tại sao quá trình CNH-HĐH phải đi đôi với sự phát triển bền vững!
làm cho mình ngay nhé!
Ngày nay, khả năng, trình độ tăng trưởng, phát triển kinh tế là điều kiện quyết định sự tồn tại của một quốc gia trong xu hướng phát triển chung của thế giới. Xu thế khách quan này bắt nguồn từ quy luật chung cho tất cả các quốc gia muốn thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu đều đặt cho mình mục tiêu phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao, lâu dài và bền vững. Song, cần phải xác định tăng trưởng, phát triển kinh tế là một quá trình trong dài hạn, có những nội dung khác nhau ở từng giai đoạn phát triển và cho đến nay, những nội dung đó được xác định: tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế, phát triển bền vững. Nên mỗi quốc gia cần chọn cho mình nội dung, hướng phát triển phù hợp với yêu cầu, điều kiện và phù hợp xu hướng quốc tế. Trong đó, phát triển bền vững ngày càng trở thành trung tâm của sự phát triển trong mọi lĩnh vực khi xã hôi bước vào thế kỷ 21. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn nêu trên, VN cần phát triển theo hướng phát triển bền vững.
Một vấn đề trung tâm, vấn đề xuất phát để nói đến sự phồn vinh của các quốc gia là TTKT. Tất cả các quốc gia muốn thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu đều đặt cho mình mục tiêu phấn đấu TTKT cao, lâu dài và trên cơ sở kinh tế đó, họ tiếp tục thực hiện các mục tiêu chính trị-xã hội quan trọng khác.
TTKT chính là sự gia tăng về mặt quy mô sản lượng của nền kinh tế trong 1 thời kỳ nhất định (thường được ấn định là 1 năm). Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta thường dùng mức tăng lên của tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Mức tăng đó thường tính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hay tính bình quân theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước đó.
Thế nhưng, các nghiên cứu cho thấy TTKT chỉ là điều kiện cần chứ chưa là điều kiện đủ cho giảm nghèo. Tác động giảm nghèo của TTKT phụ thuộc vào vấn đề phân phối thu nhập. Trong bất kỳ tình huống nào, nếu chỉ dựa vào TTKT để giảm nghèo thì vô cùng ảo tưởng vì trên thực tế TTKT nền KTTT luôn có xu hướng đem lại nhiều lợi ích cả tuyệt đối và tương đối cho người giàu vì họ là những người có lợi thế về tất cả các mặt đối với người nghèo. Đó là chưa nói đến những vấn đề KT-XH- chính trị khác mà bản thân TTKT không thôi thì không thể giải quyết.
Từ sự giới hạn của TTKT, khái niệm PTKT ra đời. Bởi mục tiêu của mỗi quốc gia là tạo sự tiến bộ toàn diện. Sự tiến bộ của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định cần được xem xét trên hai mặt, đó là sự gia tăng về kinh tế và sự tiến bộ về xã hội. PTKT thường được hiểu xoay quanh hai nội dung này. Như vậy, PTKT chính là quá trình tăng tiến lâu dài trong đó bao gồm sự TTKT, sự chuyển dịch CCKT theo xu hướng hợp lý và hiệu quả và chất lượng cuộc sống của nhân dân không ngừng được nâng lên. Nội dung PTKT rộng hơn, lớn hơn nội dung TTKT.
PTKT phản ánh sự vận động của nền kinh tế từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn. Trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường được phản ánh qua các chỉ số: Trước hết là nhóm các chỉ số xã hội, bao gồm các chỉ tiêu về chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, trình độ học vấn của dân cư và mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân bao hàm cả tình trạng đói nghèo, mức thất nghiệp, bất bình đẳng về thu nhập. Thứ hai là nhóm các chỉ số về cơ cấu kinh tế, bao gồm: Chỉ số về tỷ trọng ba ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản lượng trọng nước (GDP); chỉ số về tiết kiệm đầu tư và chỉ số về tỷ lệ dân số đô thị và nông thôn. Sau cùng là các chỉ số tổng hợp về trình độ phát triển, bao gồm: Chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số về chất chất lượng cuộc sống (PQLI) và chỉ số nghèo của con người (HPI).
