Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mĩ 1945-1954
I. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ sau Cách mạng tháng Tám đến cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ.
1. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sau Cách mạng tháng Tám năm 1945
– Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Đảng và nhân dân Việt Nam có bộ máy chính quyền nhà nước làm công cụ để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhân dân Việt Nam có truyền thống yêu nước và truyền thống cách mạng, được hưởng những thành quả của cách mạng, nên có quyết tâm bảo vệ chế độ mới. Đảng đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh dạn dày kinh nghiệm lãnh đạo, đã trở thành đảng cầm quyền, là trung tâm đoàn kết toàn dân trong công cuộc đấu tranh để xây dựng và bảo vệ chế độ cộng hoà dân chủ. Hệ thống xã hội chủ nghĩa hình thành, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh vì hoà bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa. Đó là những thuận lợi cơ bản để Đảng ta, nhân dân ta sẵn sàng vượt qua những khó khăn, thử thách vô cùng to lớn.
– Cũng sau Cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng trước tình thế khó khăn như ngàn cân treo sợi tóc.
– Giặc ngoại xâm và nội phân đang đe dọa vận mệnh Tổ quốc: Quân đội các nước đế quốc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật Bản, lũ lượt kéo vào Việt Nam.
– Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc. Theo sau Trung Hoa Dân quốc là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách) với âm mưu xúc tiến thành lập một chính phủ bù nhìn. Dã tâm của chúng là tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền cách mạng còn non trẻ của nhân dân Việt Nam.
– Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam có hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, tạo điều kiện cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam.
– Ngoài ra còn quân Nhật đang chờ để giải giáp. Một bộ phận theo lệnh để quốc Anh đánh lại lực lượng vũ trang cách mạng, tạo điều kiện cho quân Pháp mở rộng chiếm đóng Nam Bộ.
– Trong lúc đó, chính quyền cách mạng còn non trẻ, chưa được củng cố. Đảng và nhân dân Việt Nam chưa có kinh nghiệm giữ chính quyền. Hơn thế nữa, Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chưa nước nào công nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Cách mạng Việt Nam ở trong tình thế bị bao vây, cô lập.
– Chính sách cai trị thâm độc của phát xít Nhật như bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu. Tiến hành thu mua lương thực của nông dân với giá rẻ mạc. Ngăn chặn lượng thực từ miền Nam ra miền Bắc đã làm cho đồng bào ta, nhất là ở miền Bắc có tới hơn 2 triệu người chết đói. Sau Cách mạng tháng Tám, nạn đói đó vẫn chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ để ở 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo đó là hạn hán kéo dài làm cho hơn một nửa diện tích ruộng đất không thể cày cấy được.
– Về tài chính, ngân sách Nhà nước hầu như trống rỗng, Chính quyền cách mạng chưa quản lí được ngân hàng Đông Dương. Trong khi đó quân Trung Hoa Dân quốc tung ra th trường các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, càng làm cho nền tài chính thêm rối loạn.
– Về văn hoá, xã hội, Tàn dư văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân phong kiện để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân số bị mù chữ. Các tệ nạn xã hội cũ như mê tín d đoạn, rượu chè, cờ bạc, nghện hút ngày đêm hoành hành.
– Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng trước tình thế hiểm nghèo. Vận mệnh dân tộc như ngàn cân treo sợi tóc.
– Trong hoàn cảnh đó, ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng ra bản chỉ th Kháng chiến, kiện quốc, xác định:
+ Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam vẫn là giải phóng dân tộc, khẩu hiệu của nhân dân là dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết.
+ Kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm lược.
+ Bốn nhiệm vụ cấp bách trước mắt là củng cô chính quyền, chống thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phân, cải thiện đời sống cho nhân dân;
+ Phương hướng đối ngoại là kiên trì nguyên tắc bình đẳng, hợp tác, thêm bạn, bớt thù, đối với quân Trung Hoa dân quốc thực hiện khẩu hiệu Hoa, Việt thân thiện, đối với Pháp thực hiện độc lập về chính trị, nhân nhượng về kinh tế
2. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính
a) Xây dựng chính quyền cách mạng: Ngày 6/1/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội trong cả nước. Hơn 90% cử tri đã đi bầu 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
– Thắng lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội có y nghĩa to lớn, thể hiện ý chí và quyết tâm của nhân dân Việt Nam là xây dựng một nước Việt Nam thống nhất, độc lập; giáng một đòn mạnh mẽ vào âm mưu chia rẽ, lật đổ và xâm lược của đế quốc và tay sai, tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho nhà nước cách mạng để thực hiện nhiệm vụ đối nội, đối ngoại trong thời kì mới.
– Sau cuộc bầu cử Quốc hội, tại các địa phương Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã tiến hành bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, thành lập uý ban hành chính các cấp.
– Ngày 2/3/1946, Quốc hội khoá I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp phiên đầu tiên, thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Hồ Chí Minh làm chủ tịch và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Ngày 9/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua.
– Quân đội quốc gia Việt Nam ra đời (5/1946). Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố và phát triển. Viện kiểm soát nhân dân và toà án nhân dân được thành lập.
– Với việc khẩn trương xây dựng chính quyền cách mạng làm cho bộ máy chính quyền nhà nước được kiện toàn, trở thành công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
b) Giải quyết nạn đói và khó khăn về tài chính
* Giải quyết nạn đói: để giải quyết nạn đói, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra biện pháp trước mắt và lâu dài.
– Biện pháp trước mắt: quyên góp, điều hoà thóc gạo, đồng bào cả nước hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nổi gương Người: Tổ chức hũ gạo cứu đói, tổ chức ngày đồng tâm để lấy gạo cứu đói, không dùng lương thực để nấu rượu.
– Biện pháp lâu dài: toàn dân thi đua hăng hái tham gia sản xuất, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lí khác, giảm tổ 25%, chia lại ruộng đất công một cách công bằng.
– Nhờ có những biện pháp tích cực nói trên, chỉ sau một thời gian ngắn nạn đói bị đẩy lùi, đời sống nhân dân nhất là nông dân được cải thiện, sản xuất nông nghiệp cả nước nhanh chóng được phục hồi. Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào chính quyền cách mạng.
