Biển và đại dương luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế - xã hội của các quốc gia trên toàn thế giới. Bước vào những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước, khoa học - công nghệ đã có những bước phát triển vượt bậc, cho phép con người sử dụng và vươn tới những vùng biển sâu và xa bờ để khai thác tài nguyên. Để tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động đó, các quốc gia ven biển ban hành luật lệ mở rộng phạm vi quyền tài phán đối với các vùng biển và thềm lục địa.
Trong khi các quốc gia có năng lực thực tế làm chủ các vùng biển và thềm lục địa khác nhau, nếu không có một văn bản pháp lý quốc tế điều chỉnh phạm vi cũng như chế độ triển khai các hoạt động trên biển và đại dương phù hợp với xu hướng phát triển chung, đồng thời duy trì an ninh, trật tự trên biển, bảo vệ lợi ích lâu dài của cộng đồng quốc tế, sẽ dẫn đến tình trạng bất công, nguy cơ khai thác cạn kiệt tài nguyên và hủy hoại môi trường biển.
Với cách tiếp cận nói trên, Malta, một quốc gia ven biển nhỏ bé ở châu Âu, mà đại diện là Đại sứ Arvid Pardo, một luật gia có tầm nhìn sắc sảo và vượt trước thời đại đã khởi xướng đề nghị Liên Hợp Quốc bảo trợ một Hội nghị quốc tế (năm 1967) soạn thảo Công ước Luật Biển.
Sau 9 năm đàm phán, với sự tham gia của hơn 150 quốc gia và nhiều tổ chức quốc tế, kể cả các tổ chức phi chính phủ Hội nghị đã thông qua văn kiện cuối cùng là Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (sau đây gọi tắt là “Công ước Luật Biển 1982”) vào ngày 30/4/1982 và ngày 10/12/1982 được ấn định là ngày mở ký Công ước tại Montego Bay, Jamaica. Ngay trong ngày mở ký đầu tiên, đã có 107 quốc gia ký Công ước. Điều đó cho thấy Công ước ra đời với sự ủng hộ mạnh mẽ và đông đảo của cộng đồng quốc tế.
Trong số các văn kiện pháp lý quốc tế được ký kết kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, Công ước Luật Biển 1982 được coi là văn kiện đứng thứ hai về tầm quan trọng, chỉ sau Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Với 320 điều khoản và 9 Phụ lục, Công ước Luật Biển 1982 được coi là bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, không chỉ bao gồm các điều khoản kế thừa từ các điều ước quốc tế trước đó về biển mà còn pháp điển hoá các quy định mang tính tập quán quốc tế, tồn tại qua một thời gian dài trong thực tiễn của các quốc gia, cũng như những xu hướng phát triển mới trong thực tiễn sử dụng và khai thác biển và đại dương.
Những chế định quan trọng của Công ước
Công ước khẳng định lại cách thức xác định đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải dựa trên hai phương pháp: đường cơ sở thẳng và đường cơ sở theo ngấn nước thủy triều thấp nhất ven bờ biển. Vùng nước phía bên trong đường cơ sở là nội thủy, phía bên ngoài đường cơ sở ra đến 12 hải lý là lãnh hải.
Tại nội thủy, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn, đầy đủ và tuyệt đối như đối với lãnh thổ đất liền. Tại lãnh hải, quốc gia ven biển có chủ quyền đối với vùng nước, vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển và vùng trời phía trên lãnh hải, đồng thời, quốc gia ven biển phải tôn trọng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải của tàu thuyền nước ngoài.
Quốc gia ven biển có quyền xác định vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, vùng thềm lục địa tối thiểu là 200 hải lý, tối đa là 350 hải lý. Tại các vùng biển này, quốc gia ven biển có quyền chủ quyền thăm dò, khai thác, bảo quản tài nguyên, quyền tài phán đối với nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, lắp đặt và sử dụng các thiết bị, công trình. Các quốc gia khác có quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt cáp và ống dẫn ngầm.