Từ thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng KH-CN bùng nổ tạo ra NSLĐ cao, và vì vậy chất lượng sống được nâng cao. Những của cải được tạo ra ngày càng nhiều đã phần nào thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người, đẩy nền văn minh nhân loại phát triển nhanh. Nhưng, cũng từ chính sự phát triển ấy đã làm nảy sinh một số vấn đề như: Tăng trưởng dân số quá nhanh, tiêu dùng quá mức của cải, tài nguyên; thiên tai, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng đến sự phát triển KT-XH, làm giảm chất lượng sống, sự khai thác bừa bãi thiên nhiên dẫn đến sự ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng dẫn đến tình trạng quả đất ngày một nóng lên, tầng ozon bị hỏng .. làm đe dọa sự sống trên trái đất, đe dọa cuộc sống của con người trong hiện tại và tương lai.
Đứng trước nguy cơ do sự tàn phá hủy hoại môi trường, sự giảm sút những cơ hội phát triển của thế hệ tương lai đã buộc các quốc gia phải xem xét lại nội dung phát triển với yêu cầu là phải gắn vấn đề môi trường, cuộc sống của các thế hệ tương lai với nội dung phát triển, nhằm khắc phục những hạn chế vừa nảy sinh mà khái niệm PTKT chưa đề cập đến trong xã hội đương đại. Đó là, môi trường và bền vững môi trường cũng như cuộc sống của các thế hệ, trách nhiệm của thế hệ trước với thế hệ sau. Từ đó người ta bắt đầu đưa ra khái niệm Phát triển bền vững.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: PTKT(nền tảng là TTKT), phát triển xã hội (mục tiêu là thực hiện tiến bộ, CBXH; XĐGN và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (mục tiêu là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự TTKT ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và CBXH; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.
Cụ thể hơn, Phát triển bền vững là sự phát triển KT-XH với tốc độ cao, liên tục trong thời gian dài dựa trên việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng không làm cạn kiệt tài nguyên, để lại hậu quả xã hội cho thế hệ tương lai. Nói cách khác, Phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển KT-XH mai sau, không làm giảm chất lượng sống của thế hệ tương lai.
Do đó, phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, chính vì thế mà các quốc gia trên thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử và đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21.
Không nằm ngoài tính quy luật chung đó, đối với nước ta, “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, … có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; …”. Từ đó, trong nhiều năm qua, Đảng và NN đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với VN mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của toàn cầu. Chính phủ đã ban hành và tích cực thực hiện "Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000" (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở VN. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển KT-XH của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH". Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng CSVN và trong Chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, TTKT đi đôi với thực hiện tiến bộ, CBXH và bảo vệ môi trường" và "Phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Tại ĐH X (2006) của Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển hơn 20 năm đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưỏng chỉ đạo về phát triển KT-XH nước ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong đó, bài học đầu tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát triển nhanh và bền vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và định hướng chính sách phát triển của NN, nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. Đó là quan điểm phát triển KT-XH bền vững mà trong đó nội dung bền vững được hiểu là bền vững về các mặt kinh tế-tài chính, môi trường, chính trị-xã hội, quốc phòng-an ninh, và văn hóa. Mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh.
Qua hơn 15 năm thực hiện từ sau Hội nghị Rio de Jlaniero, chiến lược Phát triển kinh tế xã hội của VN đã khẳng định phát triển bền vững là nền tảng cơ bản cho phát triển ở VN. Về kinh tế, trong thời gian qua nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng như: Tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao với tỷ lệ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm, (Giai đoạn 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bq là 8,2%, 1996-2000 là 6,9%, 2001-2005 là 7,5%, 2006-2007 là 8,32% và năm 2008 là 6,23%), cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của CN, DV, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp (Năm 2008, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,99% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,91%; khu vực dịch vụ chiếm 38,1%). Cơ cấu của từng ngành cũng có sự chuyển dịch dần theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh hơn đối với thị trường trong và ngoài nước. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên. Về xã hội, đã đạt đựơc nhiều thành tựu về phát triển KT-XH. Đầu tư của NN cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, hiện chiếm trên 25% vốn NSNN, trong đó đực biệt ưu tiên đầu tư cho XĐGN (từ 1986 đến nay, tỷ lệ đói nghèo giảm với khoảng 25 triệu người thoát khỏi đói nghèo, năm 2008 tỷ lệ hộ nghèo còn 13,5%), giải quyết việc làm, giáo dục đào tạo, tay nghề, y tế chăm sóc sức khẻo nhân dân, phòng chống các tệ nạn xã hội, KH-CN, bảo vệ môi trường cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản khác. So sánh thứ bậc của nước ta trên thế giới giữa chỉ số HDI và GDP bình quân đầu người cho thấy, HDI của VN cao hơn 26 bậc so với thứ bậc GDP bình quân đầu người. Tổ chức Phát triển của Liên Hợp quốc đã khẳng định, VN đã thành công trong việc chuyển hoá thành quả của sự tăng trưởng kinh tế thành chất lượng cao hơn tương ứng cho cuộc sống của người dân. VN cũng được thừa nhận là nước sẽ về đích sớm trong việc thực hiện mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đã có nhiều nỗ lực nhằm khắc phục những hậu quả môi trường, do chiến tranh để lại. Nhiều chính sách quan trọng về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đã được xây dựng và thực hiện.
