Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Phong trào cách mạng 1930-1931 với đỉnh cao Xô Viết – Nghệ Tĩnh
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và thiên tai đã tác động nặng nề đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động hết sức điêu đứng.Thêm vào đó, các vụ bắt bớ, đàn áp của chính quyền thực dân diễn ra tàn bạo trên khắp cả nước, đặc biệt sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng Bầu không khí chính trị Việt Nam càng trở nên ngột ngạt.
Vào thời điểm đó ngọn cờ giải phóng dân tộc được giai cấp công nhân, đứng đầu là Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao. Sau khi hợp nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành một chính đảng thống nhất về tổ chức và đúng đắn về cương lĩnh chính trị, đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, phát động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Mở đầu là hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, Hãng dầu Xôcôni (Sài Gòn), đồn điền cao su Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một). Tiếp đến là các cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, của 4.000 công nhân nhà máy dệt Nam Định (tháng 4 - 1930), của nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương. Cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Những cuộc đấu tranh đó là khúc dạo đầu của cao trào cách mạng rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5, lần đầu tiên một phong trào đấu tranh có quy mô toàn quốc được phát động.
Ở Nam Kỳ, công nhân nhà máy điện Chợ Quán (Sài Gòn), nhà máy xe lửa Dĩ An đấu tranh. Hòa nhịp với các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân các huyện Đức Hòa (Chợ Lớn), Cao Lãnh (Sa Đéc), Chợ Mới (Long Xuyên) và nông dân các tỉnh Gia Định, Vinh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một biểu tình đòi giảm thuế, bỏ sưu.
Ở Trung Kỳ, nông dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam đến các tỉnh cực nam như Khánh Hòa, Bình Thuận đã nổi dậy đấu tranh.
Ở Bắc Kỳ, khu mỏ Hồng Gai trở thành nơi đấu tranh quyết liệt giữa công nhân và giới chủ. Cuộc đấu tranh của nông dân đã diễn ra ở Thái Bình, Hà Nam, Kiến An.
Cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản chủ trương và phát động đã kéo dài trên một năm, diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả ba miền đất nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh. Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng ngày 1 - 5 với sự tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy và nông dân các huyện lan cận đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô Viết. Chính quyền thực dân đã thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh đó. Binh lính được điều đàn và xả súng bắn vào đoàn biểu tình, giết chết 7 người, làm bị thương 18 người và bắt đi 98 người. Như lửa đổ thêm dầu, các cuộc đấu tranh của quần chúng lao động càng trở nên quyết liệt hơn. Ngày 1 - 5 - 1930 là một mốc son trong cao trào cách mạng 1930- 1 931 . Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sức mạnh to lớn của khối liên minh công - nông đã được biểu hiện rõ ràng trong những cuộc chiến đất vang dội đó.
Sau ngày 1 - 5 cho đến tháng 8 - 1930, công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy tiếp tục đấu tranh hết sức sôi nổi. Ngày 27 - 6, được sự phốt hợp tổ chức của các Công hội đỏ, một cuộc biểu tình lớn được tổ chức với sự tham gia của hầu hết công nhân các nhà máy thuộc khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy. Ngày 2 – 8, cuộc tuần hành thị uy của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, nhà máy diêm đã kéo theo cuộc đình công hưởng ứng của công nhan nhiều nhà máy khác.
Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ -Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ kéo đến các huyện đường Can Lộc ngày 4-8, Nam Đàn ngày 6-8, Thanh Chương ngày 12-8, Nghi Lộc ngày 29-8, Nam Đàn (30-8).
Đến tháng 9 phong trào đấu tranh lên tới đỉnh điểm. Ngày 1- 9 -1930, 20.000 nông dân Thanh Chương biểu tình đòi giảm thuế, thả tù chính trị. Lính Pháp nổ súng, những đoàn ngư¬ời biểu tình kết thành đội ngũ tiến vào huyện đường, phá nhà giam, giải phóng tù nhân, đốt dinh tri huyện cùng với giấy tờ, sổ sách trong đó. Bọn hào lý, địa chủ bỏ chạy. Đại bộ phận các thôn xã thuộc huyện Thanh Chương, chính quyền tay sai tan rã. Nhân dân xã Võ Liệt (Thanh Chương) tự đứng ra tổ chức, điều hành công việc trong thôn xã.
