Cải cách hành chính của Khúc Hạo
Việt Nam một đất nước trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước. Qua biết bao nhiêu biến cố, thăng trầm để được đất nước Việt Nam đang dần đổi mới và phồn thịnh như ngày hôm nay quả là điều không đơn giản. Để có được thành quả đó phải đánh đổi biết bao máu xương, công sức của dân tộc. Lịch sử đã minh chứng cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân Việt Nam đó là truyền thống quý báu thể hiện lòng yêu nước.
Truyền thống đó không chỉ thể hiện ở cuộc chiến đấu lâu dài và gian khổ chống ngoại xâm, trong cuộc lao động sáng tạo xây dựng quê hương đất nước, mà còn thể hiện ở những cải cách để đổi mới đất nước. Không phải chỉ đến bây giờ, mà nhìn vào quá khứ, vấn đề cải cách, canh tân đất nước đã từng được đặt ra và thực hiện trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể. Tuy những cuộc cải cách được thực hiện ở những phạm vi và mức độ khác nhau, thành công cũng nhiều, và thất bại cũng không ít. Nhưng dẫu sao những cuộc cải cách đi trước lúc nào cũng là tiền đề và cũng là bài học kinh nghiệm quý giá cho lần cải cách sau tiến bộ hơn.
Bên cạnh những cải cách do nhà nước chủ trương thực hiện, còn có những kiến nghị, kế sách cải cách, canh tân do cá nhân đề xuất, có trường hợp được nhà nước chấp nhận, nhưng cũng không ít trường hợp bị gạt bỏ qua một bên, chỉ tồn tại trên giấy tờ như một minh chứng cho tinh thần yêu nước Việt Nam.
Cũng có những cải cách được đề xướng và thực hiện trong tình hình đất nước đứng trước hiểm họa khủng hoảng, bế tắc hoặc ngay sau chiến thắng ngoại xâm…Tất cả những tư tưởng cải cách, canh tân đất nước dù cho xuất hiện trong những điều kiện lịch sử và hoàn cảnh xã hội nào, và kết quả thành bại không giống nhau, nhưng đều khẳng định trong lịch sử Việt Nam đã từng tồn tại một xu hướng cải cách, canh tân đất nước mỗi khi xã tắc lâm vào khủng hoảng, trì trệ. Những tư tưởng cải cách đó dù trong bối cảnh lịch sử nào đều xuất phát từ lòng yêu nước, với mong muốn đưa đất nước tiến lên.
Như trên trình bày lịch sử Việt Nam đã từng in dấu biết bao lần cải cách để canh tân đất nước, đưa đất nước thoát khỏi hiểm họa khủng hoảng, bế tắc trong đời sống chính trị xã hội. Lịch sử đã minh chứng cho những cuộc cải cách đã diễn ra trong lịch sử có nhiều thành công nhưng cũng không ít lần thất bại. Khúc Hạo được đánh giá là nhà cải cách hành chính đầu tiên ở Việt Nam.
Sau đây là những cải cách của Khúc Hạo:
Bối cảnh lịch sử:
- Tháng 7 năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay cha làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân. Nhà Hậu Lương lên thay nhà Đường công nhận ông làm “An Nam đô hộ, sung Tiết độ sứ”. Ông đã kế tiếp sự nghiệp của cha một cách tài tình để củng cố sự nghiệp độc lập của Việt Nam lúc đó từ tay Trung Quốc.
Khúc Hạo đã tiến hành cải cách quan trọng về các mặt. Đường lối chính trị của ông được sử sách tóm lược ngắn gọn song rất rõ ràng: “Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui”. Khoan dung tức là không bắt buộc, không quá khắt khe với dân, chống tham quan ô lại.Giản dị là không làm phiên hà, sách nhiễu bởi nhiều thủ tục quan liêu. Yên vui,“an cư lạc nghiệp” là lý tưởng của nếp sống mà người nông dân nơi thôn xóm mong đợi.
Tóm lại, đó là một đường lối chính trị thân dân. Nó chứng tỏ bất cứ một phong trào dân tộc chân chính nào cũng phải có một nội dung dân chủ nào đó.
Nội dung cải cách:
- Khúc Hạo sửa lại chế độ điền tô, thuế mà lực dịch nặng nề của thời thuộc Đường. Ông ra lệnh “bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi”.
- Từ mô hình của chính quyền đô hộ nhà Đường với An Nam, nhằm khắc phục tình trạng phân tán quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng lớn đầu tiên nhằm xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất từ trung ương đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã đặt ra xã quan, một người chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau thời thuộc Đường gọi là hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và việc thu thuế. Theo sách “An Nam chí nguyên”, Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp trước đây nhà Đường đặt, cả thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.
Tác dụng:
- Thành công và hiệu quả lâu dài của cải cách là đem lại sự vững vàng và ổn định cho đất nước. Đối nội là củng cố và phát huy được quyền độc lập tự chủ. Đối ngoại chống lại được mọi kẻ thù, giữ được chính quyền trong mấy chục năm, tạo tiền đề thuận lợi cho các bước phát triển của đất nước.
- Nếu sau các cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng, Lý Bôn, Triệu Quang Phục... trước đây, dân tộc ta chỉ giữ được chính quyền trong một thời gian ngắn rồi lại bị bọn xâm lược quay lại thống trị, thì nay cuộc giành chính quyền và cải cách của họ Khúc đã mở đầu cho một quá trình liên tục đấu tranh giành cho kỳ được độc lập dân tộc.
