Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953 - 1954)
Bài này nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về cuộc kháng chiến toàn quốc trong năm cuối đi đến kết thúc: - Pháp - Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông dương, thực hiện Kế hoạch Nava với âm mưu giành thắng lợi quân sự quyết định, “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.
- Chủ trương kế hoạch Đông - Xuân 1953 - 1954 của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh về một cuộc tiến công chiến lược và trận "quyết chiến chiến lược" Điện Biên Phủ.
- Trận thắng Điện Biên Phủ đã quyết định đi đến họp Hội nghị Giơnevơ và kí Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
I- Âm mưu mới của đế quốc Pháp - Mĩ ở Đông Dương. Kế hoạch Nava
Sau gần tám năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam (1945 - 1953), thực dân Pháp đã phải chịu những tổn thất rất nặng nề: Khoảng 390.000 quân bị loại khỏi vòng chiến đấu, không kể hàng chục vạn quân viễn chinh đang bị giam chân trên chiến trường Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam; tiêu tốn khoảng 2.130 tỉ phrăng. Vùng kiểm soát của chúng ngày càng bị thu hẹp. Trên chiến trường Việt Nam, quân Pháp ngày càng bị lún sâu vào thế bị động phòng ngự và thiếu hẳn một lực lượng cơ động chiến lược mạnh để có thể đối phó với các cuộc tấn cồng mới của bộ đội ta.
Tình hình chính trị, xã hội ở nước Pháp ngày càng thêm rối ren, phức tạp. Tình trạng kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương đã làm cho các tầng lớp nhân dân Pháp thêm khốn khổ vì phải nai lưng gánh chịu nạn tăng thuế và binh dịch. Cũng do đó phong trào đòi chấm dứt chiến tranh Đông Dương ngày càng lan rộng. Mâu thuẫn nội bộ giới cầm quyền Pháp ngày càng gay gắt. Chỉ trong vòng tám năm tiến hành chiến tranh Đông Dương, Chính phủ Pháp đã phải thay đổi tới 18 lần. Chính phủ do Rơnê Maye đứng đầu, mới được dựng lên chưa đấy 4 tháng đã phải cùng chung số phận của 17 chính phủ trước. Nước Pháp lại rơi vào cuộc khủng hoảng nội các kéo dài hơn một tháng. Trước tình hình trên, giới cầm quyền hiếu chiến Pháp chủ trương dựa vào sự viện trợ của Mĩ nhiều hơn để tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, cố giành một thắng lợi quyết định về quân sự trên chiến trường hi vọng tìm ra "lối thoát trong danh dự”.
Về phía đế quốc Mĩ, từ lâu chúng đã có dã tâm thay chân Pháp để độc chiếm Đông Dương, biến các nước Đông Dương thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự. Tuy nhiên, trước mắt tình hình thế giới và quan hệ quốc tế chưa cho phép Mĩ thực hiện ý đồ này. Vì vậy, nhân lúc thực dân Pháp đang bị sa lầy và có nguy cơ thất bại hoàn toàn, đế quốc Mĩ đẩy mạnh can thiệp ngày càng sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương bằng cách tăng cường viện trợ quân sự để buộc Pháp phải kéo dài, mở rộng và quốc tế hoá cuộc chiến tranh. Chính Aixenhao đã nhiều lần tuyên bố, quyết không để cho chủ nghĩa cộng sản quốc tế tiến thêm một bước nào ở Đông Nam Á, đặc biệt ở Đông Dương, nơi được coi là có vị trí chiến lược hết sức quan trọng. Đế quốc Mĩ thường xuyên gây áp lực đối với thực dân Pháp, yêu cầu thực dân Pháp phải có những cố gắng chiến tranh mới, đồng thời tích cực chuẩn bị để thay thế Pháp. Đi đôi với việc tăng cường viện trợ về mọi mặt cho Pháp, đế quốc Mĩ đã buộc Pháp phải trao trả quyền "độc lập”, cho các chính phủ bù nhìn, tạo điều kiện cho Mĩ có thể nắm trực tiếp các chính phủ này. Viện trợ quân sự của Mĩ vào năm 1953 hằng tháng lên tới trên 2 vạn tấn, có tháng lên đến 4 vạn tấn. Chúng còn đưa hàng trăm nhân viên quân sự. cử một phái đoàn quân sự để kiểm soát thực dân Pháp và các chính quyền bù nhìn, ngày càng trực tiếp tham gia vào việc điều khiển chiến tranh ở Đông Dương . Được sự thoả thuận của Mĩ, ngày 7-5-1953, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Hăngri Nava (Henri Navarre), đang giữ chức Tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương, sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh.
Nava nhận định rằng, một thiếu sót cơ bản trong sự lãnh đạo chiến tranh của Chính phủ Pháp là không xác định được rõ ràng mục đích của cuộc chiến tranh và đó là nguyên nhân chính làm cho tinh thần của quân đội viễn chinh ngày càng sút kém, quân ngụy ngày càng không có tinh thần chiến đấu. Do đó, theo Nava thì một mặt Chính phủ Pháp cần xác định chủ trương của mình là tiến hành chiến tranh để bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của Pháp ở Đông Dương, mặt khác phải mạnh dạn thừa nhận quyền "độc lập" của các quốc gia liên kết trong khối liên hiệp Pháp. Đồng thời, cần chỉ rõ cho các quốc gia này nhận thấy rằng họ chỉ giành được "độc lập" thực sự khi nào đánh bại được quân đội nhân dân Việt Nam, nên cần phải động viên toàn lực chiến đấu để giành chiến thắng.
Về tổ chức chỉ đạo chiến tranh, Nava nhận định rằng, do liên tiếp xảy ra khủng hoảng nội các và thường xuyên thay đổi tướng tá chỉ huy ở Đông Dương, nên Chính phủ Pháp thiếu hẳn một sự lãnh đạo chặt chẽ, thống nhất; trong khi về phía Việt Nam có "vị lãnh tụ chính trị duy nhất là Hồ Chí Minh và vị lãnh tụ quân sự duy nhất là Võ Nguyên Giáp, là những người suốt 7 năm nay đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc đấu tranh..." .
Về quân sự, Nava cho rằng, tình hình chiến sự ngày càng bất lợi cho quân đội viễn chinh. Trong khi quân đội nhân dân Việt Nam ngày một trưởng thành, có tính cơ động cao thì quân đội viễn chinh ngày càng lâm vào tình trạng phân tán và bị động. Phần lớn lực lượng đều bị bó chân làm nhiệm vụ phòng ngự trong hàng nghìn đồn bốt rải khắp các chiến trường, thiếu hẳn một khối cơ động chiến lược mạnh để đối phó với các cuộc tiến công của đối phương. Theo Nava, cần phải cải biến tình thế đó bằng cách xây dựng một quân đội ngụy lớn mạnh để giải quyết vấn đề quân số, thành lập gấp rút một lực lượng cơ động chiến lược mạnh.
Từ những nhận định nói trên, Nava vạch ra một kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng sẽ giành một thắng lợi quyết định về quân sự, xoay chuyển tình thế cuộc chiến tranh Đông Dương, chuyển bại thành thắng. Về tác chiến, Kế hoạch Nava thực hiện theo hai bước:
- Bước thứ nhất: Từ thu - đông 1953 đến mùa xuân 1954, Nava chủ trương tránh giao chiến với chủ lực của ta, giữ thế phòng ngự chiến lược trên chiến trường phía bắc vĩ tuyến 18; thực hiện tiến công chiến lược ở phía nam vĩ tuyến 18 nhằm bình định miền Trung và miền Nam Đông Dương, đặc biệt là
tiến công chiếm đóng vùng tự do Liên khu V.
- Bước thứ hai: Từ thu - đông 1954, sau khi nắm trong tay ưu thế về lực lượng cơ động, Nava chủ trương chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quyết định về quân sự, buộc ta phải chấp nhận những điều kiện chính trị do chúng đưa ra.
Để có đủ điều kiện cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch đã vạch ra, Nava chủ trương giải quyết theo ba biện pháp: mở rộng ngụy quân, mở rộng các "quân đội quốc gia" trên quy mô lớn; rút bớt một bộ phận lực lượng chiếm đóng để tập trung lại; xin tăng viện từ Pháp sang.
Chính sách "Lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt" là một chính sách thâm độc mà ngay từ đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, các tướng tá Pháp đã thực hiện. Nava tiếp tục thực hiện chính sách này với một quy mô rộng lớn hơn và với một tinh thần kiên quyết hơn. Dựa vào viện trợ Mĩ, Nava dự định tổ chức ngay trong năm 1953 một lực lượng quân ngụy mới gồm 54 tiểu đoàn và sang năm 1954 sẽ tăng lên 108 tiểu đoàn. Như vậy, số quân ngụy từ khoảng 20 vạn tăng lên 29 vạn, không kể số quân ngụy trong quân đội viễn chinh .
Cùng với việc thở rộng ngụy quân, Nava chủ trương nhanh chóng tổ chức một lực lượng cơ động mạnh để có đủ sức đánh bại những đòn tiến công trước mắt của quân đội ta và sau đó chuyển sang tiến công tiêu diệt chủ lực của ta. Nava dự kiến trong năm 1953 và năm 1954 xây dựng 7 sư đoàn cơ động, trong đó có 6 sư đoàn lục quân, 1 sư đoàn quân nhảy dù, gồm tất cả 27
binh đoàn cơ động 2. Kế hoạch quân sự Nava được Hội đồng quốc phòng Pháp tán thành và thông qua tháng 7-1953. Đó là một kế hoạch chiến lược có quy mô rộng lớn, thể hiện sự nỗ lực lớn nhất và cuối cùng của tập đoàn đế quốc Pháp - Mĩ trong cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương. Dư luận chính giới Pháp và Mĩ đều đánh giá cao kế hoạch Nava. Thủ tướng Lanien tuyên bố trên diễn đàn Quốc hội Pháp (22-10-1953): “Kế hoạch Nava chẳng những được Chính phủ Pháp mà cả những người bạn Mĩ cũng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ mọi điều”.
Ngoại trưởng Mĩ Đalét cũng khẳng định: "Kế hoạch Nava trong hai năm tới nếu không phải là một thắng lợi hoàn toàn thì ít nhất cũng thu được kết quả nhất định về quân sự” .
