Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Sau chiến tranh Thế giới thứ nhất , Pháp tuy thắng trận, nhưng phải chịu nhiều tổn thất về kinh tế-tài chính. Chiến tranh phá huỷ nhiều nhà máy, đường sá, cầu cống, làng mạc của Pháp; nhiều ngành sản xuất công nghiệp bị đình trệ; thương mại giảm sút; nước Pháp trở thành con nợ lớn, nhất là của Mĩ, năm 1920 nợ 300 tỉ Phơ-răng. Chiến tranh tiêu huỷ hang triệu Phơ-răng đầu tư của Pháp ở nước ngoài, điển hình cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã làm mất thị trường đầu tư lớn nhất của Pháp tại châu Âu. Các vấn đề lạm phát, tăng giá và đời sống khó khăn của các tầng lớp lao động đã làm trỗi dậy các phong trào đấu tranh chống chính phủ.Trong hoàn cảnh trên, để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục nền kinh tế, chính phủ Pháp một mặt ra sức khôi phục kinh tế trong nước, một mặt tăng cường đầu tư, khai thác thuộc địa, trước hết và chủ yếu tại Đông Dương và châu Phi.
Về thời gian, đợt khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp chính thức được triển khai từ sau Đại chiến TG1 và kéo dài đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế TG 1929-1933, tức là trong khoảng 10 năm.
1. Tình hình chính trị
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã tiến hành một số cải cách về chính trị nhằm đối phó với những biến động có thể xảy ra ở thuộc địa và hỗ trợ đắc lực cho chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai. Mục tiêu của các cuộc cải cách nhỏ giọt đó không gì hơn ngoài việc nới rộng nền tảng xã hội ( chế độ thuộc địa).
Các viên toàn quyền Pháp từ A. Xa rô, M. Lông đến A. Va ren đã lần lượt ban hành những chính sách theo hướng trên. Do đó, các viện dân biểu Bắc Kỳ Trung Kỳ được thành lập, các phòng thương mại và canh nông của những thành Phố lớn được mở rộng cho người Việt tham gia. Năm 1928, thực dân Pháp lập ra Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương với tư cách là cơ quan tư vấn về Vấn đề kinh tế, tài chính trong Liên bang Đông Dương.
Trong khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến hành "cải lương hương chính nhằm từng bước can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của làng xã, loại bỏ dần tính chất tự trị của nó. Trên nguyên tắc, công cuộc cải lương hương chính vẫn chấp nhận cơ chế quản lý làng xã cổ truyền, nhưng trên một chừng mực nào đó thực dân Pháp đã đạt được mục tiêu can thiệp trực tiếp vào công việc làng xã bằng cách kiểm soát nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã.
Tóm lại, chính sách của thực dân Pháp trong thế kỷ 20 là nới rộng một số Quyền lực chính trị cho các tầng lớp trên, tạo ra mảnh đất tốt cho chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề tạo sự ổn định chính trị để thu hút vốn đầu tư vào Đông Dương nhằm thực hiện có hiệu quả chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai 2.
2. Tình hình kinh tế
Là nước thắng trận, nhưng Pháp ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ nhất với 'những tổn thất lớn trên nhiều lĩnh vực. Những vùng giàu có nhất nước Pháp, đặc biệt các vùng công nghiệp phát triển, bị tàn phá nặng nề; nhiều ngành công nghiệp bị đình trệ. Đồng thời, nước Pháp trở thành con nợ lớn. Tổng số nợ của 'nước Pháp đến năm 1920 đã lên tới 300 tỷ phăng.
Tình hình trên đã thôi thúc chính quyền Pháp tìm biện pháp vừa thúc đẩy nhanh nền sản xuất trong nước, đồng thời đẩy mạnh khai thác thuộc địa, nhất là 'Đông Dương, nhằm nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh,'phục hồi Nền kinh tế và khôi phục vị thế chính trị của nước Pháp trên trường quốc tế.
" Về mục tiêu, giống như cuộc khai thác thuộc địa lần trước, cuộc khai thác thuộc lần này vẫn theo đuổi một ý đồ nham hiểm : bòn rút thuộc địa để làm giàu cho 'chính quốc nhưng không cho thuộc địa có cơ hội cạnh tranh với chính quốc.
Về thời gian, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai được bắt đầu từ sau khi kết thức Chiến tranh thế giới thứ nhất và chấm dứt trước cuộc tổng khủng hoảng 'kinh tế thế giới , tức là từ năm 1919 đến năm 1929.
Vế cơ cấu đầu tư, đã có sự thay đổi căn bản, nếu như trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chủ yếu là vốn của tư bản nhà nước, thì trong cuộc khai thác thuộc địa này vốn đầu tư vủa tư bản tư nhân đứng vị trí hàng đầu.
Về cường độ, cuộc khai thác thác thuộc địa lần thứ hai diễn ra với một cường độ mạnh. Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh.
Về các lĩnh vực đầu tư, có sự thay đổi vị trí rất lớn. Nếu như trong khai thác thuộc địa thứ nhất, khai khoáng chiếm vị trí hàng đầu, thì trong cuộc khai thác thuộc địa lần này vị trí đó thuộc về nông nghiệp.
Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, cơ cấu và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước chuyển biến theo hướng hiện đại
Nông nghiệp là ngành được thực dân Pháp chủ trương đầu tư !ớn nhất. Năm 1924, số vốn đầu tư vào nông nghiệp là 52 triệu phăng, thì năm 1927 đã lên tới 400 triệu phăng, chủ yếu chảy vào khu vực trồng và khai thác cao su. Với số vốn đó và sự trợ lực của chính sách ăn cướp ruộng đất, hàng trăm đồn điền, có những đồn điền rộng tới vài nghìn ha, đã xuất hiện. Các chủ đồn điền người Pháp và người Việt khai thác triệt để phương thức canh tác và bóc lột kiểu phong kiến và tiền tư sản.
Trong nông nghiệp, sự chuyển biến mạnh mẽ nhất là sự chuyển đổi trong cơ cấu cây trồng. Ngoài những đồn điền trồng lúa đã xuất hiện những đồn điền trồng cao su, trồng chè, trồng cà phê, trồng hạt tiêu..., nghĩa là các chủ đầu tư đã khai thác thế mạnh của miền đấtt nhiệt đới. Trong kinh doanh cao su đã hình thành 3 tập đoàn lớn : Công ty đất đỏ, Công ty trồng cây nhiệt đới và Công ty Mitsơlanh. Sản lượng mủ cao su ngày một tăng. Năm 1929 đã xuất kho 10.00 tấn mủ cao su.
