦA CHÍNH HỮU

“Đồng chí” là bài thơ hay nhất của Chính Hữu viết về người nông dân mặc áo lính trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ được viết vào đầu xuân 1948, sau chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, nó đã đi qua một hành trình nửa thế kỉ, làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu.

Hai mươi dòng thơ, với ngôn ngữ bình dị, giọng điệu thủ thỉ tâm tình, cảm xúc dồn nén, hình tượng thơ phát sáng, có một vài câu thơ để lại nhiều ngỡ ngàng cho bạn đọc trẻ ngày nay.

Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh gaiwcj trong những năm đầu gian khổ thời 9 năm kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954).

Hai câu thơ đầu cấu trúc song hành, đối xứng làm hiện lên hai “gương mặt” người chiến sĩ rất trẻ, như đang tâm sự cùng nhau. Giọng điệu tâm tình của một tình bạn thân thiết:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua,
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Quê hương anh và làng tôi đều nghèo khổ, là ngơi “nước mặn, đồng chua”, là xứ sở “đất cày lên sỏi đá”. Mượn tục ngữ, thành ngữ để nói về làng quê, nơi chôn rau cắt rốn thân yêu của mình. Chính Hữu đã làm cho lời thơ bình dị, chất thơ mộc mạc, đáng yêu như tâm hồn người trai cày ra trận đánh giặc. Sự đồng cảnh, đồng cảm và thấu hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc làm nên tình bạn, tình đồng chí sau này.

Năm câu thơ tiếp theo nói lên một quá trình thương mến: từ “đôi người xa lạ” rồi “thành đôi tri kỉ”, về sau kết thành “đồng chí”. Câu thơ biến hóa, 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống 2 từ, cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kì: “Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”

“Súng bên súng” là cách nói hàm súc, hình tượng: cùng chung lí tưởng chiến đấu; “anh với tôi” cùng ra trận đánh giặc để bảo vệ đất nước quê hương, vì độc lập, tự do và sự sống còn của dân tộc. “Đầu sát bên đầu” là hình ảnh diễn tả ý hợp tâm đầu của đôi bàn tâm giao. Câu thơ “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” là câu thơ hay và cảm động, đầy ắp kỉ niệm một thời gian khổ. Chia ngọt sẻ bùi mới “thành đôi tri kỉ”. “Đôi tri kỉ” là đôi bạn rất thân, biết bạn như biết mình. Bạn chiến đầu thành tri kỉ, về sau trở thành đồng chí! Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí!” diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp. Tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu của những người binh nhỉ cốn là những trai cày giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Các từ ngữ được sử dụng làm vị ngữ trong vần thơ: bên, sát, chung, thành – đã thể hiện sự gắn bó thiết tha của tình tri kỉ, tình đồng chí. Cái tấm chăn mỏng mà ấp áp tình tri kỉ, tình đồng chí ấy mãi mãi là kỉ niệm đẹp của người lính, không bao giờ có thể quên:
“Ôi núi thẳm rừng sâu
Trung đội cũ về đâu
Biết chăng chiều mưa mau
Nơi dây chăn giá ngắt
Nhớ cái rét ban đầu
Thấm mối tình Việt Bắc…”
(“Chiều mưa đường số 5” – Thâm Tâm)

Ba câu thơ tiếp theo nói lên hai người đồng chí cùng nhau một nỗi nhớ: nhớ ruộng nương, nhớ bạn thân cày, nhớ gian nhà, nhớ giếng nước, gốc đa. Hình ảnh nào cũng thắm thiết một tình quê vơi đầy:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay,
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”

Giếng nước gốc đa là hình ảnh thân thương của làng quê được nói nhiều trong ca dao xưa: “Cây đa cũ, bến đò xưa…Gốc đa, giếng nước, sân đình…”, được Chính Hữu vận dụng, đưa vào thơ rất đậm đà, nói ít mà gợi nhiều, thấm thía. Gian nhà, giếng nước, gốc đa được nhân hóa, đang đêm ngày dõi theo bóng hình anh trai cày ra trận? Hay “người ra lính” vẫn đêm ngày ôm ấp hình bóng quê hương? Có cả hai nỗi nhớ ở cả hai phía chân trời. Tình yêu quê hương đã góp phần hình thành tình đồng chí, làm nên sức mạnh tinh thần để người lính vượt qua mọi thử thách gian lao, ác liệt thời máu lửa. Cũng nói về “nỗi nhớ” ấy, trong bài thơ “Bao giờ trở lại”, Hoàng Trung Thông viết:
“Bấm tay tính buổi anh đi,
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê
Anh đi là để giữ quê quân mình
Cây đa bến nước sân đình
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường
Hoa cau thơm ngát đầu nương
Anh đi là giữ tình thương dạt dào.
(…)Anh đi chín đợi mười chờ,
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh?”