Song, bên cạnh đó do tác động của hàng lọat các yếu tố trong và ngoài nước; yếu tố chủ quan và khách quan mà tựu trung là do nền kinh tế VN còn quá lạc hậu, năng lực cạnh tranh thấp, trình độ nhận thức của người dân kể cả không ít cán bộ trong chúng ta còn hạn chế, hành lang pháp lý, pháp chế còn lõng lẽo .. dẫn đến hàng lọat các vấn đề còn tồn tại trong việc thức thi các cam kết, định hướng chiến lược phát triển bền vững như: Hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều yếu kém, chậm được cải thiện. TTKT của VN thời gian qua là không ổn định mà biểu hiện cụ thể của nó là tốc độ TTKT qua từng năm và qua từng giai đoạn là không đồng đều. Điều nay phản ảnh việc huy động và sử dụng các yếu tố nguồn lực cho quá trình TTKT là chưa thật sự có hiệu quả (1993-1997 yếu tố vốn chiếm 69%, lao động chiếm 16% và các yếu tố tổng hợp chiếm 15% trong cơ cấu tốc độ TTKT). Nền kinh tế VN vẩn còn bị tác động và chi phối bởi nền kinh tế bên ngoài cho nên khi thị trường khu vực và thế giới biến động thường ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng trong nước. Quá trình chuyển dịch CCKT còn nhiều bất cập, trong đó chính là quá trình chuyển dịch theo xu hướng tự phát là rất lớn. Hiện tượng phân hóa giàu nghèo và khoảng cách giữ các vùng, các miền trong quá trình phát triển có xu hướng gia tăng. Sức ép và dân số tiếp tục gia tăng tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc, cơ cấu lao động chuyển dịch rất chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong khu vực nông nghiệp nông thôn, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng được thị trường của lao động. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với sự phát triển bền vững và Khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong nền KTTT (Theo kết quả điều tra về mức sống dân cư của Tổng Cục Thống kê, khoảng cách này năm 1986 là 2,71 lần, năm 2001 là 4,45 lần. Trong số 20% số dân nghèo nhất có tới 90% sống ở nông thôn, còn gần 2/3 số dân trong nhóm 20% giàu nhất thì sống ở thành thị. Mức sống của các hộ thành thị tính bq theo chi tiêu đầu người cao hơn 60% so với hộ nông thôn. Tính đến cuối năm 2005 đầu 2006, cứ 100 hộ nghèo có 8 hộ ở thành thị, 43,2 hộ ở nông thôn đồng bằng và 48,8 hộ ở nông thôn miền núi). Hàng loạt vấn đề nảy sinh trong giai đoạn hiện nay đó là tệ tham nhũng, nhũng nhiểu; lối sống gấp, thác lọat của giới trẻ; Lối sống thực dụng bất chấp đạo lý xã hội, chà đạp nhân cách. Môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm, suy thoái với tốc độ khá nhanh, sự cố môi trường vẫn xảy ra đáng lo ngại; ở nhiều nơi và nhiều lĩnh vực, ô nhiễm môi trường đang trở thành vấn đề hết sức bức xúc, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của mọi người, cản trở quá trình phát triển KT-XH và đe doạ nghiêm trọng sự phát triển bền vững.
Những tồn tại trên đây, nếu không giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tăng trưởng, phát triển để hội nhập với kinh tế quốc tế, đồng thời ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu trên định hướng XHCN.
