• HÃY CÙNG TẠO & THẢO LUẬN CÁC CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC [Vn Kiến Thức] - Định hướng VnKienthuc.com
    -
    Mọi kiến thức & Thông tin trên VnKienthuc chỉ mang tính chất tham khảo, Diễn đàn không chịu bất kỳ trách nhiệm liên quan
    - VnKienthuc tạm khóa đăng ký tài khoản tự động để hạn chế SEO bẩn, SPAM, quảng cáo. Chưa đăng ký, KHÁCH vẫn có thể đọc và bình luận.

Đọc hiểu văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương"

hoangphuong

New member
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích Truyền kì mạn lục - Nguyễn Dữ)
I- T ÌM HIỂU CHUNG

1. Tác giả:


Nguyễn Dữ (chưa rõ năm sinh, năm mất), người huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, là thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền bính, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài. Ông học rộng, tài cao, nhưng chỉ làm quan có một năm rồi xin nghỉ.

2. Tác phẩm:


Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Dữ là Truyền kì mạn lục, gồm 20 truyện viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả.
Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương của tác giả đối với số phận oan nghiệt, đồng thời ca ngợi vẻ đẹp truyền thống của của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.

... Về mặt nội dung, Truyền kì mạn lục chứa đựng nội dung phản ánh hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm cũng đồng thời cho thấy những phức tạp trong tư tưởng nhà văn.

Nguyễn Dữ phản ánh hiện thực xã hội thời đại mình qua thể truyền kì nên tác giả thường lấy xưa để nói nay, lấy cái kì để nói cái thực. Đọc Truyền kì mạn lục nếu biết bóc tách ra cái vỏ kì ảo sẽ thấy cái cốt lõi hiện thực, phủi đi lớp sương khói thời gian xưa cũ, sẽ thấy bộ mặt xã hội đương thời. Đời sống xã hội dưới ngòi bút truyền kì của nhà văn hiện lên khá toàn diện cuộc sống người dân từ bộ máy nhà nước với quan tham lại nhũng đến những quan hệ với nền đạo đức đồi phong bại tục.

Nếu khi phê phán, tố cáo hiện thực xã hội, Nguyễn Dữ chủ yếu đứng trên lập trường đạo đức thì khi phản ánh số phận con người, ông lại xuất phát tự lập trường nhân văn. Chính vì vậy, Truyền kì mạn lục chứa đựng một nội dung nhân đạo sâu sắc. Về phương diện này, Nguyễn Dữ là một trong những nhà văn mở đầu cho chủ nghĩa nhân văn trong văn học trung đại Việt Nam. Truyền kì mạn lục phản ánh số phận con người chủ yếu qua số phận của người phụ nữ, đồng thời hướng tới những giải pháp xã hội, nhưng vẫn bế tắc trên đường đi tìm hạnh phúc cho con người". (Từ điển văn học - NXB Thế giới, 2005).

3. Thể loại:


Truyện truyền kì là những truyện kì lạ được lưu truyền. Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ là sự ghi chép tản mạn về những truyện ấy. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán, khai thác các truyện cổ dân gian, các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Nhân vật chính trong Truyền kì mạn lục phần lớn là những người phụ nữ đức hạnh nhưng lại bị các thế lực phong kiến, lễ giáo khắc nghiệt xô đẩy vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất. Bên cạnh đó còn có kiểu nhân vật là những người trí thức có tâm huyết nhưng bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình vào vòng danh lợi chật hẹp.

4. Tóm tắt:

Câu chuyện kể về Vũ Thị Thiết - người con gái quê ở Nam Xương, tính tình nết na thuỳ mị. Lấy chồng là Trương Sinh chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già và nuôi con nhỏ. Để dỗ con, nàng thường chỉ bóng mình trên tường và bảo đó là cha nó. Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói. Đứa bé ngây thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm vẫn đến nhà. Trương Sinh sẵn có tính ghen, mắng nhiếc và đuổi vợ đi. Phẫn uất, Vũ Thị Thiết chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi oan của vợ thì đã muộn, Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng.

Cũng có thể tạm chia truyện thành hai phần, lấy mốc là việc Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử:

- Đoạn 1 (từ đầu đến "và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ"): bị chồng nghi oan. Vũ Nương tự vẫn.

- Đoạn 2 (còn lại): nỗi oan được giải, Vũ Nương được cứu sống nhưng vẫn không trở về đoàn tụ cùng gia đình.

II- GIÁ TRỊ TÁC PHẨM


Có lẽ người Việt Nam chúng ta ai cũng hiểu và biết cách sử dụng cụm từ "oan Thị Kính"  một nỗi oan khuất mà người bị oan không có cách gì để thanh minh. Thị Kính chỉ được giải oan nhờ Đức Phật hay nói đúng hơn là nhờ tấm lòng bao dung độ lượng, luôn hiểu thấu và sẵn sàng bênh vực cho những con người bé nhỏ, thua thiệt, oan ức trong xã hội của những nghệ sĩ dân gian.

