Bút Nghiên
ButNghien.com
- Xu
- 552
Cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược của nhân dân ta nửa cuối thế kỷ XIX
I.Âm mưu xâm lược Việt Nam của Pháp. Tình hình Việt Nam phong kiến giữa TK 19
1.1.1. Pháp âm mưu thôn tính Việt Nam từ lâu
Sau các cuộc phát kiến địa lí lớn ở thế kỉ XV và XVI, chủ nghĩa Tư bản và các nước phương Tây được xác lập và đẩy mạnh các cuộc xâm lăng thuộc địa. Việc cướp đoạt châu Mỹ và phương Đông trong thế kỉ XVI đã làm cho Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trở thành các quốc gia giầu mạnh nhất Sang thế kỉ XVII, Hà Lan mạnh lên, cũng đến Hội An (1636) và Phố Hiến lập thương điếm. Để gây thanh thế và ảnh hưởng ở Việt nam, Hà lan đã can thiệp vào cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, giúp Trịnh đánh Nguyễn (1642-1643) nhưng việc không thành.
Đầu thế kỉ XVIII người Anh có mặt ở Phố Hiến, Thăng Long. Đến đầu thế kỷ XIX (1802) Anh cho quân chiếm đảo Côn lôn, phái binh lính người Mã Lai (Ma-lai-xi-a) đến đóng giữ. Năm 1803, binh lính Mã Lai đã phối hợp với viên quan trấn thủ người Việt Nam nổi dậy tiêu diệt quân Anh, lấy lại đảo.
Trong cuộc chạy đua sang phương Đông, tư bản Pháp ngày càng chú ý tới Việt nam thông qua các tài liệu của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp cũng như của những giáo sĩ Pháp mà người tiêu biểu là A-lếch-xăng-đơ-Rốt (Alexndre de Rhodes).
Đờ-Rốt đến Việt nam từ 1624, ở Việt Nam khoảng 17 năm, tích cực truyền bá đạo thiên chúa ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc: Sau thời kỳ phục vụ vua Bồ Đào Nha, năm 1645 A-lếch-xăng-đờ-Rốt mở cuộc vận động lập các tòa giám mục Pháp ở Viễn đông và hệ thống công giáo bản xứ. Năm 1664 Hội truyền giáo hải ngoại Pháp được thành lập ở Paris. Trong các năm tiếp theo, các giáo hội tích cực hoạt động, vừa truyền đạo, vừa buôn bán, vừa tích cực chuẩn bị lập một dự án xâm lăng Việt Nam.
Sau chiến tranh 7 năm giữa Anh và Pháp (1756-1763), nước Pháp thua trận, phải nhường sự chiếm đoạt Ấn Độ cho Anh, Pháp chỉ còn được làm chủ một số thị trấn ven biển. Từ đó tư bản Pháp càng muốn có các thuộc địa ở Viễn đông, nhất là tại Việt nam, nơi mà các giáo sĩ của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp và các thương gia của công ty Đông Ấn Pháp đã từng quen biết từ thế kỷ XVII.
Cho dù Công ty Đông ấn của Pháp sau đó bị giải thể, các tàu buôn Pháp không qua lại buôn bán nữa, song các giáo sĩ Pháp vẫn lén lút vào Việt Nam hoạt động.
• Tại Đàng Ngoài một số giáo sĩ đội lốt thương gia ở lại Phố Hiến tiếp tục truyền giáo
• Ở Đàng Trong, một số giáo sĩ dưới sự chỉ đạo của Bá đa lộc (Pignau de Béhaine), người đã từng phụ trách một chủng viện ở Hòn Đất (Kiên giang), vẫn lén ở lại miền Tây đất Gia Định. Nhờ vậy sau khi chúa Nguyễn bị phong trào nông dân Tây Sơn đánh đổ, giám mục Bá Đa Lộc đã nảy ra ý đồ giúp Nguyễn Phúc Ánh với hy vọng đi trước các nước châu Âu khác, chiếm lấy Việt Nam nhằm khuếch trương thế lực công giáo.
Về phần mình,sau khi đã cầu cứu phong kiến Xiêm, để cho quân Xiêm tàn phá đất Việt Nam từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Vĩnh Long rồi quân Xiêm bị Nguyễn Huệ tiêu diệt ở Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường), năm 1785 Nguyễn Ánh đã quay sang cầu xin bọn thực dân Tây Âu giúp đỡ.Tại thời điểm đó, chẳng những Pháp mà còn cả Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đều có phái nhân viên đến liên lạc với Nguyễn Ánh, đề nghị được ”viện trợ”. Bản thân Nguyễn Ánh cũng có ý định sang Batavia (In-đô-nê-xi-a) để cầu viện Hà Lan hoặc sang Goa (Ấn độ) cầu viện Bồ Đào Nha, nhưng cuối cùng do có mối quan hệ từ trước, ông ta quyết định nhờ vả người Pháp.
Cuối năm 1784, được sự ủy nhiệm của Nguyễn Ánh, Pi nhô đờ Bê hen (Bá đa lộc) đã đem theo ấn tín và người con trai của Ánh là Nguyễn Phúc Cảnh (hoàng Tử Cảnh) lúc đó mới 6 tuổi đi cầu viện Pháp. Trong một tài liệu nói về cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh, được trích trong một bức thư do Bá Đa Lộc viết vào tháng 12/1784 có một đoạn như sau: ”Sau khi sửa chữa xong thuyền... chúng tôi giong buồm về đảo Pulo Punjan (Phú Quốc) để từ đó vượt qua vịnh Xiêm-la. Ở đây một lần nữa chúng tôi đã gặp nhà vua Đàng trong; ông kể lại cho nghe lí do vì sao ông đã sang Xiêm. Họ mượn cớ giúp ông trở lại ngôi vua và lợi dụng danh nghĩa ông để cướp bóc dân chúng. Chính vào thời điểm này, nhà vua đã giao cho tôi chăm sóc người con trai mới lên 6 tuổi mà tôi hiện đem theo đây... sau đó chúng tôi vượt vịnh Xiêm La đến Malaque ngày 19 tháng 12”.