Do vậy, Phát triển bền vững ở nước ta đang được đặt ra rất cấp thiết. Để vượt qua những thách thức đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực to lớn hơn nữa, không chỉ từ phía Chính phủ mà phải được các cấp, các ngành, các đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư và từng người dân quán triệt và thực hiện một cách đồng bộ, mạnh mẽ. Chúng ta quyết tâm thực hiện bằng đường chiến lược phát triển bền vững ở VN theo hướng đã được Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta xác định: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, CBXH và bảo vệ môi trường". Mục tiêu phát triển được xác định theo hướng:
Một là, mục tiêu phát triển bền vững là nhằm đạt được sự đầy đủ về vật chất; sự giàu có về tinh thần và văn hoá; sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội; sự hài hoà giữa con người và tự nhiên.
Hai là, phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đảm bảo sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt KT-XH-Môi trường.
Ngày nay, khả năng, trình độ tăng trưởng, phát triển kinh tế là điều kiện quyết định sự tồn tại của một quốc gia trong xu hướng phát triển chung của thế giới. Xu thế khách quan này bắt nguồn từ quy luật chung cho tất cả các quốc gia muốn thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu đều đặt cho mình mục tiêu phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao, lâu dài và bền vững. Song, cần phải xác định tăng trưởng, phát triển kinh tế là một quá trình trong dài hạn, có những nội dung khác nhau ở từng giai đoạn phát triển và cho đến nay, những nội dung đó được xác định: tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế, phát triển bền vững. Nên mỗi quốc gia cần chọn cho mình nội dung, hướng phát triển phù hợp với yêu cầu, điều kiện và phù hợp xu hướng quốc tế. Trong đó, phát triển bền vững ngày càng trở thành trung tâm của sự phát triển trong mọi lĩnh vực khi xã hôi bước vào thế kỷ 21. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn nêu trên, VN cần phát triển theo hướng phát triển bền vững.
Một vấn đề trung tâm, vấn đề xuất phát để nói đến sự phồn vinh của các quốc gia là TTKT. Tất cả các quốc gia muốn thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu đều đặt cho mình mục tiêu phấn đấu TTKT cao, lâu dài và trên cơ sở kinh tế đó, họ tiếp tục thực hiện các mục tiêu chính trị-xã hội quan trọng khác.
TTKT chính là sự gia tăng về mặt quy mô sản lượng của nền kinh tế trong 1 thời kỳ nhất định (thường được ấn định là 1 năm). Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta thường dùng mức tăng lên của tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Mức tăng đó thường tính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hay tính bình quân theo đầu người của thời kỳ sau so với thời kỳ trước đó.
Thế nhưng, các nghiên cứu cho thấy TTKT chỉ là điều kiện cần chứ chưa là điều kiện đủ cho giảm nghèo. Tác động giảm nghèo của TTKT phụ thuộc vào vấn đề phân phối thu nhập. Trong bất kỳ tình huống nào, nếu chỉ dựa vào TTKT để giảm nghèo thì vô cùng ảo tưởng vì trên thực tế TTKT nền KTTT luôn có xu hướng đem lại nhiều lợi ích cả tuyệt đối và tương đối cho người giàu vì họ là những người có lợi thế về tất cả các mặt đối với người nghèo. Đó là chưa nói đến những vấn đề KT-XH- chính trị khác mà bản thân TTKT không thôi thì không thể giải quyết.
Từ sự giới hạn của TTKT, khái niệm PTKT ra đời. Bởi mục tiêu của mỗi quốc gia là tạo sự tiến bộ toàn diện. Sự tiến bộ của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định cần được xem xét trên hai mặt, đó là sự gia tăng về kinh tế và sự tiến bộ về xã hội. PTKT thường được hiểu xoay quanh hai nội dung này. Như vậy, PTKT chính là quá trình tăng tiến lâu dài trong đó bao gồm sự TTKT, sự chuyển dịch CCKT theo xu hướng hợp lý và hiệu quả và chất lượng cuộc sống của nhân dân không ngừng được nâng lên. Nội dung PTKT rộng hơn, lớn hơn nội dung TTKT.