Dù không cân đi và què quặt nhưng đã xuất hiện một nền công nghiệp với hai bộ phận công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Vào những năm 1920, địa hạt này được tăng cường theo hai hướng chính : I) mở rộng về quy mô, về cường độ các xí nghiệp, nhà máy đã có từ trước; 2) xây dựng thêm những xí nghiệp những công ty mới. Như vậy, so với thời kỳ trước, ngành công nghiệp đã có bước tiến về chất. Chẳng hạn, trong khai khoáng, đi đôi với việc thành lập các công ty mới như Công ty than Hạ Long, Công ty than và mỏ kim khí Đông Dương... đã xuất hiện một số cơ sở chế biến quặng, đúc kim, thiếc ở Quảng Yên, Hải Phòng, Cao Bằng - những loại hình công nghiệp còn vắng bóng trước chiến tranh. Cùng với sự điều chỉnh trong khu vực công nghiệp nặng, khu vực công nghiệp nhẹ cũng trở nên sôi động hơn, không chỉ tăng số lượng các nhà máy chế biến nông sản tại chỗ, mà còn được nâng cấp, mở rộng quy mô sản xuất .Nhà máy dệt Nam Định được xây dựng từ những năm cuối thế kỷ XIX nay được mở rộng, nâng cấp để trở thành một trung tâm dệt nổi tiếng trên toàn liên bang với một tổ hợp nhà máy khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối.
Giao thông vận tải, một thành tố trong cơ sở hạ tầng, đã được thực dân Pháp chủ yếu đầu tư xây dựng ngay từ đầu, nay được tiếp tục đầu tư vốn và kỹ thuật ( hoàn tất những công trình đang dang dở và nâng cấp một số phương tiện giao thông vận tải mới. Trên tuyến đường sắt xuyên Việt, thực dân Pháp tiếp tục xây dựng các đoạn Vinh - Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm(l) ; đến năm 1931 đã xây dựng được 2389 km đường sắt trên đất Việt Nam. Đường bộ tiếp tục được xây dựng, nhiều con đường quốc lộ và liên tỉnh đã được rải đá cấp phối và tráng nhựa. Đến năm 1930, Pháp đã mở được 15.000 km đường bộ, trong đó 1 khoảng 2.000 km đường rải nhựa. Nếu như đường sắt, đường bộ có vị trí quan trọng trong kinh tế đối nội, thì đường thủy đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế đối ngoại. Nó là phương tiện giao thông duy nhất lúc đó nối nước ta với các nước bên ngoài. Vì thế, cùng với quá trình hiện đại hóa các hải cảng đã có như cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, Pháp cho xây dựng các hải cảng mới như Hòn Gai, Bến Thủy... Mạng lưới vận tải đường sông vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long cũng được khai thác triệt để.
Thương nghiệp gồm ngoại thương và nội thương cũng có những bước tiến mới. Xuất hiện các chợ lớn như chợ Bến Thành (Sài Gòn), chợ Đông Ba (Huế), chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Ngoại thương là lĩnh vực buôn bán mà Pháp độc quyền. Thực dân Pháp dựng hàng rào thuế quan để bảo hộ hàng hóa chính quốc bằng cách đánh thuế cao hàng hóa nước ngoài, đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc và Nhật Bản đã hạn chế đến mức tối đa hàng ha của nước ngoài nhập vào Đông Dương, tạo điều kiện tốt nhất cho hàng hóa Pháp tràn ngập thị trường Việt Nam. Trước chiến tranh, thị phần hàng hóa Pháp ở Đông Dương chiếm 37%, cuối những năm 1920 đã lên tới 63%. Đặc trưng của nền thương mại thuộc địa được phản ánh rõ nét trong cơ cấu xuất nhập.Xuất chủ yếu là những mặt hàng nguyên liệu, nông sản phẩm ; Nhập chủ yếu là những mặt hàng công nghiệp, kỹ thuật, những mặt hàng tiêu dùng cao cấp từ Pháp.
Bao trùm và chi phi toàn bộ đời sống kinh tế Đông Dương là hệ thống ngân hàng, đứng đầu là Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương, ngoài chức năng được quyền phát hành giấy bạc, đã chỉ đạo các ngân hàng hàng tỉnh ( 19 Nông phố Ngân hàng) trong việc cho vay lãi , góp vốn thành lập các công ty, các đồn điền, các nhà máy. Như vậy, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kình tế Việt Nam tiếp tục chuyển biến sâu sắc thêm theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Về hình thức đó là một cơ cấu kinh tế thuộc địa, đã mang sắc thái hiện đại nhưng thực đây chính là một cơ cấu kinh tế thuộc địa mất cân đối , què quặt được biểu hiện rõ nét ở tỷ lệ giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp, giữa khu vực công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ và giữa các vùng và các miền của đất nước.
3. Tình hình xã hội
Trên phương diện xã hội, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã hội Việt Nam tiếp tục có sự phân hóa giai cấp sâu sắc và cùng với nó là sự xuất hiện một hệ thống thành phố kiểu phương Tây.
a) Sự phân hoá giai cấp
* Giai cấp đia chủ : Nét đặc trưng của xã hội thuộc địa là sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến bản xứ. Giai cấp địa chủ vì thế, không những không bị thu hẹp lại, mà trái lại được phát triển đủ mạnh để có thể trở thành nền tảng xã hội của chế độ thuộc địa. Thế lực này được đo bằng số ruộng đất tập trung trong tay họ. Ở Nam Kỳ, mức độ tập trung ruộng đất cao hơn Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong giai cấp địa chủ đã xuất hiện sự phân tầng rõ rệt : địa chủ nhỏ, địa chủ vừa và đại địa chủ. Nam Kỳ là nơi tập trung nhiều đại địa chủ, có 2.449 đại địa chủ sở hữu từ 100 - 500 ha và 244 đại địa chủ sở hữu trên 500 ha. Nhìn chung, giai cấp địa chủ thời kỳ này chiếm khoảng 7% cư dân nông thôn, nhưng đã nắm trong tay một nửa diện tích canh tác. Đến năm 1939, Việt Nam có khoảng 6.500 địa chủ sở hữu trên 50 ha ruộng đất, trong đó Nam Kỳ có 6.200, Bắc Kỳ có 200 và Trung Kỳ có 100 người. Giai cấp “ngồi mát ăn bát vàng" này đã tách khỏi quá trình sản xuất, sống bằng việc phát canh thu tô (tô tiền, tô hiện vật và tô lao dịch). Do sự nâng đỡ của chính quyền thực dân, giai cấp địa chủ chiếm đại đa số trong cơ cấu chính quyền làng xã (Hội đồng kỳ mục, Hội đồng tộc biểu, người đứng đầu các xã, tổng và hàng thôn). Đồng thời, giai cấp này còn có đại biểu của mình ở các cấp chính quyền bên trên như các Viện Dân biểu, Hội đồng quản hạt ... Rõ ràng, giai cấp địa chủ trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của chính quyền thực dân.
* Giai cấp nông dân là thành phần chiếm tuyệt đại đa số (khoảng 90% trong xã hội Việt Nam. Trong quá trình sản xuất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa, giai cấp này đã chuyến biến sâu sắc và có sự phân tầng rõ rệt : phú nông, trung nông, bần nông và cố nông.
Phú nông là tầng lớp khá giả nhất trong giai cấp nông dân, chiếm hữu một số ruộng đất tương đối khá nhưng chưa đủ để trở thành địa chủ, cũng tham gia bóc lột bằng thuê nhân công, tuy vẫn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất.
