Vo Minh Tap
New member
- Xu
- 0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LỊCH SỬ
--------
CHUYÊN ĐỀ: LỊCH SỬ TRUNG QUỐC
ĐỀ TÀI:
CÔNG CUỘC CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA Ở TRUNG QUỐC
TỪ 19878 ĐẾN NAY
[FONT="]
[/FONT] Hơn 30 năm qua, kể từ Hội nghị Trung ương III khóa XI Đảng cộng sản Trung Quốc (12/1978), Trung Quốc đã bước vào thời kỳ cải cách mở cửa và xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc cao, tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước, đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế quốc tế được nâng cao.
VỀ THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ
Ở Trung Quốc cải cách thể chế chính trị nói chung được nhìn nhận là tiến hành sau cải cách kinh tế một bước. Và điều này được coi là huyết sách đúng đắn dẫn tới thành công của công cuộc cải cách nói chung. Nhưng mặt khác cải cách thể chế chính trị ở Trung quốc trong 30 năm đã diễn ra một cách khó khăn, chậm chạp, ảnh hưởng tới cải cách và phát triển kinh tế xã hội. Trong quá trình 30 năm đó, cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc đã trải qua 5 giai đoạn ngắn.
* Giai đoạn thứ nhất: cuối năm 1978 – 1980:
Mặc dù lúc này Đảng Cộng Sản (ĐCS) Trung Quốc chưa đề ra nhiệm vụ cải cách thể chế chính trị nhưng trên thực tế cải cách chính trị đã được bắt đầu. Hội nghị TW III khóa XI đã phê phán triệt để chính trị độc tài trong cách mạng văn hóa và chủ trương dân chủ hóa đời sống chính trị trong nước để đảm bảo nền dân chủ nhân dân, tăng cường pháp chế XHCN, chế độ hóa, pháp luật hóa dân chủ, làm cho chế độ và pháp luật có tính ổn định...
Phân tích nguyên nhân dẫn tới bi kịch trong cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình cho rằng: “những sai lầm chúng ta mắc phải trước đây, tất nhiên có liên quan đến tư tưởng, tác phong của một số nhà lãnh đạo. Nhưng quan trọng hơn là vấn đề tổ chức, chế độ công tác. Chế độ tổ chức, chế độ công tác tốt thì người xấu không thể làm bậy. Chế độ không tốt thì người tốt cũng không làm được việc tốt, thậm chí có thể trở thành người xấu”.
Do vậy sau khi chuyển sang cải cách, Đặng tiểu Bình đã chủ trương thể chề hóa, pháp luật hóa nền dân chủ, làm cho những thể chế pháp luật đó không thể thay đổi do thay đổi người lãnh đạo, không thay đổi do sự thay đổi quan điểm và sự quan tâm của người lãnh đạo. Có thể nói là bước mở đẩu tiến tới thiết lập nhà nước pháp quyền ở Trung Quốc. Mặc dù lúc bấy giờ ĐCS Trung Quốc chưa chính thức đặt vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền.
· Giai đoạn 2: 1980 – 1987 (Đại hội XIII)
Đây là giai đoạn cải cách thể chế kinh tế đoược triển khai một cách toàn diện và bắt đầu gặp trở ngại từ thể chế chính trị khôngc òn thích hợp. Do vậy cải cách chính trị càng trở nên cấp thiết. Đại hội cho rằng không cải cách thể chế chính trị thì khôngt hể cải cách thể chế kinh tế. Hai công cuộc cải cách này cần thích ứng lẫn nhau, phối hợp nhau và cần coi cải cách TCCT là một tiêuc chí để đánh giá công cuộc cải cách nói chung đã đi vào chiều sâu.
Trong bài phát biểu vào tháng 11/1986, Đặng Tiểu Bình cho rằng: “lúc chúng ta dề ra cải cách la 2 bao gồm cải cách TCCT. Bây giờ cải cách thể chế kinh tế đã đi trước một bước càng cảm nhận sâu sắc tất yếu của cải cách thề chế chính trị. Không thể cải cách TCCT thì sẽ không giữ vững được thành quả cải cách kinh tế... Nội dung cải cách TCCT đang được thảo luận... đất nước rộng lớn, tình hình phức tạp, cải cách khộng dễ dàng, vì vậy phải thận trọng trong quyết sách. Mục đích tiến hành cải cách TCCT nói chung là khắc phục chủ nghĩa quan liêu, phát triển dân chủ XHCN phát huy tính tích cực của nhân dân và đơn vị cơ sở. Cần thông qua cải cách, giải quyết tốt quan hệ giữa pháp trị và nhân trị, giải quyết tốt quan hệ giữa đảng với chính quyền. Phải giữ vũng sự lãnh đạo của Đảng, nhưng Đảng phải biết lãnh đạo, Đảng và chính quyền phải phân biệt rõ”.