Ngày 28/11/1787 giữa Pi-nhô-đờ-Bê-hen đại diện cho Nguyễn Ánh và Bá tước Mông-mô-ranh, đại diện cho Hoàng đế Pháp Lu-i XVI đã kí kết một bản hiệp ước mang tên ”Hiệp ước tương trợ tấn công và phòng thủ” tại Véc-Xây, trong đó người Pháp cam kết gửi binh lính, lương thực, tầu bè, súng đạn sang giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại quyền bính. Đổi lại, Pháp được sở hữu Đà Nẵng, đảo Côn Lôn và được độc quyền buôn bán tại Việt nam.
Hiệp ước 1787 đã không được thực hiện bởi lẽ ngay sau đó, vào năm 1789 cách mạng Pháp bùng nổ,người Pháp bỏ lỡ cơ hội can thiệp ngay vào Việt nam. Tuy nhiên chúng vẫn không từ bỏ âm mưu của mình và âm mưu đó đã được coi là “quốc sách” để rồi hết chính phủ này đến chính phủ khác ở Pháp thay nhau theo đuổi.
Tuy chính phủ Pháp bỏ lỡ cơ hội để thâm nhập vàoViệt nam sau khi ký hiệp ước 1787 nhưng bọn tư bản Pháp ở Ấn Độ Dương vẫn ra sức ủng hộ kế hoạch của Pi-nhô-đờ-Bê-hen, bởi kế hoạch này nếu được thực hiện sẽ đem lại nhiều quyền lợi cho giới tư bản tài phiệt. Chúng đã gửi tàu chiến, sĩ quan, kĩ sư, binh lính, vũ khí đạn dược sang giúp Nguyễn ánh lấy lại đất Gia Định. Bản thân Pi-nhô-đờ-Bê-hen cũng tham gia chinh chiến trong đội quân của Nguyễn Ánh chống Tây Sơn từ Gia Định bến Bình Định cho đến chết như một viên tham mưu trưởng.
Sau khi đánh thắng Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh tái lập vương triều Nguyễn. Tuy vậy, nguy cơ bị Pháp nhòm ngó vẫn chưa hết.
Sau cách mạng Pháp và chiến tranh châu Âu kéo dài từ 1792 đến 1814 tình hình nước Pháp trở lại yên tĩnh. Giai cấp tư sản Pháp đã lớn mạnh, chúng tiếp tục tìm cách xâm nhập Việt Nam.
Năm 1812 Na-pô-lê-ông Bô-na-pac sau khi xem các giác thư của bọn thực dân hoạt động tại Viễn Đông đã ra lệnh nghiên cứu lại hiệp ước Véc-xây (1787). Song ngay năm sau, Hoàng đế Na-pô-lê-ông đệ nhất bị đổ - âm mưu xâm lăng Việt nam của Pháp vì thế chưa thực hiện được.
1.1.2. Bối cảnh thế giới và tình hình nước Việt Nam phong kiến giữa thế kỷ XIX
Thế kỉ XVIII và XIX là thế kỉ có đầy rầy những biến động đối với thế giới và khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt nam.
Ở phương Tây, giai cấp tư sản các nước lần lượt nắm chính quyền. Công thương phát triển mạnh, khoa học kỹ thuật trong thế kỉ ánh sáng gặt hái được nhiều thành công. Vào những năm 60-70 của thê kỉ XVIII cách mạng Anh đã nổ ra. Cuộc chiến tranh giành độc lập ở Bắc Mỹ thành công đã đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hàng hoá của tư bản các nước ùn ùn được chở ra nước ngoài và cũng tới tấp chở về những vàng, bạc châu báu, hương liệu và các sản vật quý hiếm.
Khi thị trường thương mãi đã trở nên chật hẹp, các nước tư bản phương Tây bắt đầu đua nhau kéo sang phương Đông, vừa để bán sản phẩm của nền công nghiệp, vừa đầu tư vốn để kiếm lời trong các ngành kinh doanh, khai thác nguyên liệu và nguồn nhân công rẻ mạt.
Vận mạng của các dân tộc bị chủ nghĩa tư bản thực dân phương Tây đe doạ. Giữa lúc đó, trật tự phong kiến ở các nước châu Á đang lung lay trước mâu thuẫn không thể điều hoà giữa giai cấp phong kiến nắm quyền và nông dân trong nước.
Cuộc chạy đua xâm chiếm các nước phương Đông làm thuộc địa đã dần dẫn xác lập vị trí của thực dân Anh và Pháp ở vùng này.
Cuộc chạy đua xâm chiếm các nước phương Đông làm thuộc địa đã dần dẫn xác lập vị trí của thực dân Anh và Pháp ở vùng này.
Tại Trung quốc từ giữa thế kỷ XVII giai cấp thống trị Hán tộc đã phải khuất phục trước sự thống trị của phong kiến ngoại tộc. Nhà Mãn Thanh lên cầm quyền. Trước nguy cơ bị phương Tây xâm lược, phong kiến Trung Quốc vẫn khư khư ôm lấy mớ lý thuyết sáo rỗng cũ kĩ, cho Trung Quốc là trung tâm của nền văn minh thế giới. Đối nội thì ra sức củng cố chế độ chuyên chế độc tài, đối ngoại thì bành trướng và bế quan toả cảng.
Trong khi đó thì nước Việt Nam cũng không có gì khá hơn, cũng lại lăn theo vết xe đổ Trung Quốc, dập theo kinh nghiệm Trung quốc để chìm đắm trong giấc ngủ phong kiến ngàn năm.
Về chính trị luật pháp:
Sau khi lên ngôi, Gia Long cho củng cố chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền.
Trên hết có hoàng đế, nắm tất cả quyền bính; có Cơ mật viện bàn quốc sự lớn lao, nhưng ý kiến quyết định cuối cùng vẫn là ý kiến của nhà vua.