Người phụ nữ trong Chuyện người con gái Nam Xương không có được cái may mắn như Thị Kính mặc dù nỗi oan của nàng cũng không kém gì, thậm chí kết cục còn bi thảm hơn. Thị Kính được lên toà sen trong khi người phụ nữ này phải tìm đến cái chết để chứng tỏ sự trong sạch của mình. Mặc dù vậy, nhân vật này vẫn không được nhiều người biết đến, có lẽ bởi phương thức kể. Ai cũng biết đến Thị Kính vì câu chuyện về nàng được thể hiện qua một vở chèo  một loại hình nghệ thuật dân gian quen thuộc, được nhân dân ưa thích từ xa xưa, trong khi Người con gái Nam Xương là một tác phẩm văn học viết thời trung đại (trong điều kiện xã hội phong kiến, nhân dân lao động hầu hết đều không biết chữ). Ngày nay đọc lại tác phẩm này, chúng ta có thể hiểu thêm rất nhiều điều về thân phận những người phụ nữ trong xã hội phong kiến qua nghệ thuật dựng truyện, dẫn dắt mạch truyện cũng như nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách thức kết hợp các phương thức tự sự, trữ tình và kịch của tác giả.

Trong phần đầu của truyện, trước khi biến cố lớn xảy ra, tác giả đã dành khá nhiều lời để ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ, từ nhan sắc cho đến đức hạnh. Hầu như không có sự kiện nào thật đặc biệt ngoài những chi tiết (tiễn chồng đi lính, đối xử với mẹ chồng...) chứng tỏ nàng là một người con gái đẹp người đẹp nết, một người vợ hiền, một người con dâu hiếu thảo. Chỉ có một chi tiết ở đoạn mở đầu: "Song Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức". Bạn đọc có thể dễ bỏ qua chi tiết này vì với phẩm hạnh của nàng, dẫu Trương Sinh có đa nghi đến đâu cũng khó có thể xảy ra chuyện gì được.

Nhưng đó lại là một chi tiết rất quan trọng, thể hiện tài kể chuyện của tác giả. Chi tiết nhỏ được cài rất khéo đó chính là sợi dây nối giữa phần trước và phần sau, xâu chuỗi các yếu tố trong truyện, đồng thời giúp bạn đọc hiểu được nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Mạch truyện được dẫn rất tự nhiên. Sau khi giặc tan, Trương Sinh trở về nhà, bế đứa con nhỏ ra thăm mộ mẹ. Thằng bé quấy khóc, khi Sinh dỗ dành thì nó nói:

 "Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít".

Thật chẳng khác gì một tiếng sét bất chợt. Lời con trẻ vô tình đã thổi bùng lên ngọn lửa ghen tuông trong lòng người đàn ông đa nghi (tác giả đã nói đến từ đầu). Nếu coi đây là một vở kịch thì lời nói của đứa con chính là nút thắt, mở ra mâu thuẫn đồng thời ngay lập tức đẩy mâu thuẫn lên cao. Sau khi gạn hỏi con, nghe thằng bé nói có một người đàn ông "đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi...", mối nghi ngờ của Sinh đối với vợ đã đến mức không thể nào gỡ ra được.

Một lần nữa, chi tiết về tính hay ghen của Sinh phát huy tác dụng triệt để. Nó lí giải diễn biến câu chuyện, đồng thời giải đáp những thắc mắc của bạn đọc một cách hợp lí. Tại sao Sinh không chịu nghe lời người vợ thanh minh? Tại sao Sinh không nói cho vợ biết lí do mình tức giận như thế? (Nếu Sinh nói ra thì ngay lập tức câu chuyện sẽ sáng tỏ). Đó chính là hệ quả của tính đa nghi. Vì đa nghi nên Sinh không thể tỉnh táo suy xét mọi việc. Cũng vì đa nghi nên lời nói (dù rất mơ hồ) của một đứa bé cũng trở thành một bằng chứng "không thể chối cãi" rằng vợ chàng đã ngoại tình khi chồng đi vắng. Sự vô lí đã trở nên hợp lí bởi sự kết hợp giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.

Không biết vì sao Sinh lại nghi oan nên người vợ không thể thanh minh. Để chứng tỏ sự trong sạch của mình, nàng chỉ có mỗi cách duy nhất là tự vẫn. Vợ Sinh chết mà mâu thuẫn kịch vẫn không được tháo gỡ, mối nghi ngờ trong lòng Sinh vẫn còn nguyên đó.

Theo dõi mạch truyện từ đầu, bạn đọc tuy không một chút nghi ngờ phẩm hạnh của người phụ nữ nhưng cũng không lí giải nổi chuyện gì đã xảy ra và vì sao đứa bé lại nói như vậy. Đây cũng là một yếu tố chứng tỏ nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Thủ pháp "đầu cuối tương ứng" được vận dụng. Đứa trẻ ngây thơ là nguyên nhân dẫn đến bi kịch thì cũng chính nó trở thành nhân tố tháo gỡ mâu thuẫn một cách tình cờ. Sau khi vợ mất, một đêm kia, đứa trẻ lại nói:

 Cha Đản lại đến kia kìa!

Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:

 Đây này!

Mâu thuẫn được tháo gỡ cũng bất ngờ như khi nó phát sinh. Đứa trẻ có biết đâu rằng, nó đã gây ra một sự hiểu lầm khủng khiếp để rồi khi người chồng hiểu ra, hối hận thì đã quá muộn. Ngay cả bạn đọc cũng phải sững sờ: sự thật giản đơn đến thế mà cũng đủ đẩy một con người vào cảnh tuyệt vọng.

Ai là người có lỗi? Đứa trẻ đương nhiên là không vì nó vẫn còn quá nhỏ, chỉ biết thắc mắc vì những lời nói đùa của mẹ. Vợ Sinh cũng không có lỗi vì nàng biết đâu rằng những lời nói đùa với con để vợi nỗi nhớ chồng lại gây ra hậu quả đến thế! Có trách chăng là trách Trương Sinh vì sự ghen tuông đến mất cả lí trí. Chi tiết này gợi lên nhiều suy nghĩ: giá như không phải ở trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, giá như người vợ có thể tự bảo vệ cho lẽ phải của mình thì nàng đã không phải chọn cái chết thảm thương như vậy. Tính đa nghi của Sinh đã không gây nên hậu quả xấu nếu như nó không được nuôi dưỡng trong một môi trường mà người phụ nữ luôn luôn phải nhận phần thua thiệt về mình. ý nghĩa này của tác phẩm hầu như không được tác giả trình bày trực tiếp nhưng qua hệ thống các biến cố, sự kiện được sắp xếp hợp lí, đưa bạn đọc từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, tác giả đã thể hiện một cách tinh tế sự cảm thông sâu sắc của mình đối với những số phận bất hạnh, đặc biệt là của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Nếu câu chuyện dừng lại ở đây thì có thể cho rằng nó đã được sáng tạo theo một lỗi viết khá mới mẻ và hiện đại. Nhưng Nguyễn Dữ lại là người nổi tiếng với những câu chuyện truyền kỳ. Hoang đường, kì ảo là những yếu tố không thể thiếu trong những sáng tác thuộc loại này. Mặt khác, tuy là một tác giả của văn học viết trung đại nhưng hẳn Nguyễn Dữ cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ tư tưởng "ở hiền gặp lành" của nhân dân lao động. Bản thân ông cũng luôn đứng về phía nhân dân, đặc biệt là những người phụ nữ có hoàn cảnh éo le, số phận oan nghiệt trong xã hội cũ. Bởi vậy, tác giả đã tạo cho câu chuyện một lối kết thúc có hậu. Tuy không được hoá Phật để rồi sống ở miền cực lạc như Thị Kính nhưng người phụ nữ trong truyện cũng được thần rùa cứu thoát, tránh khỏi một cái chết thảm thương.

Phần cuối truyện còn được cài thêm nhiều yếu tố kì ảo khác nữa. Ví dụ như chi tiết chàng Phan Lang trở thành ân nhân của rùa, sau lại được rùa đền ơn. Trên đường chạy giặc, bị đắm thuyền, dạt lên đảo và được chính con rùa năm xưa cứu thoát. Đó có thể coi là sự "đền ơn trả nghĩa"  những hành động rất phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ của nhân dân. Việc người phụ nữ trở về gặp chồng nhưng không đồng ý trở lại chốn nhân gian có lẽ cũng nhằm khẳng định tư tưởng nhân nghĩa ấy. Mặc dù đã được cứu thoát, được giải oan nhưng vì lời thề với vợ vua biển Nam Hải, nàng quyết không vì hạnh phúc riêng mà bỏ qua tất cả. Những chi tiết đó càng chứng tỏ vẻ đẹp trong tính cách của người phụ nữ, đồng thời cũng cho thấy thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca của tác giả đối với người phụ nữ trong câu chuyện này nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung.

(ST)
 

Thandieu2

Thần Điêu
Xu
36
Chuyện người con gái nam xương

CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
-Nguyễn Dữ-

A. TÓM TẮT KIẾN THỨC CƠ BẢN

1. Tác giả:
- Nguyễn Dữ sống ở thế kỷ XVI, giai đoạn chế độ xã hội phong kiến đang từ đỉnh cao của sự phát triển, bắt đầu rơi vào tình trạng suy yếu.
- Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi về ở ẩn, giữ cách sống thanh cao đến trọn đời, dù vậy qua tác phẩm, ông vẫn tỏ ra quan tâm đến xã hội và con người.

2. Tác phẩm:

Vị trí đoạn trích: "Chuyện người con gái Nam Xương" là truyện thứ 16 trong số 20 truyện của Truyền kỳ mạn lục.
a. Nội dung:
- Chuyện kể về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương.
- Chuyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
b. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật dựng truyện.
- Miêu tả nhận vật.
- Sử dụng yếu tố tự sự kết hợp với trữ tình.
c. Chủ đề.
- Số phận oan nghiệt của người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh dưới chế độ phong kiến.