* Giải quyết những khó khăn về tài chính:
– Biện pháp trước mắt: Chính phủ phát động quyên góp, thực hiện Tuần lễ vàng, xây dựng Quỹ độc lập. Kết quả chỉ sau một thời gian ngắn nhân dân cả nước đã góp được 370 kg vàng và 20 triệu đồng vào Quỹ độc lập, 40 triệu cho Quỹ đâm phụ quốc phòng.
– Biện pháp lâu dài: Ngày 23/11/1946, tại kì họp thứ 2 của Quốc hội quyết định lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước. Những khó khăn về tài chính từng bước được đẩy lùi.
c) Về văn hoá — xã hội
Ngày 8/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập Nhà bình dân học vụ cơ quan chuyên trách việc chống giặc dốt. Người kêu gọi toàn dân đi học. Chỉ sau 1 năm trên toàn quốc đã tổ chức gần 76.000 lớp học và có trên 2,5 triệu người thoát nạn mù chữ.
Các trường phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đào tạo công dân, cán bộ có năng lực phụng sự Tổ quốc. Nội động và phương pháp giáo dục đổi mới theo tinh thần dân tộc, dân chủ.
– Việc bài trừ các tệ nạn xã hội như mê tín d đoạn được quần chúng nhân dân hưởng ứng sôi nối; kết hợp với xây dựng nếp sống văn hoá mới.
3. Đấu tranh chống ngoại xâm và nội phân, bảo vệ chính quyền cách mạng
a) Kháng chiến chống Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ
Ngày 23/9/1945, được sự giúp sức của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng đánh úp trụ sở Ủy ban Nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam lần hai.
– Ngay khi thực dân Pháp trở lại xâm lược, nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn cùng nhân dân Nam Bộ đứng lên kháng chiến. Lực lượng vũ trang đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, phá kho tàng, triệt phá nguồn tiếp tế, dựng chướng ngại vật trên đường phố, bao vây và tấn công quân Pháp trong thành phố .
– Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng nhân dân cả nước hướng về Thành đồng tổ quốc, đồng thời tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu của Pháp muốn mở rộng chiến tranh ra cả nước. Các đoàn quân Nam tiến sát cánh cùng nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.
b) Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc
Đứng trước tình thế, cùng một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù,Đảng và Chính phủ chủ trương hoà hoãn với quân Trung Hoa Dân quốc. Với biện pháp:
Chấp nhận một số yêu sách về kinh tế, tài chính của quân đội Trung Hoa Dân quốc như: cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông, chấp nhận lưu hành tiền quan kìm và quốc tế trên thị trường Việt Nam.
Đồng y nhường cho Việt Quốc, Việt cách 70 ghế trong Quốc hội và 4 ghế trong Chính phủ liên hiệp mà không qua bầu cử. Mặt khác, chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng đã kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rê, phá hoại của các thế lực phản động. Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật.
– Đảng rút vào hoạt động bí mật với danh nghĩa tự giải tán (11/11/1945), đề tránh mũi nhọn tiến công của kẻ thù.
=> Những biện pháp trên đã hạn chế các hoạt động chống phá của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng của chúng; tạo điều kiện củng cố chính quyền, tập trung kháng chiến chống Pháp ở miền Nam.
c) Hoà hoãn với Pháp
– Sau khi chiếm đóng các đô th ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp thực hiện kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước Việt Nam.
– ở Trung Quốc, lực lượng cách mạng phát triển mạnh, nên Trung Hoa Dân quốc cần rút quân ở Đông Dương về để đối phó. Các thế lực đế quốc do Mĩ cầm đầu vừa muốn tiêu diệt cách mạng Trung Quốc, lại vừa muốn chống cách mạng Việt Nam.
– Các thế lực đế quốc đã thu xếp công việc nội bộ, kết quả là Chính phủ Pháp và Chính phủ Trung Hoa Dân quốc kí Hiệp ước Hoa — Pháp (tháng 2/1946), thoả thuận việc quân Pháp ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
– Hiệp ước trên đặt nhân dân Việt Nam trước sự lựa chọn: hoặc phải đánh hai kẻ thù (cả Pháp và Trung Hoa dân quốc); hoặc là hoà hoãn, nhân nhượng với Pháp.
li để tránh tình trạng phải đối phó một lúc với nhiều kẻ thù, Ban Thường vụ Trung ương Đảng chọn giải Pháp Hoà để tiến. Vào thời điểm đó, Pháp cũng cần hoà với Việt Nam để có thể đưa quân ra miền Bắc một cách dễ dàng và kéo dài thời gian chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn.
– Ngày 6/3/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà kí với G. Xanhtơni, đại diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ với nội dung:
– Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương, thuộc khỏi Liên hiệp Pháp.
– Chính phủ Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp ra miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật và rút dần trong thời hạn 5 năm.
– Hai bên ngừng mọi xung đột ở miền Nam đi đến cuộc đàm phán chính thức.
– Việt Nam và Pháp tiếp tục đàm phán ở Hội nghị trù bị Đà Lạt (4/1946) và Hội nghị Phôngtenơbờlô (7/1946), nhưng không thu được kết quả gi.
– Ngày 14/9/1946, Hồ Chí Minh kí với chính phủ Pháp bản Tạm ước, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi về kinh tế và văn hoá.
=>Kí kết Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946, Ta đã loại bỏ bớt kẻ thù tránh được tình thế bất lợi phải chiến đấu với nhiều kẻ thù một lúc. Tạo thêm thời gian hoà bình để củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Tỏ rõ thiện chí hoà bình của Chính phủ và nhân dân Việt Nam.
4. Những bài học kinh nghiệm:
Bài học về việc biết dựa và sức mạnh của quần chúng nhân dân, biết phát huy cao độ sức mạnh sáng tạo của quần chúng nhân dân.
– Bài học về biết lợi dụng và khai thác triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, xác định đúng kẻ thù chủ yếu, trước mắt, cô lập và tập trung lực lượng đánh đúng kẻ thù.
Bài học về biết tranh thủ khả năng hoà bình và phương pháp đàm phán thương lượng để giữ vững và phát triển lực lượng cách mạng, đồng thời phải luôn chuẩn bị sẵn sàng ứng phó với khả năng chiến tranh lan rộng, quyết liệt và kéo dài.
– Bài học về việc kết hợp giữa nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc, xây dựng đi đối với bảo vệ Tổ quốc.
II. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp (1946 – 1954)
1. Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ
a) Âm mưu và hành động chiến tranh của Pháp
Mặc dù đã kí Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946,
thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh việc chuẩn bị chiến tranh xâm lược, ở Nam Bộ và
Nam Trung Bộ, thực dân Pháp mở các cuộc tiến công, ở Bắc Bộ, hạ tuần tháng 11/1946, quân Pháp tiến công ở Hải Phòng, Lạng Sơn, cho quân đổ bộ lên Đà Nẵng, sau đó chiếm đóng Hải Phòng.
– Tháng 12/1946, Pháp gây hấn ở Hà Nội, chiếm trụ sở Bộ Tài chính, gây ra vụ thảm sát ở phố Hàng BÚn (Khu phố Yên Ninh). Ngày 18/12/1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội, nếu không chúng sẽ giành toàn quyền hành động vào sáng ngày 20/12/1946.
– Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng và Chính phủ phải có quyết định kịp thời. Ngày 18/12/1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.
– Tới ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
* Nội dung Lời kêu gọi:
– Nếu thiện chí của ta và âm mưu xâm lược của thực dân Pháp: Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa.
– Nói lên sự quyết tâm của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp: Không Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
– Thể hiện cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân: Hễ là người Việt Nam thi phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc,
– Đây là lời hiệu triệu, là ngọn cờ dẫn dắt toàn quân, toàn dân ta thực hiện cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược.
b) Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
c – Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta thể hiện trong Chỉ thị Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946) và được giải thích cụ thể trong tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi của Trường Chinh (tháng 9/1947):
* Nội dung của đường lối kháng chiến:
– Xác định mục đích kháng chiến là đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập tự do: Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
– Kháng chiến toàn dân: xuất phát từ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, từ tư tưởng chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh, thực hiện toàn dân đánh giặc và đánh giặc bằng mọi vũ khí có trong tay. Có lực lượng toàn dân mới thực hiện được kháng chiến toàn diện và tự lực cánh sinh.
– Kháng chiến toàn diện: kháng chiến trên tất cả các mặt: quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và ngoại giao, nhằm làm thất bại mọi thủ đoạn của thực dân Pháp. Mặt khác phải xây dựng hậu phương kháng chiến toàn diện.
– Kháng chiến lâu dài: vi so sánh lực lượng lúc đầu chưa có lợi cho cuộc kháng chiến; cần có thời gian để vừa kháng chiến vừa kiến quốc; chống lại chiến lược đánh nhanh, thắng nhanh của địch; từng bước làm thay đổi so sánh lực lượng, tiến lên giành thắng lợi quyết định.
– Tự lực cánh sinh: nhằm phát huy mọi nỗ lực chủ quan, tránh tư tưởng bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài; mặt khác vẫn coi trọng sự ủng hộ quốc tế.
=> Đường lối kháng chiến của Đảng là đường lối chiến tranh nhân dân, là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc Việt Nam đứng lên kháng chiến, là xuất phát điểm cho mọi thắng lợi của cuộc kháng chiến.
2. Những thắng lợi trên mặt trận quân sự
a) Cuộc chiến đấu ở Hà Nội và các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16
– ở Hà Nội, khoảng 20 giờ ngày 19/12/1946, sau tín hiệu tắt điện toàn thành phố, cuộc chiến đấu bắt đầu.
– Vệ quốc quân, tự vệ chiến đấu tiến công các v trí quân Pháp. Nhân dân khiêng bàn ghế, tủ làm chướng ngại vật trên đường phố. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt hai bên giành nhau từng khu nhà, góc phố như ở Bắc Bộ Phủ, Bưu điện Bờ Hồ ga Hàng có, phố Khâm Thiên.
– Trung đoàn thủ đô được thành lập, đánh địch quyết liệt ở Bắc Bộ Phủ, Chợ Đồng Xuân. Sau hai tháng chiến đấu, ngày 17/2/1947, Trung đoàn rút về hậu phương để chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
– Quân dân các đô th ở Bắc vĩ tuyến 16 kiện cưòng chiến đấu, gây nhiều khó khăn cho địch: vây hãm địch trong thành phố Nan Định từ tháng 12/1946 đến tháng 3/1947; buộc địch ở Vinh phải đầu hàng
– Kết quả và y nghĩa: Tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, giam chân chúng trong thành phố, làm thất bại một bước kế hoạch đánh úp của chúng, tạo điều kiện cho cả nước đi vào cuộc kháng chiến lâu dài.
b) Chiến dịch Việt Bắc thu-đông năm 1947
– Tháng 3/1947, Chính phủ Pháp cử Bố-la-e sang làm cao uý Pháp ở Đông Dương, thay cho Đác-giăng-liơ. Bố-la-e vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc.
– Bố-la-e lập kế hoạch mở cuộc tấn công lên Việt Bắc nhằm: xoá bỏ căn cứ địa. tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và quân chủ lực, trệt đường liên lạc quốc tế; tiến tới thành lập chính phủ bù nhìn toàn quốc và nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
– Để thực hiện âm mưu đó, ngày 7/10/1947, Pháp đã huy động 12.000 quân, gồm cả không quân, lục quân, và thuỷ quân với hầu hết máy bay có ở Động Dương chia thành ba cánh tiến công lên Việt Bắc.
– Chủ trương của Đảng ta: Khi thực dân Pháp lập kế hoạch đánh lên Việt Bắc, Trung ương Đảng ra chỉ th: phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp.
– Diễn biến chiến dịch: Bao vây tiến công địch ở Bắc Kạn, Chợ Mới, Chợ Đồn, Chợ Rã, buộc Pháp phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ Rã (cuối tháng 11/1947). ở mặt trận hướng đông: chặn đánh địch trên đường số 4, tiêu biểu là ở đèo Bông Lau
(30/10/1947). ở hướng Tây: phục kích, đánh địch trên sông Lô, tiêu biểu là trận Đoạn Hùng, Khe Lau, bắn chìm nhiều tàu chiến, tiêu diệt hàng trăm tên địch.
– Sau 75 ngày đêm chiến đấu, buộc đại bộ phận quân Pháp phải rút chạy khỏi Việt Bắc (ngày 19/12/1947); bảo toàn được cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến; bố,đội chủ lực thêm trưởng thành.
– Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6.000 quân địch; bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm và cháy 11 tàu chiến, ca nô; phá huỷ nhiều xe quân sự và pháo các loại, thu nhiều vũ khí và hàng chục tấn quân trang quân dụng.
– Là chiến dịch phân công lớn đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
– Chứng minh đường lối kháng chiến của Đảng là đúng, chứng minh tính vững chắc của căn cứ địa Việt Bắc.
Làm thất bại hoàn toàn chiến lược đánh nhanh thắng nhanh của giặc Pháp, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài.
c) Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950:
– Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến có thêm nhiều thuận lợi mới: từ thế bị cô lập trong suốt 5 năm, ta tích cực mở rộng quan hệ nhằm tìm kiếm sự ủng hộ của quốc tế. Ngày 1/10/1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa được thành lập và đến 18/1/1950, Chính phủ nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đến ngày 30/1/1950, Liên Xô và các nước Đông Âu công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước ta. Uy tín và tiềm lực quân sự của ta ngày càng tăng ảnh hưởng trong dân chúng.
Cũng trong thời gian này nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng chính trị chưa từng có. Chính quyền bù nhìn Quốc gia Việt Nam tỏ ra quá yếu ớt để có thể hỗ trợ chính quyền Pháp tại Đông Dương. Chính phủ Pháp buộc phải tính đến phương án chấp nhận các khoản viện trợ kinh tế và quân sự của chính phủ Mỹ để có thể theo đuổi cuộc chiến.
Ngày 13/5/1949, được sự đồng y của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve. Với kế hoạch Rơve, Mĩ từng bước can thiệp sau và dính líu trực tiếp vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Ngày 7/2/1950, Mĩ công nhận Chính phủ bù nhìn Bảo Đại; ngày 8/5/1950, Mĩ đồng ý viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp, nhằm từng bước nắm quyền điều khiển chiến tranh ở Đông Dương.
– Thực hiện kế hoạch Rơve, từ tháng 6/1949 Pháp đưa nhiều vũ khí mới vào Việt Nam, tập trung quân ở Nam Bộ, Trung Bộ ra Bắc, tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, thiết lập Hành lanh Động – Tây . Trên cơ sở đó Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn với tiến công Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Để khắc phục khó khăn đó, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên bước mới, tháng 6/1950, Đảng và Chính phủ ta quyết định mở chiến dịch biên giới nhằm: Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch. Mở đường liên lạc với Trung Quốc và thế giới dân chủ. Mở rộng và cũng có căn cứ địa Việt Bắc, đồng thời tạo những thuận lợi mới thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.
– Thực hiện chủ trương trên, ngày 16/9/1950, các đơn v quân đội ta nổ súng mở đầu chiến dịch bằng trận đánh vào vị trí Động Khê và đã giành thắng lợi. Mất Động Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân này, Pháp nhanh chóng điều động quân đội ở Bắc Bộ thực hiện cuộc hành quân kép.
Một cánh do trung tá Le Page chỉ huy hành quân từ Thất Khê lên nhằm chiếm lại cứ điểm Động Khê mở lại đường số 4 và thu hút chủ lực của quân Việt Minh.
– Một cánh do trung tá Charton chỉ huy rút từ Cao Bădng xuống gặp Le Page ở Động Khê. Đồng thời Pháp cho quân đánh lên Thái Nguyên đề thu hút bớt chủ lực của ta. Đoán được y định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn đánh địch nhiều nơi trên đường số 4, khiến cho hai cánh quân này không gặp nhau được.
– Trước nguy cơ Thất Khê sẽ lại bị tiêu diệt như Động Khê, bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã ra lệnh rút khỏi Thất Khê trong rối loạn và phải chịu những tổn .thất nặng nề. Dưới sự uy hiếp của quân ta và sự hoang mang của bộ chỉ huy Pháp, đến ngày 22/10/1950, quân Pháp phải rút bỏ hoàn toàn khỏi các cứ điểm còn lại trên đường 4 như Thất Khê, Na sầm, Đồng Lập, Lạng Sơn… với thiệt hại rất nặng về trang bị.
– Chiến dịch biên giới kết thúc, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 địch, thu trên 3000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh. Giải phóng tuyến biên giới Việt-Trung từ Cao BẰng đến Định Lập dài 750 km với 35 vạn dân; chọc thủng hành lang Đông — Tây của Pháp. Kế hoạch Rơve bị phá sản.
– Với chiến thắng Biên giới, con đường nối nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông; quân đội ta đã trưởng thành, giành được thế chủ động trên trường chính (Bắc Động Dương), mở bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
– Đây là chiến dịch đầu tiên mà quân ta chủ động tấn công, làm thay đổi cục diện chiến trường: bắt đầu giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Quân Pháp thất bại lớn cả về quân sự và chính trị, bị đẩy lùi vào thế phòng ngự bị động. Chiến dịch này có y nghĩa bản lề quan trọng, là bước ngoặt của cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp có sự can thiệp của Mỹ.
d) Cuộc tiến công chiến lược Đông-Xuân 1953 – 1954
– Trải qua 8 năm kháng chiến kiến quốc, lực lượng kháng chiến ngày càng lớn mạnh. Thực dân Pháp thiệt hại ngày càng lớn: bị loại khỏi vòng chiến đấu 39 vạn quân, lâm vào thế bị động trên chiến trường. Mĩ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
– Ngày 7/5/1953, được sự thoả thuận của Mĩ, chính phủ Pháp cử tướng Nava làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Nava đề ra một kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng giành thắng lợi quyết định để kết thúc chiến tranh trong danh dự.
– Kế hoạch Nava được chia thành 2 bước:
+ Bước 1: từ thu động 1953 – xuân 1954: giữ thế phòng ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tiến công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam Động Dương, đồng thời tăng cường xây dựng quân đội tay sai, tập trung bình lực xây dựng lực lượng cơ động chiến lược mạnh.