Qua cuộc cải cách của Khúc Hạo cho chúng ta thấy chúng đều có một điểm chung đó là xuất phát từ sự khủng hoảng suy thoái nền kinh tế xã hội, và nhà nước đang đứng trước nguy cơ sụp đổ. Và những nhà cải cải đều là những nhân vật ưu tú của thời đại, của lịch sử, họ là người con người có hoài bão, có tấm lòng yêu nước muốn cho đất nước thoát khỏi sự khủng hoảng, nhân dân được sống yên bình. Tất cả những họ ( Khúc Hạo, Hồ Quý Ly, Lê Thánh Tông, Quang Trung) đều có chung một tư tưởng đó là muốn cho“Quốc thái dân an”. Tuy nhiên hoài bão,tài năng đó, tấm lòng đó không phải lúc nào cũng được đi đến nơi đến chốn của sự thành công. Và một điều không thể tránh khỏi trong quá trình thực hiện công cuộc cải cách đó là gặp nhiều khó khăn, chướng ngại vật ngăn cản sự tiến bộ đó.
Bên cạnh những mặt ưu điểm của cuộc cải cách thì những hạn chế vẫn còn tồn tại khá nhiều, và điều đó đã gây ảnh hưởng xấu đến việc đưa công cải cách đi đến kết quả cuối cùng. Song không vì thế mà chúng ta phủ nhận công lao to lớn của các nhà cải cách, giá trị của những cuộc cải cách đó luôn là nền tản cho các cuộc cách tân đổi mới lần kế tiếp đi đến thành công.
Qua công cuộc cải cách trên của Khúc Hạo cho chúng ta thấy được rằng càng về sau công cuộc cải cách càng mang tính kế thừa và phát huy những thành tựu của các cuộc cải cách đi trước, đồng thời những sai lầm, khuyết điểm đã dần được khắc phục ở lần cải cách về sau. Đó là bước phát triển vô cùng quan trọng của lịch sử cải cách dân tộc, nó là tiền đề cho quá trình kiến thiết đổi mới và xây dựng đất nước ta hiện nay. Tiền lệ đó là kết quả của trí tuệ, lòng yêu nước nhiệt thành, có trách nhiệm với dân tộc, đó cũng là sự táo bạo mạnh dạng tìm tòi, suy nghĩ, dũng cảm đề xuất tiến hành cải cách.
Lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ một cuộc cải cách nào cũng đều có mục tiêu, mục đích xã hội của nó.
Mục tiêu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay là:
xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Cải cách hành chính ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi- lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Trong những năm qua cải cách hành chính ở Việt Nam đã làm được những gì để góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền đó là:
- Về thể chế hành chính đã sửa đổi Hiến pháp, ban hành các Luật mới và các văn bản dưới luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh cán bộ, công chức; ban hành các nghị định để cụ thể hóa Pháp lệnh, cán bộ, công chức...Điều quan trọng là: các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước là đã quy định khá cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng bước thể hiện sự phân cấp trong quản lý giữa Trung ương và địa phương; các văn bản pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức đã quy định khá cụ thể các quyền, nghĩa vụ của các cán bộ, công chức và đã bước đầu đi theo hướng chuyên biệt hoá các đối tượng những người phục vụ trong cơ quan, tổ chức nhà nước.
- Về bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải cách theo hướng "một cửa", mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính. Chính việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham những của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công dân. Đây là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền.
Một vấn đề đang được quan tâm trong cải cách hành chính ở Việt Nam là vấn đề phân cấp trong quản lý nhà nước. Phân cấp thực chất là việc chuyển dần các công việc, nguồn lực do chính quyền trung ương nắm giữ cho chính quyền địa phương các cấp một cách lâu dài, ổn định bằng các văn bản luật, dưới luật, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương. Trong xu hướng phân cấp bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương sẽ tập trung vào việc xây dựng chính sách, bảo đảm sự thống nhất về thể chế, việc giải quyết những vấn đề lớn của quốc gia, còn những việc thuộc phạm vi cộng đồng lãnh thổ do cộng đồng lãnh thổ giải quyết. Như vậy, vấn đề phân cấp gắn với vấn đề dân chủ, dân chủ là cốt lõi của nhà nước pháp quyền, không có dân chủ thì không có nhà nước pháp quyền, không mở rộng quyền chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương thì không có nhà nước pháp quyền. Bởi vì chỉ có thể thông qua những thiết chế dân chủ, phát huy tính dân chủ, sáng tạo của cộng đồng lãnh thổ mới có thể tạo lập được môi trường thuận lợi để nhân dân các cộng đồng lãnh thổ kiểm soát được hoạt động của nhà nước.
Ngày nay một số địa phương đã áp dụng tiêu chuẩn ISO để đánh gía, kiểm soát thường xuyên hoạt động của các cơ quan hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức. Trong số các tiêu chí đánh giá về cơ quan hành chính có các tiêu chí đáng lưu ý gắn với nhà nước pháp quyền: tính hợp pháp của nội dung các quyết định; tính đúng đắn về thời hạn theo quy định của pháp luật của các quyết định; tính đúng đắn về thủ tục giải quyết các công việc. Thực tiễn việc áp dung các tiêu chuẩn ISO vào hoạt động hành chính đã mang lại những kết quả đáng kể: việc giải quyết các công việc của dân đơn giản, nhanh gọn, đúng pháp luật, đúng thời hạn, đúng thủ tục.
Tóm lại việc cải cách hành chính ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai đi theo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ hành chính đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh gía khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính.
Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.