B. CÁC DẠNG ĐỀ:


1. Dạng đề 2 điểm

Đề 1:
Ý nghĩa của các yếu tố kỳ ảo trong "Chuyện người con gái Nam Xương".

Gợi ý:

a. Mở đoạn:
- Giới thiệu khái quát về đoạn trích.
b. Thân đoạn:
- Các yếu tố kỳ ảo trong truyện:
+ Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
+ Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp, gặp lại Vũ Nương, được xứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
+ Vũ Nương hiện về trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh, huyền ảo rồi lại biến đi mất.
- Ý nghĩa của các chi tiết kỳ ảo.
+ Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của nhân vật Vũ Nương: Nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
+ Tạo nên một kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
+ Thể hiện ước mơ về lẽ công bằng ở đời của nhân dân ta.
c. Kết đoạn:
- Khẳng định ý nghĩa của yếu tố kỳ ảo đối với truyện.

2. Dạng đề 5 điểm

Đề 1 : Cảm nhận của em về văn bản "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.

*Gợi ý

a. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Nêu giá trị nhân đạo, hiện thực và nghệ thuật đặc sắc của truyện.

b. Thân bài:

1. Giá trị hiện thực:

- Tố cáo xã hội phong kiến bất công, thối nát ...
+ Chàng Trương đang sống bên gia đình hạnh phúc phải đi lính.
+ Mẹ già nhớ thương, sầu não, lâm bệnh qua đời.
+ Người vợ phải gánh vác công việc gia đình.
- Người phụ nữ là nạn nhân của lễ giáo phong kiến bất công.
+ Vũ Thị Thiết là một người thuỷ chung, yêu thương chồng con, có hiếu với mẹ ...
+ Trương Sinh là người đa nghi, hồ đồ, độc đoán -> đẩy Vũ Nương đến cái chết thảm thương.
+ Hiểu ra sự thật Trương Sinh ân hận thì đã muộn.

2. Giá trị nhân đạo

- Đề cao, ca ngợi phẩm hạnh cao quý của người phụ nữ qua hình ảnh Vũ Nương.
+ Đảm đang: Thay chồng gánh vác việc nhà...
+ Hiếu thảo, tôn kính mẹ chồng ...
+ Chung thuỷ: Một lòng, một dạ chờ chồng ...
3. Giá trị nghệ thuật:
- Ngôn ngữ, nhân vật.
- Kịch tính trong truyện bất ngờ.
- Yếu tố hoang đường kỳ ảo.
c. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị nội dung của truyện.
- Truyện là bài học nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc gia đình.

C. BÀI TẬP VỀ NHÀ:


1. Dạng đề 2 điểm
:

Đề 1
: Viết một đoạn văn ngắn (8 đến 10 dòng) tóm tắt lại "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.

* Gợi ý:

- Vũ Nương là người con gái thuỳ mị, nết na. Chàng Trương là con gia đình hào phú vì cảm mến đã cưới nàng làm vợ. Cuộc sống gia đình đang xum họp đầm ấm, xảy ra binh đao, Trương Sinh phải đăng lính, nàng ở nhà phụng dưỡng mẹ già, nuôi con. Khi Trương Sinh về thì con đã biết nói, đứa trẻ ngây thơ kể với Trương Sinh về người đêm đêm đến với mẹ nó. Chàng nổi máu ghen, mắng nhiệc vợ thậm tệ, rồi đánh đuổi đi, khiến nàng phẫn uất, chạy ra bến Hoàng Giang tự vẫn. Khi hiểu ra nỗi oan của vợ, Trương Sinh đã lập đàn giải oan cho nàng.

2. Dạng đề 5 điểm


Đề 1:
Cảm nhận của em về nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ.

* Gợi ý:


a. Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Vẻ đẹp, đức hạnh và số phận của Vũ Nương.

b. Thân bài:

- Vũ Nương là người phụ nữ đẹp.
- Phẩm hạnh của Vũ Nương:
+ Thuỷ chung, yêu thương chồng (khi xa chồng ...)
+ Mẹ hiền (một mình nuôi con nhỏ ...)
+ Dâu thảo (tận tình chăm sóc mẹ già lúc yếu đau, lo thuốc thang ...)
- Những nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Vũ Nương.
+ Cuộc hôn nhân bất bình đẳng.
+ Tính cách và cách cư sử hồ đồ, độc đoán của Trương Sinh.
+ Tình huống bất ngờ (lời của đứa trẻ thơ ...)
- Kết cục của bi kịch là cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.
- Ý nghĩa của bi kịch: Tố cáo xã hội phong kiến.
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm.

c. Kết bài:

- Khẳng định lại phẩm chất, vẻ đẹp của Vũ Nương.
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.
 