Bên ngoài các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển là vùng biển quốc tế, nơi tất cả các quốc gia có quyền tự do hàng hải, đánh bắt cá; có nghĩa vụ hợp tác bảo vệ môi trường, chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm cướp biển, chuyên chở, buôn bán ma túy, chất độc hại… Đáy biển và lòng đất dưới đáy biển phía ngoài thềm lục địa của quốc gia ven biển là tài sản chung của nhân loại, Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy đại dương thay mặt các quốc gia thành viên quản lý việc thăm dò, khai thác tài nguyên ở đây theo chế độ chung.
Công ước có nhiều điều khoản quy định về chế độ hợp tác giữa các quốc gia thành viên để điều chỉnh việc sử dụng các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế hay các biển kín và nửa kín, thúc đẩy việc nghiên cứu khoa học biển, chống ô nhiễm môi trường biển, bảo đảm tự do và an toàn hàng hải, bảo vệ hệ thống dây cáp và ống dẫn ngầm.
Đặc biệt, Công ước có hẳn một phần quy định chi tiết các nguyên tắc, thủ tục, cơ chế giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế liên quan đến giải thích và áp dụng Công ước.
Ngày 16/11/1994, 12 tháng kể từ ngày Guyana, quốc gia thứ 60 phê chuẩn Công ước, Công ước Luật Biển 1982 chính thức có hiệu lực. Việc Công ước chính thức có hiệu lực đã đáp ứng được nguyện vọng và mong đợi của cộng đồng quốc tế về một trật tự pháp lý mới, điều chỉnh toàn diện các vấn đề về sử dụng, khai thác, quản lý, bảo vệ biển và đại dương. Theo tài liệu của Ban Thư ký Liên Hợp quốc, cho đến nay đã có 164 quốc gia là thành viên Công ước. Số lượng các quốc gia thành viên ban hành luật lệ quốc gia để nội luật hóa các quyền nghĩa vụ theo Công ước ngày càng tăng lên.
Công ước Luật Biển 1982 là điều ước quốc tế yêu cầu các thành viên phải chấp thuận sự điều chỉnh cả gói, điều đó có nghĩa là các quốc gia thành viên có trách nhiệm thực hiện toàn bộ các quy định của Công ước và không được phép đưa ra các bảo lưu, trừ việc có những tuyên bố được quy định cụ thể trong Công ước. Công ước Luật Biển 1982 với Việt Nam
Việt Nam là một trong 9 quốc gia nằm trên bờ Biển Đông, bên cạnh các quốc gia khác là Trung Quốc, Philippines, Indonesia, Brunei, Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Biển Đông có ý nghĩa lớn đối với cuộc sống dân cư của các quốc gia ven biển, chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á và được coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới.
Đối với Việt Nam, Biển Đông đóng vai trò chiến lược, đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Biển Đông cũng là không gian sinh tồn và cung cấp thu nhập quan trọng cho nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, Việt Nam hết sức coi trọng vai trò của luật biển quốc tế trong việc điều chỉnh các mối quan hệ giữa các quốc gia ven biển Đông, nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển bền vững cho cả khu vực.
Sau khi Công ước Luật biển 1982 được thông qua ngày 30/4/1982, Việt Nam là một trong 107 quốc gia đầu tiên tham gia ký Công ước tại Montego Bay. Ngày 23/6/1994, Quốc hội Việt nam đã ra Nghị quyết về việc phê chuẩn Công ước Luật Biển, trong đó khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế, yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam.
Đồng thời, Nghị quyết ngày 23/6/1994 của Quốc hội Việt Nam cũng một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến vấn đề Biển Đông thông qua thương lượng hòa bình, trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng pháp luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982, tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Là thành viên của Công ước Luật biển 1982, Việt Nam được quyền có lãnh hải rộng 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế rộng 200 hải lý, thềm lục địa rộng ít nhất 200 hải lý. Đồng thời, Việt Nam cũng có những nghĩa vụ đối với các quốc gia khác tại các vùng biển thuộc quyền tài phán của mình.
