Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
ĐẠI CƯƠNG VỀ TIẾN TRÌNH VĂN HOÁ VIỆT NAM
Tiến trình văn hoá Việt Nam có thể phân thành 5 thời kỳ:
I. VĂN HOÁ VIỆT NAM THỜI TIỀN SỬ VÀ SƠ SỬ
Đây là thời kỳ hình thành nền tảng/cơ tầng văn hoá Việt Nam, được tính từ khi người nguyên thủy biết dùng đá để chế tác công cụ cách ngày nay vài chục vạn năm cho đến thời đại Hùng Vương dựng nước - thời đại làm nên hai thành tựu lớn lao có ý nghĩa lịch sử. Đó là sự hình thành của nền văn minh sông Hồng và sự ra đời của hình thái nhà nước sơ khai: nhà nước Văn Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của An Dương Vương.
1. Văn hóa Việt Nam thời tiền sử.
Là thời kỳ trước khi xuất hiện nền văn minh cổ đại, tức là trước khi hình thành nhà nước / quốc gia (từ buổi đầu thế kỷ I TCN - cuối thời đại đá mới), trên đất nước Việt Nam đã có một quá trình phát triển văn hoá lâu dài.
- Trong thời kỳ tiền sử ấy đã dần dần hình thành một cơ tầng văn hoá chung cho tất cả cư dân ở vùng Đông Nam Á. Đó là nền văn hoá lấy nghề nông làm phương thức hoạt động, thích nghi với điều kiện tự nhiên thuộc khu vực châu Á gió mùa - Nền văn hoá có đặc trưng là một phức thể văn hoá lúa nước với ba yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và văn hoá biển. Trong đó, yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng đóng vai trò chủ đạo.
Ở sườn đồi, sườn núi thấp, người ta đốt rừng làm nương rẫy, trồng lúa cạn. Ở thung lũng, đồng bằng, ở ven biển, người ta canh tác lúa nước. Ở nhiều nơi, cư dân còn biết dùng trâu bò để cày bừa. Ở ven các dòng sông, ở ven biển, cư dân thạo nghề đi biển và đánh bắt hải sản.
Ở các vùng núi, cư dân nói chung còn ở trình độ tổ chức sống bộ lạc, nhưng ở trung du và đồng bằng, cư dân đã dần dần vươn tới trình độ tổ chức liên minh bộ lạc, sống thành vùng cư dân đông đúc, gồm nhiều làng xã lớn. Liên minh bộ lạc là một bước quá độ để vươn lên trình độ tổ chức quốc gia.
- Việt Nam là một Đông Nam Á thu nhỏ, có đủ ba yếu tố văn hoá núi, đồng bằng và biển, có đủ các sắc tộc thuộc các ngữ hệ ở Đông Nam Á hiện nay.
Thông qua các ngành khảo cổ học và cổ nhân học, chúng ta biết có các nền văn hoá trên đất nước Việt Nam thuộc thời kỳ tiền sử:
+ Văn hoá Núi Đọ - văn hoá thuộc thời kỳ đá cũ, bắt đầu hàng chục vạn năm kéo dài cho đến một vạn năm cách ngày nay (tên gọi của nền văn hoá này là từ điểm khảo cổ học ở núi Đọ, Thanh Hoá)
+ Văn hoá Sơn Vi (Phú Thọ) - văn hoá thuộc hậu kỳ đá cũ, tồn tại từ 20 đến 15 nghìn năm trước công nguyên.
+ Văn hoá Hoà Bình (Hoà Bình) - văn hoá thuộc thời kỳ đá giữa, kéo dài khoảng từ 12.000 đến 7.000 năm cách ngày nay. Đã có một nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong lòng văn hoá Hoà Bình.
+ Văn hoá Bắc Sơn (Lạng Sơn) - văn hoá thuộc thời kỳ đá mới, kéo dài khoảng từ 11.000 năm đến 7.000 năm cách ngày nay. Cùng với nền văn hoá Hoà Bình, văn hoá Bắc Sơn đã làm nên khúc dạo đầu của cuộc cách mạng đá mới. Để đến cuối thời đại đá mới thì phần lớn các bộ lạc nguyên thuỷ đã tiến sang giai đoạn nông nghiệp trồng lúa, cũng tức là chuyển từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất, thực sự bước vào lĩnh vực sáng tạo văn hoá.
