• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

  • Thread starter Thread starter lo kien
  • Ngày gửi Ngày gửi

lo kien

New member
Xu
0
[h=1]Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội[/h]I.Khái niệm cương lĩnh

Trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp mang tính tự phát với mục tiêu kinh tế sẽ phát triển dần đến đấu tranh mang tính tự giác – đấu tranh chính trị, liên quan đến vấn đề giành hoặc giữ chính quyền. Đấu tranh chính trị đòi hỏi giai cấp phải có mục tiêu chính trị rõ ràng, tổ chức chặt chẽ, tập hợp, huy động đông đảo lực lượng của giai cấp và các lực lượng liên minh với mình. Đó là yêu cầu và điều kiện ra đời của đảng chính trị – đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu, tổ chức cao nhất, chặt chẽ nhất, kiên quyết nhất của giai cấp. Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó, đảng chính trị phải có Cương lĩnh chính trị.
Cương lĩnh chính trị là văn kiện cơ bản, chỉ rõ mục tiêu đường lối, nhiệm vụ, phương pháp cách mạng trong một giai đoạn lịch sử nhất định của một chính đảng hoặc một tổ chức chính trị. V.I.Lênin viết: ”Cương lĩnh là một bản tuyên ngôn vắn tắt, rõ ràng và chính xác nói lên tất cả những điều mà đảng muốn đạt được và vì mục đích gì mà đảng đấu tranh”1.
Theo ý nghĩa đó, Cương lĩnh chính trị là văn bản trình bày những nội dung cơ bản về mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp cách mạng trong một giai đoạn nhất định. Cương lĩnh chính trị là cơ sở thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, là ngọn cờ tập hợp, cổ vũ các lực lượng xã hội phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã thông qua Cương lĩnh chính trị để tập hợp và lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới. Hội nghị thành lập Đảng đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Đến tháng 10-1930, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thông qua Luận cương cách mạng tư sản dân quyền do đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư của Đảng soạn thảo. Nội dung cơ bản của Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Luận cương cách mạng tư sản dân quyền đã được thông qua là tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Đó là Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là ngọn cờ tập hợp toàn Đảng, toàn dân ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, tạo tiền đề để cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991), trên cơ sở tổng kết quá trình hơn 60 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1930, phân tích sâu sắc đặc điểm tình hình quốc tế và trong nước, Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991).
Trải qua 15 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã đoàn kết phấn đấu, vượt qua những khó khăn, thử thách, giành được thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã có sự thay đổi toàn diện. Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh 1991; điều chỉnh, bổ sung một số điểm và đặt yêu cầu phải nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển Cương lĩnh chính trị, phù hợp với tình hình và yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, trình Đại hội XI.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CƯƠNG LĨNH 1991
Cương lĩnh 1991 đã trình bày các vấn đề: Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm; Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; Những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng – an ninh; Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng.
Những nội dung cơ bản của Cương lĩnh 1991 gồm:
l. Năm bài học lớn của cách mạng Việt Nam
Tổng kết thực tiễn hơn 60 năm của cách mạng nướcta, trong đó có 5 năm thực hiện đường lối đổi mới doĐại hội VI đề ra, từ những kinh nghiệm thành công vàcả những kinh nghiệm chưa thành công, Đại hội đạibiểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã nêu năm bàihọc lớn của cách mạng Việt Nam:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủnghĩa xã hội.
Đây là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nướcta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để xây dựngchủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảmvững chắc cho độc lập dân tộc. Hai vấn đề này có quanhệ hữu cơ với nhau. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộcvà chủ nghĩa xã hội tạo ra sức mạnh to lớn của dân tộctrong đấu tranh cách mạng.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, donhân dân và vì nhân dân.
Chủ nghĩa Mác – Lênin và thực tiễn cách mạng nướcta đã khẳng định một nguyên lý cơ bản, quần chúngnhân dân là người làm nên lịch sử. Để phát huy sứcmạnh vĩ đại của nhân dân, sự lãnh đạo và toàn bộ hoạtđộng của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyệnvọng chính đáng của nhân dân. Đảng không có lợi íchnào khác ngoài lợi ích của nhân dân; Đảng là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân.
Sức mạnh của Đảng xuất phát từ sự gắn bó mậtthiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhândân là nguy cơ dẫn đến suy yếu và mất vai trò lãnh đạocủa Đảng cầm quyền và làm cho sự nghiệp cách mạngbị tổn thất.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết,đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dântộc, đoàn kết quốc tế.
Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lịchsử lớn, lâu dài của dân tộc ta đã được Đảng ta và Chủtịch Hồ Chí Minh vận dụng thành công, tạo nên nguồnsức mạnh to lớn để giành thắng lợi.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thờiđại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Trong thời đại ngày nay, dưới tác động của cáchmạng khoa học – công nghệ và quá trình toàn cầu hoá,quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, các yếu tố bêntrong và bên ngoài có quan hệ và tác động lẫn nhau.Sức mạnh dân tộc là sức mạnh tổng hợp của nhiềunguồn lực, trong đó đoàn kết toàn dân tộc, phát huydân chủ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bảnsắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực để pháttriển đất nước. Sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc tếtrước hết là sức mạnh của quy luật và xu thế phát triểncủa lịch sử nhân loại; là sức mạnh của cách mạng khoahọc – công nghệ hiện đại, của các lưc lượng cách mạngvà tiến bộ trên thế giới.
Trong mọi giai đoạn, mọi thời kỳ cách mạng, sứcmạnh và nguồn lực bên trong là yếu tố quyết định,đồng thời được bổ sung và nhân lên khi kết hợp đượcvới các sức mạnh và nguồn lực bên ngoài.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thực tế lịch sử đã khẳng định, sự lãnh đạo đúng đắncủa Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết địnhhàng đầu bảo đảm thắng lợicủa sự nghiệp cách mạngViệt Nam. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo củaĐảng, phải xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tưtưởng và tổ chức; thường xuyên đổi mới phương thứclãnh đạo, đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, đủ sứcgiải quyết các vấn dề do cuộc sống đặt ra. Muốn vậy cầnquán triệt những nội dung cơ bản sau:
- Nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
- Không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng;
- Xây dựng đường lối đúng đắn trên cơ sở xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp ứng yêu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân;
- Phòng, chống có hiệu quả những nguy cơ lớn: sai lầmvề đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá biến chất của cán bộ, đảng viên…
2. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
a) Hoàn cảnh quốc tế
Cương lĩnh 1991 đã nhận định, sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta diễn ra trong hoàn cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu sắc, đó là:
- Sự tác động mạnh mẽ và sâu sắc của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, vừa tạo ra thời cơ phát triển nhanh, vừa tạo ra những thách thức đối với nước ta và các nước.
- Nhiều nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng trầm trọng, thậm chí ở một số nước đảng cộng sản mất vai trò lãnh đạo, chế độ xã hội đã thay đổi. Các thế lực thù địch và chủ nghĩa đế quốc luôn phản kích quyết liệt nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đang diễn ra gay gắt.
- Chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng phát triển kinh tế, song bản chất áp bức, bóc lột và bất công vẫn không thay đổi. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc quyền, các trung tâm tư bản, giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát triển ngày càng tăng.
- Cuộc đấu tranh của các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển chống nghèo nàn, lạc hậu, chống chủ nghĩa thực dân mới, chống sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc đang tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức và rất gay go, phức tạp, quyết liệt.
- Nhiều vấn đề toàn cầu cấp bách cần phải giải quyết như: ô nhiễm, suy thoái môi trường, tình trạng nghèo đói, bùng nổ dân số…
- Đặc điểm nổi bật của thời đại trong giai đoạn hiện nay là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, quyết liệt, phức tạp; vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách, lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội.
b) Những khó khăn, thuận lợi của nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Trong khi đó, các thế lực thù địch trên thế giới luôn tìm mọi thủ đoạn chống phá cách mạng nước ta.
- Chúng ta cũng có những thuận lợi rất cơ bản, đó là:
+ Có sự lãnh đạo của một đảng được rèn luyện trong đấu tranh, dày dạn kinh nghiệm lãnh đạo; có chính quyền nhân dân và môi trường hoà bình xây dựng.
+ Dân tộc ta anh hùng, có ý chí vươn lên mạnh mẽ; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, lao động cần cù, sáng tạo.
+ Chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất – kỹ thuật ban đầu cho quá trình công nghiệp hoá.
+ Hiện nay, chúng ta có những cơ hội mới do cuộc cách mạng khoa học – công nghệ mang lại.
+ Công cuộc đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, tạo thế đi lên cho đất nước.
Cương lĩnh khẳng định: “Quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí tuệ của dân tộc, đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”2.
3. Quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Đảng ta trong Cương lĩnh 1991
Trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng, việc Đảng ta nêu lên quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ởnước ta có ý nghĩa rất sâu sắc. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng có các đặc trưng chủ yếu sau đây:
Một là, nhân dân lao động làm chủ.
Đây là đặc trưng cơ bản khác biệt về chất so với chủ nghĩa tư bản và các chế độ bóc lột, thể hiện lý tưởng cao đẹp của nhân loại, khát vọng ngàn đời của con người.
- Nhân dân lao động làm chủ được bảo đảm trên thực tế, trong mọi mặt đời sống xã hội, thực hiện trên cả hai hình thức: làm chủ đại diện và làm chủ trực tiếp theo quy định của pháp luật.
- Quá trình thực hiện quyền làm chủ của nhân dân là một quá trình phấn đấu, hoàn thiện từng bước, từ thấp đến cao, phụ thuộc vào kết quả phát triển xã hội và phát triển con người.
Hai là, có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thực hiện công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu là cơ sở kinh tế để xoá việc sinh ra giai cấp đối kháng, cơ sở kinh tế của chế độ người bóc lột người. Song, chế độ công hữu chỉ có thể được xây dựng và hoàn thiện từng bước trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại.
Ba là, có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy ã hội phát triển. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển văn hoá.
Nền văn hoá tiên tiến là nền văn hoá thấm đượm tinh thần yêu nước và tiến bộ, nội dung cốt lõi của nó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản sắc dân tộc là những giá trị tinh thần bền vững mà lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc đã hun đúc nên. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết cộng đồng, gắn chặt cá nhân với gia đình, làng xã, Tổ quốc; là tinh thần ham học tập, cầu tiến bộ; là lối sống giản dị, khiêm tốn; là lòng nhân ái thuỷ chung, trọng nghĩa tình đạo lý…
- Giữ gìn, kế thừa và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc luôn đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Bốn là, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.
Giải phóng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của xã hội.
Con người được phát triển toàn diện, cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, trong sáng về đạo đức, phong phú về tinh thần, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Năm là, các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Nước ta là quốc gia đa dân tộc. Trên đất nước ta có 54 dân tộc anh em, bao đời chung sức, chung lòng xây dựng Tổ quốc Việt Nam. Trong xã hội mới mà chúng ta xây dựng, các dân tộc anh em, dù đa số hay thiểu số, đều bình đẳng, có sự đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Sáu là, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Truyền thống yêu nước, yêu độc lập, tự do, tôn trọng độc lập, tự do của các dân tộc khác, cùng với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đã xác định xã hội mới mà chúng ta xây dựng có quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Sáu đặc trưng trên gắn bó hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể thống nhất, vừa là tiền đề, vừa là kết quả của nhau, được hoàn thiện dần từng bước trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mọi hoạt động lãnh đạo, quản lý đều phải chú ý đến cả sáu đặc trưng trên, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động của mọi cấp, mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
4. Những phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Cương lĩnh 1991 đã nêu bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Bảy phương hướng này đồng thời cũng là những định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của đất nước.
Một là, “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”3.
Phương hướng này chỉ rõ bản chất giai cấp, tính nhân dân của Nhà nước ta. Thông qua Nhà nước, nhân dân ta có công cụ mạnh mẽ, sắc bén để thực hiện quyền làm chủ của mình, đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa đầy đủ và đúng đắn, cần đấu tranh phê phán quan điểm và hành vi quan liêu, xa rờiquần chúng, quan điểm dân chủ phi giai cấp, dân chủ quá trớn, thiếu kỷ cương… không phù hợp với bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, “phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân”4.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn kém phát triển, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phát triển lực lượng sản xuất. Công nghiệp hoá là phương thức quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời, do sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay phải theo hướng hiện đại.
Ba là, ”phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu”5.
Phương hướng này thể hiện sâu sắc hơn, sáng tỏ hơn quan niệm về xây dựng quan hệ sản xuất trên ba mặt: sở hữu, quản 1ý và phân phối, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất hiện nay, bảo đảm sự gắn bó hữu cơ ngay trong từng bước phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; khắc phục quan điểm duy ý chí, muốn nhanh chóng xác lập ngay quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, chế độ công hữu chiếm ưu thế, trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp. Quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần dựa trên nhận thức đầy đủ hơn về những ưu thế và hạn chế của sản xuất hàng hoá; sản xuất không phải là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản; khắc phục tư tưởng phủ nhận sản xuất hàng hoá và kinh tế nhiều thành phần; duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, phân phối bình quân.
