Tại Guy-An, Pháp dự định làm một con đường dài chừng 300km xuyên I-ni-ni nối liền khu La-Phô với Ăng-Ghi xuyên qua Xanh-Ti thẳng về Cay-En. Đây là con đường chiến lược và là con đường đá lớn thứ nhì ở Guy-An.
Có con đường này sẽ giúp việc khai thác tài nguyên các cánh rừng ở I-ni-ni tiện lợi hơn, các lâm đặc sản được vận chuyển ra tàu biển nhanh chóng hơn. Đặc biệt, nhờ con đường này mà các lực lượng vũ trang của Pháp khỏi lo bị bắt sống trọn ổ mỗi khi có chiến tranh.
500 mạng người đổi 8km đường
Chính vì lẽ đó, chính quyền Pháp tại Guy-An đã huy động tất cả các sắc phạm nhân từ đen, trắng, đỏ, vàng tại bốn ngục thất bắt tay vào mở đường. Riêng số phạm nhân tại ngục thất Ăng-Ghi (dành riêng cho phạm nhân thuộc địa Đông Dương) được chia làm 12 kíp, mỗi kíp 50 người. Nhóm một gồm sáu kíp đầu bắt đầu từ hướng La-Phô, nhóm hai gồm sáu kíp còn lại bắt đầu từ bờ sông Sin-Na-Ma-Ri. Cả hai nhóm sẽ gặp nhau trên bờ sông Ma-Ra để cùng kiến thiết cây cầu cuối cùng của tuyến đường.
Mỗi phạm nhân được phát cho một dụng cụ lao động để mở đường. Cứ thế kẻ phát cỏ, cưa gỗ, người cuốc đất phá đá, những mét đường đầu tiên bắt đầu hé lộ. Nhưng vì gai góc quá nhiều, khí hậu lại ẩm thấp, lương thực chỉ là cơm nắm ăn với lá chua, trái đắng rừng... nên chẳng bao lâu đã có vài người bắt đầu gục ngã. Người sình bụng lên như cái trống. Chỉ cần thế, đám lính Pháp lập tức ném xuống sông làm mồi cho cá sấu.
Để khủng bố tinh thần, bọn lính da đen còn dùng lưỡi lê đâm xuyên qua bụng những người bị ốm không làm được việc một cách tận lực rồi dìm xuống suối cho cá sấu, lươn điện (một loại lươn phóng ra điện) ăn, rỉa. Trong quá trình lao động khổ sai, không ít người đã bỏ mạng giữa rừng sâu vì bị rắn độc cắn, cọp, beo vồ ăn thịt mất xác.
Công việc đang tiến hành thì phát sinh một bệnh dịch kỳ quái. Trước hết người bệnh bị nóng hầm, mắt đỏ ngầu, sau đó đi tiểu ra nước đỏ như máu. Bệnh dịch không trừ một ai từ phạm nhân da màu đến lính Pháp da trắng. Cứ thế ngày nào cũng có canô chở xác phạm nhân và lính về Cay-En. Một bác sĩ đã được phái đến tìm hiểu bệnh tình nhưng rồi cũng đành bó tay.
Thời gian trôi qua, vì dịch bệnh mà chẳng mấy chốc người vơi đi trông thấy. Đầu năm 1938, khi viên toàn quyền mới của Guy-An tên Masson de Saint Félix nhận thấy số phạm nhân bị sút mất quá nhiều, nhất là số lính trông coi phạm nhân, nên ông ra lệnh đình chỉ việc phá rừng mở con đường nói trên. Tính ra con đường ấy mới làm xong chưa đầy 8km nhưng số phạm nhân bỏ mạng lên đến gần 500 người.
"Khẩu hiệu của ngục thất Guy-An là phải làm cho phạm nhân biết làm việc bằng chân tay, làm việc cho mệt nhừ, cho ê ẩm thân xác. Có như thế, chúng mới im cái mồm nói chính trị, xúi giục dân chúng làm loạn" - một tên lính da đen rạch mặt đã nói với chúng tôi như vậy.
Đi đào vàng
Vàng, vàng ở trong nước suối, vàng lẫn vào cát ở hai bên bãi con sông, vàng chìm trong đất sỏi ở các đồi cao, ở khe đá. Vàng ở khắp nơi I-ni-ni, Guy-An. Vào thời ấy, từng đoàn người dân xứ Guy-An đã lần ngược theo các con sông Ma-rô-ni, Ma-Na, Approvagne, Oyapek để đãi cát tìm cho bằng được thứ kim loại ấy. Lợi nhuận kếch sù từ vàng đã hối thúc viên toàn quyền Guy-An hạ lệnh cho Chúa ngục bắt tất cả phạm nhân phải đi đãi cát tìm vàng.