Nói thêm về chuyện người con gái Nam Xương


Với loại “thiên cổ kỳ bút” như truyện Người con gái Nam Xương trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, dù đã được phân tích đánh giá nhiều nhưng thiết nghĩ vẫn có điều cần nói thêm. Bởi ở đây ngoài lớp giá trị lộ thiên, chỉ khéo khơi khơi một tí đã thấy, còn có lớp giá trị nằm sâu phía trong mà muốn khai thác thì bên cạnh cái mà mọi người quen nói là cảm thụ văn chương còn phải có thêm sự hỗ trợ của năng lực tư duy triết học và tư duy trừu tượng khoa học, trừ trường hợp với ai đó đã mở rộng nội hàm khái niệm năng lực cảm thụ văn chương để bao gồm cả hai điều vừa được nêu lên đó. Năng lực tư duy triết học sẽ cho phép đi sâu thêm, phát hiện thêm những vấn đề phức tạp nhất, sâu sắc nhất, kể cả sự bí hiểm trong cuộc sống con người mà cách cảm thụ văn chương thường gặp, đặc biệt là phương pháp xã hội học giản đơn, dung tục ít nhiều đều bất lực, bất cập. Năng lực tư duy trừu tượng khoa học cho phép nhìn nhận sự vật, ở đây là tác phẩm văn chương, không chỉ ở cấp độ bộ phận, chi tiết mà quan trọng hơn là ở mối quan hệ nội tại, trừu tượng giữa các chi tiết trong một cơ chế nghệ thuật có tính nhất thể, nhận ra vị trí của từng bộ phận từng chi tiết, đâu là chi tiết chủ công, đâu là chi tiết phu trợ. Chi tiết chủ công là chi tiết có khả năng sản sinh trữ lượng tư tưởng thẩm mỹ lớn nhất cho tác phẩm, không có nó thì giá trị của tác phẩm sẽ khác đi thấp đi rõ rệt. Trong khi với các chi tiết phụ trợ, có thay đi cũng chẳng ảnh hưởng gì đáng kể. Những điều vừa nêu trên là có thể ứng dụng vào việc khám phá bất cứ tác phẩm văn chương nào, nhất là với những tác phẩm kiệt xuất. Ơ đây thử ứng dụng để nói thêm về chuyện Người con gái Nam Xương.

Trong truyện Người con gái Nam Xương, hình tượng trung tâm là Vũ nương đã đươc xây dựng với tính cách một phụ nữ đẹp người đặc biệt là đẹp nết nhưng lại phải chịu một nỗi oan khiên tày trời. Nàng là hiện thân khổ đau của người phụ nữ trong xã hội xưa. Nói thế hoàn toàn không sai nhưng chưa đủ để phân biệt giá trị cuả truyện Người con gái Nam Xương với các tác phẩm khác cùng nói về phẩm chất tốt đẹp và nỗi khổ của người phụ nữ ở thời đó. Muốn thấy cái độc đáo và cũng là cao siêu cuả truyện Người con gái Nam xương, phải nói thêm điều này. Đó là cái mong manh vô cùng mong manh, mong manh tới độ với tư duy thông thường, trên thế gian này, chẳng ai có thể nghĩ tới. Nhưng đó là sự thật. Sự thật quá ư khắc nghiệt đối với hạnh phúc của đàn bà, chẳng riêng gì ở Việt nam thời phong kiến, mà còn là với nữ giới muôn nơi muôn thuở. Cứ đọc kỹ truyện Người con gái Nam xương thì thấy rõ. Có đúng là sự tan nát hạnh phúc của Vũ nương đã bắt đầu từ cái bóng của chính Vũ nương không? Chồng đi chiến trận, “Ngày thường ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản”. Cái bóng là gì vậy?