PTKT phản ánh sự vận động của nền kinh tế từ trình độ thấp đến trình độ cao hơn. Trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia thường được phản ánh qua các chỉ số: Trước hết là nhóm các chỉ số xã hội, bao gồm các chỉ tiêu về chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, trình độ học vấn của dân cư và mức sống vật chất và tinh thần của nhân dân bao hàm cả tình trạng đói nghèo, mức thất nghiệp, bất bình đẳng về thu nhập. Thứ hai là nhóm các chỉ số về cơ cấu kinh tế, bao gồm: Chỉ số về tỷ trọng ba ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ trong tổng sản lượng trọng nước (GDP); chỉ số về tiết kiệm đầu tư và chỉ số về tỷ lệ dân số đô thị và nông thôn. Sau cùng là các chỉ số tổng hợp về trình độ phát triển, bao gồm: Chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số về chất chất lượng cuộc sống (PQLI) và chỉ số nghèo của con người (HPI).
Từ thế kỷ XX đến nay, cuộc cách mạng KH-CN bùng nổ tạo ra NSLĐ cao, và vì vậy chất lượng sống được nâng cao. Những của cải được tạo ra ngày càng nhiều đã phần nào thỏa mãn nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người, đẩy nền văn minh nhân loại phát triển nhanh. Nhưng, cũng từ chính sự phát triển ấy đã làm nảy sinh một số vấn đề như: Tăng trưởng dân số quá nhanh, tiêu dùng quá mức của cải, tài nguyên; thiên tai, ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng làm ảnh hưởng đến sự phát triển KT-XH, làm giảm chất lượng sống, sự khai thác bừa bãi thiên nhiên dẫn đến sự ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng dẫn đến tình trạng quả đất ngày một nóng lên, tầng ozon bị hỏng .. làm đe dọa sự sống trên trái đất, đe dọa cuộc sống của con người trong hiện tại và tương lai.
Đứng trước nguy cơ do sự tàn phá hủy hoại môi trường, sự giảm sút những cơ hội phát triển của thế hệ tương lai đã buộc các quốc gia phải xem xét lại nội dung phát triển với yêu cầu là phải gắn vấn đề môi trường, cuộc sống của các thế hệ tương lai với nội dung phát triển, nhằm khắc phục những hạn chế vừa nảy sinh mà khái niệm PTKT chưa đề cập đến trong xã hội đương đại. Đó là, môi trường và bền vững môi trường cũng như cuộc sống của các thế hệ, trách nhiệm của thế hệ trước với thế hệ sau. Từ đó người ta bắt đầu đưa ra khái niệm Phát triển bền vững.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã xác định "phát triển bền vững" là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa 3 mặt của sự phát triển, gồm: PTKT(nền tảng là TTKT), phát triển xã hội (mục tiêu là thực hiện tiến bộ, CBXH; XĐGN và giải quyết việc làm) và bảo vệ môi trường (mục tiêu là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự TTKT ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và CBXH; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.
Cụ thể hơn, Phát triển bền vững là sự phát triển KT-XH với tốc độ cao, liên tục trong thời gian dài dựa trên việc khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên mà vẫn bảo vệ được môi trường sinh thái nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội hiện nay nhưng không làm cạn kiệt tài nguyên, để lại hậu quả xã hội cho thế hệ tương lai. Nói cách khác, Phát triển bền vững là sự phát triển hài hòa cả về kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường và tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần của thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài nguyên để phát triển KT-XH mai sau, không làm giảm chất lượng sống của thế hệ tương lai.
Do đó, phát triển bền vững là nhu cầu cấp bách và xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, chính vì thế mà các quốc gia trên thế giới đồng thuận xây dựng thành Chương trình nghị sự cho từng thời kỳ phát triển của lịch sử và đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển bao gồm 27 nguyên tắc cơ bản và Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) về các giải pháp phát triển bền vững chung cho toàn thế giới trong thế kỷ 21.