Trung nông là tầng lớp có đủ ruộng đất và công cụ sản xuất để tiến hành sản xuất nuôi sống gia đình mình; họ không bán sức lao động và cũng không có khả năng tham gia bóc lột.
Bần nông là tầng lớp thiếu ruộng đất canh tác, thiếu nông cụ. Để nuôi sống gia đình mình họ phải lĩnh canh ruộng đất, thuê mướn nông cụ sản xuất và tiền vốn.
Cố nông là tầng lớp "không tấc đất cắm dùi" nghèo khổ nhất bần cùng nhất trong giai cấp nông dân. Nguồn sống chủ yếu của họ là lĩnh canh ruộng đất, đi làm thuê, đi ở cho nhà giàu.
Giai cấp nông dân là giai cấp bị bóc lột và áp bức nặng nề nhất bi thuế khóa và thu phen tạp dịch. Cuộc sống của họ hết sức bấp bênh. Một bộ phận trong số họ bị bần cùng hóa. Đề duy trì sự tồn tại của gia đình, họ phải ra thành phố, hầm mỏ để kiếm công ăn việc làm. Một số người may mắn tìm được nơi bán sức lao động, trở thành công nhân, số khác ít may mắn hơn.. quay trở về nông thôn, cam chịu cuộc sống cùng quẫn, bế tắc.
* Giai công nhân Việt Nam ngày càng trở nên đông đảo. Đến năm 1929, chỉ tính riêng công nhân trong các doanh nghiệp của người Pháp đã là 221.050 người. Ngoài ra, có khoảng vài vạn công nhân lam việc trong các doanh nghiệp của tư sản Việt Nam và tư sản ngoại kiều, chưa kể số công nhân làm theo mùa, theo thời vụ. Về số lượng, giai cấp công nhân Việt Nam chiếm trên 1 % dân số .Tỷ lệ đó là nhỏ bé, nhưng một nước thuộc địa con số đó cũng rất đáng kể.
Nhìn trên tổng thể, công nhân được phân bố trên 2 vùng rõ rệt tuỳ theo điều kiện tự nhiên : miền Bắc tập trung công nhân công nghiệp, miền Nam tập trung công nhân nông nghiệp. Đại bộ phận công nhân công nghiệp tập trung ở Hòn Gai, Hải Phòng, Hà Nội , Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn.
Điều kiện sống và làm việc của công nhân rất cực khổ. Họ phải làm việc trung bình từ 10 giờ đến 14 giờ / ngày với đồng lương rẻ mạt, thường xuyên bị cúp phạp và bị đối xử bất nhân. Trước khi họ trở thành công nhân, họ đã là người dân một nước nô lệ. Vì thế, trong họ đã có sẵn mối thù dân tộc. Khi họ trở thành công nhân, làm thuê cho một ông chủ nào đó, bị giới chủ bóc lột, áp bức nặng nề, họ mang thêm một mối thù thứ hai – mối thù giai cấp. Mối thù dân tộc có trước thôi thúc mối thù giai cấp chín sớm. Do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam sớm giác ngộ ý thức giai cấp và nhanh chóng vươn lên nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc.
* Giai cấp tiểu tư sản
Cùng với sự gia tăng của cuộc khai thác thuộc địa, sự xuất hiện hệ thống thành thị kiểu phương Tây và nền giáo dục Pháp-Việt phát triển, giai cấp tiểu tư sản ngày càng trở nên đông đảo. Nó được kết hợp một cách lỏng lẻo bởi ba bộ phận: trí thứ, tiểu thương và thợ thủ công. Điểm chung của họ là thi dân, sở hữu một ít tư liệu sản xuất (vốn, chất xám).
Trí thức (trong đó có học sinh, sinh viên) là bộ phận quan trọng nhất của giai cấp tiểu tư sản. Đến năn 1929, đội ngũ trí thức đã lên tới gần 40 vạn người (12.000 giáo viên, 335.545 học sinh, 23.000 viên chức và hàng trăm sinh viên các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề).
Tiểu thương: Biên độ của đội ngũ này khá rộng, từ người buôn thúng bán mẹtt đến những người có cửa hàng, cửa hiệu nhưng vốn liếng (doanh só) chưa đạt tới ngưỡng một nhà tư sản. Đội ngũ những người buôn bán nhỏ có đóng thuế môn bài thường xuyên là 130.000 người.
Thợ thủ công: Vào giữa những năm 30 của thế kỷ này, có khoảng 21,6 thợ thủ công chuyên nghiệp, đông đảo nhất là Bắc Kỳ. So với hai bộ phận trên, bộ phận này có đời sống bấp bênh nhất bởi với sự xuất hiện các doanh nghiệp lớn đe doạ thủ công nghiệp phá sản.
* Giai cấp tư sản
Tư sản Việt Nam,, sau chiến tranh, gặp những điều kiện thuận lợi nên hoạt động kinh doanh của họ càng trở nên sôi nổi hơn, đa dạng hơn. Họ kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, từ xay xát, nhuộm. dệt, in ấn, vận tải đến sản xuất nước mắm, đường, xà phòng, sơn, đồ gốm v.v... Một số đã có trong tay một sản nghiệp lớn như mỏ, đồn điền, công ty vận tải sông biển, các công ty thương mại... Cuối những năm 1920 tư sản Việt Nam đã gia tăng về số lượng, đã đạt từ con số 20.000 người, chiếm khoảng 0,1% dân số cả nước. Tư sản Việt Nam đã từ một tầng lớp trở thành một giai cấp xã hội thực sự sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Do điều kiện kinh doanh, giai cấp tư sản Việt Nam tự phân thành hai bộ phận : tư sản mại bản và tư sản dân tộc.
Tư sản mại bản là một bộ phận những nhà đại lý cho tư bản nước ngoài, những nhà thầu khoán và những tư sản hùn vốn kinh doanh với tư sản Pháp và những nhà doanh nghiệp có quan hệ buôn bán với nước ngoài. Vì lợi ích kinh tế của bộ phận này gắn chặt với lợi ích kinh tế của tư bản thực dân.
Ngoài bộ phận trên, phần lớn các nhà tư sản Việt Nam đều là tư sản dân tộc. Họ có mặt trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt trong thương nghiệp. Nhiều xí nghiệp kinh doanh của họ được mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư về kỹ thuật như xưởng sản xuất sơn của Nguyễn Sơn Hà, công ty vận tải sông biển của Bạch Thái Bưởi, xưởng dệt của Lê Phát Vĩnh. Nhiều đồn điền ở Nam Kỳ rộng hàng nghìn mẫu thu hút hàng trăm công nhân. Sau chiến tranh, xuất hiện những cơ sở kinh doanh mới như Nhà máy gạch Hưng Ký ở Đáp Cầu (Bắc Ninh), xí nghiệp dệt Vĩnh An ở Huế. Lợi ích kinh tế của bộ phận tư sản dân tộc không đồng nhất với lợi ích kinh tế của chính quyền thực dân. Họ bị chèn ép từ nhiều phía, từ tư sản Pháp đến các nhà tư sản ngoại kiều. Vì thế, để tồn tại và phát triển, bộ phận này đã cố kết với nhau trong kinh doanh và do đó ít nhiều họ có tinh thần dân tộc.