Nếu không phải là một biểu tượng của sự đồng nhất mình với chồng. Kim Kiều yêu nhau. Nguyễn Du đã có một cách nói đến mức sơn cùng thuỷ tận về chữ đồng trong tình yêu: “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” . Nguyễn Dữ trước Nguyễn Du trong truyện Người con gái Nam xương lấy cái bóng của Vũ nương để nói là cha Đản tức là chồng mình kể cũng là một cách nói sơn cùng thuỷ tận về chữ đồng trong đạo vợ chồng. Vậy mà có ai ngờ rằng đời Vũ nương tan nát bắt đầu từ đấy. Từ cái bóng kia. Tan nát đến mức thánh thần, trời phật cũng chỉ có thể an ủi bù đắp chút ít chứ không cứu lại được. Rồi nữa,tham gia vào việc phá nát hạnh phúc của Vũ nương là ai? Trời ơi! lại không ai khác mà chính là đứa con nàng đứt ruột đẻ ra. Nó ngây thơ, trong trắng. Nó hoàn toàn vô tội. Nhưng thực tế khách quan, nó là tác nhân trực tiếp gây ra sự đổ nát hạnh phúc cuộc đời của mẹ nó. Có đáng sợ, có khủng khiếp không cho cái gọi là sự ma quái trong cuộc sống con người ở cõi đời. Trong Truyện Kiều, nàng Kiều bị tan nát hạnh phúc, chịu hết nạn nọ đến nạn kia là bởi có thằng bán tơ vu oan, có viên quan quen nghề ăn hối lộ, có Mã giám sinh, Sở khanh, Tú bà chuyên nghề kiếm ăn ở miền nguyệt hoa, có Hoạn bà, Hoạn thư ỷ thế danh gia độc ác, có Hồ tôn Hiến nổi tiếng lật lọng...tóm lại là có nguyên nhân xã hội cụ thể, có những kẻ gian ác sờ sờ trước mắt mọi người, để người ta nếu chưa đủ sức chống lại thì tìm cách né tránh, lánh xa nó. Đàng này, Vũ nương làm sao mà né tranh được những tác nhân phá hoại đời mình một khi nó nằm ngay trong cái bóng của mình, nằm ngay trong cảnh mình đùa vui vui con, nằm ngay trong khi mình đang bày tỏ sự gắn bó keo sơn với chồng nơi xa cách, nằm ngay trong một câu nói hồn nhiên vô tư của đứa con ngây thơ trong trắng của mình. Tôi muốn nói thế này được chăng: ở phương diện thể hiện nguyên nhân đau khổ của người phụ nữ, truyện Người con gái Nam xương có ý nghĩa triết học sâu sắc hơn, cao hơn Truyện Kiều, bởi nó đã chạm vào sự ma quái có thực trong sự sống vốn là nghiệt ngã của con người muôn nơi muôn thuở. Không ít người đã cho rằng sự tan nát hạnh phúc của Vũ nương là do chế độ nam nữ bất bình đẳng. Nói thế nghe qua tưởng có lý. Nhưng nghĩ kỹ thì thấy về cơ bản không hẳn là thế. Bởi như chính tác phẩm đã để lộ, nguyên nhân quan trọng và trực tiếp làm tan nát đời Vũ nương cùng với chuyện cái bóng của Vũ nương, lời nói hồn nhiên vô tư của đứa con, là cái “tính đa nghi”, “hay ghen” của anh chồng Trương sinh. Mà cái tính hay ghen là gì vậy?

Là một hiện tượng tâm lý có liên quan đến sinh lý, đến giới tính thuộc phạm vi tính người mà tạo hoá đã phát riêng cho nhân loại. Nó rất ít liên quan tới vấn đề hình thái xã hội, chế độ chính trị, kể cả dân tộc và thời đại lịch sử. Nó chỉ trừ riêng cho những người mất trí hoăc giả với đó ai nhưng là rất hiếm có trạng thái tâm lý không bình thường hoặc có triết lý sống quá siêu việt. Trước phiên toà công lý trong Truyện Kiều, Hoạn Thư chẳng đã nói đúng cái qui luật muôn đời này sao: “Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”. “Người ta” đây hẳn là có cả nam lẫn nữ. Cứ giả thiết ở một xã hội nào đó, quyền nam nữ bình đẳng đã đươc thực hiện trăm phần trăm thì đã có thể tin rằng con người không còn cái máu ghen “thường tình” này nữa sao?. Phải nói rõ điều đó để hiểu được vấn đề triết học nhân sinh vô cùng sâu sắc mà Nguyễn Dữ đã nêu lên trong tác phẩm, dù tự giác hay tự phát, có ý thức hay vô tình. Phải hiểu rõ điều đó cũng là để hiểu đúng nguồn gốc tội lỗi của Trương sinh trong việc đẩy vợ vào chỗ chết. Đúng là không ai không oán giận Trương sinh nhưng từ đó mà qui về chế độ nam nữ bất bình đẳng thì về cơ bản là chưa đúng ý tác phẩm. Nếu thế, cũng khó cắt nghĩa đúng hiện tượng Trương sinh đã “động lòng thương tìm vớt thây nàng” ngay cả khi còn “giận là nàng thất tiết”, cũng khó cắt nghĩa đúng sự “tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ” về sau, khi lại chính từ cái bóng của chàng và cũng qua câu nói của đứa con ngây thơ, trong trắng mà hiểu ra mình đã lầm to để gây tội ác với vợ. Xin nói lại cái tội tày trời của Trương sinh, xét nguyên nhân không gì khác là cái tội của một anh chồng có “tính đa nghi”, “hay ghen”, muốn tránh cũng không tránh được, mà tạo hoá đã trớ trêu ban cho anh ta cũng như bao chàng trai cô gái khác trên thế gian này từ cổ chí kim, từ đông sang tây, cùng một lúc ban cho họ hạnh phúc tình yêu, tình vợ chồng. Để từ đó, văn chương có chuyện mà nói, mà sáng tạo, mà có Đexđêmôna của nước Anh bị bóp cổ chết, Vũ nương của Việt nam phải tự vận...nhưng lại nổi tiếng với muôn đời. Đó đây lại còn có ý kiến cho rằng Vũ nương tan nát hạnh phúc là vì chiến tranh. Xin nói ngay:

ý kiến này là hoàn toàn sai, là vô hình trung đã coi truyện Người con gái Nam xương cũng như Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, trong khi hai tác phẩm có hai nội dung hai chủ đề khác nhau mặc dù đều phản ánh nỗi khổ của phụ nữ. Cần thấy rằng chi tiết Trương sinh đi chiến trận, chẳng có vai trò quyết định gì trong nội dung câu chuyện đánh ghen đến mức đẩy vợ đến cái chết này. Giả sử anh ta không ra trận mà đi học xa về, đi buôn xa về, gặp con, con không nhận lại cứ nói cha là một người đàn ông “đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả” (đúng là một người ngoại tình với mẹ chứ còn ai nữa) thì chuyện gì đã xảy ra trong tác phẩm, chắc chắn lại xẩy ra thôi. Ở trên đã có nói, với chi tiết phụ, nếu có thay đi cũng chẳng ảnh hưởng gì đáng kể đến nội dung tác phẩm là như thế.

Rõ ràng câu chuỵện Người con gái Nam xương đã cho người đọc thấy thế nào là cái mong manh vô cùng mong manh của hạnh phúc đàn bà muôn nơi muôn thuở. Cho nên những chàng trai cô gái đang yêu nhau, những cặp vợ chồng dù đã chỉ non thề biển, đã kết tóc xe tơ với nhau trên cõi thế gian nà vẫn cứ phải coi chừng, phải cảnh giác. Coi chừng, cảnh giác về nhiều thứ nhưng xin đừng quên coi chừng cảnh giác với cái máu ghen. Hãy nhớ rằng, chỉ nhỡ ra một chút thôi ví như ở đây là nghe con mà không hỏi lại vợ xem sao, thì đã đủ tan nát cả cuộc đời, đã đủ để hạnh phúc trong chốc lát trở thành mây khói, muốn cứu vãn cũng chẳng cứu vãn được nữa đâu. Nguyễn Dữ từ sự cảm nhận, phát hiện được cái qui luật khắc nghiệt ma quái đó trong cuộc sống của người phụ nữ mà sáng tạo nên một cốt truyện bao gồm một hệ thống chi tiết trong đó có chi tiết chủ công ăm ắp trữ lượng tư tưởng nghệ thuật thông qua một bút pháp vừa thực vừa ảo, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Và cuối cùng để lại cho văn học dân tộc một thiên tình sử bi thảm làm nhức nhói trái tim người đọc bao đời nay, cho lịch sử văn học Việt nam một áng “thiên cổ kỳ bút”, cho riêng thể loại truyện ngắn Việt nam một truyện ngắn vừa là đột khởi vừa là đỉnh cao vợi vợi trong muôn đời.
 

Thandieu2

Thần Điêu
Xu
36
1. Đọc - tìm hiểu chú thích

a) Tác giả:


Nguyễn Dữ(?-?)
- Là con của Nguyễn Tướng Phiên (Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 27, đời vua Lê Thánh Tông 1496). Theo các tài liệu để lại, ông còn là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
- Quê: Huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dương.

b) Tác phẩm

* Truyền kỳ mạn lục: Tập sách gồm 20 truyện, ghi lại những truyện lạ lùng kỳ quái.
Truyền kỳ: là những truyện thần kỳ với các yếu tố tiên phật, ma quỷ vốn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
Mạn lục: Ghi chép tản mạn.
Truyền kỳ còn là một thể loại viết bằng chữ Hán (văn xuôi tự sự) hình thành sớm ở Trung Quốc, được các nhà văn Việt Nam tiếp nhận dựa trên những chuyện có thực về những con người thật, mang đậm giá trị nhân bản, thể hiện ước mơ khát vọng của nhân dân về một xã hội tốt đẹp.
-Chuyện người con gái Nam Xương kể về cuộc đời và nỗi oan khuất của người phụ nữ Vũ Nương, là một trong số 11 truyện viết về phụ nữ.
- Truyện có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian “Vợ chàng Trương” tại huyện Nam Xương (Lý Nhân - Hà Nam ngày nay).

c) Chú thích

(SGK)
2. Tóm tắt truyện


- Vũ Nương là người con gái thuỳ mị nết na, lấy Trương Sinh (người ít học, tính hay đa nghi).
- Trương Sinh phải đi lính chống giặc Chiêm. Vũ Nương sinh con, chăm sóc mẹ chồng chu đáo. Mẹ chồng ốm rồi mất.
- Trương Sinh trở về, nghe câu nói của con và nghi ngờ vợ. Vũ Nương bị oan nhưng không thể minh oan, đã tự tử ở bến Hoàng Giang, được Linh Phi cứu giúp.
- Ở dưới thuỷ cung, Vũ Nương gặp Phan Lang (người cùng làng). Phan Lang được Linh Phi giúp trở về trần gian - gặp Trương Sinh, Vũ Nương được giải oan - nhưng nàng không thể trở về trần gian.