Cư dân thời đại đá mới đã có những tri thức phong phú về tự nhiên và dựa vào những tri thức đó để thích nghi một cách hài hoà với tự nhiên. Chẳng hạn, người Hoà Bình cư trú trong các hang động đã nhận biết được những hiện tượng có tính quy luật của gió mùa, do đó để tránh gió mùa, các hang động của họ đã không có hang động nào quay về hướng chính Bắc, mà có tới hơn 50% quay về hướng nam và hướng đông Nam. Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết nghệ thuật, như những hiện vật xương có vết khắc hình cá, hình thú và người trên vách hang Đồng Nội. Trong sự nhận thức về thiên nhiên của người Hòa Bình, còn thấy rõ những cảm nhận về những nhịp điệu vốn có trong tự nhiên, được thể hiện bằng những nhóm vạch 3 vạch một trên các hòn đá cuội trong hang động. Dù chỉ là giả thuyết, những di vật tìm thấy trong văn hoá Hoà Bình và Bắc Sơn cũng cho thấy một bước phát triển mới về tư duy của người nguyên thuỷ. Tư duy về thời gian, vũ trụ còn được thể hiện bằng những hoa văn, ký hiệu biểu thị mặt trời như hình tròn, hình chữ vẽ trên đồ gốm. Có thể bấy giờ đã bắt đầu hình thành loại nông lịch sơ khai. Thời kỳ này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thuỷ: niềm tin vào thế giới bên kia; sự tôn thờ các sức mạnh tự nhiên. Những hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, đặc biệt là mặt trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối với con người. Về tổ chức xã hội, vào giai đoạn hậu kỳ đá mới, khi con người đã chọn nghề nông và sống định cư, thì có thể tin rằng nhiều bộ lạc đã sống thành hàng xóm.
2.Thời sơ sử.
Cách đây khoảng 4000 năm, cư dân Việt Nam từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã tồn tại 3 trung tâm văn hoá lớn của 3 quốc gia cổ nhất Đông Nam Á :
- Văn hoá Đông Sơn (miền Bắc) gắn với sự ra đời của nhà nước Văn Lang của các vua Hùng và tiếp đó là nước Âu Lạc của vua An Dương Vương. Với nền văn hoá Đông Sơn, kỹ thuật chế tác đồ đồng đã vươn lên trình độ khá cao so với trình độ thế giới lúc đương thời. Sản phẩm đồng thời cũng là biểu tượng của văn hoá Đông Sơn là trống đồng Đông Sơn. Quá trình hình thànhvà phát triển của văn hoá Đông Sơn / văn minh sông Hồng ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và nhà nước đầu tiên của họ. Đây là một nền văn hoá thống nhất mà chủ nhân của nền văn hoá đó là một cộng đồng cư dân gồm nhiều thành phần tộc người gần gũi nhau về nhân chủng và văn hoá. Văn hoá Đông Sơn là một điển hình của nền văn hoá nông nghiệp lúa nước.
- Văn hoá Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương quốc Chăm Pa. Văn hoá Sa Huỳnh là sản phẩm của cư dân nông nghiệp trồng lúa, nhưng biết khai thác nguồn lợi của rừng và biển, và phát triển các nghề thủ công.
- Văn hoá Đồng Nai (miền Nam), một cội nguồn hình thành nền văn hoá Óc Eo ở Nam Bộ vào những thế kỷ đầu công nguyên sau này. Văn hoá Óc Eo gắn với vương quốc Phù Nam, một nhà nước tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII ở châu thổ sông Cửu Long. Văn hoá Đồng Nai cũng là sản phẩm của cư dân có hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công.
Tóm lại, tiến trình văn hoá thời tiền sử và sơ sử thuộc giai đoạn hình thành nền tảng của văn hoá Việt Nam, với các đặc điểm cơ bản sau đây:
- Tiến trình văn hoá Việt Nam thời tiền sử và sơ sử là tiến trình hình thành nên những nền tảng của văn hoá Việt Nam, hình thành cốt lõi của người Việt cổ, là phác thảo khởi nguyên về một nền văn hoá quốc gia dân tộc đa tộc người về sau.
- Những nền tảng văn hoá đó có là những nền tảng văn hoá bản địa / nội sinh, nằm trong cơ tầng văn hoá chung của khu vực văn hoá Đông Nam Á thời bấy giờ, nó khác với hai nền văn hoá - văn minh Trung Quốc và Ấn Độ ở châu Á.
- Đỉnh cao của giai đoạn hình thành những nền tảng văn hoá nội sinh Việt Nam là văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh và văn hoá Đồng Nai, cũng là ba đỉnh cao của văn hoá Đông Nam Á, miền đông bán đảo Đông Dương. Ba trung tâm văn hoá đó phát triển theo thế chân vạc, nhưng luôn có mối quan hệ qua lại với nhau, đồng thời phát triển, giao lưu với nhiều văn hoá khác ở khu vực. Đồng thời, ba trung tâm văn hoá ấy đều sẽ phát triển thành ba nền văn minh lớn ở Đông Nam Á, ứng với ba quốc gia cổ đại là Văn Lang - Âu Lạc, Chăm Pa và Phù Nam.