Hoàng đế tự xưng là Thiên tử - Con trời, thay trời trị dân. Vua có uy quyền tuyệt đối, cho ai sống thì được sống, bắt ai chết thì kẻ đó phải chết. Ý vua là phép nước và nước là nước của vua. Trong thực tế, vua là một địa chủ lớn nhất, có toàn quyền quyết định trong việc sử dụng ngân khố nhà nước, có quyền tước đoạt bất kì caí gì, của bất cứ ai nếu nhà vua muốn.
Lúc đầu thời Gia Long, ở Bắc kì và Nam Kì có đặt chức khâm sai tổng trấn thay mặt vua trông nom, về sau triều đình trực tiếp với tay xuống các địa phương. Các hàng quan đầu tỉnh đều do Nhà nước bổ nhiệm, thông qua thi cử. Ở vùng thượng du, triều đình không có khả năng trực trị thì thông qua các tù trưởng để nắm quyền.
Từ Minh Mạng trở đi, tính tập quyền ngày càng cao. Nhà vua tự mình”châu phê", soạn thảo các văn bản, và sắp đặt mọi việc.
"Vua sáng suốt về việc chính trị, những tờ sớ dâng lên, vua đều xem hết và trước mặt chỉ bảo cho; hễ việc gì quan trọng tâu lên thì phần nhiều là vua tự nghị soạn lấy, hoặc bảo ra rồi giao phó cho, hoặc châu phê vào. Bản châu phê bắt đầu từ đấy mới có".
Để cai trị những vùng thôn quê rộng lớn, nhà Nguyễn chú trọng tận dụng tầng lớp địa chủ phú hào và chuyển bộ phận này thành công cụ thừa hành đắc lực của quan lại từ cấp tri huyện trở lên và được coi là ”dân quan". Và như vậy, trong khi đám quan lại ở triều đình tự biến mình thành gia nhân trung thành của nhà Nguyễn, thì đám quan lại ở địa phương đã trở thành những kẻ ”cuớp ngày", được dung dưỡng, bợ đỡ, tha hồ đục khoét nhân dân. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ tâu rằng: "Quan lại nhũng tệ chỉ mới hai ba phần, còn điêu hào làm hại đến bảy tám phần; cuớp của giết người, giết vợ cuớp con mà trên vẫn không biết, vẫn không tội vạ gì".
Việc cai trị trong các làng thì nhất nhất ở tay ban hội tề, hương chức. Ban hương chức có nhiều quyền hành trong làng. Ngoài việc thu thuế, bắt sưu, bắt lính còn đảm đương việc chia công điền, công thổ. Họ đuợc quyền cho mướn công điền để thu tô; lập sổ bộ người và đất, đề ra lệ làng... hình thành cơ chế “tự trị” với những luật kệ hà khắc, phức tạp. Nói cách khác, dưới các thôn xã, quyền bính nằm trong tay bộ phận phú hào, cả về kinh tế, cai trị, giáo dục. Vận mạng của dân làng phụ thuộc vào các tổng lí, kì dịch.
Bộ luật Gia Long (còn gọi là Hoàng Việt luật lệ) nói là đã tham khảo bộ luật Hồng Đức thời Lê nhưng thực chất đã gạt bỏ những điều tiến bộ của luật Hồng Đức, sao chép gần hết bộ luật của triều Mãn Thanh, một quốc gia phong kiến phản động nhất châu Á. Trong tổng số 328 điều thì có tới 166 điều là luật hình, 58 điều luật quân sự. Để áp dụng có hiệu lực bộ luật trên, nhà Nguyễn lập ra một tổ chức chuyên trách về tư pháp ở cấp tỉnh gọi là Ty Niết.
Quần chúng nhân dân bị áp bức thậm tệ. Ngoài thuế khóa, sưu dịch họ còn phải chịu vô số luật lệ quái gở ví dụ:dù có tiền cũng không được xây nhà lầu. Nhà dân không được làm theo kiểu ”Nội công ngoại quốc”... Dân thường không được ăn vận quần áo có các mầu vàng, lam, tím... chỉ được dùng màu đen, nâu. Không được đi giày...
Về kinh tế xã hội:
Thời Nguyễn, chế độ sở hữu ruộng đất công đã suy yếu nhiều. Nạn chấp chiếm ruộng đất của địa chủ ngày càng trầm trọng. Sách Minh Mạng chính yếu cho biết vào năm 1840 tại tỉnh Gia Định ”không có ruộng công, các nhà giàu đã bao chiếm ruộng tư đến ngàn trăm mẫu,dân nghèo không được nhờ cậy”. Cũng theo sử cũ, vào năm 1852 trong 31 tỉnh của toàn quốc thì chỉ có hai tỉnh là Thừa Thiên và Quảng Trị là có số ruộng công nhiều hơn ruộng tư. 01 tỉnh là Quảng Bình có ruộng công và ruộng tư bằng nhau, còn lại 28 tỉnh khác ruộng tư nhiều hơn ruộng công, trong đó, phần ruộng tốt thì cường hào chiếm cả, thừa ra thì hương lí bao chiếm. Dân chỉ được phần ruộng xấu, cằn cỗi, xác màu.
Nạn cường hào nhũng nhiễu đã nhiều lúc làm cho triều đình Huế lo ngại. Song vì đây là bộ phận riềng cột của chế độ, cho nên dù có biết vậy mà triều đình đành phải làm ngơ.
Vì không còn ruộng công để phong cấp cho quan lại như trước, mà lại cần nhiều tiền để chi dùng, nhà nước Nguyễn không có cách nào khác là phải vơ vét bóc lột nhân dân bằng mọi mánh khóe, thủ đoạn.
Vì không còn ruộng công để phong cấp cho quan lại như trước, mà lại cần nhiều tiền để chi dùng, nhà nước Nguyễn không có cách nào khác là phải vơ vét bóc lột nhân dân bằng mọi mánh khóe, thủ đoạn.