3. Đại ý.

Đây là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh dưới chế độ phụ quyền phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị đẩy đến bước đường cùng phải tự kết liễu cuộc đời của mình để chứng tỏ tấm lòng trong sạch. Tác phẩm thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân: người tốt bao giờ cũng được đền trả xứng đáng, dù chỉ là ở một thế giới huyền bí.

II. Đọc - hiểu văn bản

1. Nhân vật Vũ Nương.


* Tình huống 1: Vũ Nương lấy chồng.
Trước bản tính hay ghen của chồng, Vũ Nương đã “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hoà”.

* Tình huống 2: Xa chồng

Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ chung thuỷ, yêu chồng tha thiết, một người mẹ hiền, dâu thảo.
Hai tình huống đầu cho thấy Vụ Nương là người phụ nữ đảm đang, thương yêu chồng hết mực.

*Tình huống 3: Bị chồng nghi oan.
- Trương Sinh thăm mộ mẹ cùng đứa con nhỏ (Đản).
- Lời nói của đứa con: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cho tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít… Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến…”.
Trương Sinh nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ chàng.
- Câu nói phản ánh đúng ý nghĩ ngây thơ của trẻ em: nín thin thít, đi cũng đi, ngồi cũng ngồi (đúng như sự thực, giống như một câu đố giấu đi lời giải. Người cha nghi ngờ, người đọc cũng không đoán được).
- Tài kể chuyện (khéo thắt nút mở nút) khiến câu chuyện đột ngột, căng thẳng, mâu thuẫn xuất hiện.
- La um lên, giấu không kể lời con nói. Mắng nhiếc, đuổi đánh vợ đi. Hậu quả là Vũ Nương tự vẫn.
- Trương Sinh giấu không kể lời con nói: khéo léo kể chuyện, cách thắt nút câu chuyện làm phát triển mâu thuẫn.
- Ngay trong lời nói của Đản đã có ý mở ra để giải quyết mâu thuẫn: “Người gì mà lạ vậy, chỉ nín thin thít”.
- Phân trần để chồng hiểu rõ nỗi oan của mình. Những lời nói thể hiện sự đau đớn thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công. Vũ Nương không có quyền tự bảo vệ.
Hạnh phúc gia đình tan vỡ. Thất vọng tột cùng, Vũ Nương tự vẫn. Đó là hành động quyết liệt cuối cùng.
- Lời than thống thiết, thể hiện sự bất công đối với người phụ nữ đức hạnh.

*Tình huống 4: Khi ở dưới thuỷ cung.
Đó là một thế giới đẹp từ y phục, con người đến quang cảnh lâu đài. Nhưng đẹp nhất là mối quan hệ nhân nghĩa.
- Cuộc sống dưới thuỷ cung đẹp, có tình người.
Tác giả miêu tả cuộc sống dưới thuỷ cung đối lập với cuộc sống bạc bẽo nơi trần thế nhằm mục đích tố cáo hiện thực.
- Vũ Nương gặp Phan Lang, yếu tố ly kỳ hoang đường.
- Nhớ quê hương, không muốn mang tiếng xấu.
Thể hiện ước mơ khát vọng một xã hội công bằng tốt đẹp hơn, phù hợp với tâm lý người đọc, tăng giá trị tố cáo.
- Thể hiện thái độ dứt khoát từ bỏ cuộc sống đầy oan ức. Điều đó cho thấy cái nhìn nhân đạo của tác giả.
- Vũ Nương được chồng lập đàn giải oan - còn tình nghĩa với chồng, nàng cảm kích, đa tạ tình chàng nhưng không thể trở về nhân gian được nữa. Vũ Nương muốn trả ơn nghĩa cho Linh Phi, muốn trở về với chồng con mà không được.

2. Nhân vật Trương Sinh

- Con nhà giàu, ít học, có tính hay đa nghi.
- Cuộc hôn nhân với Vũ Nương là cuộc hôn nhân không bình đẳng.
- Tâm trạng Trương Sinh nặng nề, buồn đau vì mẹ mất.
Lời nói của Đản
- Lời nói của Đản kích động tính ghen tuông, đa nghi của chàng.
- Xử sự hồ đồ, độc đoán, vũ phu thô bạo, đẩy vợ đến cái chêt oan nghiệt.
- Mắng nhiếc vợ thậm tệ, không nghe lời phân trần.
- Không tin cả những nhân chứng bênh vực cho nàng.

III. Tổng kết

1. Về nghệ thuật


¬- Kết cấu độc đáo, sáng tạo.
- Nhân vật: diễn biến tâm lý nhân vật được khắc hoạ rõ nét.
- Xây dựng tình huống truyện đặc sắc kết hợp tự sự + trữ tình + kịch.
- Yếu tố truyền kỳ: Kỳ ảo, hoang đường.
- Nghệ thuật viết truyện điêu luyện.

2. Về nội dung

Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt cua người của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.
 
CHAT
  1. No shouts have been posted yet.

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top