- Như thế, trước khi chịu sự thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, đất nước ta đã từng tồn tại một nền văn minh cổ như vậy, nên ý thức quốc gia dân tộc của người Việt đã sớm hình thành và làm nên một sức mạnh đủ để dân tộc Việt Nam vừa không bị Hán hoá lại vừa có khả năng thâu hoá những nhân tố của mô hình văn hoá Trung Quốc trong quá trình xây dựng nhà nước Đại Việt tự chủ sau này.
II. VĂN HOÁ VIỆT NAM THIÊN NIÊN KỶ THỨ NHẤT SAU CÔNG NGUYÊN
Trong khoảng mười thế kỷ đầu công nguyên, trên lãnh thổ Việt Nam hiện nay đã từng tồn tại ba nền văn hoá: văn hoá của cộng đồng cư dân châu thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, văn hoá Chăm Pa ở ven biển miền Trung, và văn hoá Óc Eo ở vùng đồng bằng châu thổ sông Cửu Long. Ba nền văn hoá này có những nét chung do có chung cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, nhưng cũng lại có những nét riêng do từng vùng có những đặc điểm và số phận lịch sử khác nhau. Bài giảng trình bày đặc điểm văn hoá của cư dân châu thổ bắc Bộ với tư cách đại diện, điển hình.
1. Năm 179 trước công nguyên, nước Âu Lạc của An Dương Vương bị nước Nam Việt của Triệu Đà (đóng đô ở Phiên Ngung thuộc Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) thôn tính. Năm 111 trước công nguyên, nước Nam Việt bị thôn tính vào đế quốc Hán, nước Âu Lạc lúc ấy thuộc nước Nam Việt cũng bị thôn tính theo. Từ đó, đất nước ta trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, tức là chịu sự đô hộ, áp đặt văn hoá của phong kiến phương Bắc và có sự chống phong kiến phương Bắc đô hộ để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Lịch sử các cộng đồng dân tộc Việt Nam trong suốt thời kỳ Bắc thuộc là lịch sử của một cuộc đấu tranh đề kháng dai dẳng, bền bỉ để bảo tồn giống nòi, bảo vệ nền văn hoá dân tộc và giải phóng đât nước. Cuộc đấu tranh chống ách đô hộ của phong kiến phương Bắc thành công nên mới tồn tại nền văn hoá Việt Nam hiện nay.
2. Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, các triều vua Trung Quốc từ Hán đến Đường, thông qua chính quyền đô hộ nước ta khi ấy, đã kế tiếp nhau thi hành chính sách cai trị tàn bạo, chính sách đồng hoá / Hán hoá đối với người Việt và văn hoá Việt trên mọi phương diện, nhằm vĩnh viễn thôn tính nước ta vào đế quốc phong kiến phương Bắc. Đặc trưng cơ bản trong bối cảnh văn hoá lịch sử giai đoạn này là:
- Tiếp xúc cưỡng bức văn hoá Việt - Hán.
- Tiếp xúc văn hoá Việt Ấn.
- Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc dân tộc, bản sắc văn hoá.
3. Dấu ấn văn hoá thời kỳ Bắc thuộc áp đặt vào Việt Nam mà ngày nay vẫn còn ảnh hưởng rõ nét là các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự du nhập đạo Nho, đạo Giáo...
- Nho giáo (còn được gọi là đạo Nho hay Khổng giáo) do Khổng Tử (551 - 479 trước CN) sáng lập. Nho giáo không phải là tôn giáo hiểu theo đúng nghĩa, không phải là học thuyết triết học theo nghĩa chính xác, mà thực chất là học thuyết chính trị - xã hội và đạo đức của giai cấp thống trị. Nho giáo thiết lập trật tự xa hội, quan hệ giữ người với người trong xã hội và quan hệ giữa con người với thế giới tụ nhiên (trời). Giai cấp thống trị coi Nho giáo là công cụ để cai trị xã hội theo theo một trật tự nghiêm ngặt cho các mối quan hệ trong xã hội. Tư tưởng này quy định phương châm ứng xử theo thứ bậc: quân, sư, phụ, và con người trong xã hội phải giữ đạo Cương thường (trung quân, ái quốc, tam tòng tứ đức, tam cương ngũ thường) để duy trì và củng cố trật tự xã hội ấy.
Học thuyết về con người với thế giới tự nhiên đuợc thể hiện thông qua tư tưởng 'Thiên mệnh', 'Thiên nhân cảm ứng'.
- Đạo giáo là một thuật ngữ dùng để chỉ hai dòng triết học và tôn giáo ủa Trung Quốc có bản chất khác nhau: một dòng là đạo Giáo triết học được gọi là đạo Gia, một dòng là đạo giáo tôn giáo thường được gọi là đạo Giáo.