Ngay sau khi Kế hoạch Nava được thông qua, Chính phủ Pháp quyết định gấp rút điều quân để tăng viện cho chiến trường Đông Dương. Chính phủ Mĩ cũng sử dụng 400 triệu đảm để tổ chức quân ngụy ở Việt Nam, quyết định tăng thêm viện trợ quân sự cho Pháp (năm 1953 là 650 triệu đôla và năm 1954 là 1.264 triệu đôla, chiếm 73% chi phí chiến tranh Đông Dương); đồngn thời cung cấp thêm trang bị cho nhiều tiểu đoàn và trung đoàn pháo binh, cơ giới, vận tải, tăng thêm 123 máy bay và 212 tàu chiến các loại 2. Các phái đoàn quân sự Mĩ liên tiếp sang Đông Dương làm nhiệm vụ đốc thúc, giám sát việc thực hiện kế hoạch.
Để thực hiện kế hoạch, Nava đã quyết định rút các lực lượng Âu - Phi tinh nhuệ ở một số vị trí về tập trung lại, mặt khác đề nghị Chính phủ Pháp tăng viện 2 sư đoàn, nhưng chỉ được chấp nhận 12 tiểu đoàn bộ binh rút từ Pháp, Bắc Phi, Nam Triều Tiên sang; đồng thời tăng cường bắt lính để phát triển ngụy quân. Ngay từ cuối tháng 5-1953, khi Nava sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy, trên chiến trường Đông Dương liên tục diễn ra các cuộc hành quân "có tính chất tiến công" của địch nhằm càn quét vùng địch hậu hoặc quấy rối hậu phương của ta. Trong thời gian từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 7-1953, những cuộc càn quét của địch diễn ra liên miên ở các tỉnh Nam Bộ, Bình - Trị - Thiên, đồng bằng Bắc Bộ... Trong những cuộc càn quét này, địch huy động lực lượng rất mạnh, có khi tới hàng chục tiểu đoàn bộ binh, có pháo binh và không quân yểm trợ; điển hình là các trận càn quét lớn ở Bình - Trị - Thiên, vùng Hải Hậu tỉnh Nam Định, vùng sông Luộc tỉnh Thái Bình. Chúng tàn sát nhân dân, vây bắt thanh niên, dồn dân vào các khu tập trung để tiện bề kiểm soát. Chúng ra sức đánh phá các căn cứ du kích, phá hoại kinh tế, phá hoại lực lượng dự trữ của ta. Một số nơi (Nam Bộ) do mắc sai lầm hữu khuynh, nên hoạt động vũ trang của ta ở các vùng tạm bị chiếm và vùng du kích bị giảm sút rõ rệt. Những sai lầm này được kịp thời uốn nắn, nên tình hình được cải thiện dần. Ở các nơi khác, tuy giặc Pháp đặt thêm được một số vị trí nhỏ nhằm kiểm soát chặt hơn các trục đường giao thông thủy, bộ và bắt thanh niên vào lính, nhưng vẫn không cải thiện được thế chiếm đóng của chúng; các khu du kích vẫn đứng vững và ngày càng mở rộng. Tại Việt Bắc, từ giữa tháng 7-1953, địch tiến hành cuộc hành quân đổ bộ đường không chớp nhoáng theo kiểu biệt kích, mang tên chiến dịch Chim én. Ngày 17-7, địch thả 3 tiểu đoàn dù xuống một địa điểm nhỏ hẹp ở phía bắc thị xã Lạng Sơn, nhằm phá hủy các hang động chứa vũ khí của ta. Vừa đặt chân tới mặt đất, chưa kịp triển khai đội hình, quân địch đã bị ta chặn đánh quyết liệt, nên chỉ kịp đặt các gói thuốc nổ phía ngoài cửa hang rồi rút chạy về hướng Tiên Yên. Tại Tây Bắc, trong tháng 6 và tháng 7, địch tăng cường hoạt động gián điệp, thả biệt kích, mở rộng những vùng thổ phỉ ở các khu vực gần Lào Cai, Lai Châu và nhất là Sơn La. Tháng 8-1953, địch rút toàn bộ binh lực ở Nà Sản về tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ.
Tháng 10-1953, địch huy động 6 binh đoàn cơ động mở cuộc tấn công lớn vào vùng Nam Ninh Bình, uy hiếp vùng tự do Thanh Hoá, nhằm phá kế hoạch tiến công của ta. Với những hoạt động tích cực, trên thực tế thực dân Pháp đã thực hiện được một phần trong Kế hoạch Nava. Đến cuối năm 1953, chúng đã lập được 54 tiểu đoàn ngụy quân; đồng thời xây dựng được 84 tiểu đoàn quân cơ động; trong đó có 44 tiểu đoàn được tập trung tại đồng bằng Bắc Bộ. Như vậy, nếu tính cả lực lượng chiếm đóng, tại đồng bằng Bắc Bộ, địch có tất cả là 112 tiểu đoàn. Bằng việc tập trung khối quân cơ động lớn tại đồng bằng Bắc Bộ - nơi đông dân, nhiều của, được coi là then cửa Đông Dương, Nava hi vọng thu hút chủ lực của ta về đó để tiêu diệt.
II- Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch Điện Biên Phủ
1. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954
Đứng trước âm mưu và hành động mới của Pháp - Mĩ , Bộ Chính trị Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị tháng 9-1953, đề ra chủ trương chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954. Với quyết tâm giữ vững thế chủ động đánh địch trên cả hai mặt trận chính diện và sau lưng địch, phối hợp hoạt động trên phạm vi cả nước và toàn Đông Dương, Hội nghị xác định phương hướng chiến lược của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954 là:
- Tập trung phần lớn bộ đội chủ lực mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ.
Đẩy mạnh chiến tranh du kích ở khắp các chiến trường sau lưng địch; đồng thời tích cực tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết trong nhân dân và bộ đội địa phương, dân quân du kích ở các vùng tự do để cho bộ đội chủ lực chủ động đánh địch theo kế hoạch đã định. Do hành động của địch chưa rõ rệt, Hội nghị Bộ Chính trị nêu lên phương châm tác chiến chung là "Tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt", "Đánh ăn chắc" (chắc thắng thì đánh cho kì thắng, không chắc thắng thì kiên quyết không đánh).
Thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị, trong Đông - Xuân 1953 - 1954, quân đội ta chủ động mở một loạt chiến dịch tiến công địch trên khắp các chiến trường Đông Dương.
Vào trung tuần tháng 11-1953, một đơn vị chủ lực của ta bắt đầu tiến lên Tây Bắc, hướng chính là Lai Châu; một đơn vị khác vượt qua rừng núi Trường Sơn, tiến sang Trung Lào phối hợp cùng với bạn chuẩn bị đánh địch.
Phát hiện sự di chuyển của quân ta lên Tây Bắc, ngày 20-11- 1953, Nava cho 6 tiểu đoàn lính Âu - Phi tinh nhuệ nhảy dù xuống chiếm đóng Điện Biên Phủ (chiến dịch Casto). Bằng hành động này, thực dân Pháp nhằm bảo vệ chiến trường Tây Bắc, Thượng Lào và phá kế hoạch tiến công của ta.
Ngày 10-12-1953, quân ta mở cuộc tiến công vào thị xã Lai Châu; một bộ phận khác tiến xuống bao vây Điện Biên Phủ. Qua 10 ngày chiến đấu, quân ta đã tiêu diệt và làm tan rã 24 đại đội địch, giải phóng toàn bộ khu vực Lai Châu, uy hiếp Điện Biên Phủ từ phía bắc. Thực dân Pháp buộc phải rút bớt 6 tiểu đoàn quân cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ lên xây dựng Điện Biên Phủ thành nơi tập trung binh lực thứ hai. Kế hoạch Nava bước đầu bị phá sản. Đầu tháng 12-1953, phối hợp với bộ đội Pathét Lào, quân ta mở chiến dịch ở Trung Lào, loại khỏi vòng chiến đấu 3 tiểu đoàn Âu - Phi, giải phóng tỉnh Thà Khẹt, uy hiếp căn cứ Xênô (Xavanakhẹt). Địch buộc phải điều quân cơ
động từ đồng bằng Bắc Bộ và các chiến trường khác tăng cường cho Xênô. Từ đó, Xênô trở thành nơi tập trung binh lực thứ ba của quân Pháp.
Thừa thắng, một đơn vị nhờ của bộ đội tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội Pathét Lào men theo dãy Trường Sơn, tiến công xuống Hạ Lào; giải phóng thị xã Atôpơ và toàn bộ cao nguyên Bôlôven; sau đó phối hợp với quân giải phóng Campuchia, giải phóng Vươnsai và Xiêmpang, uy hiếp Tungstreng, nối liền khu du kích Đông Bắc Campuchia với căn cứ Hạ Lào.
Mặc dù bị quân ta đánh ở nhiều nơi, nhưng Nava vẫn chủ quan cho rằng "sức Việt Minh đã tàn". Vì vậy, ngày 20-1-1954, Nava tập trung 20 tiểu đoàn bộ binh mở chiến dịch quảng tấn công vào Tuy Hoà (Phú Yên) nhằm đánh chiếm toàn bộ vùng tự do của ta ở Liên khu V theo kế hoạch dã định.
Thực hiện phương hướng chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, nêu cao tinh thần chiến đấu dũng cảm, tích cực, chủ động, cơ động và linh hoạt, bộ đội ta mở cuộc tiến công địch lên Tây Nguyên. Đêm 26-1-1954, trên hướng thứ yếu của chiến dịch, bộ đội ta nổ súng tiêu diệt các vị trí trên Đường 19 – An Khê mở màn chiến dịch. Ngày 5-2-1954, thị xã Kon Tum và
toàn bộ vùng Bắc Tây Nguyên được giải phóng. Plâycu và các cứ điểm của địch ở miền Nam Tây Nguyên bị uy hiếp. Địch buộc phải bỏ dở cuộc tiến công vào Tuy Hoà; đồng thời phải điều động 11 tiểu đoàn từ Nam Bộ và Bình - Trị - Thiên lên tăng cường cho Plâycu và một số cứ điểm ở Nam Tây Nguyên. Sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ và Trung Lào, Plâycu cùng một số cụm cứ điểm ở Nam Tây Nguyên trở thành nơi tập trung binh lực thứ tư của quân Pháp. Để đánh lạc hướng phán đoán của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục đẩy mạnh mọi công tác chuẩn bị tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, từ cuối tháng 1-1954, bộ đội chủ lực ta phối hợp với bộ đội Pathét Lào mở cuộc tiến công địch ở Thượng Lào. Trải qua hơn 10 ngày chiến đấu, quân ta tiêu diệt 17 đại đội địch, thu hàng chục tấn vũ khí, đạn dược, giải phóng lưu vực sông Nậm Hu. Nhân lúc địch hoang mang, một bộ phận liên quân Việt - Lào tiến công lên phía bắc, giải phóng hoàn toàn tỉnh Phong Xa Lì rộng khoảng 10.000 km2. Từ sau chiến thắng này, cả một vùng rộng lớn Đông Bắc, Việt Bắc, Tây Bắc của Việt Nam và khu giải phóng Sầm Nưa của Lào được nối liền thành một dải liên hoàn vững chắc.
Nhằm đối phó với tình hình trên, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương buộc phải lập một cầu hàng không đưa quân từ đồng bằng Bắc Bộ lên tăng cường cho Luông Phabăng - Mường Sài. Luông Phabăng - Mường Sài trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của địch trên chiến trường Đông Dương. Phối hợp với các cuộc tiến công của bộ đội chủ lực trên các mặt trận chính diện, tại các mặt trận sau lưng địch, từ Nam Bộ, Nam Trung Bộ, Bình - Trị - Thiên đến đồng bằng Bắc Bộ, quân và dân ta đẩy mạnh chiến tranh du kích.
Ở Nam Bộ, bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương đẩy mạnh tiến công vào vùng tạm bị chiếm, tiêu diệt nhiều địch, kết hợp với công tác binh vận, tạo điều kiện cho quần chúng đấu tranh chính trị. Ở Nam Trung Bộ, chiến tranh du kích phát triển mạnh, tiêu diệt và bức rút nhiều vị trí địch giải phóng nhiều vùng rộng lớn. Ở Bình - Trị - Thiên, bộ đội ta hoạt động mạnh trên Đường số 9, phá huỷ nhiều cầu cống, tiêu diệt nhiều địch, diệt và bức địch rút 6 vị trí, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hoá và một phần huyện Cam Lộ (Quảng Trị). Trên Đường số 1 và Đường số 9, quân ta tiêu diệt nhiều xe và đoàn tàu của địch.
Đồng bằng Bắc Bộ là nơi quân địch tập trung đông nhất và cũng là nơi thường xuyên diễn ra các cuộc đọ trí, đọ sức gay go quyết liệt giữa ta và địch. Dưới sự lãnh đạo của Liên khu uỷ Liên khu III, Khu uỷ khu Tả Ngạn và Thành uỷ Hà Nội, các hoạt động tiến công quân sự của bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân, du kích không ngừng phát triển và đạt nhiều kết quả. Phòng tuyến sông Đáy của địch bị phá vỡ; căn cứ của ta ở tả ngạn và hữu ngạn sông Hồng được mở rộng. Con Đường số 5 - tuyến giao thông huyết mạch, được coi là yết hầu mcủa địch, liên tiếp bị quân ta phục kích; nhiều lúc bị tê liệt; nhiều đoàn ô tô vận tải và tàu quân sự của địch bị phá huỷ. Quân ta liên tục tập kích các thành phố, thị xã, kể cả thủ đô Hà Nội và một số sân bay (Gia Lâm, Cát Bi), tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ máy bay và nhiều phương tiện chiến tranh của chúng.
Như vậy, bước vào Đông - Xuân 1953 - 1954, thực hiện chủ trương chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng, quân ta liên tiếp chủ động mở các cuộc tiến công chiến lược trên toàn chiến trường Đông Đương; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích trong các vùng sau lưng địch, tiêu diệt sinh lực địch, phá huỷ phương tiện chiến tranh, giải phóng nhiều vùng đất rộng lớn. Các hoạt động bền bỉ, liên tục, rộng khắp với hiệu quả cao của quân và dân ta buộc địch phải bị động phân tán lực lượng cơ đông đang tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ đến các chiến trường rừng núi; trong đó, bộ phận quân tinh nhuệ bậc nhất bị giam chân tại Điện Biên Phủ. Số quân cơ động của địch ở đồng bằng Bắc Bộ từ chỗ có 44 tiểu đoàn, chỉ còn lại 20 tiểu đoàn. Kế hoạch Nava bị phá sản một bước rất nghiêm trọng. Thắng lợi của ta trong các cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 là sự chuẩn bị những điều kiện vật chất và tinh thần cho quân và dân .ta mở trận quyết chiến chiến lược vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
1.Chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
Sau khi không đạt được âm mưu bảo vệ chiến trường Tây Bắc, Thượng Lào và cũng không ngăn chặn được kế hoạch tiến công của ta trong Đông - Xuân 1953 - 1954, Bộ chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương quyết định chấp nhận cuộc chiến đấu với chủ lực ta tại chiến trường rừng núi Tây Bắc Việt Nam. Do đó, từ đầu tháng 12-1953, Nava chủ trương xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh. Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn thuộc phía nam tỉnh Lai Châu, có chiều đài từ 18 đến 20 km; chiều rộng từ 6 đến 8 km; cách Hà Nội khoảng 300 km và cách Luông Phabăng khoảng 200 km theo đường chim bay. Thung lũng Điện Biên nằm gần biên giới Việt - Lào, trên một ngã ba có nhiều tuyến đường quan trọng. Dưới con mắt của các nhà quân sự Pháp, Điện Biên Phủ "là một vị trí chiến lược quan trọng chẳng những đối với chiến trường Đông Dương, mà còn đối với Đông Nam Á - một trục giao thông nối liền các miền biên giới Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Quốc" 1. Đó là "một cái chìa khoá để bảo vệ Thượng Lào", một "bàn xoay" có thể đi bốn phía Việt Nam, Lào, Miến Điện, Trung Quốc . Điện Biên Phủ được xây dựng thành một hệ thống phòng ngự dầy đặc gồm 49 cứ điểm, mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự. Nhiều cứ điểm nằm kề nhau được tổ chức lại thành cụm cứ điểm; mỗi một cụm cứ điểm chính là một trung tâm đề kháng theo kiểu phức tạp, có lực lượng cơ động và hoả lực riêng, có hệ thống công sự vững chắc, xung quanh có hàng rào dây thép gai dày đặc và có cả năng độc lập phòng ngự khá mạnh. Mỗi trung tâm đề kháng cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm đều được che chở bằng một hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, bằng một hệ thống vật cản hàng rào hoặc bãi dây thép gai, bãi mỉm cùng một hệ thống hoả lực mạnh. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có 8 cụm cứ điểm và được xây dựng thành 3 phân khu có khả năng yểm trợ cho nhau: Phân khu Bắc có hai trung tâm đề kháng là Độc Lập và Bản Kéo; trong đó cứ điểm Độc Lập có nhiệm vụ án ngữ phía bắc, ngăn chặn cuộc tiến công của quân ta từ hướng Lai Châu vào Điện Biên Phủ. Phân khu Nam đặt tại bản Hồng Cúm, có một sân bay dự bị, làm nhiệm vụ ngăn chặn quân ta tiến công từ phía nam lên, đồng thời giữ con đường liên lạc với Thượng Lào. Phân khu lớn nhất và quan trọng nhất là phân khu Trung tâm, đặt tại giữa thung lũng Mường Thanh (huyện lị Điện Biên, nay là thành phố Điện Biên). Tại phân khu này, có năm sở chỉ huy của Tướng Đờ Cátxtơri, một sân bay chính Mường Thanh – nơi được coi là "trái tim" và là cái "dạ dày" của tập đoàn cứ điểm.
Địch tập trung ở phân khu Trung tâm tới 2/3 lực lượng. Ở phía đông phân khu Trung tâm có một hệ thống cao điểm rất lợi hại (A1, C1, D1, El), hợp thành một bức bình phong thiên nhiên vững chắc mà địch cho là khó lòng vượt qua. Cụm cứ điểm Him Lam tuy thuộc phân khu Trung tâm, nhưng cùng với các cụm cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo là những vị trí ngoại vi đột xuất của địch, có nhiệm vụ án ngữ phía bắc và đông bắc, ngăn chặn cuộc tiến công của ta từ hướng Tuần Giáo vào Điện Biên Phủ. Lực lượng địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ tăng dần từ 6 tiểu đoàn lên 9 tiểu đoàn, rồi 12 tiểu đoàn. Cho đến thượng tuần tháng 3-1954, tổng số binh lực của địch là 17 tiểu đoàn (16.200 tên), phần lớn là các đơn vị lính Âu - Phi tinh nhuệ.
Với hệ thống công sự vững chắc, lực lượng cơ động mạnh, binh khí kĩ thuật nhiều và hiện đại, tập đoàn đế quốc Pháp – Mĩ đều coi Điện Biên Phủ là "Pháo đài bất khả xâm phạm", là "cái bẫy hiểm ác", "cái máy nghiền khổng lồ" để nghiền nát quân chủ lực của ta.
Trung tâm điểm của Kế hoạch Nava từ cho tập trung quân cơ động tại đồng bằng Bắc Bộ, đã chuyển sang xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vì vậy, muốn phá tan Kế hoạch Nava để ngăn chặn âm mưu của đế quốc Pháp - Mĩ, nhất thiết phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Có tiêu diệt được Điện Biên Phủ thì mới đập tan được âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh của đế quốc Pháp - Mĩ. Tuy nhiên, sự cần thiết phải tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tầm quan trọng của Điện Biên Phủ không thể coi là cơ sở chủ yếu và duy nhất để hạ quyết tâm đánh Điện Biên Phủ. Vấn đề chủ yếu là căn cứ vào so sánh lực lượng cụ thể giữa ta và địch lúc bấy giờ,
căn cứ vào những khả năng mới của quân ta và của địch để có thể đi đến quyết định đánh hay không đánh . Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị và nhận định: Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của thực dân Pháp ở Đông Dương, nhưng nó có những chỗ yếu rất cơ bản. Tập đoàn này nằm sâu trong vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam, cách xa hậu phương của địch; mọi sự tiếp tế, tiếp viện đều dựa vào đường không, nên dễ bị cô lập.
Đối với ta, Điện Biên Phủ cũng là nơi xa hậu phương lớn (cách Việt Bắc và vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh từ 300 đến 500 km). Vì vậy, nếu đánh Điện Biên Phủ, ta sẽ gặp khó khăn lớn nhất là vấn đề tiếp tế, hậu cần; nhưng nhân dân ta hoàn toàn có khả năng khắc phục được. Đó là, hậu phương của ta được xây dựng vững chắc về mọi mặt và đang chuyển mạnh trong cuộc cách mạng ruộng đất; chính quyền dân chủ nhăn dân và mặt trận dân tộc thống nhất dựa trên nền tảng liên minh công nông được củng cố và mở rộng. Hơn nữa, quân đội ta đã trưởng thành không chỉ về số lượng, mà cả về chất lượng, có khả năng đánh được một tập đoàn cứ điểm.
Từ nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, mang mật danh chiến dịch Trần Đình. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt toàn bộ lực lượng địch tạt đây, giải phóng toàn bộ lãnh thổ Tây Bắc và tạo điều kiện thuận lợi cho bạn giải phóng miền Bắc Thượng Lào; đồng thời tiêu hao một phần sinh lực địch trên chiến trường Đông Dương.
Điện Biên Phủ trở thành điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch. Trong Chỉ thị ngày 22-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ chiến dịch Điện Biên Phủ là một chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà cả đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân phải tập trung hoàn thành cho kì được.
Từ sau quyết định của Bộ Chính trị, mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch được xúc tiến rất khẩn trương. Bộ chỉ huy và Đảng uỷ Mặt trận được thành lập do Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Uỷ viên Bộ Chính trị, Tổng Tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng uỷ Mặt trận. Chính phủ ra quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do Phạm Văn Đồng - Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, làm Chủ tịch. Quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã biến thành ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", nhân dân ở các vùng tự do Việt Bắc, Liên khu III, Liên khu IV, vùng mới giải phóng Tây Bắc, cũng như trong các vùng du kích và căn cứ du kích đồng bằng Bắc Bộ đều hăng hái, tự nguyện đóng góp sức lực, tiền của, sẵn sàng hi sinh hết thảy, kịp thời bảo đảm cung cấp cho chiến dịch. Trong chín năm kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mĩ, chưa bao giờ sức mạnh hậu phương lại được phát huy cao độ và sử dụng một cách có hiệu quả như thời kì này.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng bào các dân tộc Việt Bắc, Tây Bắc, Liên khu III, Liên khu IV đã đóng góp 261.453 dân công (tương đương 14 triệu ngày công), 25.056 tấn lương thực, 907 tấn thịt và hàng ngàn tấn thực phẩm khác. Đặc biệt, đồng bào Tây Bắc đã có những cố gắng rất lớn. Tuy mới được giải phóng, đất rộng người thưa, đời sống còn rất khó khăn, nhưng trong chiến dịch này, đồng bào Tây Bắc đã dồn hết sức mình tiếp tế cho bộ đội 7.310 tấn gạo, 389 tấn thịt, 800 tấn rau xanh; đồng thời huy động 31.818 dân công làm công tác vận chuyển, sửa chữa cầu đường, xây dựng kho lán.
Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với các đơn vị công binh anh dũng phá bom nổ chậm, mở đường đến các trận địa. Hàng ngàn km đường được xây dựng và sửa chữa để phục vụ chiến dịch.
Các phương tiện vận chuyển từ thô sơ đến cơ giới được huy động. Hầu hết ô tô vận tải (628 chiếc) được đưa ra mặt trận. Bộ đội vận tải nêu cao tinh thần khắc phục khó khăn, xe chạy ban đêm không cần đèn, vượt qua bom nổ chậm, luôn tăng năng suất và hoàn thành vượt mức kế hoạch. Khoảng 11.800 thuyền các loại ngược dòng sông Mã từ Thanh Hoá, vượt thác sông Đà từ Liên khu III, Hoà Bình... lên; hoặc xuôi dòng Nậm Na từ Phong Thổ, Lai Châu tiếp tế cho mặt trận. Khoảng 21.000 xe đạp thồ, 500 ngựa thồ và hàng ngàn xe trâu bò, xe cút kít... cũng được huy động phục vụ chiến dịch. Quân và dân ta đã tạo nên những kì tích trên mặt trận hậu cần phục vụ tiền tuyến, vượt ra khỏi mọi tính toán và dự kiến của kẻ thù khi chúng chấp nhận giao chiến với chủ lực của ta tại mặt trận Điện Biên Phủ.
Lực lượng cho lực ta tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ có các Đại đoàn 308, 312, 316 (thiếu 1 trung đoàn), Trung đoàn 57 (thuộc Đại đoàn 304); tất cả gồm 9 trung đoàn bộ binh và Đại đoàn 351 với một trung đoàn lựu pháo 105, một trung đoàn sơn pháo và súng cối, một trung đoàn pháo cao xạ và bốn tiểu đoàn công binh. Tổng số quân chủ lực cửa ta ở hoả tuyến có khoảng
hơn 40.000; nếu tính cả tuyến hai là 55.000 người. Như vậy so với địch, ta có ưu thế hơn, nhưng không lớn.
Sau khi hạ quyết tâm tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, cùng với công việc chuẩn bị, một vấn đề hết sức quan trọng được đặt ra là đánh như thế nào. Đó là vấn đề thuộc về phương châm chỉ đạo chiến dịch.
Thời gian đầu, căn cứ vào thực tế quân địch mới nhảy dù xuống, lực lượng của địch chưa được tăng cường, bố trí của chúng còn sơ hở, trận địa phòng ngự chưa được củng cố, còn mang tính dã chiến, ta chủ trương đánh nhanh giải quyết nhanh. Đánh nhanh giải quyết nhanh có nhiều cái lợi: Quân ta đang sung sức, cuộc chiến đấu không kéo dài nên ít tiêu hao, mỏi mệt; vấn đề tiếp tế lương thực, đạn dược có thể đảm bảo chắc chắn, không gặp trở ngại lớn.
Tuy nhiên, "đánh nhanh giải quyết nhanh có một điều bất lợi rất lớn là quân ta, mặc dầu đã được chuẩn bị về tư tưởng và chiến thuật để đánh tập đoàn cứ điểm, nhưng chưa có kinh nghiệm thực tế, lần này là lần đầu đánh tập đoàn cứ điểm, lại gặp một tập đoàn cứ điểm mạnh". Điều đó có nghĩa là không bảo đảm chắc thắng. Bởi vậy, trong khi tiến hành công tác chuẩn bị, Bộ chỉ huy Mặt trận tiếp tục theo dõi tình hình địch và kiểm tra lại khả năng của ta.
Sau khi phát hiện lực lượng địch đã được tăng cường (16.200 tên), công sự của chúng đã được củng cố vững chắc, ta kiên quyết chuyển sang phương châm đánh chắc tiến chắc. Chiều 25- 12-1953, toàn bộ lực lượng của ta được lệnh rút ra khỏi trận địa, trở về nơi tập kết; các đơn vị pháo binh trước đây đã được lệnh kéo vào, lúc này được lệnh kéo ra. Để yểm trợ cho cuộc thu quân tạm thời, Đại đoàn 308 được lệnh phối hợp cùng Quân giải phóng Pa thét Lào mở cuộc tiến công về hướng Luông Phabăng, vừa tiêu diệt sinh lực địch, vừa thu hút hầu hết không quân của địch về hướng đó. Một công cuộc chuẩn bị mới với một khối lượng công tác tham mưu, chính trị và hậu cần rất lớn lại được triển khai.
Theo phương châm đánh chắc tiến chắc, chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ diễn ra trong thời gian dài, bao gồm nhiều trận đánh, mỗi trận tiêu diệt một hoặc nhiều cứ điểm; đánh từ ngoài vào trong. bao vây, chia cắt, triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của địch, tiến tới tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm. Tiến hành chiến dịch theo phương châm đánh chắc tiến chắc đương nhiên chúng ta sẽ gặp nhiều có khăn, trở ngại mới. Chiến dịch càng kéo dài, địch càng tăng cường công sự, lại có thể đưa thêm viện binh; bộ đội ta có thể bị tiêu hao, mỏi mệt và khó khăn lớn nhất là về cung cấp, tiếp tế. Nhưng đánh chắc tiến
chắc, quân ta sẽ tạo ra được ưu thế về binh lực và hoả lực trong từng trận đánh, lại hợp với trình độ của bộ đội ta lúc đó. Theo phương châm này, chúng ta giữ được chủ động hoàn toàn, đồng thời có thể khoét sâu nhược điềm lớn nhất của địch là vấn đề tiếp tế vận tải. Như vậy, đánh chắc tiến chắc là bảo đảm chắc thắng, một nguyên tắc hàng đầu của chiến dịch.
Ngày 11-3-1954, trong lúc toàn mặt trận đang khẩn trương hoàn tất công việc chuẩn bị để kịp giờ nổ súng theo quy định, thì nhận được thư động viên của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to tớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị, chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kĩ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin rằng các chú sẽ phát lệ thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới. Bác chờ các chú báo cáo thành tích để thưởng những đơn vị và cá nhân xuất sắc nhất.
Chúc các chú thắng to.
Bác hôn các chú” .
Bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phổ biến tới cán bộ, chiến sĩ và anh chị em thanh niên xung phong, dân công hoả tuyến, tạo nên không khí phấn khởi, thi đua lập công trên khắp các trận địa.Chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra theo ba đợt:
- Đợt 1 từ 13 đến 17-3-1954, quân ta tiến công tiêu diệt các cứ điểm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Chỉ trong gần 5 ngày, với hai trận đánh lớn then chốt, quân ta đã đập tan hệ thống phòng ngự của địch trên hướng Bắc và Đông Bắc, xoá sổ phân khu Bắc và một bộ phận của phân khu Trung tâm, tiêu diệt gọn hai tiểu đoàn tinh nhuệ vào bậc nhất của địch, làm tan rã một
tiểu đoàn khác, mở cửa vào phân khu Trung tâm, tạo điều kiện cho chiến dịch tiếp tục phát triển.
Sau chiến thắng đợt 1, theo chủ trương của Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận, bộ đội ta nhanh chóng tiếp cận bao vây, chia cắt quân địch bằng hệ thống giao thông hào; đồng thời tiếp tục khống chế sân bay, tích cực tiêu diệt và tiêu hao sinh lực địch.