+ Bước 2: từ thu – động 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường Bắc BỐ, thực hiện tiến công chiến lược, cô giành thắng lợi quân sự quyết định buộc Việt Minh phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho Pháp, nhằm kết thúc chiến tranh
+ Thực hiện kế hoạch: Từ thu đồng 1953, Nava tập trung lực lượng quân cơ động ở đồng bằng Bắc BỐ là 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 tiểu đoàn cơ động chiến lược trên toàn Động Dương), mở rộng hoạt động thổ phỉ, biệt kích ở vùng rừng núi, biên giới, mở cuộc tiến công lớn vào vùng giáp giới Ninh Bình, Thanh Hoá.
* Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 — 1954
– Trước sự thay đổi của cục diện chiến tranh ở Đông Dương và trên cơ sở nhận định âm mưu mới của Pháp – Mĩ, tháng 9-1953, Bộ Chính trị trung ương Đảng họp và đề ra kế hoạch tác chiến đông — xuân 1953 — 1954.
– Phương hướng chiến lược: Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công lớn vào những hướng quan trọng mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, buộc địch phải bị động phân tán lực lượng để đối phó ở những nơi xung yếu mà chúng không thể bỏ, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiêu diệt từng bộ phận sinh lực địch.
– Phương châm chiến lược: Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, đánh ăn chắc, tiến ăn chắc, chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng kiên quyết không đánh .
– Diễn biến chính của chiến dịch: Ngày 10/12/1953, tiến công địch ở Lại Châu, bao vây uy hiếp địch ở Điên Biên Phủ. Địch điều quân tăng cường cho Điên Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ trở thành nơi tập trung binh lực thứ hai sau đồng bằng Bắc Bộ.
– Đầu tháng 12/1953, phối hợp với quân, dân Lào tiến công Trung Lào. Nava lại phải vội vã điều quân từ đồng bằng Bắc Bộ sang ứng cứu cho Xênô (nơi tập trung binh lực thứ ba).
– Đầu tháng 2/1954, tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, giải phóng Kon Tum uy hiếp Plâyku. Nava lại phải điều quân từ Nam Tây nguyên lên ứng cứu cho Plâyku, biến Plâyku thành nơi tập trung binh lực thứ tư.
– Tháng 2/1954, mở cuộc tấn công ở Thượng Lào, giải phóng Nậm Hu, Phongxali, uy hiếp Luông Phabang và Mường Sài. Nava lại phải tăng cường lực lượng chốt giữ Luông Phabang, biến nơi này thành nơi tập trung binh lực thứ năm của địch.
– Phối hợp với mặt trận chính diện, chiến tranh du kích vùng sau lưng địch phát trịển mạnh, tiêu diệt, hiêu hao nhiều sinh lực địch làm cho chúng không có khả năng tiếp ứng cho nhau.
– Kế hoạch quân sự Nava bị đảo lộn. Địch điều chình kế hoạch, chọn Điện Bịên
Phủ làm khâu chính.
– Sau khi kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản, thực dân Pháp điều lực lượng lớn quân đội đổ bộ bằng đường hàng không xuống cánh đồng Mường Thanh, chiếm Điện Biên Phủ để bảo vệ vùng có ý nghĩa chiến lược này ở Đông Dương và Đồng
Nam Á.
– Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía Tây rừng núi Tây Bắc, có lòng chảo Mường Thanh dài gần 20 kilômét, rộng từ 6 đến 8 kilômét, cách Hà Nội khoảng 300 kilômét, nằm gần biên giới Việt – Lào có v trị chiến lược then chốt ở Đông Dương và cả ở Đông Nam Á, nên Pháp cố nắm giữ.
– Theo đánh giá của Nava và các nhà quân sự Pháp – Mỹ thì Điện Biên Phủ ở vào một v trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương, mà còn động với miền Đông Nam Á. Nó như cái bàn xoay có thể xoay đi bốn phía Việt Nam, Lào. Miến Điện, Trung Quốc, như cái chìa khoá bảo vệ Thượng Lào, từ đó có thể đánh chiếm lại vùng đất đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1950 – 1953 và tạo điều kiện để tiêu diệt quân chủ lực của ta tại đây. Pháp đã tập trung mọi cố gắng để để xây dựng Điện Biên Phủ thành lập toàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông Dương.
Địch bố trí ở Điện Biên Phủ thành 3 phân khu: phân khu Bắc gồm các cứ điểm Độc lập, Bản Kéo; Phân khu Trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt cơ quan chỉ huy. có địa pháo, kho hậu cần. sân bay, tập trung 2/3 lực lượng; phân khu Nam có cứ điểm Hồng Cúm, trận địa pháo, sân bay, tổng cộng cả ba phân khu có 49 cứ điểm.
– Trước sự phá sản bước đầu trong kế hoạch quân sự Nava, địch quyết định xây dựng tập đoàn cứ điểm mạnh ở Điện Biên Phủ, biến Điện Biên Phủ thành một pháo đài không thể công phá, một con nhím khổng lồ ở rừng núi Tây Bắc. Và bên Điện Biên Phủ thành trung tâm điểm của kế hoạch Nava. Vì vậy, muốn kết thúc chiến tranh phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Vào ngày 6/12/1953, Trung ương Đảng đã họp và nhận định: Điện Biên Phủ là tập đoàn cứ điểm mạnh nhưng thế yếu của địch ở Điện Biên Phủ dễ bị cô lập, chỉ tiếp tế được bằng đường không, nếu ta cắt đứt đường hàng không, địch sẽ rơi vào thế^tử lộ* . , , : ngày
– Quân đội ta đã trưởng thành và có kinh nghiệm có thể đánh địch ở tập đoàn cứ điểm.
Hậu phương của ta đã vững mạnh, có thể khắc phục những khó khăn đảm bảo chi viện cho chiến trường.
Trên cơ sở phân tích tinh hình, Trung ương Đảng đã quyết định mở chiến dịch Điện Bịên Phủ, biến Điện Bịên Phủ thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch.
– Đầu tháng 12/1953, BỐ Chính trị Trung ương Đảng họp thống qua kế hoạch tác chiến của BỐ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Bịên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt địch ở đây, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện cho Lào giải phóng Bắc Lào.
– Đầu tháng 3/1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn tất. Ngày 13/3/1954, quân ta nổ súng tấn công tập đoàn cứ điểm Điện Bịên Phủ.