Thắng lợi của phong trào nông dân Thanh Chương đã góp phần khích lệ các, cuộc đấu tranh ở các nới khác. Từ ngày 5-9 đến ngày 11-9 nông dân các huyện Anh Sơn, Diễn Châu, Can Lộc, Nam Đàn, Nghi Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh... nổi dậy với một khí thế mới , một quyết tam mới. Những cuộc xung đột đổ máu giữa những người biểu tình với binh lính, cảnh sát diễn ra thường xuyên hơn.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và Đông Dương, vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và đề cương cách mạng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản, Luận cương (chính trị đã xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Luận cương xác định cách mạng Đông Dương là cuộc cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa phát triển tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương thời kỳ đầu là đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến mang lại ruộng cho dân cày. Luận cương đã xác định : "Giai cấp vô sản và nông dân là hai lực lượng chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được và cuối cùng, Luận cương đã xác định phương pháp giành chính quyền là khởi nghĩa vũ trang.
Luận cương chính trị tháng 10- 1930 đã xác định được một số vấn đề có tầm chiến lược của cách mạng Đông Dương . Nó góp một phần quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, trang bị cho những ng¬ười cộng sản Đông Dương vũ khí tư tưởng sắc bén để đấu tranh thắng lợi với các loại tư tưởng phi vô sản khác.
Từ năm 1931 , thực dân Pháp và tay sai đã thực hiện một cuộc khủng bố tàn bạo ở Nghệ- Tĩnh. Đồn bốt được dựng lên, những đơn vị lính lê dương, lính khố đỏ được điều tới lệnh thiết quân luật được ban bố, cùng lúc, chúng sử dụng những thủ đoạn thâm độc như tổ chức "rước cờ vàng" "nhận thẻ quy thuận", tung các loại sách báo vu cáo chủ nghĩa cộng sản, ráo riết truy lùng, bắt bớ các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước.
Mặc dù quần chúng cách mạng đã tích cực đấu tranh chống mọi thủ đoạn đàn áp, lừa bịp của địch, nhưng do lực lượng không cân sức, phong trào Nghệ - Tĩnh dần dần đi xuống.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ- Tĩnh chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng có ý nghĩa hết sức to lớn. Cao trào cách mạng cùng sự ra đời của chính quyền Xô Viết là kết tinh sức mạnh to lớn của khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạn, "đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi sau này"
Và cũng qua "cuộc chiến đấu xung thiên" của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam mà những người cộng sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới biết tới dân tộc ta. Quốc tế Cộng sản đã khẳng định : "Phong trào cách mạng bồng bột trong cả xứ Đông Dương đã góp phần tăng thêm ảnh hưởng cộng sàn trong các xứ thuộc địa, nhất là các nước phương Đông. Trong phiên họp ngày 11-4-1931. Hội nghị toàn thể lần thứ 11 Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
Đấu tranh phục hồi lực lượng cách mạng sau cuộc khủng bố trắng của Pháp (1932-1935).
1. Chính sách mới của Pháp và phong trào cách mạng Việt Nam
Hy vọng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam, thực dân Pháp vẫn tăng cường chính sách khủng bố. Hàng vạn chiến sĩ và đồng bào yêu nước bị bắt. Các nhà tù chật ních chính trị phạm. Hàng trăm ng¬ời bị kết án tử hình. Hai năm 1930-1931, ở Bắc Kỳ, thực dân Pháp mở 21 phiên toà đại hình, xử 1.094 vụ, trong đó có 164 án tử hình, 114 án khổ sai chung thân, 420 án đầy biệt xứ.
Mặt khác, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn lừa bịp, mị dân nhằm lừa gạt quần chúng. Tháng 10-1930 Pôn Raynô, Bộ trưởng Thuộc địa Pháp sang Đông Dương để điều tra tình hình và định ra chính sách đối phó cho thích hợp. Chính quyền thực dân thi hành một số biện pháp cải lương, tổ chức lại tr¬ường Cao đẳng Đông Dương, trường Luật, đưa một số địa chủ, tư sản, trí thức cao cấp vào một số chức vụ "quan trọng", cho người "bản xứ" được nhập quốc tịch Pháp một cách rộng rãi hơn... Nhân cơ hội này những lực lượng thân Pháp bắt đầu trỗi dậy.