Nhưng nước suối lạnh như băng giá, tất cả mọi người phải đứng ngâm nửa thân mình dưới nước. Ngày nào cũng từ sáng đến tối và chỉ được nghỉ 15 phút vào hồi 12 giờ trưa để ăn cơm mà thôi. Trên đầu, từng đàn mòng xanh, mòng đỏ, mòng vàng bay như ong vỡ tổ, chỉ cần chờ cơ hội là xông xuống ghim vào đầu, vào cổ mọi người để hút máu.
Ngoài lũ mòng hút máu thì giống muỗi vàng cũng là nỗi ám ảnh kinh hoàng của các phạm nhân xứ Đông Dương. Chỉ cần 20 giây, nếu không cử động, lập tức những cánh tay dùng để đãi vàng sẽ nhuốm một màu vàng của muỗi. Đến nước đó chỉ còn cách dìm mình xuống dòng suối mới mong thoát khỏi nạn ruồi vàng. Cứ làm việc ròng rã như thế suốt đúng một tuần lễ thì có đoàn người khác đến thay.
Chúng tôi được phép nghỉ xả hơi hai tuần nhưng không quên đem vàng về cống nạp cho chúa ngục. Cứ thế mỗi tuần chúng gửi về chính quốc 50-60kg vàng do phạm nhân kiếm được. Cứ mỗi ngày, mỗi phạm nhân mang về một gram vàng cống nộp thì sẽ thoát khỏi mười hèo mây quất túi bụi vào đầu, cổ. Còn nếu không sẽ bị chúa ngục xua chó béc-giê cắn đến tử thương. Xác phạm nhân chết chúng đem ra làm mồi nhử cọp hoặc cá sấu để bắt lấy da đem bán nhằm bù vào số tiền thiếu hụt của chúng. Với chúng, "không lấy được vàng thì da cọp vậy".
Trước cảnh tàn bạo dã man ấy, chúng tôi nhiều lần bàn tính với nhau tìm biện pháp thoát khỏi tai nạn đãi cát tìm vàng. Và rồi, trong một lần ngồi quan sát lũ chim bồ câu, một người trong hội đã phát hiện loài chim này thường xuyên ăn những vật dụng có màu sáng tựa mạt vàng. Lập tức chiêu thức "tìm vàng bằng chim bồ câu" đã được tính đến. Một kế hoạch huấn luyện lũ chim bồ câu tìm vàng thay người đã được vạch ra. Theo đó, chúng tôi lén lút lấy 150 gram vàng đãi được dụ mua một đôi chim bồ câu từ một tên giám thị Pháp - chủ nhân của 50 con chim bồ câu. Dần dần hắn ta đồng ý cho chúng tôi toàn quyền sử dụng lũ chim. Có chim, cả nhóm bắt tay vào việc.
Trước tiên là đi lượm lặt sái thuốc phiện của các quan Pháp vứt, đem về nấu thành nước rồi trộn lẫn với gạo sau đó cho lũ chim ăn. Dần dần chim quen hơi. Cứ thế sau một ngày đi kiếm ăn trên khắp các bãi vàng, đúng 5 giờ chiều khi tiếng kẻng nhà tù vang lên, lập tức lũ chim tụ bay về không thiếu một con. Phân chim được thu dọn kỹ càng, sau đó đem ra ngâm nước đãi lọc lấy vàng. Nhưng rồi số vàng mà lũ chim đem về vẫn kém nên con người vẫn phải tiếp tục đi đãi vàng. Nhưng dù sao lũ chim cũng đã làm giúp bớt một phần việc nặng nhọc cho chúng tôi.
Bài này được trích từ sách Từ Yên Bái đến các ngục thất Hỏa-Lò, Côn-Nôn, Guy-An của tác giả Hoàng Văn Đào, do NXB Sống Mới (Sài Gòn) ấn hành cuối năm 1957.
Cuốn sách này do ông Nguyễn Sinh Duy (Đà Nẵng) cung cấp cho Tuổi Trẻ sau khi đọc loạt bài "Nhà lao An Nam tại Guyane". Ông Duy cho biết ngay sau khi NXB Sống Mới phát hành cuốn sách này, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ban lệnh thu hồi và tiêu hủy cuốn sách. "Là một người yêu sử nên tôi đã tìm mọi cách lùng mua. Cuối cùng tôi cũng sở hữu được cuốn tư liệu lịch sử quí hiếm này" - ông Duy nói.