Do bị áp bức trăm đường, không chịu nổi nên nhiều nông dân đã phải bỏ làng mà đi. Có năm tại trấn Hải Dương, trong tổng số 13 huyện, dân phiêu tán mất 108 thôn xã.
Để giải quyết tình trạng khó khăn về kinh tế, tài chính, nhà Nguyễn cho thực hiện chính sách khai hoang.
Từ 1802 đến 1855 nhà nước ban hành 25 quyết định về khai hoang, trong đó có 16 quyết định cho áp dụng ở Lục tỉnh, 2 ở Bắc thành,1 ở vùng Kinh kì và 6 đối với toàn quốc. Trong Nam cũng như ngoài Bắc, hình thức chủ yếu là chiêu mộ dân lưu tán để khai hoang lập ấp. Đồn điền phát triển mạnh ở Lục tỉnh, theo hình thức: hoặc Nhà nước giao cho binh lính hay tù nhân bị lưu đày khai hoang, hoặc cho tư nhân chiêu mộ dân khai thác. Một số quan lại tổ chức tốt việc khai hoang như Nguyễn Công Trứ lập ra hai huyện Kim Sơn, Tiền Hải và một số tổng ở Nam Định; Nguyễn Văn Thoại đào sông Núi Sập Thoại Hà, kênh Vĩnh Tế và khẩn hoang vùng Châu Đốc (An Giang); Trương Minh Giảng lập được 25 thôn ở vùng biên giới Việt Nam- Căm Pu Chia; Nguyễn Tri Phương lập được 21 cơ đồn điền và tổ chức 124 ấp ở Lục tỉnh. Diện tích đất nông nghiệp nhờ thế mà đã tăng nhanh so với trước. Theo thống kê vào năm 1820 có 3.076.300 mẫu; năm 1840:4.063.892 mẫu và năm 1847 tăng lên 4.278.013 mẫu.
Tuy diện tích canh tác có tăng nhưng tình trạng dân lưu tán vẫn tiếp tục xảy ra vì số đất khai hoang được chỉ một thời gian sau đã lại rơi vào tay giai cấp địa chủ phong kiến.
Tình trạng của nông nghiệp đã như vậy, thì công thương nghiệp lại càng bi đát.
Dưới thời Nguyễn, nhà nước vẫn duy trì chế độ công tượng cũ. Việc lùng bắt các thợ giỏi đưa về kinh đô phục vụ cuộc sống cung đình khiến cho thủ công dân gian ngày thêm tàn lụi. Thêm vào đó là chính sách ngăn sông cấm chợ, tục giấu nghề và các quy định ngặt nghèo vô lý của nhà nước như cấm buôn bán đồ sắt, cấm khai thác mỏ ở một số vùng; tư nhân không được giao thương với nước ngoài... đã khiến cho các trung tâm thương mại trở nên thưa thớt, công thương nghiệp tiêu điều. Những người thợ khéo tay nhiều khi chỉ được sử dụng vào việc làm thỏa mãn tính hiếu kì của các bậc vương giả... đã khiến cho nền công nghiệp chân chính không thể ra đời.
Chính sách ”bế quan tỏa cảng” khước từ mọi quan hệ thông thương với bên ngoài đã làm cho Việt Nam bị tách biệt với các nước. Chính sách thuế ngặt nghèo lại giáng tiếp đòn nặng nề vào công thương nghiệp làm cho nó không sao phát triển được; công nghiệp cũng không có điều kiện để trở thành một ngành riêng, ngược lại, nó có xu hướng bị hòa tan vào nền kinh tế tự cung tự cấp của xã hội phong kiến lạc hậu.
Ách áp bức nặng nề cùng với những chính sách đối nội, đối ngoại thiển cận của Nhà nước phong kiến Nguyễn đã trở thành nguyên nhân của hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân kéo dài suốt từ thời Gia Long đến thời Tự Đức, trong đó có những cuộc khởi nghĩa lớn kéo dài nhiều năm thu hút hàng ngàn người tham gia, khiến cho mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc.
Trong suốt 18 năm thời Gia Long (1802-1820) có 73 cuộc khởi nghĩa nông dân. Từ thời Minh Mạng trở về sau, cho đến năm 1858, các cuộc khởi nghĩa nổ ra ngày càng nhiều hơn, quy mô ngày càng lớn hơn. Năm 1821 có cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành ở vùng Nam Định (kéo dài tới tận năm 1827). Năm 1833 có khởi nghĩa của Lê Duy Lương ở Ninh Bình, Lê văn Khôi ở Gia Định, Nông văn Vân ở Tuyên Quang. Năm 1854 nổ ra cuộc khởi nghĩa của Cao Bá Quát ở Bắc Ninh...
Trong vòng 7 năm ở ngôi của Thiệu Trị, đã có tới 56 cuộc khởi nghĩa nông dân.
Thời Tự Đức, cao trào nông dân khởi nghiã đã làm cho nền tảng chế độ phong kiến lung lay muốn đổ. Đáng chú ý nhất là các cuộc khởi nghĩa của Hoàng Phan Thái, khởi nghĩa của cai tổng Vàng (ở Bắc Ninh) và cuộc khởi nghĩa năm 1854 ở vùng Sơn Tây (giặc Châu chấu) do Cao Bá Quát, một nhà thơ và nhà tư tưởng bậc nhất thế kỉ 19 lãnh đạo. Theo thống kê chưa đầy đủ chỉ từ năm 1848 khi Tự Đức lên ngôi đến năm 1862 là năm thực dân Pháp cuớp trắng ba tỉnh miền Đông Nam Kì đã có 40 cuộc khởi nghĩa và nếu tính đễn năm 1883, khi nhà Nguyễn ký điều ước Hác măng, thừa nhận sự chiếm đóng của Pháp trên toàn cõi Việt nam thì các cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã lên tới con số 103.