Thực dân Pháp cũng chú ý sử dụng các tổ chức, hình thức văn hóa tư tưởng vào việc chống lại ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản. Chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản, chống Liên Xô . . . , lợi dụng một số tổ chức tôn giáo để chống phá cách mạng. Những sòng bạc, tiệm nhảy, tiệm hút, nhà chứa... được mở để lôi kéo thanh niên vào cuộc sống đồi truỵ.
Giữa lúc cơ sở cách mạng và quần chúng bị khủng bố trắng, nhiều cán bộ lãnh đạo bị giặc bắt, thì các chiến sĩ cộng sản hoạt động ở Trung Quốc và Thái Lan lần lượt tìm cách trở về nước hoạt động. Tại những tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc như Cao Bằng, Lạng Sơn, hay biên giới Lào - Thái như Thà Khét, Xavanakhẹt, các cơ sở cách mạng dần dần được phục hồi.
Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong đã cùng một số đảng viên cộng sản hoạt động ở trong nước và nước ngoài tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung tướng Đảng. Một Chương trình hành động được đề ra vào tháng 6 - 1932, nội dung chủ yếu là đòi các quyền dân chủ cho nhân dân lao động, đòi trả lại tự do cho tất cả tù chính trị, bỏ các thứ thuế bất công, vô lý, xoá độc quyền muối, rượu... 'Chương trình hành động còn nêu lên sự cấp thiết phải củng cố, phát triển các tổ chức của Đảng cũng như các tổ chức quần chúng, đề ra những yêu cầu cụ thể cho từng giai cấp, tầng lớp nhân dân, như công nhân, nông dân, binh lính, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, dân nghèo thành thị, thanh niên, phụ nữ... Nhiều đoàn thể sơ khai, như hội cày, hội gặt, đá bóng, đọc sách báo, hội hiếu hỷ... đã được lập ra. Phong trào đấu tranh của quần chúng dần dần nhen nhóm trở lại.
Tiêu biểu cho phong trào công - nông ở giai đoạn phục hồi 1932-1935 phải kể đến các cuộc bãi công liên tiếp của công nhân làm đường xe lửa Quảng Nam, Quảng Ngãi (từ đầu năm 1932 đến năm 1933), công nhân Nhà máy in ácđanh, Textôlanh, Opêniông Ở Sài Gòn, công nhân xe kéo Ở Gia Định, công nhân đồn điền Phú Quốc, Dầu Tiếng... Phong trào nông dân cũng nổi dậy ở nhiều nơi, như¬ Gia Định. Chợ Lớn, Chợ Mới (Long Xuyên), Càng Long (Trà Vinh):.. chống các thứ thuế.
Bên cạnh các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân, còn có các cuộc bãi thị ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dư¬ơng, Sài Gòn... bãi khoá của học sinh Sài Gòn, biểu tình của binh lính người Việt trong quân đội Pháp ở Vũng Tàu và sân bay Bạch Mai (Hà Nội).
Cuối năm 1933, các tổ chức của Đảng dần dần được xây dựng lại và củng cố. Đầu năm 1934, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban lãnh dạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu. Trên thực tế, Ban lãnh đạo hải ngoại đã làm chức năng của Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.
2. Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1935)
Từ ngày 27 đến 31-3-1935, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên thuộc các đảng bộ ở trong nước và các tổ chức của Đảng đang hoạt động ở nước ngoài.
Đại hội nhận định: mặc dầu các tổ chức của Đảng đã được khôi phục nhưng lực lượng của Đảng vẫn chưa được phát triển; ở các khu công nghiệp, công nhân gia nhập Đảng còn ít, hệ thống tổ chức Đảng ch¬a thật thống nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ Đảng chưa đ¬ược chặt chẽ.