Mặc dù bị địch tìm mọi cách ngăn chặn, nhưng các đường hào của quân ta vẫn ngày càng được nối dài, toả ra bao vây trận địa địch. Pie Lănggle, một sĩ quan nhà nghề của thực dân Pháp và là một trong những sĩ quan đầu tiên nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, đã phải thừa nhận: "Không ai có thể ngờ rằng trong 50 ngày bộ binh Việt Minh lại đào được tới 400 khi hào giao thông ở lớp ruộng của Điện Biên Phủ. Và Bộ chỉ huy quân ta đã khám phá được rằng lưỡi xẻng và lưỡi cuốc của họ cũng là những vũ khí mạnh mẽ như xe tăng và máy bay" .
Sau 10 ngày phấn đấu đầy hi sinh gian khổ, công cuộc xây dựng trận địa tiến công và bao vây mới của quân ta đã cơ bản hoàn thành, với hàng vạn hầm hố và trên 100 km đường hào bao kín trận địa trung tâm của đối phương. Nhờ có hệ thống hầm, hào đó mà "ta có điều kiện hạn chế viện binh của địch, làm khó khăn sự tiếp tế của chúng, nhất là phát huy được tất cả các cỡ hoả lực từ súng cối trở lên để uy hiếp tung thâm của địch... làm cho các cuộc oanh tạc dữ dội của địch gần như vô hiệu quả..."; “đồng thời thực hiện được việc thắt chặt vòng vây và tạo điều kiện để tiếp cận và tiến công quân địch".
- Đợt 2, từ 30-3 đến 26-4- 1954, quân ta đồng loạt nổ súng tiến công các cao điểm phía đông phân khu Trung tâm. Chiều ngày 30-3, pháo binh ta dồn dập nhả đạn vào sở chỉ huy của Đờ Cátxtơri cùng các điểm cao C1, Dl, El, các trận địa pháo và khu vực quân cơ động Mường Thanh, Hồng Cúm. Địch hoang mang, không kịp trở tay đối phó do bị bất ngờ.
Tại khu đồi C1, cuộc tiến công của quân ta diễn ra khá nhanh gọn. Chỉ trong vòng 45 phút, quân ta chiếm lĩnh toàn bộ Cl và tiếp tục phát triển sang cứ điểm C2. Từ ngày 9-4, sau khi tăng cường lực lượng, địch tổ chức phản công chiếm lại đồi Cl để cải thiện thế đứng chân tại khu đông trận địa trung tâm. Hai bên ta và địch giành nhau từng tấc đất, từng đoạn hào; đến cuối tháng 4, mỗi bên chiếm một nửa quả đồi.
Tại khu vực đồi E, sau hơn một giờ chiến đấu, quân ta hoàn toàn làm chủ mục tiêu. Tại khu vực đồi Dl, trận tiến công của ta diễn ra cũng khá thuận lợi, nhanh chóng tiêu diệt cứ điểm của địch. Thừa thắng, quân ta phát triển tiến công sang cứ điểm D2 và các ngọn đồi phía trong.
Tại khu vực đồi A1, địch có một hầm ngầm cố thủ. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ngay từ đầu. Hai bên giành nhau từng ngách hào, từng lô cất. Thế trận giằng co ở khu vực này kéo dài cho đến ngày 4- 4, mỗi bên chỉ giữ được một nửa cứ điểm: Ta nửa phần phía đông, địch nửa phần phía tây. Sau đó, quân ta tiếp tục củng cố, giữ vững trận địa và cuộc đọ sức giữa hai bên diễn
ra quyết liệt suốt tháng 4-1954. Để chuẩn bị cho cuộc tiến công mới, quân ta đã hoàn thành một đường ngầm dài gần 50 mét tiến sát tới hầm ngầm của địch ở đồi A1 và đặt vào đó một khối bộc phá gần một tấn thuốc nổm TNT. Trong thời gian mở đợt tấn công thứ hai, quân ta vừa dùng lực lượng nhỏ vây ép đánh lấn dưới mặt đất, vừa bắn máy bay, triệt nguồn tiếp tế, tiếp viện của địch. Bộ đội cao xạ cùng với các đơn vị súng máy phòng không của các đại đoàn bộ binh tạo thành một lưới lửa khống chế bầu trời Điện Biên Phủ trong tầm cao từ 3 km trở xuống. Máy bay địch phải thả dù từ độ cao trên 3 km, nên một phần ba số dù rơi vào khu vực trận địa của ta; trong đó có khá nhiều đạn dược các loại cùng nhiều lương thực, thực phẩm, thuốc men. Quân và dân ta ngày càng thêm phấn chấn, tích cực khắc phục khó khăn về tiếp tế, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi.
Cho đến cuối tháng 4-1954, vòng vây của quân ta xung quanh Mường Thanh, Hồng Cúm đã siết chặt. Mọi việc chuẩn bị cho đợt tiến công thứ ba cơ bản hoàn thành. Binh lính địch thực sự lâm vào tình trạng hết sức nguy khốn. Phạm vi chiếm đóng của chúng chỉ còn rất hẹp; lương thực, thực phẩm, đạn dược cạn dần. Những cơn mưa đầu mùa trút xuống khiến các chiến hào của địch bị ngập trong nước. Binh lính Pháp sống chui rúc, ngoi ngóp trong bùn lầy, dưới bom đạn, mưa gió dầm dề suốt ngày đêm đã nhanh chóng tiêu hao thể lực và suy sụp tinh thần chiến đấu.
Đứng trước nguy cơ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có thể mbị tiêu diệt, Chính phủ Pháp ngày thêm bối rối và Mĩ cũng lo ngại. Ngoài những khoản viện trợ lớn, Bộ Quốc phòng Mĩ còn đề ra một kế hoạch hành binh mang tên Vô tua (Vautour - Diều hâu), dự kiến sẽ sử dụng 80 - 90 máy bay B.29 (loại máy bay chiến lược lớn nhất của Mĩ lúc bấy giờ) từ căn cứ Clác Phin được 150 máy bay chiến đấu của Hạm đội 7 hộ tống, đến ném bom "nghiền nát" các đơn vị Việt Minh đang bao vây Điện Biên Phủ. Để chuẩn bị cho kế hoạch này, từ thượng tuần tháng 4- 1954, hai tuần dương hạm của Hạm đội 7 đã tiến vào vịnh Bắc Bộ. Trung tuần tháng 4, một viên tướng chỉ huy không quân Mĩ tại Đông Nam Á đến Sài Gòn nghiên cứu tình hình. Một số sĩ quan Mĩ cũng đáp máy bay lên trinh sát thực địa ở Điện Biên Phủ để nghiên cứu các mặt kĩ thuật cho cuộc hành quân.
Đợt 3, từ 1-5-1954 đến 7-5-1954, quân ta đồng loạt tiến công khu trung tâm Mường Thanh và phân khu Nam, lần lượt tiêu diệt các căn cứ đề kháng còn lại của địch. Trong đêm đầu tiên của đợi tiến công, quân ta đã tiêu diệt các cứ điểm Cl, 505, 505 A ở phía đông và 31 A ở phía tây. Ngày 2-5, Nava vội vã đáp máy bay ra Hà Nội triệu tập một cuộc họp để bàn cách cứu vãn tình thế. Sau khi cân nhắc mọi giải pháp, Nava quyết định cho quân lính ở Điện Biên Phủ rút chạy sang Lào để tránh nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhưng kế hoạch này chưa kịp triển khai thực hiện thì đã bị tai hoạ do quân ta giáng xuống. Chiều ngày 6-5, các loại pháo cối của ta cùng 12 dàn hoả tiễn bắn dữ dội vào các cứ điểm, làm cho địch hết sức khiếp sợ. Sau đợi pháo kích kéo dài 45 phút, bộ binh ta bắt đầu tiến công. Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 6-5, ta cho nổ quả bộc phá đặt trong lòng đồi A1. Đó là hiệu lệnh tổng công kích của quân ta. Từ các hướng, quân ta tràn vào đánh chiếm các vị trí còn lại ở phân khu Trung tâm. Thế của ta như nước vỡ bờ; bộ đội ta đánh tới đâu, cờ trắng của địch xuất hiện tới đó. Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 7-5, quân ta bắt sống Tướng Đờ Cátxtơri cùng toàn thể Bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. ở các cứ điểm còn lại xung quanh hầm Đờ Cátxtơri, binh lính địch lũ lượt kéo cờ trắng ra hâng.
Tại phân khu Nam, bộ đội ta dùng loa kêu gọi địch đầu hàng, nhưng lợi dụng lúc đêm tối, chúng rút chạy. Bộ đội ta truy kích, đến 24 giờ ngày 7-5, toàn bộ quân địch ở phân khu Nam bị tiêu diệt và bắt gọn.
Cùng với chiến dịch Điện Biên Phủ, trên chiến trường toàn quốc, quân và dân ta cũng đẩy mạnh các hoạt động phối hợp. Tại đồng bằng Bắc Bộ, từ đầu tháng 3-1954, bộ đội ta tập kích sân bay Gia Lâm, đốt cháy một kho xăng, phá huỷ 18 máy bay. Ba ngày sau đó, dân quân, du kích Kiến An tập kích sân bay Cát Bi, phá huỷ 59 máy bay cùng một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến tranh. Trong những ngày tiếp theo, quân và dân khu Tả ngạn sông Hồng mở nhiều đợt tổng công kích, làm tê liệt Đường số 5 - được coi là yết hầu của địch - cùng các tuyến đường chiến lược khác, san phẳng và bức địch rút nhiều vị trí. Ở phía Hữu ngạn, các đại đoàn chủ lực cùng với bộ đội địa phương và dân quân, du kích vừa tiến công địch, vừa đẩy mạnh công tác binh vận làm cho hàng vạn lính ngụy bỏ ngũ, hàng loạt tổ chức tề ngụy tan rã. Trong các vùng tạm bị địch chiếm, phong trào đấu tranh chính trị cũng phát triển với khí thế mạnh mẽ.
Nhân dân ta nổi dậy phá trại tập trung, trở về quê cũ làm ăn. Tại Trung Bộ, hưởng ứng Tuần lễ đánh mạnh do Liên khu uỷ và Bộ Tư lệnh Liên khu IV phát động, trong những ngày cuối tháng 3-1954, quân và dân Bình - Trị - Thiên liên tiếp tập kích hàng loạt vị trí địch, tổ chức nhiều trận phục kích trên đoạn đường xe lửa và Đường số 1 từ đèo Hải Vân ra Quảng Trị, lật nhào nhiều đoàn tàu quân sự, phá huỷ hàng chục xe vận tải . . . Ở miền Nam Trung Bộ, thực hiện đợi hai chiến địch giải phóng Tây Nguyên và đánh trả cuộc hành quân những lần thứ hai, quân ta tập trung lực lượng phát triển vào Nam Tây Nguyên, đánh mạnh trên các tuyến đường 19, 14 và 7; đồng thời đẩy mạnh chiến tranh du kích ở vùng sau lưng địch. Cuộc tiến công đầy tham vọng của thực dân Pháp trên chiến trường miền Nam mà trung tâm điểm là cuộc hành quân Átlăng hoàn toàn thất bại.
Tại Nam Bộ, cùng với các cuộc tiến công quân sự rộng khắp, tiêu diệt hàng trăm đồn bốt, tháp canh, công tác địch vận cũng đạt kết quả lớn. Hàng vạn binh lính ngụy bỏ đồn bốt trở về với gia đình. Ngụy quân, ngụy quyền tan rã ở nhiều nơi. Khu du kích và căn cứ du kích được mở rộng, nối liền từ đông sang tây, tạo nên thế mới cho cuộc đấu tranh. . Ngày 12-3-1954, địch huy động 40 tiểu đoàn mở tiếp cuộc hành quân những 2 đánh chiếm Quy Nhơn và tỉnh Bình Định.
Những hoạt động tiến công quân sự, chính trị của quân và dân ta trên khắp các chiến trường không những tiêu diệt sinh lực địch, làm thất bại âm mưu bình định của địch, mà còn có tác dụng kiềm chế một bộ phận quan trọng quân cơ động của chúng, không cho chúng điều quân tiếp viện cho chiến trường Điện Biên Phủ. Trong cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 - 1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ, quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128.200 tên địch, thu 19.000 súng các loại, bắn rơi và phá huỷ 162 máy bay, giải phóng nhiều vùng rộng lớn có tầm quan trọng về chiến lược. Riêng trong chiến dịch Điện Biên Phủ, sau 55 ngày đêm chiến đấu ngoan cường, các lực lượng vũ trang nhân dân ta đã tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của địch trên chiến trường Đông Dương; tiêu diệt và bắt 16.200 tên, gồm 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, súng cối, 10 đại đội ngụy vừa bổ sung và các đơn vị công binh, vận tải, xe tăng... Tổng số sĩ quan, hạ sĩ quan địch bị diệt và bị bắt là 1.766 tên; trong đó có 1 thiếu tướng, 16 đại tá, trung tá. Tổng số máy bay bị bắn rơi và phá huỷ là 62 chiếc. Toàn bộ vũ khí, kho tàng, cơ sở vật chất kĩ thuật của địch ở Điện Biên Phủ đều lọt vào tay ta. Chiến thắng Đông - Xuân 1953 - 1954, đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là chiến thắng lớn nhất của quân và dân ta trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Đó cũng là một trong những chiến công rực rỡ nhất của dân tộc ta trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm.
Chiến thắng Điện Biên Phủ "đã được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa ở thế kỉ XX, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc". Với quốc tế chiến thắng Điện Biên Phủ được coi là "tiếng chuông báo tử của chủ nghĩa thực dân", là "tiếng nói vút ngang tai bọn đế quốc quốc tế”, một "niềm hi vọng to lớn và tươi sáng của loài người", "là lời kêu gọi các dân tộc bị trị tiến lên xung phong chiếm lĩnh các pháo đài cuối cùng của chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế quốc trên thế giới...".
Chiến thắng Điện Biên Phủ là một đòn giáng quyết định, đập tan hoàn toàn Kế hoạch quân sự Nava, đè bẹp ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh ở Đông Dương, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Hội nghị Giơnevơ (Genève) giành thắng lợi.
III- Hội nghị wà Hiệp định Giơnevơ 1951 về chăm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương
1- Hội nghị Giơnevơ
Lập trường trước sau như một của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta là luôn giương cao ngọn cờ hoà bình. Bởi vậy, trước và trong quá trình tiến hành cuộc kháng chiến, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã nhiều lần đề nghị Chính phủ Pháp cùng thương lượng để giải quyết một cách hoà bình vấn đề Việt Nam, nhưng đều bị khước từ.
Bước vào Đông Xuân 1953 - 1954, cùng với cuộc tiến công trên mặt trận quân sự, Đảng và Chính phủ ta chủ trướng mở cuộc tiến công trên mặt trận ngoại giao để kết thúc cuộc kháng chiến. sau gần 9 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương, thực dân Pháp càng bị sa lầy và lệ thuộc vào Mĩ ; nội bộ giới cầm quyền Pháp bị phân hoá, hình thành phái chủ chiến và
phái chủ hoà. Nhân dân Pháp đấu tranh mạnh mẽ đòi Chính phủ Pháp phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương.
Ngày 27-7-1953, tại Bàn Môn Điếm đã diễn ra lễ kí kết Hiệp định đình chiến ở Triều Tiên, chấm dứt cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài trên 3 năm, dập tắt một lò lửa chiến tranh nguy hiểm và làm dịu bớt tình hình căng thẳng trên thế giới. Sự kiện này đã thúc đẩy xu thế giải quyết các cuộc xung đột trên thế giới bằng con đường thương lượng hoà bình. Trung Quốc, Liên Xô cũng sớm đi tới một giải pháp hoà bình ở Đông Dương theo giải pháp ở Triều Tiên. Hội đồng hoà bình thế giới thông qua nghị quyết (9-1953) kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương.
Tháng 10-1953, Đại hội Công đoàn thế giới lần thứ ba họp ở Viên (Áo) ra quyết định lấy ngày 19-12-1953 làm ngày lạo động thế giới đoàn kết với Việt Nam, đòi Pháp chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tất cả tình hình trên cùng với những chiến thắng của quân và dân ta trong năm 1953 đã tạo cơ sở cho mặt trận ngoại giao của Chính phủ ta thực hiện những bước đi mới. Ngày 26-ll-1953, trả lời phỏng vấn nhà báo Thụy Điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: "... nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo đường lối hoà bình, thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam ". Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ thiện chí hoà bình của Việt Nam, đồng thời gây chấn động lớn trong dư luận nước Pháp, có tác dụng thúc đẩy phong trào đấu tranh cho hoà bình của nhân dân Pháp và nhân dân thế giới, mở ra khả năng giải quyết bằng con đường hoà bình cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Dư luận nước Pháp đòi hỏi phải đàm phán ngay với Chính phủ Hồ Chí Minh. Trước sức ép từ nhiều phía, ngày 19-11-1953, Thủ tướng Pháp Lanien phải tuyên bố: "Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện trong khung cảnh địa phương hoặc trong khung cảnh quốc tế, nước Pháp sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột"1. Ngày 25-1-1954, Hội nghị Ngoại trưởng bốn nước lớn (Liên Xô, Mĩ , Anh, Pháp) tại Béclin thoả thuận về việc triệu tập một cuộc hội nghị quốc tế có đại diện Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tham dự tại Giơnevơ để bàn giải pháp hoà bình cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hoà bình ở Đông Dương. Quyết định về việc triệu tập Hội nghị Giơnevơ đã được dư luận quốc tế hoan nghênh. Ngày 20-2, Thủ tướng ấn Độ Nâu ra lời kêu gọi ngừng bắn ở Đông Dương để tạo điều kiện thuận lợi cho việc thảo luận vấn đề Đông Dương tại Hội nghị Giơnevơ sắp tới. Tờ Nhân dân nhật báo Trung Quốc (22-2-1954) đăng xã luận nêu rõ: "Không nghi ngờ chút nào là sự thoả thuận tại Hội nghị Béclin sẽ góp phần làm dịu tình hình trên thế giới. Nhân dân Trung Quốc ủng hộ nghị quyết đó". Ngày 5-3-1954, Quốc hội Pháp mở phiên họp đặc biệt bàn về vấn đề Đông Dương. Dù có sự ngăn cản của phái chủ chiến, nhưng ngày 10-3-1954, Quốc hội Pháp vẫn thông qua nghị quyết hoan nghênh việc triệu tập Hội nghị Giơnevơ để tìm giải pháp chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
Ngày 26-4-1954, Hội nghị Giơnevơ chính thức khai mạc, có sự tham gia của Ngoại trưởng các nước Liên Xô, Trung Quốc, Mĩ , Anh, Pháp, Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Cộng hoà Triều Tiên, tập trung thảo luận vấn đề Triều Tiên. Cho đến lúc này, giữa năm nước lớn vẫn chưa thống nhất việc xác định thành phần các nước có liên quan tham gia Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương. Phía Pháp đề nghị chỉ có đại diện ba chính phủ bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia tham dự Hội nghị cùng với năm cường quốc. Phía Liên Xô đề nghị phải có đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Anh, Pháp, Mĩ không chấp nhận đề nghị này. Nhưng khi quân đội nhân dân Việt Nam mở đợt tấn công cuối cùng vào Điện Biên Phủ (l-5- 1954), biết rõ thất bại không thể cứu vãn, ngày 2-5, ba nước phương Tây vội thông báo cho Liên Xô biết họ chấp nhận sự có mặt của đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương.
Ngày 4-5-1954, theo lời mời của Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Trung Quốc, phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, do Phó Thủ tướng kiêm Bộ trường Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn, tới Giơnevơ. Tham dự Hội nghị có đại diện của 9 bên: Đoàn đại diện Liên Xô đứng đầu là Bộ trưởng Ngoại giao Môlôtốp, đoàn đại diện Trung Quốc đứng đầu là Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Chu ân Lai, đoàn đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đứng đầu là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng, đoàn đại diện Pháp đứng đầu là Bộ trưởng Ngoại giao Biđôn, đoàn đại diện Mĩ đứng đầu là Thứ trưởng Ngoại giao Smít, đoàn đại diện Anh đứng đầu là Bộ trưởng Ngoại giao Iđơn, cùng ba đoàn đại diện của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào và Campuchia.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơnevơ bắt đầu chuyển sang bàn về vấn đề chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương. Trong bốn phiên họp toàn thể ở tuần lễ đầu tiên (8-5, 10-5, 12-5 và 14-5), các đoàn đại diện Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Trung Quốc và Liên Xô... lần lượt đưa ra đề nghị giải pháp kết thúc chiến tranh ở Đông Dương.
Trong phiên họp toàn thể thứ nhất (8-5), đoàn Pháp nêu lên lập trường 9 điểm, bao gồm 5 điểm về Việt Nam :
1 - Tập kết quân đội hai bên vào vùng quy định;
2- Giải giáp lực lượng dân quân du kích;
3- Trao trả tù quân sự và dân sự;
4- Kiểm soát quốc tế,
5- Đình chỉ chiến sự; và bốn điểm về Lào và Campuchia: 1- Rút tất cả lực lượng Việt Nam; 2- Giải giáp lực lượng dân quân du kích; 3- Trao trả tùquân sự và dân sự; 4- Kiểm soát quốc tế.
Trong phiên họp toàn thể thứ hai (l0-5), đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trình bày lập trường 8 điểm:
1- Pháp phải công nhận chủ quyền, độc lập của Việt Nam trên khắp lãnh thổ Việt Nam và chủ quyền, độc lập của hai nước Lào, Campuchia;
2- Kí một hiệp định về việc rút quân đội ngoại quốc ra khỏi ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia;
3- Tổ chức tổng tuyển cử tự do ờ ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia;
4- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Lào và Campuchia xét vấn đề gia nhập Liên hiệp Pháp;
5- Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Pathét Lào và Campuchia công nhận quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp, quan hệ kinh tế giữa ba nước với Pháp sẽ được quy định theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng có lợi;
6- Hai bên cam kết không truy tố những người hợp tác với bên kia trong chiến tranh;
7- Hai bên trao đổi tù binh; 8- Ngừng bắn toàn Đông Dương.
Trong phiên họp toàn thể thứ ba (12-5), đoàn Trung Quốc trình bày lập trường tổng quát về vấn đề Đông Dương, ủng hộ đề nghị 8 điểm của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và phê phán tính chất thực dân, không thực tế trong đề nghị của đoàn Pháp. Đoàn Trung Quốc chỉ ra hai điều kiện cơ bản để lập lại hoà bình ở Đông Dương là nước Pháp phải chấm dứt chiến tranh, Mĩ phải
chấm dứt can thiệp vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Qua bốn phiên họp toàn thể trong tuần lễ đầu tiên và tiếp đến ba phiên họp từ ngày 17 đến ngày 19-5, hai bên đều trình bày quan điểm của mình nhưng vẫn chưa đi tới thoả thuận trên hai vấn đề cơ bản về chương trình nghị sự. Quan điểm do phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đưa ra và được Liên Xô, Trung Quốc đồng tình là giải quyết toàn điện cả hai vấn đề quân sự và
chính trị đồng thời cho cả ba nước Việt Nam, Campuchia, Lào trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương. Quan điểm phía bên kia do Pháp đề nghị là chỉ giải quyết vấn đề quân sự và tách vấn đề Lào, Campuchia ra khỏi vấn đề Việt Nam. Do lập trường ngoan cố của Pháp và Mĩ , Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương diễn ra
gay go, phức tạp.
Nhằm động viên toàn quân và toàn dân cả nước tận dụng thời cơ thuận lợi tiếp tục tiến lên giành nhiều thắng lợi to lớn hơn, ngày 1-5- 1954, Ban Bí thư Trung ương ra bản Chỉ thị “Về việc tổ chức một cuộc tuyên truyền động viên mở rộng thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ”. Chỉ thị nêu rõ: Bộ đội đánh thắng địch ở Điện Biên Phủ ra sức rút kinh nghiệm, chỉnh đốn lực lượng, chuẩn bị thi hành nhiệm vụ mới; động viên quân và dân trên chiến trường toàn quốc, nhất là ở vùng sau lưng địch, tích cực đánh giặc và làm tròn nhiệm vụ khác, tích cực vận động binh lính địch, nhất là ngụy binh; động viên quần chúng trong vùng tạm chiếm tích cực chống địch bắt lính, vơ vét, chống Mĩ can thiệp, vạch mặt bọn bù nhìn...
Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, từ trung tuần tháng 5, các lực lượng vũ trang nhân dân ta trên các chiến trường, nhất là ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ liên tục tiến công các vị trí địch, thu nhiều thắng lợi. Từ đầu tháng 6, nhất là những ngày cuối tháng 6 đầu tháng 7, chiến trường Bắc Bộ trở nên sôi động trong cảnh tượng quân địch vội vã rút bỏ hàng loạt vị trí ở trung du và nam đồng bằng. Trong khi đó, cuộc đàm phán trên bàn Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương vẫn giậm chân tại chỗ. Thời gian này, các Phó
đoàn đại diện thay thế Trưởng đoàn đã tiến hành 5 phiên họp hẹp, từ phiên thứ 17 đến phiên thứ 21; quan điểm của hai phía về giải pháp cho vấn đề Đông Dương vẫn khác xa nhau. Hoạt động ngoại giao của hai phía chủ yếu diễn ra bên ngoài Hội nghị bằng những cuộc gặp gỡ riêng giữa các Trưởng đoàn. Từ trung tuần tháng 7, Hội nghị Giơnevơ bước vào giai đoạn kết thúc. Từ ngày 11 đến ngày 17, ngoài phiên họp hẹp thứ 22 còn có hàng loạt các cuộc tiếp xúc riêng giữa các Trưởng đoàn để từng bước tháo gỡ những bất đồng trong các vấn đề như đường ranh giới tập kết ở Việt Nam; tổng tuyển cử ở Việt Nam; kiểm soát quốc tế; thời hạn rút quân Pháp khỏi Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Song, các bên vẫn chưa đi tới giải pháp thống nhất.
Cùng thời gian trên, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị mở rộng dưới sự chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở phân tích tình hình và những thắng lợi của ta, Hội nghị chỉ rõ "Đế quốc Mĩ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương". Hội nghị cũng quyết định phương châm, sách lược đấu tranh của ta trong giai đoạn mới là: "Chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mĩ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện hoà bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mĩ kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, củng cố hoà bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và thực hiện dân chủ trong toàn quốc".
Ngày 18-7, Hội nghị Giơnevơ bước sang phiên họp hẹp thứ 23. Xuất phát từ điều kiện cụ thể cuộc kháng chiến của ta, cũng như so sánh lực lượng giữa ta và Pháp trong cuộc chiến tranh và xu thế chung của thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng; đồng thời căn cứ vào thực trạng mối quan hệ giữa các nước lớn tham dự Hội
nghị, quan hệ giữa Việt Nam với Liên Xô và Trung Quốc lúc đó, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải chấp nhận kí Hiệp định Giơnevơ.
2- Hiệp định Giơnevơ
Sau 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp rất gay go và phức tạp, Hội nghị Giơnevơ về Đông Dương đã kết thúc. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương được kí kết, gồm các văn kiện sau đây:
1- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam
2- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào
3- Bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Campuchia
4- Bản Tuyên bố cuối cùng
5- Các phụ bản khác...
Bản Tuyên bố cuối cùng về việc lập lại hoà bình ở Đông Dương gồm 13 điều:
1- Xác nhận những văn bản Hiệp định về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, ở Lào, ở Campuchia và tổ chức kiểm soát quốc tế.
2- Khẳng định sự hài lòng của các bên tham gia Hội nghị về việc chấm dứt chiến sự ở các nước Đông Dương.
3- Xác nhận những lời tuyên bố của Chính phủ Vương quốc Campuchia và của Chính phủ Vương quốc Lào về cuộc tổng tuyển cử sắp tới. "Cuộc tổng tuyển cử này sẽ tiến hành trong năm 1955 căn cứ vào niên pháp của mỗi nước, theo phương pháp bỏ phiếu kín và trong sự tôn trọng những quyền tự do căn bản".
4- Xác nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự ở ba nước về việc cấm đem quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài vào các nước Đông Dương.
5- Xác nhận những điều khoản trong Hiệp định đình chỉ chiến sự cấm việc đặt căn cứ quân sự nước ngoài ở Đông Dương và việc các nước Đông Dương tham gia các liên minh quân sự với nước ngoài.
6- Quy định lấy vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam. "Giới tuyến quân sự chỉ có tính chất tạm thời, hoàn toàn không thể coi là một ranh giới về chính trị hay về lãnh thổ...".
7- Khẳng định các bên tham gia Hội nghị thừa nhận về nguyên tắc sự độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, việc hiệp thương giữa hai miền bắt đầu từ ngày 20-7-1955 và "cuộc tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956, dưới sự kiểm soát của một ban quốc tế gồm đại biểu những nước có
chân trong Ban giám sát và kiểm soát quốc tế .
8- Cam kết tôn trọng quyền tự do lựa chọn nơi sinh sống của nhân dân trong mỗi nước.
9- Quy định "Những nhà đương cục có thẩm quyền ở vùng Bắc và vùng Nam Việt Nam, cũng như ở Lào và Cao Miên không được dung thứ những hành động báo thù cá nhân hoặc tập thể đối với những người đã hợp tác... với một trong hai bên trong thời gian chiến tranh, hoặc đối với gia đình những người
đó".
10- Chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp "sẵn sàng rút quân đội Pháp khỏi lãnh thổ Cao Miên, Lào và Việt Nam theo lời yêu cầu của những Chính phủ có liên quan và trong một thời hạn do các bên thoả thuận..." .
11- Chứng nhận lời tuyên bố của Chính phủ Pháp cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.
12- Quy định những nguyên tắc trong quan hệ với ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia: "... mỗi nước tham gia Hội nghị Giơnevơ cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của những nước trên và tuyệt đối không can thiệp vào nội trị của những nước đó".
13- Quy định những biện pháp cần thiết để đảm bảo việc tôn trọng Hiệp nghị: "Các nước tham gia Hội nghị Giơnevơ thoả thuận sẽ hỏi ý kiến nhau về mọi vấn đề do Ban giám sát và kiểm soát quốc tế chuyển tới, nhằm nghiên cứu những biện pháp tỏ ra cần thiết để đảm bảo sự tôn trọng những Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Cao Miên, Lào và Việt Nam" .