Nhìn chung, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam lớn mạnh và trưởng thành. Đại diện cho thế lực kinh tế của giai cấp xã hội đang lên này là những nhà doanh nghiệp sáng giá như Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi;, Nguyễn Sơn Hà, Lê Phát Vĩnh.
Dẫu vậy, giai cấp tư sản Việt Nam còn rất ít về số lượng cũng như vốn liếng. Tổng số vốn kinh doanh của họ chỉ bằng khoảng 5% số vốn của tư bản nước ngoài. Tư sản Việt Nam chủ yếu kinh doanh trong thương nghiệp, ít kinh doanh trong khu vực sản xuất. Trên thương trường, giai cấp tư sản Việt Nam lại đụng độ không cân sức với hai đối thủ : tư sản Pháp và tư sản Hoa kiều.
b) Sự hình thành hệ thống đô thị kiểu phương Tây
Quá trình hình thành hệ thống thành thị kiểu phương Tây ở nước ta gắn chặt với công cuc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, được đẩy mạnh và hoàn thiện trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Trong những năm 20 và 30 của thế kỷ này, một hệ thống thành thị kiểu phương Tây đã hình thành với 3 cấp độ: Thành phố cấp 1 : (Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng) ; thành phố cấp 2: (Hải Dương, Nam Định, Vinh, Đà Nẵng, Chợ Lớn) ; thành phố cấp 3 (những thị xã trực thuộc tỉnh như Bắc Ninh, Hưng Yên, Đồng Hới...) và dưới đó là hàng trăm thị trấn và thị tứ. Cùng với sự lớn mạnh của các đô thị, số thị dân tăng nhanh. Năm 1928, thành phố Hà Nội đã có 130.000 dân, Huế - 41.600 dân, Sài Gòn - 125.000 dân, Cho đến những năm 1930, dân số thành phố đã chiếm 8% - 10% dân số cả nước.
Trong quá trình sinh tồn, thị dân đã tạo ra một lối sống riêng, một phong tục tập quán riêng, vừa kế thừa những giá trị truyền thống, nhưng đồng thời cũng có những nét khác với lối sống của nông dân. Một hệ thống thành thị phát triển, thị dân trở nên đông đúc là những tiền đề, những điều kiện để tiếp nhận văn hóa phương Tây. Từ đó, trong các dạng thức sinh hoạt chính trị và văn hóa chúng ta mới có các đảng phái chính trị, các nhà xuất bản, các dòng báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật mới như kịch nói, điện ảnh .. xuất hiện những quan niệm mới về bố trí không gian sống và nghỉ ngơi trong kiến trúc vv... Tóm lại, với sự hình thành và hoàn thiện một hệ thống thành thị kiểu phương Tây, trong xã hội Việt Nam đã xuất hiện nền văn minh đô thị, một nền văn minh tiên tiến thúc đẩy xã hội Việt Nam vươn lới.
4. Tình hình văn hóa tư tưởng
Cùng với sự đầu tư khai thác thuộc địa gia tăng sau chiến tranh, đời sống kinh tế và xã hội nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ. Một nền kinh tế với kiến trúc đa ngành đã xuất hiện. Một hệ thống đô thị đã hình thành và phát triển. Một nền giáo dục Pháp – Việt, sau nhiều lần cải cách và tìm kiếm những mô hình hợp lý, đã phát huy tác dụng. Các cơ sở in ấn, xuất bản đã xuất hiện ở các thành phố lớn. Hàng loạt những tờ báo, tạp chí chữ Pháp và Quốc ngữ đã ra đời. Đó chính là những tiền đề để tiếp nhận những trào lưu tư tưởng mới, những thành tựu khoa học - kỹ thuật, những loại hình vãn học – nghệ thuật phương Tây tràn vào. Chính vì vậy, thập kỷ 20 trong lịch sử nước ta được xem như là giai đoạn giao thoa, đan xen giữa các giá trị văn hoá truyền thống và văn hoá ngoại nhập, giữa nền văn hoá thực dân, nền văn hoá chính thống và nền văn hoá mới, văn hoá tiến bộ, cách mạng định hình. Đó chính là cuộc chiến đấu không tuyên bố trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Chính quyền thực dân sớm có ý thức sử dụng văn hoá như một thứ vũ khí được quảng bá cho tư tưởng "Pháp – Việt đề huề", "Pháp - Nam hợp tác", đang tạo ra một bầu không khí chính trị ổn định có lợi cho việc gọi vốn đầu tư vào Đông Dương. Nhằm mục đích đó Pháp đã cho phép Phạm Quỳnh ra tờ Nam Phong tạp chí 1917) và cho lập Hội Khai trí Tiến Đức (1919) để tập hợp lực lượng trong giới thượng lưu. Trên các phương tiện thông tin đại chúng lúc đó xuất hiện những bài viết của các học giả thân Pháp tán dương chủ trương "Pháp-việt đề huề", trình bày các chủ thuyết cai trị như thuyết "Trực trị" và thuyết "Quân chủ lập hiến". Cùng với việc trên, báo chí thực dân đã bắt đầu tung ra những bài viết bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản, lãnh tụ LêNin và Cách mạng tháng Mười Nga. Nói một cách khác, trên bình diện tư tưởng, báo chí thực dân đã tiến hành chủ nghĩa chống cộng khi ở xứ này chưa có chủ nghĩa cộng sản, thậm chí là mầm mống.
Đối lập với nền văn hoá thực dân, văn hoá nô dịch đó là nền văn hoá mới tiến bộ, cách mạng. Khởi đầu là dòng báo chí tiến bộ với tờ báo La Cloche fêlée (Chuông rạn) và L’Annam (Nước Nam) của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường. Tiếp đó, xuất hiện các Thư xã (Nhà xuất bản) Sài Gòn, Huế, Hà Nội; nhờ đó mà các tác phẩm văn học mới được dân thành thị đón nhận. Với sự xuất hiện tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1925), lần đầu tiên trên văn đàn nước ta, lối kết cấu theo chương hồi được thay bằng lối kết cấu theo quy định luật tâm lý, lễ giáo phong kiến bị đả kích, tự do cá nhân được đề cao.
Năm 1922 vở kịch nói đầu tiên Chén thuốc độc của Vũ Đình Long được công diễn thành công tại Nhà hát lớn Hà Nội. Tiếp đến, Nguyễn Hữu Kim với Bạn và vợ, Vi Huyền Đắc với Hoàng Mộng Điệp, Nam Xương với Chàng Ngốc(3). Có thể nói các tác phẩm văn học sau chiến tranh đã hướng tới việc phê phán xã hội đương thời bằng cách bóc trần cảnh lầm than, tủi nhục của những người lao động, mô tả những xung đột bi kịch giữa lễ giáo phong kiến đã lỗi thời và tự do cá nhân tư sản ; đồng thời công khai bóc lộ tình cảm yêu nước thương nòi. Tất cả những điều đó là sư chuẩn bị cho nền văn học hiện thực phê phán xuất hiện.
Nguồn: Nguyễn Quang Ngọc 2006, Chương IX – Việt Nam từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1930, Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.246 – 254.