Phong trào nông dân khởi nghĩa nói trên đã khẳng định rằng, vào lúc thực dân Pháp chuẩn bị nổ súng xâm lược nước ta là lúc mâu thuẫn giữa nông dân với phong kiến đã trở nên hết sức sâu sắc. Tuy nhiên nông dân bao giờ cũng là một lực lượng yêu nước quan trọng. Họ tỏ ra hết sức tỉnh táo và nhậy bén trước thời cuộc và có sức sống, sức quật khởi trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Chính quần chúng nhân dân, trong đó chủ yếu là nông dân, chứ không phải là ai khác đã trở thành chỗ dựa của các sĩ phu yêu nước, làm tách một bộ phận phong kiến tiến bộ ra khỏi triều đình phong kiến đầu hàng, tiếp tục lãnh đạo cuộc đấu tranh chống xâm lăng của dân tộc ta ở giai đoạn sau.
II.Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Cuộc kháng chiến ở Đà Nẵng và Gia Định (1858-1859)
2.1. Âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của Pháp
Nguyễn Ánh, sau khi lên ngôi (1802) lấy hiệu Gia Long đã có các chỉ dụ đặc biệt ưu ái đối với các giáo sĩ người Pháp. Tuy vậy, sự hoạt động ráo riết của các thế lực theo đạo thiên chúa và các cố đạo người Âu đã khiến Gia long lo ngại, cảnh giác và đề phòng. Năm 1817. Gia long đã cự tuyệt việc yết kiến của phái bộ Pháp do Lu-i XVIII cử đến, đồng thời cũng cự tuyệt luôn ý đồ của người Pháp muốn thương thuyết trên cơ sở hiệp ước Véc xây. Nhưng rồi nước Pháp ngày càng bị tụt hậu so với Anh về vấn đề thuộc địa, nhất là khi người Anh đã có mặt tại Sinhgapo (1819) rồi đang ráo riết mở các cuộc tấn công vào nội địa Trung quốc - điều đó càng khiến cho Pháp phải nhanh tay hành động, nhằm tìm cách đứng chân ở một căn cứ nào đó gần bể Trung Quốc và sau đó tìm cách chiếm lấy một thuộc địa ở gần Trung Quốc để có thể tham gia vào việc tranh chấp miếng mồi béo bở, đầy hấp dẫn này.
Dưới thời Minh Mạng (1820-1840) đã mấy lần Pháp cử lãnh sự cùng Sứ giả sang Việt Nam yêu cầu thông thương nhưng đã bị từ chối.
Lấy cớ triều đình Việt nam cự tuyệt bang giao và giết giáo sĩ, giáo dân, chính phủ Pháp quyết định dùng vũ lực để thực hiện tham vọng của mình.
Về phía Việt nam thì từ năm 1840 khi Miên Tôn (Thiệu Trị) nối ngôi Phúc Đảm (Minh Mạng), việc cấm đạo tuy có nới tay hơn, nhưng Pháp không vì thế mà ngừng ý đồ xâm lược.
Vốn đã có dã tâm can thiệp vào công việc nội bộ Việt nam từ lâu và đã từng thị phi về vấn đề kế vị Gia long(1), từng kích động sự chống đối của Lê Văn Duyệt với Minh Mạng(2), nay Pháp lại tiếp tục sử dụng con bài công giáo để gây dư luận.
Sau năm 1840, Tạp chí Truyền giáo (Les Annales de la Propagation de la foi) của Hội truyền giáo nước ngoài Paris đã đem những việc sát hại giáo sĩ và giáo đồ ra tuyên truyền, khiến cho một bộ phận thuộc phái hữu xôn xao.Họ yêu cầu chính phủ Pháp phải hành động ngay bằng vũ lực để bảo vệ giáo sĩ và giáo dân Việt Nam.
Ngoài các chiến dịch tuyên truyền tại Pháp, Hội truyền giáo hải ngoại Pháp còn kích động những phần tử bất hảo trong số gần 50 vạn giáo dân, liên tiếp gây ra các vụ rắc rối, gây hận thù lương - giáo, vi phạm luật lệ triều đình... cố làm mục ruỗng xã hội Việt nam bằng cách chia rẽ nội bộ dân tộc ta, đi tới thủ tiêu tinh thần kháng chiến cũng như sức đề kháng của nhân dân ta trước quân xâm lược. Tiến thêm một bước, ngày 25/2/1843 tàu chiến Pháp Heroine vào Đà nẵng. Hạm trưởng Favin Lơvêque xin tha cho 5 giáo sĩ bị kết án tử hình đang còn bị giam ở Phú Xuân...
Năm 1845 thiếu tướng hải quân Cécile chỉ huy hạm đội Đông Hải phái tàu Alemêne đến Đà Nẵng, yêu cầu thả giám mục Le febvere bị kết án tử hình đang bị giam tại Huế.
Năm 1847 biết ở Phú Xuân không còn có giáo sĩ nào bị giam nữa, chính phủ Pháp mới sai đại tá hải quân Lepierre lên thay Cecile phản đối việc cấm đạo ở Việt Nam và yêu cầu Thiệu Trị để cho dân được tự do theo tôn giáo mới.
Tháng 3 - 1847 hai tàu chiến Pháp tới Đà nẵng. Thuyền trưởng và giáo sĩ Pháp ngang nhiên đi thẳng vào công quán đe dọa. Trấn thủ Đà Nẵng, một mặt không chịu nhận thư của đại diện Pháp, mặt khác ra lệnh cho binh lính sẵn sàng đối phó. Thấy vậy Lapierre đã ra lệnh cho hai tàu chiến Pháp bắn phá 5 chiếc tàu đồng của quân ta rồi cho nổ neo kéo buồm ra khơi. Ngày 15/7/1847 chiến hạm Pháp lại kéo đến bắn phá dữ dội các chiến thuyền của triều đình đậu tại Đà Nẵng. Tình thế trở nên căng thẳng.