Chúng ta chủ trương tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh thành hoá để chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của chúng, phục vụ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Mặt khác, cần tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, từng bước hình thành cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, đó là kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Chỉ có trên cơ sở kinh tế này chúng ta mới thực hiện được mục tiêu xoá áp bức bóc lột, xoá sự phân hoá xã hội thành các giai cấp đối kháng. Đây là một trong những vấn đề cơ bản để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển các thành phần kinh tế. Trong nền kinh tế có nhiều hình thức phân phối khác nhau: phân phối theo vốn, phân phối theo phúc lợi, nhưng hình thức phân phối chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Bốn là, ”tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá làm cho thế giới quan Mác – Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng, văn hoá phản tiến bộ, trái với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những giá trị cao quý của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội”6.
Cách mạng tư tưởng – văn hoá là một quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa và càng cần thiết khi chuyển sang cơ chế kinh tế mới. Phát triển kinh tế phải đi đôi với xây dựng nền văn hoá mới và con người mới, bảo đảm sự phát triển bền vững.
Năm là, thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh. Thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”7.
Phương hướng này nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, huy động mọi lực lượng của cộng đồng dân tộc, mọi tiềm năng sáng tạo của con người Việt Nam. Mặt khác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và tranh thủ tối đa sức mạnh bên ngoài để kết hợp có hiệu quả sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững; góp phần của nước ta vào sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình và tiến bộ của nhân dân thế giới.
Sáu là, ”xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”8.
Hai nhiệm vụ chiến lược trên có vị trí riêng, nhưng có quan hệ thống nhất với nhau. Xác định đúng từng nhiệm vụ trong mối quan hệ đó, để một mặt, tập trung sức lực, trí tuệ cho việc xây dựng đất nước; mặt khác, có đủ khả năng đập tan mọi hoạt động phá hoại, làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn ”diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, bảo đảm cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân.
Đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu không có nghĩa là coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bởi vì, làm tốt nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội là xây dựng cơ sở vật chất và tinh thần bảo đảm làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Cần kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ an ninh, quốc phòng.
Bảy là, ”xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”9.
Phương hướng này quán triệt sâu sắc luận điểm Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của toàn bộ sự nghiệp cách mạng; đồng thời, chỉ rõ cần thường xuyên nhận rõ nguy cơ của Đảng cầm quyền mà V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo. Đó là nguy cơ sai lầm về đường lối chính trị, sự thoái hoá về tư tưởng chính trị, đạo đức, quan liêu, xa rời quần chúng. Do đó, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới và chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Theo các phương hướng cơ bản nói trên, mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là “… xây dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, với kiến trúc thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hoá phù hợp, làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh”10.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một quá trình lâu dài, phải qua nhiều chặng đường. Mục tiêu của chặng đường đầu là thông qua đổi mới toàn diện, xã hội đạt tới trạng thái ổn định vững chắc, tạo thế phát triển nhanh ở chặng sau.
Để thực hiện tốt các mục tiêu nói trên, trong Cương lĩnh đã nêu những định hướng lớn về chính sách kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, phương hướng cơ bản xây dựng hệ thống chính trị, trong đó nêu bật vai trò lãnh đạo của Đảng11.
III. VIỆC THỰC HIỆN CƯƠNG LĨNH 1991 TRONG THỜI GIAN TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2005 VÀ SỰ PHÁT TRIỂN MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA CƯƠNG LĨNH 1991 TRONG NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI X
l. Việc thực hiện Cương lĩnh 1991 trong thời gian từ năm 1991 đến năm 2005 .
Sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, trong đó có 15 năm thực hiện Cương lĩnh 1991, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân ta được củng cố và tăng cường. Chính trị – xã hội ổn định. Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng và nhân dân ta ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
2. Sự phát triển một số nội dung Cương lĩnh 1991 trong Nghị quyết Đại hội X
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và những bài học kinh nghiệm được rút ra, Đại hội X đã bổ sung một số nội dung của Cương lĩnh 1991 như sau:
a) Nhận thức về chủ nghĩa xã hội
Đại hội X của Đảng đã bổ sung và xác định xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng có tám đặc trưng:
Một là, “xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”12.
Trong Cương lĩnh 1991 chưa nói đến đặc trưng này. Đại hội VIII của Đảng (1996) đã xác định mục tiêu của cách mạng nước ta là ”Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Đến Đại hội IX đã bổ sung thêm từ ”dân chủ”, thành ”Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đại hội X đã xác định đó là một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng.