Để thể hiện trách nhiệm và thiện chí của một quốc gia thành viên của Công ước Luật Biển năm 1982, trong những năm qua, Việt Nam thực thi đầy đủ các quy định của Công ước, tiến hành sửa đổi, ban hành mới pháp luật Việt Nam phù hợp với các quy định của Công ước.
Ngày 21/6/2012, Việt Nam đã ban hành Luật Biển nhằm thống nhất quản lý việc hoạch định, sử dụng, thăm dò, khai thác, bảo quản các vùng biển, thềm lục địa và hải đảo của Việt Nam, cũng như việc giải quyết tranh chấp trên biển giữa Việt Nam với các nước láng giềng tại một văn bản có giá trị hiệu lực cao.
Đây được coi là bước tiến quan trọng trong việc nội luật hóa các quy định của Công ước Luật Biển vào pháp luật Việt Nam, tạo thuận lợi cho Nhà nước Việt Nam quản lý thống nhất về biển và phát triển nền kinh tế biển của Việt Nam. Đây cũng là một bằng chứng sống động thể hiện sự cam kết thực tế của Việt Nam đối với việc tôn trọng và thực thi các quy định của Công ước Luật biển 1982.
Sau 30 năm kể từ khi ra đời, không thể phủ nhận ý nghĩa to lớn và vai trò tích cực của Công ước Luật biển 1982 trong việc điều chỉnh hoạt động của cộng đồng quốc tế tại mọi vùng biển và đại dương.
Nếu như ngay từ khi được thông qua, Công ước được cho là kết quả của quá trình hợp tác và đấu tranh giữa các quốc gia có chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế và quan điểm pháp luật khác nhau, thì sau 30 năm tồn tại, đặc biệt là kể từ khi chính thức có hiệu lực vào năm 1994, Công ước đã cho thấy không chỉ là sự dung hòa lợi ích giữa các quốc gia mà còn là khuôn khổ pháp lý cho các quốc gia điều chỉnh hành vi ứng xử của mình trên biển và đại dương.
Phù hợp với quá trình phát triển của Luật biển quốc tế, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý quy định chế độ pháp lý các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, trong đó phải kể đến: Tuyên bố của Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam ngày 12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam (Tuyên bố về các vùng biển); Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam (Tuyên bố về đường cơ sở); Nghị định 30/CP ngày 29/01/1980 về hoạt động của tàu thuyền nước ngoài trong vùng biển Việt Nam; Nghị định 242/HĐBT ngày 05/8/1991 về việc nghiên cứu khoa học biển của các bên nước ngoài trong vùng biển Việt Nam; Nghị định 55/CP ngày 01/10/1996 về hoạt động của tàu thuyền quân sự nước ngoài vào thăm Việt Nam; Nghị định 49/1998/NĐ-CP ngày 13/7/1998 về quản lý hoạt động nghề cá của người và phương tiện nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam; Nghị định 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Luật Dầu khí năm 2000; Luật Thủy sản năm 2003; Luật Biên giới quốc gia năm 2003; Luật bảo vệ môi trường 2005; Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997; Pháp lệnh Cảnh sát biển năm 2008… Hiện tại, Việt Nam đang hoàn thiện để ban hành Luật về các vùng biển. Các văn bản pháp lý được nhà nước Việt Nam ban hành ngày càng hoàn thiện, tạo thành một hệ thống đồng bộ các quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động đa dạng của mọi cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước trên các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền và các lợi ích chính đáng của nhà nước ta trên biển.
1. Quy định của Việt Nam về nội thủy
Năm 1982 Việt Nam đã ra Tuyên bố xác định đường cơ sở của mình, theo đó Điểm 5 quy định nội thủy là vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo của Việt Nam. Để quản lý các hoạt động có yếu tố nước ngoài trong nội thủy, Việt Nam đã có các Nghị định 30/CP ngày 20/01/1980 về quy chế hoạt động của tàu thuyền nước ngoài hoạt động trên các vùng biển Việt Nam; Nghị định số 13/CP ngày 25/02/1994 ban hành Quy chế hoạt động hàng hải tại cảng biển và các khu vực hàng hỉa Việt Nam; Nghị định 55/CP ngày 01/10/1996 về hoạt động của tàu quân sự nước ngoài thăm Việt Nam… Các quy định của Việt Nam đều tương đồng với các quy định có liên quan của Công ước 1982.