Đạo Gia do Lão Tử sáng lập và Trang Tử phát triển, nên còn gọi là đạo Lão - Trang. Đạo này đề cao tư duy trừu tượng, coi thường việc nghiên cứu sự vật cụ thể, khuyên con người sống gần gũi tự nhiên, không làm gì trái với lẽ tự nhiên. Trong thời kỳ Bắc thuộc, đạo Lão - Trang chủ yếu lưu hành trong số người Hán thất thế.
Đạo giáo, một tôn giáo bản địa của Trung Quốc hỗn hợp rất nhiều tín ngưỡng Saman giáo và các phương thuật của dân gian lẫn cung đình như: đoán mộng, xem sao, bói rùa, cúng quỷ thần, đồng cốt, cầu tiên v.v...Đạo này khi được truyền bá vào Việt Nam đã hoà nhập với tín ngưỡng đa thần của người Việt, bổ sung những tín điều cần thiết cho tín nguỡng dân gian Việt Nam.
- Phật giáo: Phật giáo từ Ấn Độ truyền vào nước ta cùng từ thời kỳ này, khoảng thế kỷ đầu công nguyên.
Đạo Phật (Buddha, tiếng Ấn là 'giác ngộ') phát sinh ở Ấn Độ vào thế kỷ VI trước công nguyên, tại một bang Capilavatxtu gần biên giới Nê pan. Người sáng lập là đức Thích ca Mâu ni (Cakya Mauni). đạo Phật là tiếng nói bất bình của quần chúng nhân dân lao động đối với chế độ đẳng cấp hà khắc, là sự phản ứng mãnh liệt, chống lại quyền uy của đẳng cấp thống trị Bàlamôn. Đạo Phật chủ trương pháp tính bình đẳng, rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tính và đều có thể thành Phật, từ chỗ từ giác đến chỗ giác tha. Đạo Phật khuyên mọi người nên tiết chế dục vọng, có tinh thần vô ngã vị tha, tu nhân tích đức, làm điều lành, tránh điều ác. Thuyết 'Nhân quả nghiệp báo' của đạo Phật phù hợp với quan niệm 'ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão' trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Thuyết “Luân hồi” cũng phù hợp với quan niệm dân gian cho rằng linh hồn tồn tại sau khi thể xác tiêu tan và tiếp tục đầu thai để kiếp sau trở lại cuộc sống thực tại.
4. Bên cạnh việc chịu ảnh hưởng những tư tưởng lớn như trên, trên cơ sở văn minh nông nghiệp và xóm làng, người Việt đã tiếp thu một số yếu tố văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ và vùng biển phương Nam.
5. Song hành với việc chịu Bắc thuộc, việc chống Bắc thuộc để bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc của dân tộc ta đạt được những kết quả mang tính quyết định sự tồn tại của cả dân tộc VIệt Nam. bản sắc văn hoá dân tộc được bảo vệ có thể kể ra ở một số mặt chính sau đây:
- Tiếng nói.
- Tín ngưỡng dân gian và lễ hội dân tộc.
- Văn nghệ dân gian.
6. Như vậy, nhìn tổng thể có thể kết luận rằng, đã diễn ra hai khuynh hướng đối lập của tiến trình văn hoá Việt Nam thời Bắc thuộc:
- Khuynh hướng Hán hoá là mưu đồ có ý thức của bọn đô hộ và tay sai.
- Khuynh hướng Việt hoá nhằm gìn giữ và phát huy những tinh hoa văn hoá cổ truyền từ đã có từ thời Văn Lang - Âu Lạc, mặt khác còn tiếp thu, hội nhập những yếu tố văn hoá bên ngoài để làm phong phú văn hoá Việt; sắp xếp, cấu trúc lại nền tảng văn hoá Việt. Khuynh hướng này là chủ đạo.
Đối lập lại chủ nghĩa 'bình thiên hạ' của kẻ thù, nhân dân ta đã phát huy mạnh mẽ chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập tự chủ, tinh thần tự lập tự cường. Đối lập với bộ máu nhà nước đế chế và tổ chức chính quyền đô hộ theo cơ cấu quận huyện, nhân dân ta lo củng cố và giữ gìn cộng đồng xóm làng. Từ làng, người Việt vươn ra giành lại nước. Đối lập với sức mạnh của một đế chế lớn mạnh, nhân dân ta tạo lập nên một sức mạnh đoàn kết toàn dân. Khởi nghĩa chống Bắc thuộc là khởi nghĩa nhân dân, có tính quần chúng rộng rãi, mau chóng phát triển thành chiến tranh nhân dân giải phóng dân tộc, và cuối cùng với chiến thắng Bạch Đằng lịch sử do Ngô Quyền lãnh đạo, cuộc đấu tranh bền bỉ của nhân dân ta đã giành được thắng lợi vẻ vang.