Bảy câu thơ tiếp theo ngồn ngộn những chi tiết rất thực phản ánh hiện thực kháng chiến buổi đầu. Sau 80 năm bị thực dân Pháp thống trị, nhân dân ta đã quật khởi đứng lên giành lại non sông. Rồi với gậy tầm vông, với giáo mác…. Nhân dân ta phải chống lại xe tăng, đại bác của giặc Pháp xâm lược. Những ngày đầu kháng chiến, quân và dân ta trải qua muôn vàn khóc khăn: thiếu vũ khí, thiếu quân trang, thiếu lương thực, thuốc men,… Người lính ra trận “áo vải chăn không đi lùng giặc đánh”, áo quần rách tả tơi, ốm đau bệnh tật, sốt rét rừng, “Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”:
“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hồi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày…”

Chữ “biết” trong đoạn thơ này nghĩa là nếm trải, cùng chung chịu gian nan thử thách. Các chữ “anh với tôi”, “áo anh…quần tôi” xuất hiện trong đoạn thơ như một sự kết dính, gắn bó keo sơn tình đồng chí thắm thiết cao đẹp. Câu thơ 4 tiếng cấu trúc tương phản: “Miệng cười buốt giá” thể hiện sâu sắc tinh thần lạc quan của hai chiến sĩ, hai đồng chí. Đoạn thơ được viết dưới hình thức liệt kê, cảm xúc từ dồn nén bỗng ào lên: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Tình thương đồng đội được biểu hiện bằng cử chỉ thân thiết, yêu thương: “tay nắm lấy bàn tay”. Anh nắm lấy tay tôi, tôi nắm lấy bàn tay anh, để động viên nhau, truyền cho nhau tình thương và sức mạnh, để vượt qua mọi thử thách, “đi tới và làm nên thắng trận”.

Phần cuối bài thơ ghi lại cảnh hai người chiến sĩ – hai đồng chí trong chiến đấu. Họ cùng “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Cảnh tượng chiến trường là “rừng hoang sương muối”, một đêm đông vô cùng lạnh lẽo hoang vu giữa núi rừng chiến khu. Trong gian khổ ác liệt, trong căng thẳng “chờ giặc tới” , hai chiến sĩ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vào sinh ra tử có nhau. Đó là một đêm trăng trên chiến khu. Một tứ thơ đẹp bất ngờ xuất hiện:
“Đầu súng trăng treo”

Người chiến sĩ trên đường ra trận thì “ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Người lính đi phục kích giặc giữa một đêm đông “rừng hoang sương muối” thì có “đầu súng trăng treo”. Cảnh vừa thực vừa mộng. Về khuya trăng tà, trăng lơ lửng trên không như đang treo vào đầu súng. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp đất nước thanh bình. Súng mang ý nghĩa cuộc chiến đấu gian khổ hi sinh. “Đầu súng trăng treo” là một hình ảnh thơ mộng, nói lên trong chiến đấu gian khổ, anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó, họ cùng mơ ước một ngày mai đất nước thanh bình. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một sáng tạo thi ca mang vẻ đẹp lãng mạn của thơ ca kháng chiến, đã được Chính Hữu lấy nó đặt tên cho tập thơ – đóa hoa đầu mùa của mình. Trăng Việt Bắc, trăng giữa núi ngàn chiến khu, trăng trên bầu trời, trăng tỏa trong màn sương mờ huyền ảo. Mượn trăng để tả cái vầng trăng vắng lặng của chiến trường, để tô đậm cái tư thế trầm tĩnh “chờ giặc tới”. Mọi gian nan căng thẳng của trận đánh sẽ diễn ra đang nhường chỗ cho vẻ đẹp huyền diệu, thơ mộng của vầng trăng, và chính đó cũng là vẻ đẹp cao cả thiêng liêng của tình đồng chí, tình chiến đấu.

Bài thơ “Đồng chí” vừa mang vẻ đẹp giản dị, bình dị khi nói về đời sống vật chất của người chiến sĩ, lại vừa mang vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng, thơ mộng khi nói về đời sống tâm hồn, về tình đồng chí của các anh – người lính binh nhì
buổi đầu kháng chiến.

Ngôn ngữ thơ hàm súc, mộc mạc như tiếng nói của người lính trong tâm sự, tâm tình. Tục ngữ, thành ngữ, ca dao được Chính Hữu vận dụng rất linh hoạt, tạo nên chất thơ dung dị, hồn nhiên, đậm đà. Sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và màu sắc lãng mạn chung đúc nên hồn thơ chiến sĩ.

“Đồng chí” là bài thơ rất độc đáo viết về anh bộ đội Cụ Hồ - người nông dân mặc áo lính, những anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Bài thơ là một tượng đài chiến sĩ tráng lệ, mộc mạc và bình dị, cao cả và thiêng liêng.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top