Phương châm tác chiến ban đầu của chiến dịch Điện Biên Phủ là đánh nhanh, thắng nhanh, sau được thay đổi thành đánh chắc, tiến chắc do đánh giá lại tính chất phòng ngự và so sánh lực lượng. Chiến dịch chia làm 3 giai đoạn:
– Trận đánh diễn ra trong 55 ngày đêm vì quân ta có khó khăn trong hậu cần nên không thể tiến công liên tục mà chia thành các đợt tiến công. Sau mỗi đợt lại tổ chức lại quân số, bổ sung hậu cần.
– Đợt 1 từ 13/3 – 17/4/1954, quân ta tiêu diệt phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. 17 giờ 5 phút chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, trận đánh bắt đầu. Quân đội ta sau đợt bắn pháo dữ dội, tiến công một trong các cứ điểm kiện cô nhất là cụm cứ điểm Him Lam và sau một đêm đã chiếm xong cụm cứ điểm này; sau đó đến 17 tháng 3, quân ta lần lượt mỗi ngày diệt một cứ điểm: đồi Độc Lập, Bản Kéo và toàn bộ phân khu Bắc.
– Ngay từ những ngày đầu pháo binh của ta đã loại bỏ khả năng cất, hạ cánh của sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm, từ đó trở đi các máy bay Pháp chỉ còn tiếp tế được cho tập đoàn cứ điểm bằng cách thả dù điều này cho thấy cầu hàng không mà bộ chỉ huy Pháp đặt nhiều kỳ vọng thực tế là rất yếu kém trước cách đánh áp sát của đối phương.
– Ngay từ những ngày đầu của đợt 1 quân Pháp đã nhận thức rõ được những điểm yếu chết người của mình và tương lai thất bại rõ ràng nhưng họ vẫn tăng cường cầm cự Điện Biên Phủ đến mức tôi địa vị hy vọng khi mùa mưa đến quân ta không thể giải quyết vấn đề hậu cần và sẽ bỏ cuộc, Điện Biên Phủ sẽ tránh được đầu hàng. Sau đó khi mùa mưa không giúp được, bộ chỉ huy Pháp hy vọng cầm cự càng lâu càng tốt để Hội nghị Giơnevơ sẽ nhóm họp vào đầu tháng 5, sẽ có ngừng bắn trước khi tập đoàn sụp đổ. Nhưng hy vọng này cũng không có được, Điện Biên Phủ đầu hàng một ngày trước khi nhóm họp Hội nghị Giơnevơ về vấn đề Đông Dương.
– Đợt 2 từ 30/3 – 26/4/1954, quân ta đánh phân khu trung tâm đặc biệt là dẫy điểm cao quan trọng phía đông, vây lấn bóp nghẹt tập đoàn cứ điểm. Đây là đợt tiến công vào phân khu trung tâm chủ yếu nhằm chiếm dẫy đồi phía đông khống chế cánh đồng Mường Thanh. Tại đây hai bên đánh nhau giành đi giật lại các mỏm đồi có tính sống còn đối với tập đoàn cứ điểm, đặc biệt là các đồi A1, C1, D1, thương vong của hai bên rất lớn. Phía Pháp dựa vào hầm ngầm, lô cốt để cố thủ và đưa quân từ các điểm khác dùng xe tăng và lính dù, lính lê dương để phản kích, các cứ điểm này vì có tính sống còn với quân Pháp đã được quân phòng ngự chiến đấu ngoan cường, quyết liệt phản kích liên tục để giữ vững và đã chống cự đến ngày cuối cùng của tập đoàn cứ điểm.
– Để chống lại các cứ điểm phòng ngự kiên cố của quân Pháp, quân đội ta đã áp dụng chiến thuật vây lấn rất có hiệu quả bằng hệ thống chiến hào họ đào các giao thông hào dần dần bao vây và siết chặt, tiếp cận dần vào các v trí của Pháp. Các chiến hào này tránh cho quân tiến công thương vong vì pháo binh và không quân địch và vào sát được v trí của quân địch, làm v trí bàn đạp tấn công rất thuận lợi. Quân Pháp ngay từ ngày đầu tiên của trận đánh đã nhận thức rất rõ sự nguy hiểm của cách đánh này mà không có phương sách nào để khắc chế. Quân ta vây lấn đào hào cắt ngang cả sân bay, đào hào đến tận chân lô cốt cố thủ, khu vực kiểm soát của quân Pháp bị thu hẹp đến mức không thể hẹp hơn.
– Cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ càng ngày càng yêu thế cho phía Pháp. Quân Pháp chỉ còn trông đợi vào dù tiếp tế nhưng phạm vi chiếm đóng bị thu hẹp và máy bay bị hệ thống phòng không của quân ta đánh mạnh nên dù tiếp tế và cả lính nhảy dù phần nhiều rơi sang phía đối phương. Mùa mưa lại tới, hầm hô của quân phòng thủ trở nên lầy lội thương binh không di tản đi được, lính chết không có chỗ chôn, bệnh tật, đường ruột phát sinh, đối phương lại áp sát bắn tỉa, tiếp tế thiếu mà việc lấy được dù cũng vô cùng khó khăn đi kèm với thương vong: quân Pháp thường phải đói khát đến đêm mới dám ra lấy dù. Tình cảnh của quân Pháp ngày càng bi đát và đi đến cùng cực. Điện Biên Phủ cho thấy khi bị bao vây cô lập thì một tiền đồn dù mạnh đến đâu rồi cũng sẽ bị tiêu diệt.
– Đợt 3 từ 1/5 – 7/5/1954, quân ta đánh dứt điểm dẫy đồi phía đông và tổng tiến công tiêu diệt các v trí còn lại. Sau khi lực lượng của Pháp đã trở nên tuyệt vọng, suy kiệt, bổ sung bằng dù không còn đủ để duy trì sức chiến đấu, và quân Pháp ở Bắc bộ cũng đã hết lính dù và lính lê dương có thể ném tiếp xuống Điện Biên Phủ, quân ta tổ chức đợt đánh dứt điểm các quả đồi phía đông. Để chống lại hệ thống hầm ngầm cố thủ không thể xung phong đánh chiếm được trên đồi AI có vị trí quyết định, bộ đội công binh Việt Nam đã đào một hầm ngầm phía dưới và cho nổ 1 tấn thuốc nổ hất tung hệ thống hầm ngầm cố thủ cuối cùng. Đến sáng ngày 7/5/1954 các quả đồi phía đông này đã thất thủ hoàn toàn mà phía Pháp không còn lực lượng khả dĩ chiếm lại, Quân đội Nhân dân Việt Nam tổng tiến công trên khắp các mặt trận quân Pháp đã sức tàn lực kiệt quyết định đầu hàng, Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt Thiếu tướng chỉ huy Đờ Cáttơri và toàn bộ ban tham mưu tập đoàn cứ điểm.