Hoàng Văn Đào (Báo Tuổi Trẻ)
Có con đường này sẽ giúp việc khai thác tài nguyên các cánh rừng ở I-ni-ni tiện lợi hơn, các lâm đặc sản được vận chuyển ra tàu biển nhanh chóng hơn. Đặc biệt, nhờ con đường này mà các lực lượng vũ trang của Pháp khỏi lo bị bắt sống trọn ổ mỗi khi có chiến tranh.
500 mạng người đổi 8km đường
Chính vì lẽ đó, chính quyền Pháp tại Guy-An đã huy động tất cả các sắc phạm nhân từ đen, trắng, đỏ, vàng tại bốn ngục thất bắt tay vào mở đường. Riêng số phạm nhân tại ngục thất Ăng-Ghi (dành riêng cho phạm nhân thuộc địa Đông Dương) được chia làm 12 kíp, mỗi kíp 50 người. Nhóm một gồm sáu kíp đầu bắt đầu từ hướng La-Phô, nhóm hai gồm sáu kíp còn lại bắt đầu từ bờ sông Sin-Na-Ma-Ri. Cả hai nhóm sẽ gặp nhau trên bờ sông Ma-Ra để cùng kiến thiết cây cầu cuối cùng của tuyến đường.
Mỗi phạm nhân được phát cho một dụng cụ lao động để mở đường. Cứ thế kẻ phát cỏ, cưa gỗ, người cuốc đất phá đá, những mét đường đầu tiên bắt đầu hé lộ. Nhưng vì gai góc quá nhiều, khí hậu lại ẩm thấp, lương thực chỉ là cơm nắm ăn với lá chua, trái đắng rừng... nên chẳng bao lâu đã có vài người bắt đầu gục ngã. Người sình bụng lên như cái trống. Chỉ cần thế, đám lính Pháp lập tức ném xuống sông làm mồi cho cá sấu.
Để khủng bố tinh thần, bọn lính da đen còn dùng lưỡi lê đâm xuyên qua bụng những người bị ốm không làm được việc một cách tận lực rồi dìm xuống suối cho cá sấu, lươn điện (một loại lươn phóng ra điện) ăn, rỉa. Trong quá trình lao động khổ sai, không ít người đã bỏ mạng giữa rừng sâu vì bị rắn độc cắn, cọp, beo vồ ăn thịt mất xác.
Công việc đang tiến hành thì phát sinh một bệnh dịch kỳ quái. Trước hết người bệnh bị nóng hầm, mắt đỏ ngầu, sau đó đi tiểu ra nước đỏ như máu. Bệnh dịch không trừ một ai từ phạm nhân da màu đến lính Pháp da trắng. Cứ thế ngày nào cũng có canô chở xác phạm nhân và lính về Cay-En. Một bác sĩ đã được phái đến tìm hiểu bệnh tình nhưng rồi cũng đành bó tay.
Thời gian trôi qua, vì dịch bệnh mà chẳng mấy chốc người vơi đi trông thấy. Đầu năm 1938, khi viên toàn quyền mới của Guy-An tên Masson de Saint Félix nhận thấy số phạm nhân bị sút mất quá nhiều, nhất là số lính trông coi phạm nhân, nên ông ra lệnh đình chỉ việc phá rừng mở con đường nói trên. Tính ra con đường ấy mới làm xong chưa đầy 8km nhưng số phạm nhân bỏ mạng lên đến gần 500 người.
"Khẩu hiệu của ngục thất Guy-An là phải làm cho phạm nhân biết làm việc bằng chân tay, làm việc cho mệt nhừ, cho ê ẩm thân xác. Có như thế, chúng mới im cái mồm nói chính trị, xúi giục dân chúng làm loạn" - một tên lính da đen rạch mặt đã nói với chúng tôi như vậy.
Đi đào vàng
Vàng, vàng ở trong nước suối, vàng lẫn vào cát ở hai bên bãi con sông, vàng chìm trong đất sỏi ở các đồi cao, ở khe đá. Vàng ở khắp nơi I-ni-ni, Guy-An. Vào thời ấy, từng đoàn người dân xứ Guy-An đã lần ngược theo các con sông Ma-rô-ni, Ma-Na, Approvagne, Oyapek để đãi cát tìm cho bằng được thứ kim loại ấy. Lợi nhuận kếch sù từ vàng đã hối thúc viên toàn quyền Guy-An hạ lệnh cho Chúa ngục bắt tất cả phạm nhân phải đi đãi cát tìm vàng.