2. Quy định của Việt Nam về Lãnh hải
Điểm 1 Tuyên bố về các vùng biển quy định: Lãnh hải của Việt Nam rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở. Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải.
Điểm 1 trong Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải quy định: Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam là đường gãy khúc nối liền các điểm có tọa độ ghi trong Phụ lục đính kèm theo Tuyên bố này.
Luật biên giới quốc gia năm 2003 quy định: Lãnh hải của Việt Nam rộng mười hai hải lý tính từ đường cơ sở ra phía ngoài. Lãnh hải của Việt Nam bao gồm lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo (Điều 9). Đi qua không gây hại trong lãnh hải là việc tàu thuyền nước ngoài đi trong lãnh hải Việt Nam nhưng không làm phương hại đến hoà bình, an ninh, trật tự, môi trường sinh thái của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (Khoản 9, Điều 4). Tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác phải đi nổi và treo cờ quốc tịch (Điều 18).
3. Quy định của Việt Nam về vùng ĐQKT
Điểm 3 trong Tuyên bố về các vùng biển quy định: Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam tiếp liền với lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải thành một vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về việc thiết lập, sử dụng các công trình, thiết bị, đảo nhân tạo; có thẩm quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học biển trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có thẩm quyền về bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm môi trường trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Cụ thể hóa Tuyên bố nêu trên, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định chi tiết các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế như Nghị định 242/HĐBT về trình tự, thủ tục, yêu cầu đối với việc bên nước ngoài (bao gồm cả tổ chức, cá nhân nước ngoài) tiến hành nghiên cứu khoa học trên các vùng biển Việt Nam, trong đó có vùng đặc quyền kinh tế; Nghị định 49/1998/NĐ-CP; Pháp lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy sản 1989 (được thay thế bằng Luật thủy sản 2003) quy định vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động khai thác thủy sản của tàu thuyền nước ngoài trong các vùng biển Việt Nam, trong đó có cấp phép khai thác thủy sản; Quy định của Bộ Bưu chính Viễn thông về việc cấp phép cho các cá nhân, tổ chức nước đặt dây cáp trong vùng đặc quyền kinh tế; Nghị định 137/2004/NĐ-CP ngày 16/6/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
5. Quy định của Việt Nam về thềm lục địa
Tuyên bố của Chính phủ ngày 12/5/1977 về các vùng biển quy định: thềm lục địa của nước CHXHCN Việt Nam bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục đại nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ đường cơ sở đó. Nhà nước Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và tài nguyên sinh vật thuộc loài định cư ở thềm lục địa Việt Nam.
Thềm lục địa của Việt Nam trải dài tự nhiên từ lục địa và có những khu vực vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Do đó, Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý để yêu sách khu vực thềm lục địa mở rộng theo đúng quy định của Công ước 1982. Việt Nam đã nộp 02 báo cáo (trong đó có Báo cáo chung với Ma-lai-xi-a về khu vực thềm lục địa phía Nam Biển Đông) và đã trình bày 02 báo cáo này tại Khóa họp 24 của Ủy ban ranh giới thềm lục địa (ngày 27-8/8/2009).
6. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác quốc tế trong việc giữ gìn và bảo vệ môi trường biển
Biển và đại dương chiếm 72% diện tích bề mặt trái đất, là nguồn cung cấp thực phẩm, nhiên liệu, khoáng sản cho loài người và đặc biệt hơn, biển và đại dương còn góp phần vào việc điều hòa khí hậu trên trái đất. Chính vì lẽ đó, biển và đại dương được coi là “cái nôi của sự sống”.
Vai trò, lợi ích của biển và đại dương mang lại đối với loài người càng lớn thì mức độ sử dụng và khai thác biển và đại dương càng gia tăng với một quy mô ngày càng rộng lớn. Điều này đã dẫn đến nhiều tác động tiêu cực đối với biển và đại dương như việc ô nhiễm môi trường biển, cạn kiệt nguồn tài nguyên sinh vật biển, mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng đến biến đối khí hậu toàn cầu…. ảnh hưởng nghiêm trọng đến “cái nôi của sự sống”.
Nhận thức ý nghĩa và tầm quan trọng của việc giữ gìn và bảo vệ môi trường biển, tại Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển (Rio de Janeiro, 1992), Chính phủ Việt Nam tuyên bố “Việt Nam nhận thức rõ thực tế rằng biển và đại dương có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự sống trên hành tinh chúng ta, và nước chúng tôi ủng hộ cuộc đấu tranh chống việc biến biển hay đại dương thành các bãi phế thải và rác vì điều này sẽ nhanh chóng hủy hoại hệ sinh thái biển và tài nguyên thiên nhiên, hậu quả là gây ra các ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ con người. Cần phải có các biện pháp thống nhất để quản lý biển và đại dương thông qua việc tăng cường sự hợp tác quốc tế và khu vực, và thông qua các cố gắng có phối hợp nhằm giảm bớt tình trạng ô nhiễm biển và duy trì tính đa dạng sinh học của biển”.
Bên cạnh việc tiến hành nhiều biện pháp, chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường biển, Việt Nam cũng đã tích cực hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế có liên quan trong việc gìn giữ môi trường biển, thể hiện qua việc:
- Gia nhập nhiều điều ước quốc tế (trên 20 công ước) có liên quan đến việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biển như Công ước 1982, Công ước về đa dạng sinh học, Công ước trách nhiệm dân sự về bồi thường thiệt hại do tràn dầu (CLC); Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm do tàu thuyền (MARPOL); Thỏa thuận về ứng phó sự cố tràn dầu trong Vịnh Thái Lan với Campuchia và Thái Lan…..
- Tham gia nhiều chương trình liên quan đến môi trường biển khu vực và quốc tế như IOC UNESCO; UNEP/COBSEA; PEMSEA; ASOEN…
- Hợp tác song phương với các nước, các tổ chức quốc tế nhằm thực hiện các dự án, chương trình nghiên cứu về môi trường biển như JOMSRE với PLP; SEAPOL….
7. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác quốc tế trong việc tìm kiếm, cứu nạn trên biển, chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền trên biển
Hợp tác trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn trên biển thể hiện tinh thần nhân đạo của nhà nước ta trong việc giúp đỡ những người gặp nạn trên biển do các nguyên nhân khách quan và chủ quan như thiên tai, bão biển, các tai nạn do con người gây ra như cháy nổ tàu thuyền, dàn khoan trên biển ….Việt Nam trong những năm qua đã tiến hành nhiều hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này như:
- Gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan như Công ước về tìm kiếm, cứu nạn (SAR); Công ước về an toàn sinh mạng trên biển (SOLAS); Hiệp định ASEAN về quản lý thảm họa và ứng phó khẩn cấp; Hiệp định ASEAN về tạo thuận lợi cho việc tìm kiếm tàu lâm nạn và cứu người trong tai nạn tàu biển, hàng không….
- Hợp tác song phương với các nước trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn trên biển.
Chủ trương của nhà nước Việt Nam là việc hợp tác tìm kiếm cứu nạn phải được tiến hành trên cơ sở nhân đạo, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế, pháp luật quốc gia, không được lợi dụng các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn để tiến hành các hoạt động xâm phạm chủ quyền, quyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển.
Nhằm bảo vệ an ninh, an toàn và trật tự trên biển, góp phần thúc đẩy an ninh, an toàn hàng hải ở khu vực Biển Đông, trấn áp kịp thời các hàng động phạm pháp trên biển từ năm 2002 ta đã tích cực tham gia vào tiến trình đàm phán xây dựng Hiệp định hợp tác khu vực về chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền ở khu vực Châu Á. Hiệp định đã có hiệu lực từ ngày 04/9/2006 và Việt Nam đã phê duyệt Hiệp định. Theo Hiệp định này, các quốc gia sẽ hợp tác trong việc chia sẻ thông tin chống cướp biển và cướp có vũ trang chống lại tàu thuyền thông qua Trung tâm chia sẻ thông tin được đặt tại Singapore. Về phía ta, Chính phủ ta đã giao cho Cục Cảnh sát biển (Bộ Quốc phòng) là đầu mối quốc gia trong việc thực hiện Hiệp định.