– Cụm phân khu Nam Hồng Cúm mưu toan chạy sang Lào nhưng bị quân Việt Minh đuổi theo tất cả đã bị bắt không đi thoát. Gần 10.000 số quân Pháp còn lại tại Điện Bên Phủ đã bị bắt làm tù binh.
– Như vậy, cuộc tiến công chiến lược Đông — Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Bên Phủ đã toàn thắng. Quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128 200 địch, thu 19000 súng các loại, phá 162 máy bay, 81 đại bác, giải phóng nhiều vùng rộng lớn trong cả nước.
– Riêng mặt trận Điện Biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16200 địch trong đó có 1 thiếu tướng, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.
– Thắng lợi của cuộc Tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Nava. Giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngọai giao của ta giành thắng lợi.
– Chiến thắng Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta, đã ghi dấu son phát triển vượt bậc của nền nghệ thuật quân sự Việt Nam, mà tầm vóc của nó như một BẠch Đằng, một Chi Lăng, một Động Địa của thế kỉ XX.
– Chiến thắng Điện Biên Phủ lần đầu tiên hàng nghìn sĩ quan, kể cả viên tướng chỉ huy, binh lính của quân đội một cường quốc phương Tây bị quân đội một nước, vốn được coi là nhược tiểu, là thuộc địa bắt làm tù binh. Đây là một thất bại nặng nề nhất, một đòn chí tử đánh sụp hoàn toàn ý đồ tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp. Thất bại ở Điện Biên Phủ buộc Pháp phải kí Hiệp định Giơnevơ tháng 7/1954 về lập lại hoà bình ở Đông Dương.
– Thắng lợi trong chiến dịch Điện Biên Phủ đã mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên các dân tộc thuộc địa vùng lên đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân để giành lấy quyền sống, quyền làm người của mình. Điện Biên Phủ đã đi vào ý thức về độc lập dân tộc đối với các dân tộc thuộc địa, nửa thuộc địa. Như Alen Hêghen (Camơrun) đã phát biểu Thắng lợi của Việt Nam ở Điện Biên Phủ có tính chất quyết định làm thức tỉnh y thức dân tộc và lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa của Pháp ở châu Phi.
– Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ có tác dụng động viên, cổ vũ các dân tộc bị áp bức, tạo ra niềm tin vô biên về thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Tạp chí Á, Phi, Mĩ Latinh viết: Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là tia lửa gây ra một loạt vụ nổ khác góp phần chấm dứt chủ nghĩa thực dân Pháp ở châu Phi. Sự cổ vũ mang lại khắp nơi cho các dân tộc bị áp bức là không thể lường hết được và đó là một trong những nhân tố không thể thiếu đem lại niềm
tin tưởng.
– Chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc mở đầu quá trình phá sản của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn thế giới. Lăcbi Bahali, Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Angiêri viết: Điện Biên Phủ tiếng chuông báo giờ chết của chủ nghĩa thực dân Pháp không những ở Việt Nam mà cả số phận còn lại của khối thuộc địa của nó.
– Điện Biên Phủ đã đem lại cho phong trào giải phóng dân tộc nửa sau thế kỉ XX những bài học kinh nghệm quí giá trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Thủ tướng Blen Blenlla cho rằng: Tin chiến thắng Điện Biên Phủ đến với chúng tôi cho thấy rõ con đường dẫn đến thắng lợi, nên chúng tôi quyết định tiến hành đấu tranh vũ trang. Ngày 7/5/1954 chiến thắng ở Điện Biên Phủ thì ngày 7/7/1954, ủy ban cách mạng Angiêri họp phát động đấu tranh vũ trang. Cuộc đấu tranh trường kì gian khổ nhưng vô cùng anh dũng đã đưa nhân dân Angiêri đến thắng lợi như ngày nay.
– Điện Biên Phủ chứng minh một cách hùng hồn cho chân lí của thời đại ngày nay rằng một dân tộc dù nhỏ, khi đã đoàn kết đứng lên theo một đường lối đúng đắn cho độc lập tự do thi đủ khả năng chiến thắng đội quân xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân hung hãn nhất.
– Điện Biên Phủ có dấu ấn sâu sắc về nhiều mặt đối với phong trào giải phóng dân tộc nửa sau thế kỉ XX, và như là một tất yếu, Điện Biên Phủ trở thành một báu vật, một niềm tự hào lớn lao đối với các dân tộc đang chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khỏi chủ nghĩa thực dân. Báo Sự thật cách mạng tháng Tư của ápganixtan ra ngày 7/5/1984, viết: Chiến thắng Điện Biên Phủ không những là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam anh hùng, mà còn là di sản quí báu của phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc, 30 năm qua những bài học và những kinh nghiệm quí báu của Điện Biên Phủ vẫn còn mang tính thời đại nóng hổi.
– Ngày 8/5/1954, một ngày sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu thảo luận về vấn đề hoà bình ở Đông Dương. Phái đoàn của ta do Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng chính thức tham gia Hội nghị.
– Hội nghị Giơnevơ trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp. Cuộc đấu tranh trên bàn hội nghị diễn ra hết sức căng thẳng và phức tạp do lập trường hai bên khác nhau. Lập trường của ta trước sau như một là đình chỉ chiến sự trên toàn Động Dương, các nước phải tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Trong khi Pháp đòi chỉ giải quyết vấn đề quân sự ở Việt Nam.
– Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến cũng như so sánh lực lượng giữa ta và Pháp và xu thế chung của thế giới là giải quyết các vấn đề tranh chấp quốc tế bằng thương lượng. Việt Nam đã kí Hiệp định Giơnevơ ngày 21/7/1954.
_ Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về Động Dương gồm các văn bản: Hiệp định định chi chiến sự ở Việt Nam, Lào, Campuchia ; Bản tuyên bốngày cuối cùng về việc lập lại hoà bình ở Động Dương đã được đại diện các nước dự Hội nghị kí chính thức và các phụ bản khác. Hiệp định Giơnevơ gồm những nội động cơ bản như sau:
– Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập. chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia ; cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước.
Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hoà bình trên toàn Đông Dương.
– Các bên tham chiến thực hiện cuộc tập kết, chuyển quân, chuyển giao khu vực ở Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam và quân đội viễn chinh Pháp tập kết ở hai miền Bắc — Nam, lấy vĩ tuyến 17 (dọc sống Biến Hải — Quảng Trị) làm giới tuyến quân sự tạm thời, cùng với khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến. Ớ Lào, lực lượng kháng chiến tập kết ở hai tỉnh sầm Nưa và Phongxali. Ở Campuchia, lực lượng kháng chiến phục viên tại chỗ, không có vùng tập kết.
– Hiệp định cấm đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào các nước Đông Dương. Các nước ngoài không được đặt căn cứ quân sự ở Đông Dương. Các nước Đông Dương không được tham gia bất cứ khối liên minh quân sự nào và không được để cho nước khác dùng lãnh thổ của mình gây chiến tranh hoặc phục vụ mục đích chiến tranh.
– Việt Nam sẽ thống nhất bằng một cuộc tuyển cử tự do trong cả nước, sẽ được tổ chức vào tháng 7/1956, dưới sự kiểm soát và giám sát của một ủy ban quốc tế (trong đó Ấn Độ làm Chủ tịch, cùng hai nước thành viên là Ba Lan và Cananđa.
– Trách nhiệm thi hành Hiệp định Giơnevơ thuộc về những người kí hiệp định và những người kế tục sự nghiệp của họ.
– Mặc dù thắng lợi ta giành được trong Hội nghị Giơnevơ vẫn chưa trọn vẹn song vẫn có ý nghĩa rất lớn:
– Hiệp định là văn bản pháp lý quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương và được các cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng.
Hiệp định đánh dấu thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta những năm 1946 — 1954 (mặc dù chỉ mới miền Bắc được giải phóng, nhân dân miền Nam tiếp tục đấu tranh thống nhất đất nước). Cuộc đấu tranh cách mạng vẫn phải tiếp tục nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
– Với Hiệp định Giơnevơ, buộc Pháp chấm dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương rút hết quân đội về nước. Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hoá chiến tranh xâm lược Đông Dương.
3. Những thắng lợi về chính trị, củng cố và phát triển hậu phương kháng chiến
a) Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng
– Trong bối cảnh trong nước và thế giới có những biến chuyển thuận lợi, tháng 2/1951, Đại hội đại biểu lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Chiêm Hoá – Tuyên Quang.
– Nội dung:
+ Tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở mỗi nước Việt Nam, Lào, Campuchia một Đảng riêng để đề ra đường lối chính trị phù hợp với tình hình mới
nước, ở Việt Nam, Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi là Đảng Lao động Việt Nam.
+ Thông qua Báo cáo chính trị của Hồ Chí Minh, tồng kết kinh nghệm đấu tranh của Đảng.
+ Thông qua Báo cáo BÀn về cách mạng Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh, nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là: Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập dân tộc; xoá bỏ những tàn tích phong kiến, thực hiện người cày có ruộng; phát triển chế độ dân chủ nhân dân để từng bước tiến tới chủ nghĩa xã hội.
+ Thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới của Đảng Lao động Việt Nam. BẦu Ban Chấp hành Trung ương mới do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Trường Chinh làm Tổng Bí thư. ngày 1
+ Đại hội lần thứ II của Đảng là một sự kiện quan trọng về chính trị của cuộc kháng chiến, đánh đấu bước phát triển mới, bước trưởng thành của Đảng;
+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc kháng chiến. Đây là Đại hội kháng chiến thắng lợi và xây dựng Đảng Lao động Việt Nam.
b) Củng cố và phát triển hậu phương kháng chiến
Ngày 3/3/1951, đại hội Việt Minh và Liên Việt thống nhất hai mặt trận thành mặt trận Liên Việt, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
– Năm 1952, Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ I được tổ chức và chọn được 7 anh hùng và hàng chục chiến sĩ thi đua toàn quốc tiêu biểu cho các ngành công, nông, bình, trí thức, cổ vũ mạnh mẽ phong trào thi đua yêu nước trong các ngành, các giới.
– Về kinh tế – tài chính: Năm 1952, Chính phủ mở cuộc đại vận động sản xuất và tiết kiệm. Năm 1953, vùng tự do và vùng căn cứ du kích từ Liên khu IV trở ra sản xuất được 2.757.000 tấn thóc và 650.000 tấn hoa màu. sản xuất thủ công nghiệp và công nghiệp cơ bản đáp ứng những nhu cầu về công cụ sản xuất và hàng tiêu dùng cần thiết: thuốc , quân trang, quân dụng. Chính phủ đề ra những chính sách thuế, xây dựng nền tài chính, ngân hàng, thương nghiệp phát triển độc lập. Năm 1953 lần đầu tiên đạt cân bằng về thu chi.
– Từ tháng 4/1953 đến 7/1954, thực hiện 5 đợt giảm tổ và 1 đợt cải cách ruộng đất ở 53 xã thuộc vùng tự do Thái Nguyên, Thanh Hoá. Đến cuối năm 1953, từ Liên khu IV trở ra, chính quyền cách mạng đã tạm cấp 184.000 hécta ruộng đất cho nông dân
– Về văn hoá, giáo dục, y tế: Tiếp tục thực hiện cải cách giáo dục lần thứ nhất đề ra từ tháng 7/1950. Kết quả, năm 1952 có 1 triệu học sinh phổ thông; khoảng 14 triệu người thoát nạn mù chữ. Chú trọng xây dựng phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng, hướng dẫn các văn nghệ sĩ hoạt động theo hướng phục vụ kháng chiến. Cuộc vận động thực hiện đời sống mới, bài trừ mê tín d đoạn ngày càng mạng tính chất quần chúng rộng lớn.
=> Những thắng lợi về chính trịngày củng cố và phát triển hậu phương kháng chiến đã củng cố và phát triển hậu phương kháng chiến vững mạnh, một nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Tạo cơ sở kinh tế, văn hoá cho chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ nghĩa xã hội.