Nghe tin quân Pháp hành hung tại Đà Nẵng. Vua Thiệu Trị vô cùng tức giận đã hạ dụ: ”cấm đạo sát tả” (cấm đạo, giết giáo dân) để đối phó, rồi ra lệnh cho các nơi chỉnh trang quân bị, chế tạo thêm khí giới để chuẩn bị kháng chiến.
Tháng 11/1847 Hồng Nhậm (Tự Đức) lên ngôi. Lệnh cấm đạo vẫn tiếp tục được duy trì và có phần còn ráo riết hơn trước. Các giáo sĩ ngoại quốc có nguy cơ không còn chỗ dung thân. Chiến tranh tưởng chừng đã nổ ra đến nơi.Nhưng một lần nữa ở châu Âu, cách mạng Pháp 1848 lại bùng nổ, tư bản Pháp mắc việc ở trong nước nên chưa thực hiện được kế hoạch xâm lăng Việt Nam.
Năm 1852, Lu-i Bô-na-pác (Luis Bonaparte) được sự ủng hộ của cánh đại tư sản phản động ở Pháp lên ngôi hoàng đế lập ra đế chế III, xưng là Na-pô-lê-ông III. Việc chuẩn bị xâm lược Việt nam của Pháp được đẩy mạnh thêm một bước. Năm 1856 Mông-ti-nhi (De Montigni) được vua Pháp Na-pô-lê-ông III phái đến công cán tại khu vực ấn Độ, Trung Quốc, mục đích là điều đình để ký các hiệp ước thương mại thân thiện với Xiêm, thương nghị với vua Việt Nam về việc giao hiếu và thông thương, nhưng vì mắc việc tại Xiêm, Môngtinhi đã phái Lơ-Li-ơ-dơ (LeLieur) hạm trưởng tàu Catinat đem thư trước tới Việt Nam. Ngày 21/9/1856 tàu Catinat tới cửa biển Đà nẵng. Quan trấn thủ Đà Nẵng lại khước từ không tiếp nhận bức thư của Pháp. Lơ-Li-ơ dơ tức giận sai phá các thành lũy của quân ta. Ngày 24 tháng 10 năm 1856 một tuần dương hạm khác do Cô-li-ê chỉ huy lại đến Đà nẵng trực tiếp gửi thư hăm doạ quan đầu tỉnh Quảng Nam. Sau đơ ít lâu, ngày 23/1/1857 Mông ti nhi tới Việt nam. Sau nửa tháng thương thuyết không có kết quả Mông-ti-nhi bỏ về nước. Cùng về Pháp với Mông-ti-nhi có giám mục Pen-lơ-ranh (Pellerin), bấy lâu nay vẫn lẩn lút ở Việt Nam và trốn được xuống tàu Catinat. Pen-lơ-ranh đem tình hình cấm đạo và sát tả ở Việt Nam ra tuyên truyền rồi ra sức xúi dục Chính phủ Pháp hành động bằng vũ lực.
Ngay sau đó, một cơ quan chuyên nghiên cứu vấn đề Việt Nam của Pháp đã được lập ra vào ngày 22-4-1857 lấy tên là Uỷ ban Nam kì. Lá cờ ”bảo hộ công giáo” được giương lên để chuẩn bị cho cuộc hành binh xâm lược.
Chỉ mấy ngày sau khi thành lập, theo lệnh của Na-pô-lê-ông III Uỷ ban Nam Kì đã họp ròng rã ba tuần liền (từ 28-4-1857) để quyết định kế hoạch đánh chiếm Việt Nam.Trong các cuộc họp này Uỷ ban Nam kì đã toan dựa vào văn bản của hiệp ước Véc-xây (1787) để hợp pháp hoá việc đem quân xâm lược nước ta và chủ trương điều động gấp rút quân đội sang chiếm ba đô thị lớn là Sài gòn, Đà nẵng và Kẻ Chợ (Hà Nội) biến Việt Nam thành đất thuộc Pháp, biến triều đình Nguyễn thành tay sai, phục vụ đắc lực lợi ích của bọn thực dân...
Tháng 7-857 Na-pô-lê-ông duyệt y kế hoạch xâm lược vũ trang của uỷ ban Nam kì, giao cho Bộ hải quân Pháp thực hiện. Vừa lúc có hai giáo sĩ Tây Ban Nha bị triều đình Nguyễn sát hại ở Bắc kỳ (hai giáo sĩ này cùng hoạt động trong Hội truyền giáo nước ngoài Pháp), Na-pô-lê-ông III và Giáo hội Pháp đã thương nghị với Chính phủ Tây Ban Nha phối hợp hành động.
Tháng 7-857 Na-pô-lê-ông duyệt y kế hoạch xâm lược vũ trang của uỷ ban Nam kì, giao cho Bộ hải quân Pháp thực hiện. Vừa lúc có hai giáo sĩ Tây Ban Nha bị triều đình Nguyễn sát hại ở Bắc kỳ (hai giáo sĩ này cùng hoạt động trong Hội truyền giáo nước ngoài Pháp), Na-pô-lê-ông III và Giáo hội Pháp đã thương nghị với Chính phủ Tây Ban Nha phối hợp hành động.
2.2. Liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng xân lược Việt nam
Chiều ngày 31/8/1858 liên quân Pháp - Tây Ban Nha do Rigault de Genouilly (Giơnuiy) chỉ huy dàn trận trước cửa biển Đà nẵng. Quân Pháp có 2.500 tên, bố trí trên 13 chiếc thuyền được trang bị vũ khí hiện đại. Tây Ban Nha góp thêm 1 chiến thuyền và 450 lính.
Dụng ý của Pháp là sau khi chiếm được Đà nẵng, sẽ tiến thẳng ra Huế, buộc triều đình Huế đầu hàng bẻ gãy ý chí kháng chiến của đối phương.
Sáng ngày 1/9/1858 Pháp gửi tối hậu thư cho quan trấn thủ thành Đà nẵng là Trần Hoàng hạn trong 2 giờ đồng hồ phải trả lời. Vì phải đợi lệnh triều đình nên Trần Hoàng cứ án binh bất động. Chưa hết 2 giờ hẹn quân Pháp đã nổ súng dữ dội bẵn phá các mục tiêu trên bờ rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà.
Quân các đồn bên ta bắn trả nhưng vì vũ khí lạc hậu nên không gây cho quân địch tổn thất.
Được tin bán đảo Sơn Trà rơi vào tay giặc, Tự Đức lệnh cho các quân thứ cấp tốc tiếp ứng. Nguyễn Tri Phương (đang làm kinh lược sứ lục tỉnh Nam Kì) được điều ra làm Tổng thống quân thứ Quảng Nam, gấp rút chấn chỉnh quân ngũ và thống nhất chỉ huy chống giặc. Nguyễn Tri Phương cho thực hiện kế hoạch gồm hai điểm chính: Thứ nhất là tổ chức cho dân lùi sâu vào nội địa, làm vườn không nhà trống, triệt để bất hợp tác với giặc. Thứ hai là triệt để phòng ngự, ra sức đào hào đáp luỹ cản giặc, không cho giặc đánh lan ra.
Hưởng ứng kế hoạch của Nguyễn Tri Phương, các lực lượng dân binh cùng nhân dân địa phương ra sức đào hào đắp lũy, phối hợp với quân của triều đình chặn đánh tàu địch. Những đội dân quân bao gồm “tất cả những người không đau yếu và tàn tật” được thành lập, chiến đấu vô cùng quả cảm.
Phối hợp với mặt trận Đà nẵng, nhân dân Nam bộ cùng với quân đội triều đình cơi cao thêm thành lũy,củng cố thêm hệ thống phòng thủ. Đội nghĩa binh của Trương Định được tập hợp, ra sức tập luyện, chuẩn bị đánh Pháp.
Tiếng súng xâm lăng của quân Pháp ở Đà Nẵng đã thổi bùng ngọn lửa yêu nước trong nhân dân. Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị tập hợp 300 người - vốn là những học trò của mình, khăn gói lên đường Nam tiến, xin Vua ra chiến trường giết giặc.
Nhờ có sự ủng hộ tích cực của nhân dân, Nguyễn Tri Phương đã tạm thời đẩy lui được quân địch ở Đà Nẵng, dồn chúng về phía biển. Thêm vào những tổn thất bước đầu do cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam gây nên là sự khắc nghiệt về thời tiết, thuỷ thổ khiến quân Pháp bị ốm đau rất nhiều.
Sau 5 tháng hành binh xâm lược, quân Pháp chỉ chiếm được bán đảo Sơn Trà và đồn Đông. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của chúng bước đầu bị phá sản. Tuy nhiên đại phòng thủ bị động nên cũng không tiêu diệt được hết quân thù và cũng không đuổi được chúng ra khỏi Đà Nẵng.
Bị thất bại trong kế hoạch đánh nhanh, thắng nhanh tháng 2-1859 Giơnuiy buộc phải để một toán quân nhỏ ở lại Đà Nẵng còn mình thì kéo đại quân vào Gia Định, nhằm cắt nguồn tiếp tế lương thực của triều đình Huế, đồng thời cũng để chuẩn bị cho việc mở rộng cuộc hành quân sang Căm Pu Chia
Chiếm lục tỉnh Nam kỳ, quân Pháp một mặt muốn gấp rút phong toả miền Nam Việt Nam, nơi mà tư bản Anh sau khi chiếm Singapo và Hương cảng cũng đang gấp rút nhòm ngó, đồng thời chúng còn tính tới một tương lai xa hơn: thăm dò đường sông Mêkông, tìm đường thâm nhập vào vùng Tây Nam Trung quốc - một thị trường rộng lớn, dân cư đông đúc và còn lạc hậu. Vào Tây Nam Trung quốc theo con đường này sẽ tránh cho Pháp khỏi phải chạm trán với người Anh ở vùng ven biển Trung Hoa, nhất là không phải đọ súng với lực lượng hải quân đáng gờm của họ.
Ngày 9/2/1859 quân Pháp tập trung ở Vũng tàu gồm 20 chiến thuyền trong đó có 4 tàu buôn chở lương thực.
Ngày 10/2 chúng công phá pháo đài Phúc Thắng ở núi Lại Sơn (thuộc tỉnh Biên hòa). Sau đó tàu Pháp theo sông Cần Giờ tiến vào Gia Định. Trong vòng 6 ngày liên tiếp, quân Pháp vừa đi vừa đánh phá các đồn bốt và các ụ cản trên sông. Sáng 17/2/1859, chiến thuyền địch tập trung hỏa lực bắn vào thành Gia Định - một thành lũy được xây dựng từ khi Nguyễn Ánh lấy lại được đất Nam Kỳ. Thời Minh Mạng (1837) thành được xây lại, theo hình vuông, mỗi chiều 475 thước, tường thành được xây bằng đá ong, gạch, đất...
Lúc quân Pháp đến, trong thành có khoảng 1.000 quân Nguyễn và chứa đầy khí giới, lương thực đủ cung cấp cho khoảng 10.000 quân giữ thành trong 1 năm.
Trận chiến diễn ra dữ dội trong suối buổi sáng ngày 17/2. Đến khoảng giữa trưa quân ta phải rút, bỏ lại trong thành 200 đại bác bằng đồng và bằng gang, 20.000 vũ khí các loại, 86.000 kg thuốc súng, 9 chiến thuyền đã đóng và đang đóng nằm dưới ụ. Sau khi Gia Định thất thủ. Vũ Duy Ninh là quan trấn thủ thành sợ trách nhiệm đã treo cổ tự tử, mở đầu cho một chuỗi tự sát của một bầy tôi bất lực dưới trướng Tự Đức.