8. Chủ trương của Việt Nam về hợp tác nghiên cứu khoa học ở Biển Đông – JOMSRE-SCS
Biển Đông là một biển nửa kín. Theo Điều 123 quy định của Công ước, các quốc gia ven biển cần:
a) Phối hợp trong việc quản lý, bảo tồn, thăm dò và khai thác các tài nguyên sinh vật của biển;
b) Phối hợp trong việc sử dụng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc bảo vệ và giữ gìn môi trường biển;
c) Phối hợp các chính sách khoa học của họ, và nếu có thể, thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học chung trong vùng được xem xét;
d) Nếu có thể thì mời các quốc gia khác hay các tổ chức quốc tế hữu quan hợp tác với họ trong việc áp dụng Điều này.
Thực hiện các quy định này cũng những các quy định của Phần XIII Công ước về nghiên cứu khoa học biển và trên cơ sở nhằm tăng cường hợp tác, tin cậy lẫn nhau, Việt Nam và Phi-lip-pin đã phối hợp thực hiện các chuyến nghiên cứu khoa học biển – JOMSRE-SCS.
Tại chuyến thăm Phi-lip-pin tháng 12/1995 của Chủ tịch nước Lê Đức Anh, hai bên nhất trí triển khai JOMSRE-SCS. Ngày 05/4/1996, hai bên ký MOU tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức JOMSRE I. Từ 1996 đến 2007, Việt Nam và Phi-lip-pin đã tổ chức 4 chuyến khảo sát khoa học chung trên Biển Đông (JOMSRE-I năm 1996; JOMSRE-II năm 2000; JOMSRE-III năm 2005 và JOMSRE-IV năm 2007). JOMSRE đã gặt hái những thành công lớn cả về mặt chính trị và khoa học. Về mặt chính trị, thông qua hợp tác JOMSRE, hợp tác biển giữa 2 nước đã được mở rộng và có bước phát triển về chất và mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác như tìm kiếm cứu nạn, khí tượng thủy văn, ứng phó sự cố tràn dầu.... JOMSRE góp phần xây dựng lòng tin và duy trì hòa bình, ổn định tại khu vực Biển Đông, một khu vực mà còn tiềm ẩn nhiều bất ổn do các tranh chấp đối kháng về chủ quyền và được coi như là một hình mẫu hợp tác trong việc xây dựng lòng tin ở những khu vực tranh chấp, được nhiều nước đánh giá cao và học tập kinh nghiệm. Về mặt khoa học, kết quả nghiên cứu của 4 chuyến JOMSRE đã giúp các nhà khoa học 2 nước tăng cường sự hiểu biết về điều kiện tự nhiên, hiện trạng nguồn lợi trong khu vực được khảo sát, là cơ sở khoa học cho việc khai thác sử dụng, bảo vệ nguồn lợi và môi trường Biển Đông... Để tổng kết 04 JOMSRE-SCS, hai Bên đã phối hợp tổ chức Hội nghị tổng kết tại Hạ Long (tháng 3/2008). Tháng 12/2008, Phi-lip-pin tổ chức công bố kỷ yếu Hội nghị này (bản tiếng Anh). Việt Nam cũng đã tiến hành công bố Kỷ yếu (bản tiếng Việt) ngày 27/3/2009 tại Nha Trang.
Trong quá trình thực hiện các chuyến JOMSRE-SCS III và IV, phía Trung Quốc bày tỏ quan tâm tham gia JOMSRE. Sau khi kết thúc Giai đoạn I của JOMSRE như nêu trên (giai đoạn song phương), Việt Nam, Phi-lip-pin và Trung Quốc đang thảo luận về việc hợp tác nghiên cứu khoa học trên Biển Đông – JOMSRE-SCS giai đoạn mới (mở ra cho các quốc gia và các tổ chức quốc tế quan tâm tham gia).