Hai là, ”do nhân dân làm chủ”13.
Cương lĩnh 1991 viết: ”do nhân dân lao động làm chủ”. Đại hội X đã điều chỉnh là ”do nhân dân làm chủ”. Nói nhân dân làm chủ vì chúng ta đã khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đại đa số nhân dân là người lao động. Hơn nữa, trong điều kiện phát triển nền kinh tế nhiều thành phần và phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, nói nhân dân làm chủ phù hợp với thực tế hơn, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, ”có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất”14.
Trên cơ sở xác định ở nước ta có 3 chế độ sở hữu cơ bản (toàn dân, tập thể và tư nhân), nhiều hình thức sở hữu và loại hình sản xuất, kinh doanh, nên quan hệ sở hữu trong xã hội có sự đan xen phức tạp và đang phát triển. Vì vậy, nói về quan hệ sản xuất trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội X điều chỉnh, bỏ đoạn nói về ”chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu”.
Bốn là, ”có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”15.
Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991.
Năm là, ”con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện”16.
So với Cương lĩnh 1991, Đại hội X có điều chỉnh, bỏ cụm từ ”bóc lột”.
Xét về bản chất và mục tiêu lâu dài trong xã hội ta không còn bóc lột. Nhưng trong quá trình phát triển, hiện tượng bóc lột còn tồn tại do trình độ sản xuất quy định và trong thời kỳ quá độ, nó còn có ý nghĩa nhất định trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển.
Ngoài ra, trong đặc trưng này, Đại hội X còn sửa chữa cụm từ ”có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân” thành ”phát triển toàn diện”.
Sáu là, “các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ”17.
Đặc trưng này về cơ bản như Cương lĩnh 1991, nhưng có bổ sung thêm cụm từ ”tương trợ” để phù hợp hơn với thực tế, phát huy lợi thế phát triển của từng vùng, miền, từng dân tộc.
Bảy là, ”có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản”18.
Cương lĩnh 1991 chưa nói tới việc xây dựng nhà nước pháp quyền, nhưng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã xây dựng nhà nước dân chủ mới và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (tháng l-1994), Đảng ta chính thức đưa ra khái niệm ”xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Các Đại hội VIII, IX, X tiếp tục khẳng định quan điểm này.
Tám là, ”có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”19.
Đặc trưng này giống như Cương lĩnh 1991.
b) Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Cương lĩnh 1991 đã nêu ra bảy phương hướng cơ bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X đã sắp xếp lại, điều chỉnh, bổ sung thành tám quá trình tất yếu phải thực hiện ở nước ta.
Một là, ”phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”20.
Trong Cương lĩnh 1991, chúng ta chưa dùng khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà nói phát triển nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Từ nhận thức rõ hơn, đi tới khẳng định kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của sản xuất hàng hoá, là quy luật phát triển chung của nhân loại, đến Đại hội IX, chúng ta coi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trên conđường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X xác định đây là quá trình tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Hai là, ”đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá”21.
Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển tất yếu khách quan của các nước từ nền sản xuất nhỏ, kinh tế kém phát triển. Cương lĩnh 1991 nói công nghiệp hoátheo hướng hiện đại. Từ Đại hội VIII, Đảng ta nói côngnghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Đại hội X bổ sungđiều này so với Cương lĩnh 1991.
Ba là, ”xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bảnsắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội”22.
Quan điểm này nhắc lại nội dung Cương lĩnh 1991.
Bốn là, ”xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc”23.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác định vừa là mụctiêu, vừa là động lực để phát triển kinh tế – xã hội. Đạihội X đã xác định: Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nềntảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân vàđội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đườnglối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để đoàn kết toàn dân tộc, quy tụ tất cả những người Việt Nam yêu nước ở cả trong và ngoài nước.
Năm là, ”xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”24.
Đây là nội dung được bổ sung so với Cương lĩnh 1991. Đại hội X chỉ rõ phải xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực của Nhà nước đều thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Sáu là, “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh”25.
Đây là nhiệm vụ hết sức cơ bản và quan trọng, thường xuyên. Đại hội X nhấn mạnh hơn nhiệm vụ nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khắc phục bằng được tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vì chúng đang là nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ.
Bảy là, ”bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia”26.
Tám là, ”chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”27.
Đại hội X khẳng định: ”Qua tổng kết lý luận – thực tiễn 20 năm đổi mới, chúng ta càng thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn củaCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần được giải đáp. Sau Đại hội X, Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội”28.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top