Trong khi quân Nguyễn liên tiếp thất bại, phải rút quân thì thực dân Pháp lại rơi vào thiên la địa võng của cuộc chiến tranh nhân dân ở Nam bộ. Chúng phải giăng lực lượng ra để đối phó với nhiều toán dân binh mọc lên ở khắp nơi ví như toán quân của Lê Huy (trước là quân nhân bị thải hồi), toán quân của Trần Thiện Chính (trước là tri huyện bị triều đình cách chức). Dân các vùng đất mà Pháp chiếm được đều tự tay thiêu huỷ nhà cửa bỏ đi hoặc tự động tổ chức thành đội ngũ đánh giặc.
Giữa lúc đó, toán quân Pháp còn lại ở Đà nẵng cũng đang trong tình thế nguy cấp, giặc phải gấp rút đưa đại binh từ Gia Định ra cứu viện chỉ để lại ở đây một lực lượng nhỏ. Vừa ra đến Đà Nẵng, để củng cố tinh thần binh lính Giơ-nui-y quyết định mở cuộc tấn công vào các đồn Điện Hải, Phúc Ninh, Thạch Giản, mong giành lại thế chủ động nhưng bị thất bại. Gần 100 quân Pháp và Tây Ban Nha bỏ mạng.
Trong tình thế hết sức khốn đốn: bị quân dân Việt Nam bao vây; viện binh không có; chiến tranh Pháp - Áo đã nổ ở châu Âu từ tháng 4-1859; cuộc xung đột Anh - Pháp ở Đông Dương có thể xảy ra và lúc đó số quân Pháp ở Đà nẵng chắc chắn sẽ bị tiêu diệt...
Trong một tình thế bức bách, chính phủ Pháp đã phải ra lệnh cho Giơ-nu-y đưa thư nghị hòa với triều đình Huế.
Để gây áp lực với triều đình, song song với việc đưa thư nghị hoà, Giơnuiy đưa quân đánh phá các vùng ven biển thuộc các tỉnh Bình Định, Quảng Bình, Quảng Trị...
Thái độ bất ngờ của phía Pháp đã gây nên một cuộc bàn luận sôi nổi trong cơ mật viện của triều đình Huế. “Người bàn chiến”, “kẻ bàn hòa”, vô số ý kiến trái ngược nhau, không sao thống nhất (3).
Thương thuyết chưa xong thì liên quân Anh - Pháp khai chiến với Trung Hoa. Hạm đội Pháp phải tham chiến ở Hoàng Hải. Pháp chỉ để lại một ít quân lại chiếm giữ thành Gia định để cầm cự với quân ta còn thì dồn cả sang chiến trường Trung Quốc.
Trước khi rút, Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng quanh thành Gia định, chiếm Chợ lớn - trung tâm thương mại của Nam kỳ lục tỉnh lúc bấy giờ.
Mặc dù với một lực lượng ít ỏi, chỉ chưa đầy 1.000 quân nhưng nhờ chiến thuật ”thủ để hòa” (cố thủ rồi thương thuyết) của triều đình Nguyễn, nên 1.000 quân Pháp vẫn ung dung đi lại, xuôi ngược trên các dòng sông, ra bể, buôn bán kiếm lời, vừa để nuôi quân vừa để mua chuộc một số người giao thương với chúng, biết được tình hình nội địa của ta, dụ được một số người làm tay sai, tạo thêm điều kiện để mở rộng cuộc xâm lăng.
Trong lúc đó, dưới quyền chỉ huy của tổng thống quân vụ đại thần Nguyễn Tri Phương có tới hàng vạn quân song không chủ trương tranh thủ thời cơ tấn công tiêu diệt địch mà suốt trong 1 năm (1860) Nguyễn Tri Phương một mặt án binh bất động, mặt khác chỉ chú tâm huy động quân đội và dân binh xây dựng Đại Đồn (Chí Hòa) với thành lũy kiên cố, tưởng rằng như vậy sẽ có thể làm nản ý chí xâm lăng của giặc. Sự sai lầm trong chiến lược phòng ngự bị động này đã khiến Nguyễn Tri Phương đã không những không đuổi được 1.000 quân giặc đóng trên phòng tuyến các chùa (từ Thị Nghè đến Mai Sơn) dài 10 cây số, có chỗ ta địch cách nhau chưa đầy 500 mét, mà ngược lại, Đại đồn vô hình đã biến thành một cái rọ 3 cây số vuông nhốt hàng ngàn binh lính, chuẩn bị làm mồi cho đạn đại bác có hạt nổ của địch.
________________________________________
(1) Vận động cho Đông cung Cảnh nối ngôi.
(2) Ngoài vụ này, Pháp còn nhúng tay vào cuộc khởi nghĩa ở Bắc thành năm 1826.Năm 1833-1836 chúng lại thâm nhập vào cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi ở Gia Định
(3) Sau khi xin hòa với Tự Đức không thành, Ri Gô đờ Giơ nu y bị triệu hồi về Pháp.Cuối năm 1859
Lơ-Pa-Giơ qua thay thế. Tháng 11-1859 Pa-Giơ tập trung lực lượng thử vượt đèo Hải Vân nhưng không thành công.
Tháng 3-1860 Pa-Giơ quyết định rút toàn bộ lực lượng vào Gia Định. Giữa lúc đó dân tâm Pháp, kể cả nghị viện Pháp lo ngại và bất bình về cuộc chiến tranh phiêu lưu ở Việt nam. Pa Giơ đã trao cho Tôn Thất Cáp (quan đại thần triều Huế ) một bức thư gồm 11 đề nghị đồng thời Pa-Gơ ra Đà Nẵng đi đường bộ tới Kinh thành, trao thư của Chính phủ Pháp . Nội dung gồm mấy điểm :
-Pháp Nam giao hảo lâu dài
-Khoan xá kẻ đã cộng tác với Pháp.
-Không truy nã kẻ theo đạo,thả hết giáo sĩ bị bắt.
-Tự do thông thương, tự do giảng đạo, lập lãnh sự,mở cử hàng ở các bến cảng.
-Ký hòa ước
-Pháp lập tức rút chiến thuyền khỏi Gia Định.
(Còn nữa)