Đại hội còn nêu rõ ba nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi và chống chiến tranh đế quốc.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị và Điều lệ Đảng, thông qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính và các nghị quyết về công tác liên minh phản đế, công tác trong các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 người trong đó có Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Hoàng Đình Giong, v.v.. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí cử Nguyễn Ái Quốc là đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Quốc tế Cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đã khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước. Đó là sự chuẩn bị cần thiết để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
Tuy nhiên, lúc đó tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi đòi hỏi Đảng phải kịp thời đề ra phương hướng hoạt động thích hợp. Nhưng Đại hội lại chưa tổng kết được kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng trong năm năm qua, kể từ khi Đảng thành lập, nhất là trong thời kỳ đấu tranh khôi phục và phát triển phong trào cách mạng.
Thiếu sót của Đại hội là thiếu nhạy bén với tình hình mới, không thấy rõ nguy cơ chủ nghĩa phát xít trên thế giới và khả năng mới để đấu tranh chống phát xít, chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Thiếu sót này đã được bổ khuyết khi có nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản và nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới và thiên tai đã tác động nặng nề đến tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Đời sống của các tầng lớp nhân dân lao động hết sức điêu đứng.Thêm vào đó, các vụ bắt bớ, đàn áp của chính quyền thực dân diễn ra tàn bạo trên khắp cả nước, đặc biệt sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân đảng Bầu không khí chính trị Việt Nam càng trở nên ngột ngạt.
Vào thời điểm đó ngọn cờ giải phóng dân tộc được giai cấp công nhân, đứng đầu là Đảng Cộng sản Việt Nam giương cao. Sau khi hợp nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở thành một chính đảng thống nhất về tổ chức và đúng đắn về cương lĩnh chính trị, đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, phát động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh.
Mở đầu là hàng loạt cuộc đấu tranh của công nhân các nhà máy xi măng Hải Phòng, dệt Nam Định, Hãng dầu Xôcôni (Sài Gòn), đồn điền cao su Dầu Tiếng (Thủ Dầu Một). Tiếp đến là các cuộc đấu tranh của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, của 4.000 công nhân nhà máy dệt Nam Định (tháng 4 - 1930), của nhà máy xe lửa Dĩ An, nhà máy diêm, nhà máy cưa Bến Thủy, nhà máy Ba Son, khu mỏ Mông Dương. Cùng với các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân còn có những cuộc đấu tranh của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác.
Những cuộc đấu tranh đó là khúc dạo đầu của cao trào cách mạng rộng lớn dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhân ngày Quốc tế Lao động 1-5, lần đầu tiên một phong trào đấu tranh có quy mô toàn quốc được phát động.
Ở Nam Kỳ, công nhân nhà máy điện Chợ Quán (Sài Gòn), nhà máy xe lửa Dĩ An đấu tranh. Hòa nhịp với các cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân các huyện Đức Hòa (Chợ Lớn), Cao Lãnh (Sa Đéc), Chợ Mới (Long Xuyên) và nông dân các tỉnh Gia Định, Vinh Long, Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre, Mỹ Tho, Thủ Dầu Một biểu tình đòi giảm thuế, bỏ sưu.
Ở Trung Kỳ, nông dân các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam đến các tỉnh cực nam như Khánh Hòa, Bình Thuận đã nổi dậy đấu tranh.
Ở Bắc Kỳ, khu mỏ Hồng Gai trở thành nơi đấu tranh quyết liệt giữa công nhân và giới chủ. Cuộc đấu tranh của nông dân đã diễn ra ở Thái Bình, Hà Nam, Kiến An.