Không nằm ngoài tính quy luật chung đó, đối với nước ta, “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, … có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; …”. Từ đó, trong nhiều năm qua, Đảng và NN đã luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của sự phát triển bền vững không chỉ riêng với VN mà còn có liên đới trách nhiệm với sự phát triển bền vững chung của toàn cầu. Chính phủ đã ban hành và tích cực thực hiện "Kế hoạch quốc gia về Môi trường và Phát triển bền vững giai đoạn 1991-2000" (Quyết định số 187-CT ngày 12 tháng 6 năm 1991), tạo tiền đề cho quá trình phát triển bền vững ở VN. Quan điểm phát triển bền vững đã được khẳng định trong Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển KT-XH của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH". Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng CSVN và trong Chiến lược phát triển KT-XH 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, TTKT đi đôi với thực hiện tiến bộ, CBXH và bảo vệ môi trường" và "Phát triển KT-XH gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học". Tại ĐH X (2006) của Đảng cũng đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm lớn từ thực tiễn phát triển hơn 20 năm đổi mới vừa qua và đó cũng là tư tưỏng chỉ đạo về phát triển KT-XH nước ta giai đoạn 5 năm 2006-2010 và kể cả nhiều năm tiếp theo. Trong đó, bài học đầu tiên đã được Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh là “Bài học về phát triển nhanh và bền vững”. Phát triển bền vững rõ ràng đã và đang trở thành đường lối, quan điểm của Đảng và định hướng chính sách phát triển của NN, nhờ đó, nhiều nội dung cơ bản về phát triển bền vững đã đi vào cuộc sống và dần dần trở thành xu thế tất yếu trong sự phát triển của đất nước. Đó là quan điểm phát triển KT-XH bền vững mà trong đó nội dung bền vững được hiểu là bền vững về các mặt kinh tế-tài chính, môi trường, chính trị-xã hội, quốc phòng-an ninh, và văn hóa. Mọi hoạt động kinh tế được đánh giá bằng hiệu quả tổng hợp về kinh tế, tài chính, xã hội, môi trường, quốc phòng và an ninh.
Qua hơn 15 năm thực hiện từ sau Hội nghị Rio de Jlaniero, chiến lược Phát triển kinh tế xã hội của VN đã khẳng định phát triển bền vững là nền tảng cơ bản cho phát triển ở VN. Về kinh tế, trong thời gian qua nền kinh tế nước ta đã đạt được những kết quả quan trọng như: Tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao với tỷ lệ tăng trưởng bình quân 7,5%/năm, (Giai đoạn 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bq là 8,2%, 1996-2000 là 6,9%, 2001-2005 là 7,5%, 2006-2007 là 8,32% và năm 2008 là 6,23%), cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của CN, DV, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp (Năm 2008, tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,99% GDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,91%; khu vực dịch vụ chiếm 38,1%). Cơ cấu của từng ngành cũng có sự chuyển dịch dần theo hướng phát huy lợi thế cạnh tranh hơn đối với thị trường trong và ngoài nước. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên. Về xã hội, đã đạt đựơc nhiều thành tựu về phát triển KT-XH. Đầu tư của NN cho các lĩnh vực xã hội ngày càng tăng, hiện chiếm trên 25% vốn NSNN, trong đó đực biệt ưu tiên đầu tư cho XĐGN (từ 1986 đến nay, tỷ lệ đói nghèo giảm với khoảng 25 triệu người thoát khỏi đói nghèo, năm 2008 tỷ lệ hộ nghèo còn 13,5%), giải quyết việc làm, giáo dục đào tạo, tay nghề, y tế chăm sóc sức khẻo nhân dân, phòng chống các tệ nạn xã hội, KH-CN, bảo vệ môi trường cũng như các dịch vụ xã hội cơ bản khác. So sánh thứ bậc của nước ta trên thế giới giữa chỉ số HDI và GDP bình quân đầu người cho thấy, HDI của VN cao hơn 26 bậc so với thứ bậc GDP bình quân đầu người. Tổ chức Phát triển của Liên Hợp quốc đã khẳng định, VN đã thành công trong việc chuyển hoá thành quả của sự tăng trưởng kinh tế thành chất lượng cao hơn tương ứng cho cuộc sống của người dân. VN cũng được thừa nhận là nước sẽ về đích sớm trong việc thực hiện mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đã có nhiều nỗ lực nhằm khắc phục những hậu quả môi trường, do chiến tranh để lại. Nhiều chính sách quan trọng về sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường, đã được xây dựng và thực hiện.
Song, bên cạnh đó do tác động của hàng lọat các yếu tố trong và ngoài nước; yếu tố chủ quan và khách quan mà tựu trung là do nền kinh tế VN còn quá lạc hậu, năng lực cạnh tranh thấp, trình độ nhận thức của người dân kể cả không ít cán bộ trong chúng ta còn hạn chế, hành lang pháp lý, pháp chế còn lõng lẽo .. dẫn đến hàng lọat các vấn đề còn tồn tại trong việc thức thi các cam kết, định hướng chiến lược phát triển bền vững như: Hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều yếu kém, chậm được cải thiện. TTKT của VN thời gian qua là không ổn định mà biểu hiện cụ thể của nó là tốc độ TTKT qua từng năm và qua từng giai đoạn là không đồng đều. Điều nay phản ảnh việc huy động và sử dụng các yếu tố nguồn lực cho quá trình TTKT là chưa thật sự có hiệu quả (1993-1997 yếu tố vốn chiếm 69%, lao động chiếm 16% và các yếu tố tổng hợp chiếm 15% trong cơ cấu tốc độ TTKT). Nền kinh tế VN vẩn còn bị tác động và chi phối bởi nền kinh tế bên ngoài cho nên khi thị trường khu vực và thế giới biến động thường ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng trong nước. Quá trình chuyển dịch CCKT còn nhiều bất cập, trong đó chính là quá trình chuyển dịch theo xu hướng tự phát là rất lớn. Hiện tượng phân hóa giàu nghèo và khoảng cách giữ các vùng, các miền trong quá trình phát triển có xu hướng gia tăng. Sức ép và dân số tiếp tục gia tăng tình trạng thiếu việc làm ngày một bức xúc, cơ cấu lao động chuyển dịch rất chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong khu vực nông nghiệp nông thôn, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; số lượng và chất lượng lao động kỹ thuật (về cơ cấu ngành nghề, kỹ năng, trình độ) chưa đáp ứng được thị trường của lao động. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao vẫn là những trở ngại lớn đối với sự phát triển bền vững và Khoảng cách giàu nghèo và phân tầng xã hội có xu hướng gia tăng nhanh chóng trong nền KTTT (Theo kết quả điều tra về mức sống dân cư của Tổng Cục Thống kê, khoảng cách này năm 1986 là 2,71 lần, năm 2001 là 4,45 lần. Trong số 20% số dân nghèo nhất có tới 90% sống ở nông thôn, còn gần 2/3 số dân trong nhóm 20% giàu nhất thì sống ở thành thị. Mức sống của các hộ thành thị tính bq theo chi tiêu đầu người cao hơn 60% so với hộ nông thôn. Tính đến cuối năm 2005 đầu 2006, cứ 100 hộ nghèo có 8 hộ ở thành thị, 43,2 hộ ở nông thôn đồng bằng và 48,8 hộ ở nông thôn miền núi). Hàng loạt vấn đề nảy sinh trong giai đoạn hiện nay đó là tệ tham nhũng, nhũng nhiểu; lối sống gấp, thác lọat của giới trẻ; Lối sống thực dụng bất chấp đạo lý xã hội, chà đạp nhân cách. Môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị ô nhiễm, suy thoái với tốc độ khá nhanh, sự cố môi trường vẫn xảy ra đáng lo ngại; ở nhiều nơi và nhiều lĩnh vực, ô nhiễm môi trường đang trở thành vấn đề hết sức bức xúc, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của mọi người, cản trở quá trình phát triển KT-XH và đe doạ nghiêm trọng sự phát triển bền vững.
Những tồn tại trên đây, nếu không giải quyết kịp thời sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tăng trưởng, phát triển để hội nhập với kinh tế quốc tế, đồng thời ảnh hưởng đến việc thực hiện các mục tiêu trên định hướng XHCN.
Do vậy, Phát triển bền vững ở nước ta đang được đặt ra rất cấp thiết. Để vượt qua những thách thức đó, đòi hỏi phải có sự nỗ lực to lớn hơn nữa, không chỉ từ phía Chính phủ mà phải được các cấp, các ngành, các đoàn thể, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư và từng người dân quán triệt và thực hiện một cách đồng bộ, mạnh mẽ. Chúng ta quyết tâm thực hiện bằng đường chiến lược phát triển bền vững ở VN theo hướng đã được Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta xác định: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, CBXH và bảo vệ môi trường". Mục tiêu phát triển được xác định theo hướng:
Một là, mục tiêu phát triển bền vững là nhằm đạt được sự đầy đủ về vật chất; sự giàu có về tinh thần và văn hoá; sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội; sự hài hoà giữa con người và tự nhiên.
Hai là, phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đảm bảo sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt KT-XH-Môi trường.