Về thời gian, đợt khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp chính thức được triển khai từ sau Đại chiến TG1 và kéo dài đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế TG 1929-1933, tức là trong khoảng 10 năm.
1. Tình hình chính trị
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, thực dân Pháp đã tiến hành một số cải cách về chính trị nhằm đối phó với những biến động có thể xảy ra ở thuộc địa và hỗ trợ đắc lực cho chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai. Mục tiêu của các cuộc cải cách nhỏ giọt đó không gì hơn ngoài việc nới rộng nền tảng xã hội ( chế độ thuộc địa).
Các viên toàn quyền Pháp từ A. Xa rô, M. Lông đến A. Va ren đã lần lượt ban hành những chính sách theo hướng trên. Do đó, các viện dân biểu Bắc Kỳ Trung Kỳ được thành lập, các phòng thương mại và canh nông của những thành Phố lớn được mở rộng cho người Việt tham gia. Năm 1928, thực dân Pháp lập ra Đại hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương với tư cách là cơ quan tư vấn về Vấn đề kinh tế, tài chính trong Liên bang Đông Dương.
Trong khu vực nông thôn, thực dân Pháp tiến hành "cải lương hương chính nhằm từng bước can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộ của làng xã, loại bỏ dần tính chất tự trị của nó. Trên nguyên tắc, công cuộc cải lương hương chính vẫn chấp nhận cơ chế quản lý làng xã cổ truyền, nhưng trên một chừng mực nào đó thực dân Pháp đã đạt được mục tiêu can thiệp trực tiếp vào công việc làng xã bằng cách kiểm soát nhân sự, tài chính của bộ máy làng xã.
Tóm lại, chính sách của thực dân Pháp trong thế kỷ 20 là nới rộng một số Quyền lực chính trị cho các tầng lớp trên, tạo ra mảnh đất tốt cho chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề tạo sự ổn định chính trị để thu hút vốn đầu tư vào Đông Dương nhằm thực hiện có hiệu quả chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai 2.
2. Tình hình kinh tế
Là nước thắng trận, nhưng Pháp ra khỏi Chiến tranh thế giới thứ nhất với 'những tổn thất lớn trên nhiều lĩnh vực. Những vùng giàu có nhất nước Pháp, đặc biệt các vùng công nghiệp phát triển, bị tàn phá nặng nề; nhiều ngành công nghiệp bị đình trệ. Đồng thời, nước Pháp trở thành con nợ lớn. Tổng số nợ của 'nước Pháp đến năm 1920 đã lên tới 300 tỷ phăng.
Tình hình trên đã thôi thúc chính quyền Pháp tìm biện pháp vừa thúc đẩy nhanh nền sản xuất trong nước, đồng thời đẩy mạnh khai thác thuộc địa, nhất là 'Đông Dương, nhằm nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh,'phục hồi Nền kinh tế và khôi phục vị thế chính trị của nước Pháp trên trường quốc tế.
" Về mục tiêu, giống như cuộc khai thác thuộc địa lần trước, cuộc khai thác thuộc lần này vẫn theo đuổi một ý đồ nham hiểm : bòn rút thuộc địa để làm giàu cho 'chính quốc nhưng không cho thuộc địa có cơ hội cạnh tranh với chính quốc.
Về thời gian, cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai được bắt đầu từ sau khi kết thức Chiến tranh thế giới thứ nhất và chấm dứt trước cuộc tổng khủng hoảng 'kinh tế thế giới , tức là từ năm 1919 đến năm 1929.
Vế cơ cấu đầu tư, đã có sự thay đổi căn bản, nếu như trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất chủ yếu là vốn của tư bản nhà nước, thì trong cuộc khai thác thuộc địa này vốn đầu tư vủa tư bản tư nhân đứng vị trí hàng đầu.
Về cường độ, cuộc khai thác thác thuộc địa lần thứ hai diễn ra với một cường độ mạnh. Chỉ tính riêng trong 6 năm (1924-1929), tổng số vốn đầu tư của tư bản Pháp vào Đông Dương đã tăng gấp 6 lần so với 20 năm trước chiến tranh.
Về các lĩnh vực đầu tư, có sự thay đổi vị trí rất lớn. Nếu như trong khai thác thuộc địa thứ nhất, khai khoáng chiếm vị trí hàng đầu, thì trong cuộc khai thác thuộc địa lần này vị trí đó thuộc về nông nghiệp.
Dưới tác động của công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, cơ cấu và trình độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam tiếp tục có những bước chuyển biến theo hướng hiện đại
Nông nghiệp là ngành được thực dân Pháp chủ trương đầu tư !ớn nhất. Năm 1924, số vốn đầu tư vào nông nghiệp là 52 triệu phăng, thì năm 1927 đã lên tới 400 triệu phăng, chủ yếu chảy vào khu vực trồng và khai thác cao su. Với số vốn đó và sự trợ lực của chính sách ăn cướp ruộng đất, hàng trăm đồn điền, có những đồn điền rộng tới vài nghìn ha, đã xuất hiện. Các chủ đồn điền người Pháp và người Việt khai thác triệt để phương thức canh tác và bóc lột kiểu phong kiến và tiền tư sản.
Trong nông nghiệp, sự chuyển biến mạnh mẽ nhất là sự chuyển đổi trong cơ cấu cây trồng. Ngoài những đồn điền trồng lúa đã xuất hiện những đồn điền trồng cao su, trồng chè, trồng cà phê, trồng hạt tiêu..., nghĩa là các chủ đầu tư đã khai thác thế mạnh của miền đấtt nhiệt đới. Trong kinh doanh cao su đã hình thành 3 tập đoàn lớn : Công ty đất đỏ, Công ty trồng cây nhiệt đới và Công ty Mitsơlanh. Sản lượng mủ cao su ngày một tăng. Năm 1929 đã xuất kho 10.00 tấn mủ cao su.
Dù không cân đi và què quặt nhưng đã xuất hiện một nền công nghiệp với hai bộ phận công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Vào những năm 1920, địa hạt này được tăng cường theo hai hướng chính : I) mở rộng về quy mô, về cường độ các xí nghiệp, nhà máy đã có từ trước; 2) xây dựng thêm những xí nghiệp những công ty mới. Như vậy, so với thời kỳ trước, ngành công nghiệp đã có bước tiến về chất. Chẳng hạn, trong khai khoáng, đi đôi với việc thành lập các công ty mới như Công ty than Hạ Long, Công ty than và mỏ kim khí Đông Dương... đã xuất hiện một số cơ sở chế biến quặng, đúc kim, thiếc ở Quảng Yên, Hải Phòng, Cao Bằng - những loại hình công nghiệp còn vắng bóng trước chiến tranh. Cùng với sự điều chỉnh trong khu vực công nghiệp nặng, khu vực công nghiệp nhẹ cũng trở nên sôi động hơn, không chỉ tăng số lượng các nhà máy chế biến nông sản tại chỗ, mà còn được nâng cấp, mở rộng quy mô sản xuất .Nhà máy dệt Nam Định được xây dựng từ những năm cuối thế kỷ XIX nay được mở rộng, nâng cấp để trở thành một trung tâm dệt nổi tiếng trên toàn liên bang với một tổ hợp nhà máy khép kín từ khâu đầu đến khâu cuối.