Bản Tuyên bố cuối cùng được tám đoàn trong số chín đoàn tham gia Hội nghị kí kết; riêng đoàn Mĩ không kí, mà chỉ ra tuyên bố riêng công nhận. Hành động này của Mĩ một mặt biểu hiện sự phản ứng đối với kết quả Hội nghị, một mặt có ý đồ dọn đường sẵn cho việc phá hoại Hiệp định, hất cẳng Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của đế quốc Mĩ . Hiệp định Giơnevơ không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của nhân dân ta trên chiến trường và cũng không phản ánh đúng khả năng cách mạng ba nước Đông Dương sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Với giải pháp Giơnevơ, Việt Nam mới giải phóng được một nửa đất nước; vùng giải phóng Lào chỉ còn lại hai tỉnh (Sầm Nưa và Phong Xa Lì); Campuchia không còn vùng giải phóng, nên lực lượng vũ trang phải giải ngũ tại chỗ.
Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng với việc kí kết Hiệp định Giơnevơ, "chúng ta đã thu được một thắng lợi ngoại giao mlớn ". Cùng với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ đã kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp có Mĩ giúp sức ở Đông Dương kéo dài trong gần 9 năm. Âm mưu của đế quốc Mĩ định kéo dài, mở rộng và quốc tế hoá cuộc chiến tranh Đông Dương hoàn toàn bị đập tan. Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương là một văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Với Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội, trở thành chỗ dựa vững chắc cho cuộc cách mạng giải phóng miền Nam và đấu tranh thống nhất nước nhà. "Việc lập lại hoà bình ở Đông Dương, hoàn toàn giải phóng miền Bắc Việt Nam đặt cơ sở pháp lí cho việc thống nhất nước ta là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta, đồng thời cũng là thắng lợi của phe xã hội chủ nghĩa, hoà bình và dân chủ trên thế giới. Nó phản ánh tình hình lực lượng so sánh ở Đông Dương và trên thế giới lúc bấy giờ. Thắng lợi to lớn đó không những tạo ra khả năng thực tế để thực hiện hoà bình thống nhất đất nước ta trên cơ sở độc lập và dân chủ, mà còn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho cách mạng ở miền Bắc tiến lên một giai đoạn mới" .
Thắng lợi và hạn chế của giải pháp Giơnevơ đối với Việt Nam cũng phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước lớn trên trường quốc tế, phản ánh tính phức tạp về ý đồ chiến lược của các bạn đồng minh của chúng ta trong qua trình đàm phán.
IV- Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp từ (1945 - 1954)
1- Ý nghĩa lịch sử
Kể từ ngày 23-9-1945, khi nhân dân Nam Bộ với các loại vũ khí thô sơ đứng lên chiến đấu chống quân xâm lược Pháp, đến ngày Hiệp định Giơnevơ được kí kết 21-7-1954, cuộc kháng chiến của nhân dân ta kéo dài gần 9 năm. Dù phải đương đầu với một lực lượng rất lớn về người và của, với một trình độ hiện đại về khoa học kĩ thuật của thực dân Pháp và can thiệp Mĩ , quân và dân ta đã giành thắng lợi vẻ vang: Loại khỏi vòng chiến đấu trên 57.900 lính Pháp và tay sai; bắn rơi và phá huỷ 435 máy bay; đánh chìm và bắn cháy 603 tàu chiến, ca nô; phá huỷ 344 khẩu pháo, 337 đầu máy xe lửa và 9.292 xe quân sự...
Về phía thực dân Pháp, trong 9 năm tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược, vào thời điểm cao nhất (3-1954), chúng đã sử dụng 191 tiểu đoàn 550 máy bay, 26 tiểu đoàn pháo binh, 10 trung đoàn xe tăng và xe bọc thép, 390 tàu chiến và ca nô, tiêu tốn gần 3.000 tỉ phrăng. Chính phủ Pháp dựng lên đổ xuống 20 lần, 7 lần thay đổi Cao uỷ và 8 lần thay đổi Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh ở Đông Dương. Kết thúc cuộc chiến, thực dân Pháp phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân ba nước Đông Dương, phải rút hết quân đội ra khỏi miền Bắc nước ta. Lần đầu tiên trong gần một thế kỉ, trên phần nửa đất nước ta sạch bóng quân xâm lược.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng tháng Tám. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chuyển sang thời kì cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất
đất nước.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp; đồng thời ngăn chặn âm mưu của đế quốc Mĩ định kéo dài, mở rộng và quốc tế hoá cuộc chiến tranh Đông Dương. Thắng lợi của cuộc kháng chiến là thắng lợi của ý chí và quyết tâm chiến đấu của nhân dân ta vì độc lập, tự do và hoà bình; đồng thời chứng minh đường lối kháng chiến đúng đắn và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh tài giỏi của Đảng ta.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mĩ còn có ý nghĩa quốc tế rất to lớn. Nó đã giáng một đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, vào mưu đồ đặt ách nô dịch thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần làm tan rã chủ nghĩa thực dân kiểu cũ trên thế giới. Thắng lợi của dân tộc ta có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa thuộc châu Á, châu Phi và Mĩ La tinh, góp phần làm suy yếu lực lượng đế quốc chủ nghĩa. "Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh; là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam,
đồng thời cũng là một thắng lợi thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới" .
2- Nguyên nhân thắng lợi
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mĩ của nhân dân ta giành được thắng lợi là do nhiều nguyên nhân tạo nên. Trước hết, thắng lợi của kháng chiến là do đường lối chính trị - quân sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nắm vững nội dung và xu thế phát triển của thời đại, ngay từ đầu, trong chỉ đạo chiến tranh, Đảng ta gắn mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Thực hiện phương châm thêm bạn, bớt thù, Đảng ta đã dùng mọi biện pháp để tập hợp lực lượng, củng cố mối quan hệ với bạn đồng minh, tranh thủ lực lượng trung gian, cô lập kẻ thù chủ yếu. Nhờ có đường lối ấy, không những khối liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương ngày càng được tăng cường, mà mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, phản đối thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mĩ ngày càng được mở rộng. Quán triệt quan điểm chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê nin, ngay từ đầu, Đảng ta đã vạch ra đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh; trong đó, nội dung cơ bản có tính xuyên suốt là toàn dân kháng chiến.
Tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta trong suốt quá trình cách mạng và chiến tranh cách mạng là quan điểm về con người, về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử.
Đánh giá cao vai trò quần chúng nhân dân, trong quá trình lãnh đạo cuộc kháng chiến, Đảng ta xác định đúng đắn vai trò, vị trí của các giai cấp, các giới, các lực lượng, các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vai trò của công nhân và nông dân. Đảng ta coi liên minh công nông là đội quân chủ lực, là lực lượng chủ yếu quyết định thắng lợi của kháng chiến, là nền tảng của khối đoàn kết toàn dân.
Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, Đảng ta đã tổ chức cả nước thành một mặt trận; mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xã là một pháo đài. Sức mạnh toàn dân đã đưa cuộc kháng chiến từ không đến có, từ yếu đến mạnh và cuối cùng giành được thắng lợi to lớn, đánh dấu bằng chiến
thắng lịch sử Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ. Thắng lợi của kháng chiến bắt nguồn từ sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân được Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm xây dựng và vun đắp. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, cùng với Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) được hình thành và phát triển không chỉ ở vùng tự do, mà cả ở vùng sau lưng địch. Sức mạnh đoàn kết toàn dân càng được tăng cường khi hai Mặt trận Việt Minh và Liên Việt thống nhất thành một mặt trận duy nhất, lấy tên là Mặt trận Liên - Việt (3-1951). Nhờ đó, chúng ta phá tan âm mưu chia rẽ dân tộc, chia rẽ lương - giáo... của thực dân Pháp, làm thất bại chính sách "dùng người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh" của chúng.
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi là do ta có lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân sớm được xây dựng và ngày càng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đó là đội quân cách mạng từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, luôn luôn gắn bó với nhân dân, được nhân dân tin yêu, đùm bọc, nuôi dưỡng. Chính Na va, trong cuốn hồi kí Đông Dương hấp hối, cũng phải thừa nhận: "Quân đội Việt Minh rất hoạt động vì nó trẻ. Nó là đội quân vững chắc bởi vì nó tuyển mộ trong quảng đại nông dân. . . họ sống với nhân dân, được nhân dân che chở..."
Thắng lợi của cuộc kháng chiến cũng chính là thắng lợi của Đảng ta trong chính sách xây dựng hậu phương. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin coi hậu phương là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của chiến tranh, Đảng ta sớm đề ra chủ trương, biện pháp xây dựng hậu phương kháng chiến vững mạnh về mọi mặt. Hậu phương kháng chiến là một hệ thống căn cứ bao gồm các cơ sở chính trị ở thành thị và nông thôn, các khu du kích và căn cứ du kích trong vùng tạm bị chiếm, các vùng tự do rộng lớn nằm trên khắp lãnh thổ đất nước. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp, trên cả ba miền Bắc - Trung - Nam, ta đã xây dựng và giữ vững được những vùng tự do rộng lớn, tương đối ổn định, làm hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến. ở Bắc Bộ có vùng rừng núi Việt Bắc, ở Trung Bộ có vùng tự do Thanh - Nghệ - Tĩnh, Nam - Ngãi - Bình - Phú; ở Nam Bộ có Thủ - Biên, Tây Ninh, Đồng Tháp Mười và Khu 9.
Trong các vùng tự do, nơi có điều kiện thuận lợi, nhân dân ta ra sức xây dựng chế độ mới dân chủ nhân dân trên tất cả các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Đó chính là những nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh to lớn của hậu phương, cho phép huy động đến mức cao nhất và nhiều nhất sự tham gia đóng góp nhân, tài, vật lực của toàn dân vào sự nghiệp kháng chiến, kiến
quốc. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp còn do ta có sức mạnh của khối đoàn kết chiến đấu ngày càng bền chặt giữa nhân dân ba nước Đông Dương; sức mạnh của sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ ngày càng to lớn từ các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, trước hết là Trung Quốc, Liên Xô, cũng như nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có nhân dân Pháp.
Nguồn: Sách LSVN 1945-2000