Nhưng nước suối lạnh như băng giá, tất cả mọi người phải đứng ngâm nửa thân mình dưới nước. Ngày nào cũng từ sáng đến tối và chỉ được nghỉ 15 phút vào hồi 12 giờ trưa để ăn cơm mà thôi. Trên đầu, từng đàn mòng xanh, mòng đỏ, mòng vàng bay như ong vỡ tổ, chỉ cần chờ cơ hội là xông xuống ghim vào đầu, vào cổ mọi người để hút máu.
Ngoài lũ mòng hút máu thì giống muỗi vàng cũng là nỗi ám ảnh kinh hoàng của các phạm nhân xứ Đông Dương. Chỉ cần 20 giây, nếu không cử động, lập tức những cánh tay dùng để đãi vàng sẽ nhuốm một màu vàng của muỗi. Đến nước đó chỉ còn cách dìm mình xuống dòng suối mới mong thoát khỏi nạn ruồi vàng. Cứ làm việc ròng rã như thế suốt đúng một tuần lễ thì có đoàn người khác đến thay.
Chúng tôi được phép nghỉ xả hơi hai tuần nhưng không quên đem vàng về cống nạp cho chúa ngục. Cứ thế mỗi tuần chúng gửi về chính quốc 50-60kg vàng do phạm nhân kiếm được. Cứ mỗi ngày, mỗi phạm nhân mang về một gram vàng cống nộp thì sẽ thoát khỏi mười hèo mây quất túi bụi vào đầu, cổ. Còn nếu không sẽ bị chúa ngục xua chó béc-giê cắn đến tử thương. Xác phạm nhân chết chúng đem ra làm mồi nhử cọp hoặc cá sấu để bắt lấy da đem bán nhằm bù vào số tiền thiếu hụt của chúng. Với chúng, "không lấy được vàng thì da cọp vậy".
Trước cảnh tàn bạo dã man ấy, chúng tôi nhiều lần bàn tính với nhau tìm biện pháp thoát khỏi tai nạn đãi cát tìm vàng. Và rồi, trong một lần ngồi quan sát lũ chim bồ câu, một người trong hội đã phát hiện loài chim này thường xuyên ăn những vật dụng có màu sáng tựa mạt vàng. Lập tức chiêu thức "tìm vàng bằng chim bồ câu" đã được tính đến. Một kế hoạch huấn luyện lũ chim bồ câu tìm vàng thay người đã được vạch ra. Theo đó, chúng tôi lén lút lấy 150 gram vàng đãi được dụ mua một đôi chim bồ câu từ một tên giám thị Pháp - chủ nhân của 50 con chim bồ câu. Dần dần hắn ta đồng ý cho chúng tôi toàn quyền sử dụng lũ chim. Có chim, cả nhóm bắt tay vào việc.
Trước tiên là đi lượm lặt sái thuốc phiện của các quan Pháp vứt, đem về nấu thành nước rồi trộn lẫn với gạo sau đó cho lũ chim ăn. Dần dần chim quen hơi. Cứ thế sau một ngày đi kiếm ăn trên khắp các bãi vàng, đúng 5 giờ chiều khi tiếng kẻng nhà tù vang lên, lập tức lũ chim tụ bay về không thiếu một con. Phân chim được thu dọn kỹ càng, sau đó đem ra ngâm nước đãi lọc lấy vàng. Nhưng rồi số vàng mà lũ chim đem về vẫn kém nên con người vẫn phải tiếp tục đi đãi vàng. Nhưng dù sao lũ chim cũng đã làm giúp bớt một phần việc nặng nhọc cho chúng tôi.
Bài này được trích từ sách Từ Yên Bái đến các ngục thất Hỏa-Lò, Côn-Nôn, Guy-An của tác giả Hoàng Văn Đào, do NXB Sống Mới (Sài Gòn) ấn hành cuối năm 1957.
Cuốn sách này do ông Nguyễn Sinh Duy (Đà Nẵng) cung cấp cho Tuổi Trẻ sau khi đọc loạt bài "Nhà lao An Nam tại Guyane". Ông Duy cho biết ngay sau khi NXB Sống Mới phát hành cuốn sách này, chính quyền Ngô Đình Diệm đã ban lệnh thu hồi và tiêu hủy cuốn sách. "Là một người yêu sử nên tôi đã tìm mọi cách lùng mua. Cuối cùng tôi cũng sở hữu được cuốn tư liệu lịch sử quí hiếm này" - ông Duy nói.
Hoàng Văn Đào (Báo Tuổi Trẻ)