Giao thông vận tải, một thành tố trong cơ sở hạ tầng, đã được thực dân Pháp chủ yếu đầu tư xây dựng ngay từ đầu, nay được tiếp tục đầu tư vốn và kỹ thuật ( hoàn tất những công trình đang dang dở và nâng cấp một số phương tiện giao thông vận tải mới. Trên tuyến đường sắt xuyên Việt, thực dân Pháp tiếp tục xây dựng các đoạn Vinh - Đông Hà, Đồng Đăng - Na Sầm(l) ; đến năm 1931 đã xây dựng được 2389 km đường sắt trên đất Việt Nam. Đường bộ tiếp tục được xây dựng, nhiều con đường quốc lộ và liên tỉnh đã được rải đá cấp phối và tráng nhựa. Đến năm 1930, Pháp đã mở được 15.000 km đường bộ, trong đó 1 khoảng 2.000 km đường rải nhựa. Nếu như đường sắt, đường bộ có vị trí quan trọng trong kinh tế đối nội, thì đường thủy đóng vai trò chủ đạo trong kinh tế đối ngoại. Nó là phương tiện giao thông duy nhất lúc đó nối nước ta với các nước bên ngoài. Vì thế, cùng với quá trình hiện đại hóa các hải cảng đã có như cảng Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng, Pháp cho xây dựng các hải cảng mới như Hòn Gai, Bến Thủy... Mạng lưới vận tải đường sông vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long cũng được khai thác triệt để.
Thương nghiệp gồm ngoại thương và nội thương cũng có những bước tiến mới. Xuất hiện các chợ lớn như chợ Bến Thành (Sài Gòn), chợ Đông Ba (Huế), chợ Đồng Xuân (Hà Nội). Ngoại thương là lĩnh vực buôn bán mà Pháp độc quyền. Thực dân Pháp dựng hàng rào thuế quan để bảo hộ hàng hóa chính quốc bằng cách đánh thuế cao hàng hóa nước ngoài, đặc biệt là hàng hóa Trung Quốc và Nhật Bản đã hạn chế đến mức tối đa hàng ha của nước ngoài nhập vào Đông Dương, tạo điều kiện tốt nhất cho hàng hóa Pháp tràn ngập thị trường Việt Nam. Trước chiến tranh, thị phần hàng hóa Pháp ở Đông Dương chiếm 37%, cuối những năm 1920 đã lên tới 63%. Đặc trưng của nền thương mại thuộc địa được phản ánh rõ nét trong cơ cấu xuất nhập.Xuất chủ yếu là những mặt hàng nguyên liệu, nông sản phẩm ; Nhập chủ yếu là những mặt hàng công nghiệp, kỹ thuật, những mặt hàng tiêu dùng cao cấp từ Pháp.
Bao trùm và chi phi toàn bộ đời sống kinh tế Đông Dương là hệ thống ngân hàng, đứng đầu là Ngân hàng Đông Dương. Ngân hàng Đông Dương, ngoài chức năng được quyền phát hành giấy bạc, đã chỉ đạo các ngân hàng hàng tỉnh ( 19 Nông phố Ngân hàng) trong việc cho vay lãi , góp vốn thành lập các công ty, các đồn điền, các nhà máy. Như vậy, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kình tế Việt Nam tiếp tục chuyển biến sâu sắc thêm theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Về hình thức đó là một cơ cấu kinh tế thuộc địa, đã mang sắc thái hiện đại nhưng thực đây chính là một cơ cấu kinh tế thuộc địa mất cân đối , què quặt được biểu hiện rõ nét ở tỷ lệ giữa khu vực công nghiệp và nông nghiệp, giữa khu vực công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ và giữa các vùng và các miền của đất nước.
3. Tình hình xã hội
Trên phương diện xã hội, dưới tác động của cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, xã hội Việt Nam tiếp tục có sự phân hóa giai cấp sâu sắc và cùng với nó là sự xuất hiện một hệ thống thành phố kiểu phương Tây.
a) Sự phân hoá giai cấp
* Giai cấp đia chủ : Nét đặc trưng của xã hội thuộc địa là sự cấu kết chặt chẽ giữa thực dân và giai cấp địa chủ phong kiến bản xứ. Giai cấp địa chủ vì thế, không những không bị thu hẹp lại, mà trái lại được phát triển đủ mạnh để có thể trở thành nền tảng xã hội của chế độ thuộc địa. Thế lực này được đo bằng số ruộng đất tập trung trong tay họ. Ở Nam Kỳ, mức độ tập trung ruộng đất cao hơn Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Trong giai cấp địa chủ đã xuất hiện sự phân tầng rõ rệt : địa chủ nhỏ, địa chủ vừa và đại địa chủ. Nam Kỳ là nơi tập trung nhiều đại địa chủ, có 2.449 đại địa chủ sở hữu từ 100 - 500 ha và 244 đại địa chủ sở hữu trên 500 ha. Nhìn chung, giai cấp địa chủ thời kỳ này chiếm khoảng 7% cư dân nông thôn, nhưng đã nắm trong tay một nửa diện tích canh tác. Đến năm 1939, Việt Nam có khoảng 6.500 địa chủ sở hữu trên 50 ha ruộng đất, trong đó Nam Kỳ có 6.200, Bắc Kỳ có 200 và Trung Kỳ có 100 người. Giai cấp “ngồi mát ăn bát vàng" này đã tách khỏi quá trình sản xuất, sống bằng việc phát canh thu tô (tô tiền, tô hiện vật và tô lao dịch). Do sự nâng đỡ của chính quyền thực dân, giai cấp địa chủ chiếm đại đa số trong cơ cấu chính quyền làng xã (Hội đồng kỳ mục, Hội đồng tộc biểu, người đứng đầu các xã, tổng và hàng thôn). Đồng thời, giai cấp này còn có đại biểu của mình ở các cấp chính quyền bên trên như các Viện Dân biểu, Hội đồng quản hạt ... Rõ ràng, giai cấp địa chủ trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của chính quyền thực dân.
* Giai cấp nông dân là thành phần chiếm tuyệt đại đa số (khoảng 90% trong xã hội Việt Nam. Trong quá trình sản xuất, dưới tác động của chương trình khai thác thuộc địa, giai cấp này đã chuyến biến sâu sắc và có sự phân tầng rõ rệt : phú nông, trung nông, bần nông và cố nông.
Phú nông là tầng lớp khá giả nhất trong giai cấp nông dân, chiếm hữu một số ruộng đất tương đối khá nhưng chưa đủ để trở thành địa chủ, cũng tham gia bóc lột bằng thuê nhân công, tuy vẫn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất.
Trung nông là tầng lớp có đủ ruộng đất và công cụ sản xuất để tiến hành sản xuất nuôi sống gia đình mình; họ không bán sức lao động và cũng không có khả năng tham gia bóc lột.
Bần nông là tầng lớp thiếu ruộng đất canh tác, thiếu nông cụ. Để nuôi sống gia đình mình họ phải lĩnh canh ruộng đất, thuê mướn nông cụ sản xuất và tiền vốn.
Cố nông là tầng lớp "không tấc đất cắm dùi" nghèo khổ nhất bần cùng nhất trong giai cấp nông dân. Nguồn sống chủ yếu của họ là lĩnh canh ruộng đất, đi làm thuê, đi ở cho nhà giàu.
Giai cấp nông dân là giai cấp bị bóc lột và áp bức nặng nề nhất bi thuế khóa và thu phen tạp dịch. Cuộc sống của họ hết sức bấp bênh. Một bộ phận trong số họ bị bần cùng hóa. Đề duy trì sự tồn tại của gia đình, họ phải ra thành phố, hầm mỏ để kiếm công ăn việc làm. Một số người may mắn tìm được nơi bán sức lao động, trở thành công nhân, số khác ít may mắn hơn.. quay trở về nông thôn, cam chịu cuộc sống cùng quẫn, bế tắc.
* Giai công nhân Việt Nam ngày càng trở nên đông đảo. Đến năm 1929, chỉ tính riêng công nhân trong các doanh nghiệp của người Pháp đã là 221.050 người. Ngoài ra, có khoảng vài vạn công nhân lam việc trong các doanh nghiệp của tư sản Việt Nam và tư sản ngoại kiều, chưa kể số công nhân làm theo mùa, theo thời vụ. Về số lượng, giai cấp công nhân Việt Nam chiếm trên 1 % dân số .Tỷ lệ đó là nhỏ bé, nhưng một nước thuộc địa con số đó cũng rất đáng kể.
Nhìn trên tổng thể, công nhân được phân bố trên 2 vùng rõ rệt tuỳ theo điều kiện tự nhiên : miền Bắc tập trung công nhân công nghiệp, miền Nam tập trung công nhân nông nghiệp. Đại bộ phận công nhân công nghiệp tập trung ở Hòn Gai, Hải Phòng, Hà Nội , Nam Định, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn.
Điều kiện sống và làm việc của công nhân rất cực khổ. Họ phải làm việc trung bình từ 10 giờ đến 14 giờ / ngày với đồng lương rẻ mạt, thường xuyên bị cúp phạp và bị đối xử bất nhân. Trước khi họ trở thành công nhân, họ đã là người dân một nước nô lệ. Vì thế, trong họ đã có sẵn mối thù dân tộc. Khi họ trở thành công nhân, làm thuê cho một ông chủ nào đó, bị giới chủ bóc lột, áp bức nặng nề, họ mang thêm một mối thù thứ hai – mối thù giai cấp. Mối thù dân tộc có trước thôi thúc mối thù giai cấp chín sớm. Do vậy, giai cấp công nhân Việt Nam sớm giác ngộ ý thức giai cấp và nhanh chóng vươn lên nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc.
* Giai cấp tiểu tư sản
Cùng với sự gia tăng của cuộc khai thác thuộc địa, sự xuất hiện hệ thống thành thị kiểu phương Tây và nền giáo dục Pháp-Việt phát triển, giai cấp tiểu tư sản ngày càng trở nên đông đảo. Nó được kết hợp một cách lỏng lẻo bởi ba bộ phận: trí thứ, tiểu thương và thợ thủ công. Điểm chung của họ là thi dân, sở hữu một ít tư liệu sản xuất (vốn, chất xám).
Trí thức (trong đó có học sinh, sinh viên) là bộ phận quan trọng nhất của giai cấp tiểu tư sản. Đến năn 1929, đội ngũ trí thức đã lên tới gần 40 vạn người (12.000 giáo viên, 335.545 học sinh, 23.000 viên chức và hàng trăm sinh viên các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề).
Tiểu thương: Biên độ của đội ngũ này khá rộng, từ người buôn thúng bán mẹtt đến những người có cửa hàng, cửa hiệu nhưng vốn liếng (doanh só) chưa đạt tới ngưỡng một nhà tư sản. Đội ngũ những người buôn bán nhỏ có đóng thuế môn bài thường xuyên là 130.000 người.
Thợ thủ công: Vào giữa những năm 30 của thế kỷ này, có khoảng 21,6 thợ thủ công chuyên nghiệp, đông đảo nhất là Bắc Kỳ. So với hai bộ phận trên, bộ phận này có đời sống bấp bênh nhất bởi với sự xuất hiện các doanh nghiệp lớn đe doạ thủ công nghiệp phá sản.
* Giai cấp tư sản
Tư sản Việt Nam,, sau chiến tranh, gặp những điều kiện thuận lợi nên hoạt động kinh doanh của họ càng trở nên sôi nổi hơn, đa dạng hơn. Họ kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, từ xay xát, nhuộm. dệt, in ấn, vận tải đến sản xuất nước mắm, đường, xà phòng, sơn, đồ gốm v.v... Một số đã có trong tay một sản nghiệp lớn như mỏ, đồn điền, công ty vận tải sông biển, các công ty thương mại... Cuối những năm 1920 tư sản Việt Nam đã gia tăng về số lượng, đã đạt từ con số 20.000 người, chiếm khoảng 0,1% dân số cả nước. Tư sản Việt Nam đã từ một tầng lớp trở thành một giai cấp xã hội thực sự sau Chiến tranh thế giới thứ nhất. Do điều kiện kinh doanh, giai cấp tư sản Việt Nam tự phân thành hai bộ phận : tư sản mại bản và tư sản dân tộc.
Tư sản mại bản là một bộ phận những nhà đại lý cho tư bản nước ngoài, những nhà thầu khoán và những tư sản hùn vốn kinh doanh với tư sản Pháp và những nhà doanh nghiệp có quan hệ buôn bán với nước ngoài. Vì lợi ích kinh tế của bộ phận này gắn chặt với lợi ích kinh tế của tư bản thực dân.
Ngoài bộ phận trên, phần lớn các nhà tư sản Việt Nam đều là tư sản dân tộc. Họ có mặt trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt trong thương nghiệp. Nhiều xí nghiệp kinh doanh của họ được mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư về kỹ thuật như xưởng sản xuất sơn của Nguyễn Sơn Hà, công ty vận tải sông biển của Bạch Thái Bưởi, xưởng dệt của Lê Phát Vĩnh. Nhiều đồn điền ở Nam Kỳ rộng hàng nghìn mẫu thu hút hàng trăm công nhân. Sau chiến tranh, xuất hiện những cơ sở kinh doanh mới như Nhà máy gạch Hưng Ký ở Đáp Cầu (Bắc Ninh), xí nghiệp dệt Vĩnh An ở Huế. Lợi ích kinh tế của bộ phận tư sản dân tộc không đồng nhất với lợi ích kinh tế của chính quyền thực dân. Họ bị chèn ép từ nhiều phía, từ tư sản Pháp đến các nhà tư sản ngoại kiều. Vì thế, để tồn tại và phát triển, bộ phận này đã cố kết với nhau trong kinh doanh và do đó ít nhiều họ có tinh thần dân tộc.
Nhìn chung, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, giai cấp tư sản Việt Nam lớn mạnh và trưởng thành. Đại diện cho thế lực kinh tế của giai cấp xã hội đang lên này là những nhà doanh nghiệp sáng giá như Trương Văn Bền, Bạch Thái Bưởi;, Nguyễn Sơn Hà, Lê Phát Vĩnh.
Dẫu vậy, giai cấp tư sản Việt Nam còn rất ít về số lượng cũng như vốn liếng. Tổng số vốn kinh doanh của họ chỉ bằng khoảng 5% số vốn của tư bản nước ngoài. Tư sản Việt Nam chủ yếu kinh doanh trong thương nghiệp, ít kinh doanh trong khu vực sản xuất. Trên thương trường, giai cấp tư sản Việt Nam lại đụng độ không cân sức với hai đối thủ : tư sản Pháp và tư sản Hoa kiều.
b) Sự hình thành hệ thống đô thị kiểu phương Tây
Quá trình hình thành hệ thống thành thị kiểu phương Tây ở nước ta gắn chặt với công cuc khai thác thuộc địa lần thứ nhất, được đẩy mạnh và hoàn thiện trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Trong những năm 20 và 30 của thế kỷ này, một hệ thống thành thị kiểu phương Tây đã hình thành với 3 cấp độ: Thành phố cấp 1 : (Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng) ; thành phố cấp 2: (Hải Dương, Nam Định, Vinh, Đà Nẵng, Chợ Lớn) ; thành phố cấp 3 (những thị xã trực thuộc tỉnh như Bắc Ninh, Hưng Yên, Đồng Hới...) và dưới đó là hàng trăm thị trấn và thị tứ. Cùng với sự lớn mạnh của các đô thị, số thị dân tăng nhanh. Năm 1928, thành phố Hà Nội đã có 130.000 dân, Huế - 41.600 dân, Sài Gòn - 125.000 dân, Cho đến những năm 1930, dân số thành phố đã chiếm 8% - 10% dân số cả nước.
Trong quá trình sinh tồn, thị dân đã tạo ra một lối sống riêng, một phong tục tập quán riêng, vừa kế thừa những giá trị truyền thống, nhưng đồng thời cũng có những nét khác với lối sống của nông dân. Một hệ thống thành thị phát triển, thị dân trở nên đông đúc là những tiền đề, những điều kiện để tiếp nhận văn hóa phương Tây. Từ đó, trong các dạng thức sinh hoạt chính trị và văn hóa chúng ta mới có các đảng phái chính trị, các nhà xuất bản, các dòng báo chí, các thể loại văn học nghệ thuật mới như kịch nói, điện ảnh .. xuất hiện những quan niệm mới về bố trí không gian sống và nghỉ ngơi trong kiến trúc vv... Tóm lại, với sự hình thành và hoàn thiện một hệ thống thành thị kiểu phương Tây, trong xã hội Việt Nam đã xuất hiện nền văn minh đô thị, một nền văn minh tiên tiến thúc đẩy xã hội Việt Nam vươn lới.
4. Tình hình văn hóa tư tưởng
Cùng với sự đầu tư khai thác thuộc địa gia tăng sau chiến tranh, đời sống kinh tế và xã hội nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ. Một nền kinh tế với kiến trúc đa ngành đã xuất hiện. Một hệ thống đô thị đã hình thành và phát triển. Một nền giáo dục Pháp – Việt, sau nhiều lần cải cách và tìm kiếm những mô hình hợp lý, đã phát huy tác dụng. Các cơ sở in ấn, xuất bản đã xuất hiện ở các thành phố lớn. Hàng loạt những tờ báo, tạp chí chữ Pháp và Quốc ngữ đã ra đời. Đó chính là những tiền đề để tiếp nhận những trào lưu tư tưởng mới, những thành tựu khoa học - kỹ thuật, những loại hình vãn học – nghệ thuật phương Tây tràn vào. Chính vì vậy, thập kỷ 20 trong lịch sử nước ta được xem như là giai đoạn giao thoa, đan xen giữa các giá trị văn hoá truyền thống và văn hoá ngoại nhập, giữa nền văn hoá thực dân, nền văn hoá chính thống và nền văn hoá mới, văn hoá tiến bộ, cách mạng định hình. Đó chính là cuộc chiến đấu không tuyên bố trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Chính quyền thực dân sớm có ý thức sử dụng văn hoá như một thứ vũ khí được quảng bá cho tư tưởng "Pháp – Việt đề huề", "Pháp - Nam hợp tác", đang tạo ra một bầu không khí chính trị ổn định có lợi cho việc gọi vốn đầu tư vào Đông Dương. Nhằm mục đích đó Pháp đã cho phép Phạm Quỳnh ra tờ Nam Phong tạp chí 1917) và cho lập Hội Khai trí Tiến Đức (1919) để tập hợp lực lượng trong giới thượng lưu. Trên các phương tiện thông tin đại chúng lúc đó xuất hiện những bài viết của các học giả thân Pháp tán dương chủ trương "Pháp-việt đề huề", trình bày các chủ thuyết cai trị như thuyết "Trực trị" và thuyết "Quân chủ lập hiến". Cùng với việc trên, báo chí thực dân đã bắt đầu tung ra những bài viết bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản, lãnh tụ LêNin và Cách mạng tháng Mười Nga. Nói một cách khác, trên bình diện tư tưởng, báo chí thực dân đã tiến hành chủ nghĩa chống cộng khi ở xứ này chưa có chủ nghĩa cộng sản, thậm chí là mầm mống.
Đối lập với nền văn hoá thực dân, văn hoá nô dịch đó là nền văn hoá mới tiến bộ, cách mạng. Khởi đầu là dòng báo chí tiến bộ với tờ báo La Cloche fêlée (Chuông rạn) và L’Annam (Nước Nam) của Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường. Tiếp đó, xuất hiện các Thư xã (Nhà xuất bản) Sài Gòn, Huế, Hà Nội; nhờ đó mà các tác phẩm văn học mới được dân thành thị đón nhận. Với sự xuất hiện tác phẩm Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (1925), lần đầu tiên trên văn đàn nước ta, lối kết cấu theo chương hồi được thay bằng lối kết cấu theo quy định luật tâm lý, lễ giáo phong kiến bị đả kích, tự do cá nhân được đề cao.
Năm 1922 vở kịch nói đầu tiên Chén thuốc độc của Vũ Đình Long được công diễn thành công tại Nhà hát lớn Hà Nội. Tiếp đến, Nguyễn Hữu Kim với Bạn và vợ, Vi Huyền Đắc với Hoàng Mộng Điệp, Nam Xương với Chàng Ngốc(3). Có thể nói các tác phẩm văn học sau chiến tranh đã hướng tới việc phê phán xã hội đương thời bằng cách bóc trần cảnh lầm than, tủi nhục của những người lao động, mô tả những xung đột bi kịch giữa lễ giáo phong kiến đã lỗi thời và tự do cá nhân tư sản ; đồng thời công khai bóc lộ tình cảm yêu nước thương nòi. Tất cả những điều đó là sư chuẩn bị cho nền văn học hiện thực phê phán xuất hiện.
Nguồn: Nguyễn Quang Ngọc 2006, Chương IX – Việt Nam từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất đến năm 1930, Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, Giáo Dục, Tr.246 – 254.