Cao trào cách mạng do Đảng Cộng sản chủ trương và phát động đã kéo dài trên một năm, diễn ra trên 25 tỉnh thành khắp cả ba miền đất nước và đạt tới đỉnh điểm trên đất Nghệ Tĩnh. Ở Nghệ Tĩnh, phong trào đấu tranh bùng nổ vào sáng ngày 1 - 5 với sự tham gia của công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy và nông dân các huyện lan cận đòi tăng lương, giảm giờ làm, bỏ sưu, giảm thuế, chống khủng bố, ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy dệt Nam Định, ủng hộ Liên bang Xô Viết. Chính quyền thực dân đã thẳng tay đàn áp cuộc đấu tranh đó. Binh lính được điều đàn và xả súng bắn vào đoàn biểu tình, giết chết 7 người, làm bị thương 18 người và bắt đi 98 người. Như lửa đổ thêm dầu, các cuộc đấu tranh của quần chúng lao động càng trở nên quyết liệt hơn. Ngày 1 - 5 - 1930 là một mốc son trong cao trào cách mạng 1930- 1 931 . Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sức mạnh to lớn của khối liên minh công - nông đã được biểu hiện rõ ràng trong những cuộc chiến đất vang dội đó.
Sau ngày 1 - 5 cho đến tháng 8 - 1930, công nhân khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy tiếp tục đấu tranh hết sức sôi nổi. Ngày 27 - 6, được sự phốt hợp tổ chức của các Công hội đỏ, một cuộc biểu tình lớn được tổ chức với sự tham gia của hầu hết công nhân các nhà máy thuộc khu công nghiệp Vinh - Bến Thủy. Ngày 2 – 8, cuộc tuần hành thị uy của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, nhà máy diêm đã kéo theo cuộc đình công hưởng ứng của công nhan nhiều nhà máy khác.
Hòa nhịp với phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ -Tĩnh đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình có vũ trang tự vệ kéo đến các huyện đường Can Lộc ngày 4-8, Nam Đàn ngày 6-8, Thanh Chương ngày 12-8, Nghi Lộc ngày 29-8, Nam Đàn (30-8).
Đến tháng 9 phong trào đấu tranh lên tới đỉnh điểm. Ngày 1- 9 -1930, 20.000 nông dân Thanh Chương biểu tình đòi giảm thuế, thả tù chính trị. Lính Pháp nổ súng, những đoàn ngư¬ời biểu tình kết thành đội ngũ tiến vào huyện đường, phá nhà giam, giải phóng tù nhân, đốt dinh tri huyện cùng với giấy tờ, sổ sách trong đó. Bọn hào lý, địa chủ bỏ chạy. Đại bộ phận các thôn xã thuộc huyện Thanh Chương, chính quyền tay sai tan rã. Nhân dân xã Võ Liệt (Thanh Chương) tự đứng ra tổ chức, điều hành công việc trong thôn xã.
Thắng lợi của phong trào nông dân Thanh Chương đã góp phần khích lệ các, cuộc đấu tranh ở các nới khác. Từ ngày 5-9 đến ngày 11-9 nông dân các huyện Anh Sơn, Diễn Châu, Can Lộc, Nam Đàn, Nghi Lộc, Cẩm Xuyên, Kỳ Anh... nổi dậy với một khí thế mới , một quyết tam mới. Những cuộc xung đột đổ máu giữa những người biểu tình với binh lính, cảnh sát diễn ra thường xuyên hơn.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và Đông Dương, vận dụng những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và đề cương cách mạng thuộc địa của Quốc tế Cộng sản, Luận cương (chính trị đã xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Luận cương xác định cách mạng Đông Dương là cuộc cách mạng tư sản dân quyền do giai cấp công nhân lãnh đạo là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng, bỏ qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa phát triển tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương thời kỳ đầu là đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc và đánh đổ phong kiến mang lại ruộng cho dân cày. Luận cương đã xác định : "Giai cấp vô sản và nông dân là hai lực lượng chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được và cuối cùng, Luận cương đã xác định phương pháp giành chính quyền là khởi nghĩa vũ trang.
Luận cương chính trị tháng 10- 1930 đã xác định được một số vấn đề có tầm chiến lược của cách mạng Đông Dương . Nó góp một phần quan trọng vào kho tàng lý luận cách mạng Việt Nam, trang bị cho những ng¬ười cộng sản Đông Dương vũ khí tư tưởng sắc bén để đấu tranh thắng lợi với các loại tư tưởng phi vô sản khác.