· Giai đoạn thứ ba: Đại hội XIII (1987) – trước Đại hội XV (1997)
Cuối những năm 80 – đầu những năm 90 biến động chính trị dẫn đến sự sụp đổ chế độ XHCN ở Đông Âu, Liên Xô và vụ trấn áp phong trào sinh viên trên quảng trường Thiên An Môn mùa hè năm 1989 đã ảnh hưởng tới tiến trình cách TCCT ở Trung Quốc. Sau sự kiện Thiên An Môn, Trung quốc chuyển sang 3 năm “chữa trị, chỉnh đốn” (1989 – 1991). Bấy giờ xuất hiện xu hướng hãm cải cách để giữ vững XHCN. Nhưng đến ĐH IV đã đề ra nhiệm vụ “Ra sức thúc đẩy cải cách TCCT, làm cho dân chủ và pháp chế XHCN phát triển mạnh mẽ”.
· Giai đoạn thứ tư: ĐH XV (1997) – ĐH XVI (2002).
ĐH XV ĐCS Trung Quốcđánh dấu một bước đột phá trong tiến trình cải cách TCCT ở Trung Quốc. Bước đột phá đó thể hiện trong ba vấn đề. Một là đã xác nhận khái niệm “pháp trị” (pháp quyền), chủ trương “quản lí đất nước bằng luật pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN”. Từ “pháp chế” đến “pháp trị” là một cuộc đột phá lớn, ở Trung Quốc trước đó người ta vẫn ngần ngại không dám bàn về khái niệm “nhân trị” và “pháp trị”. Hai là đã xác nhận khái niệm “nhân quyền”, chủ trương “tôn trọng và bảo vệ nhân quyền”. ở Trung Quốc trước đó người ta cũng né tránh nói về nhân quyền trong khi phương Tây thường xuyên dùng vấn đề nhân quyền để công kích và đẩy Trung Quốc vào thế bị động. Thứ ba là xác định khái niệm dân quyền cho rằng quyền “quyền lực của chúng ta là do nhân dân giao phó”, và đề ra nhiệm vụ “hoàn thiện cơ chế giám sát dân chủ”. Sau cách bộ máy hành chính qui mô lớn từ trung ương đến địa phương, thu được kết quả đáng khả quan, thu được kết quả đáng khích lệ, nhất là cải cách bộ máy Quốc vụ viện. Tuy nhiên cải cách thể chế chính trị không chỉ là cải cách bộ máy hành chính, mà nó còn đòi hỏimột cải cách đồng bộ trên mọi lĩnh vực của TCCT, nhất là mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo với nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị....
· Giai đoạn thứ năm: là giai đoạn sau đại hội XVI Đảng cộng sản Trung Quốc
Đại hộ XVI là đại hội chuyển giao quyền lực từ thế hệ lãnh đạo thứ ba sang thế hệ lãnh đạo thứ tư của Đảng cộng sản Trung Quốc do ông HỒ Cẩm Đào làm tổng bí thư, là đại hội đầu tiên của Đảng cộng sản Trung Quốc trong thế kỉ XXI, đưa cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốctiếp tục đi vào chiều sâu, nhất là vấn đề xây dựng Đảng, quan hệ giữa Đảng với quần chúng. Trước đó Trung quốc đã có khái niệm “ văn minh vật chất”, Đại hội XVI bổ sung thêm khái niệm “ văn minh chính trị” và chủ trương “ phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn minh chính trị xã hội chủ nghĩa là mục tiêu quan trọng của công cuộc xây dựng xã hội toàn diện khá giả”
Trong bối cảnh lịch sử mới, vấn đề xây dựng Đảng nói chung và quan hệ giữa Đảng với quần chúng nói riêng càng là khâu then chốt trong xây dựng nền chính trị xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. Đại hội XVI đã thông qua điều lệ sửa đổi của Đảng, quy định “ Đảng cộng sản Trung Quốc là đội tiên phong của giai cấp công nhân Trung Quốc, đồng thời là đội tiên phong của giai cấp công nhân Trung Quốc, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân Trung Quốc và dân tộc Trung Hoa....
ĐCS Trung Quốc lấy chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình, và tư tưởng quan trọng ba đại diện làm kim chỉ nam hành động của mình”. Đại hội XVI đã ra nhiệm vụ cải cách và phát triển “nền chính trị XHCN đặc sắc Trung quốc”, cụ thể kiên trì và hoàn thiện chế độ dân chủ XHCN, tăng cường xây dựng pháp chế XHCN, cải cách và hoàn thiện phương thức lãnh đạo và phương thức cầm quyền của Đảng, cải cách và hoàn thiện cơ chế quyết định đường lối chính sách, đưa cải cách thể chế quản lí hành chính vào chiều sâu, đẩy mạnh cải cách thể chế tư pháp, đi sâu vào cải cách chế độ tổ chức cán bộ, tăng cường chế tài và giám sát quyền lực, giữ vững ổn định xã hội.
Quán triệt tinh thần của Đại hội XVI, Hội nghị TW IV khóa XVI (năm 2004) đã ra “Nghị quyết của TW ĐCS Trung Quốc về tăng cường xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng”.
Trong mấy năm vừa qua, cải cách thể chế chính trị