Từ năm 1931 , thực dân Pháp và tay sai đã thực hiện một cuộc khủng bố tàn bạo ở Nghệ- Tĩnh. Đồn bốt được dựng lên, những đơn vị lính lê dương, lính khố đỏ được điều tới lệnh thiết quân luật được ban bố, cùng lúc, chúng sử dụng những thủ đoạn thâm độc như tổ chức "rước cờ vàng" "nhận thẻ quy thuận", tung các loại sách báo vu cáo chủ nghĩa cộng sản, ráo riết truy lùng, bắt bớ các chiến sĩ cộng sản và những người yêu nước.
Mặc dù quần chúng cách mạng đã tích cực đấu tranh chống mọi thủ đoạn đàn áp, lừa bịp của địch, nhưng do lực lượng không cân sức, phong trào Nghệ - Tĩnh dần dần đi xuống.
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ- Tĩnh chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng có ý nghĩa hết sức to lớn. Cao trào cách mạng cùng sự ra đời của chính quyền Xô Viết là kết tinh sức mạnh to lớn của khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạn, "đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn luyện lực lượng cho cuộc Cách mạng tháng Tám thắng lợi sau này"
Và cũng qua "cuộc chiến đấu xung thiên" của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam mà những người cộng sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới biết tới dân tộc ta. Quốc tế Cộng sản đã khẳng định : "Phong trào cách mạng bồng bột trong cả xứ Đông Dương đã góp phần tăng thêm ảnh hưởng cộng sàn trong các xứ thuộc địa, nhất là các nước phương Đông. Trong phiên họp ngày 11-4-1931. Hội nghị toàn thể lần thứ 11 Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản đã ra quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
Đấu tranh phục hồi lực lượng cách mạng sau cuộc khủng bố trắng của Pháp (1932-1935).
1. Chính sách mới của Pháp và phong trào cách mạng Việt Nam
Hy vọng dập tắt phong trào cách mạng Việt Nam, thực dân Pháp vẫn tăng cường chính sách khủng bố. Hàng vạn chiến sĩ và đồng bào yêu nước bị bắt. Các nhà tù chật ních chính trị phạm. Hàng trăm ng¬ời bị kết án tử hình. Hai năm 1930-1931, ở Bắc Kỳ, thực dân Pháp mở 21 phiên toà đại hình, xử 1.094 vụ, trong đó có 164 án tử hình, 114 án khổ sai chung thân, 420 án đầy biệt xứ.
Mặt khác, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn lừa bịp, mị dân nhằm lừa gạt quần chúng. Tháng 10-1930 Pôn Raynô, Bộ trưởng Thuộc địa Pháp sang Đông Dương để điều tra tình hình và định ra chính sách đối phó cho thích hợp. Chính quyền thực dân thi hành một số biện pháp cải lương, tổ chức lại tr¬ường Cao đẳng Đông Dương, trường Luật, đưa một số địa chủ, tư sản, trí thức cao cấp vào một số chức vụ "quan trọng", cho người "bản xứ" được nhập quốc tịch Pháp một cách rộng rãi hơn... Nhân cơ hội này những lực lượng thân Pháp bắt đầu trỗi dậy.
Thực dân Pháp cũng chú ý sử dụng các tổ chức, hình thức văn hóa tư tưởng vào việc chống lại ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản. Chúng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản, chống Liên Xô . . . , lợi dụng một số tổ chức tôn giáo để chống phá cách mạng. Những sòng bạc, tiệm nhảy, tiệm hút, nhà chứa... được mở để lôi kéo thanh niên vào cuộc sống đồi truỵ.
Giữa lúc cơ sở cách mạng và quần chúng bị khủng bố trắng, nhiều cán bộ lãnh đạo bị giặc bắt, thì các chiến sĩ cộng sản hoạt động ở Trung Quốc và Thái Lan lần lượt tìm cách trở về nước hoạt động. Tại những tỉnh biên giới Việt Nam - Trung Quốc như Cao Bằng, Lạng Sơn, hay biên giới Lào - Thái như Thà Khét, Xavanakhẹt, các cơ sở cách mạng dần dần được phục hồi.
Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Lê Hồng Phong đã cùng một số đảng viên cộng sản hoạt động ở trong nước và nước ngoài tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung tướng Đảng. Một Chương trình hành động được đề ra vào tháng 6 - 1932, nội dung chủ yếu là đòi các quyền dân chủ cho nhân dân lao động, đòi trả lại tự do cho tất cả tù chính trị, bỏ các thứ thuế bất công, vô lý, xoá độc quyền muối, rượu... 'Chương trình hành động còn nêu lên sự cấp thiết phải củng cố, phát triển các tổ chức của Đảng cũng như các tổ chức quần chúng, đề ra những yêu cầu cụ thể cho từng giai cấp, tầng lớp nhân dân, như công nhân, nông dân, binh lính, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ, dân nghèo thành thị, thanh niên, phụ nữ... Nhiều đoàn thể sơ khai, như hội cày, hội gặt, đá bóng, đọc sách báo, hội hiếu hỷ... đã được lập ra. Phong trào đấu tranh của quần chúng dần dần nhen nhóm trở lại.
Tiêu biểu cho phong trào công - nông ở giai đoạn phục hồi 1932-1935 phải kể đến các cuộc bãi công liên tiếp của công nhân làm đường xe lửa Quảng Nam, Quảng Ngãi (từ đầu năm 1932 đến năm 1933), công nhân Nhà máy in ácđanh, Textôlanh, Opêniông Ở Sài Gòn, công nhân xe kéo Ở Gia Định, công nhân đồn điền Phú Quốc, Dầu Tiếng... Phong trào nông dân cũng nổi dậy ở nhiều nơi, như¬ Gia Định. Chợ Lớn, Chợ Mới (Long Xuyên), Càng Long (Trà Vinh):.. chống các thứ thuế.
Bên cạnh các cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân, còn có các cuộc bãi thị ở Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dư¬ơng, Sài Gòn... bãi khoá của học sinh Sài Gòn, biểu tình của binh lính người Việt trong quân đội Pháp ở Vũng Tàu và sân bay Bạch Mai (Hà Nội).
Cuối năm 1933, các tổ chức của Đảng dần dần được xây dựng lại và củng cố. Đầu năm 1934, với sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản, Ban lãnh dạo hải ngoại của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập do Lê Hồng Phong đứng đầu. Trên thực tế, Ban lãnh đạo hải ngoại đã làm chức năng của Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng.
2. Đại hội lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3-1935)
Từ ngày 27 đến 31-3-1935, Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho 600 đảng viên thuộc các đảng bộ ở trong nước và các tổ chức của Đảng đang hoạt động ở nước ngoài.
Đại hội nhận định: mặc dầu các tổ chức của Đảng đã được khôi phục nhưng lực lượng của Đảng vẫn chưa được phát triển; ở các khu công nghiệp, công nhân gia nhập Đảng còn ít, hệ thống tổ chức Đảng ch¬a thật thống nhất, sự liên hệ giữa các cấp bộ Đảng chưa đ¬ược chặt chẽ.
Đại hội còn nêu rõ ba nhiệm vụ chủ yếu của toàn Đảng trong thời gian trước mắt là củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi và chống chiến tranh đế quốc.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị và Điều lệ Đảng, thông qua các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính và các nghị quyết về công tác liên minh phản đế, công tác trong các dân tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 13 người trong đó có Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Hoàng Đình Giong, v.v.. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhất trí cử Nguyễn Ái Quốc là đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Quốc tế Cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đã khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến địa phương, ở trong nước và ngoài nước. Đó là sự chuẩn bị cần thiết để Đảng bước vào thời kỳ đấu tranh mới.
Tuy nhiên, lúc đó tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi đòi hỏi Đảng phải kịp thời đề ra phương hướng hoạt động thích hợp. Nhưng Đại hội lại chưa tổng kết được kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng trong năm năm qua, kể từ khi Đảng thành lập, nhất là trong thời kỳ đấu tranh khôi phục và phát triển phong trào cách mạng.
Thiếu sót của Đại hội là thiếu nhạy bén với tình hình mới, không thấy rõ nguy cơ chủ nghĩa phát xít trên thế giới và khả năng mới để đấu tranh chống phát xít, chống bọn phản động thuộc địa, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Thiếu sót này đã được bổ khuyết khi có nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản và nghị quyết hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936.
Sửa lần cuối: