Kể từ khi ra đời đến nay, luật bản quyền đã thích ứng với những thay đổi về công nghệ. Ngày nay, những thay đổi được nói đến nhiều nhất đều liên quan đến lĩnh vực kỹ thuật số, mạng truyền thông số hóa như mạng Internet và máy tính cá nhân. Những công nghệ ấy, giống như nhiều phát minh khác, bên cạnh nhiều ích lợi cũng tiềm tàng rất nhiều rủi ro cho những ai sử dụng và khai thác quyền tác giả của các cuốn sách, bản nhạc, kịch bản phim hay các trang web. Rõ ràng những văn bản luật gần đây liên quan tới việc cân đối quyền lợi giữa các bên trong việc sử dụng các phát minh mới còn gây nhiều thất vọng và có thể được coi là “mới” hay “độc nhất”. Tuy nhiên, chúng cũng đơn thuần chỉ là một bước đi trong quá trình thích nghi liên tục và thể hiện lịch sử hình thành và phát triển của luật bản quyền. Bài báo này sẽ xem xét một số vấn đề liên quan tới công nghệ số hóa được điều chỉnh bởi luật bản quyền ngày nay.
NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CÔNG NGHỆ SỐ HÓA VỚI HÀM Ý VỀ BẢN QUYỀN
Những công nghệ cần được điều chỉnh bởi luật bản quyền đều là những ứng dụng kỹ thuật liên quan tới việc lưu trữ và chuyển giao quyền tác giả. Những công nghệ này liên quan tới luật bản quyền dưới nhiều phương diện được liệt kê dưới đây:
Dễ dàng sao chép: Một tác phẩm khi đã được số hóa có thể sao chép một cách dễ dàng, nhanh chóng, chi phí thấp mà chất lượng vẫn đảm bảo. Mỗi bản copy lại tiếp tục được sao thành nhiều bản khác mà vẫn giữ nguyên chất lượng ban đầu. Như vậy chỉ cần một bản copy thôi cũng có thể đáp ứng được nhu cầu của hàng triệu người. Chúng ta đã từng được chứng kiến những đĩa nhạc CD từ những năm 80, 90 được sao chép thành hàng tỉ bản và trở nên phổ biến như thế nào trên mạng Internet trong những năm gần đây.
Dễ dàng phổ biến: Mạng số hóa toàn cầu cho phép phổ biến tác phẩm dưới dạng số một cách nhanh chóng trên toàn thế giới. Giống như phát thanh truyền hình, mạng kỹ thuật số cho phép từ một trung tâm có thể truyền phát tới hàng triệu cá nhân (mặc dù có điểm khác biệt ở đây là các tác phẩm số hóa không nhất thiết phải đến tay người nhận cùng một lúc). Tuy nhiên, mạng số hóa còn cho phép mỗi cá nhân có thể trở thành chủ thể truyền phát, khiến cho số luợng phân phối tăng theo theo cấp số nhân, đôi khi gọi là hiệu ứng virus. Điều này cùng với khả năng dễ dàng sao chép cũng có nghĩa là một bản copy số hóa của một tác phẩm có thể được tái bản hàng chục nghìn lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Khi được phân phát bằng đường truyền tốc độ cao như mạng lưới cáp đồng trục hoặc thậm chí đường dây cáp quang thì quá trình đó sẽ nhanh hơn rất nhiều, đồng thời khả năng truyền tải các tác phẩm cũng tăng lên.
Dễ dàng lưu trữ: Có thể lưu trữ một dung lượng lớn các thông tin số hóa, và mỗi năm giới hạn dung lượng đó lại được mở rộng ra rất nhiều. Chưa bao giờ một khối lượng lớn thông tin lại có thể được lưu trữ trong một không gian ngày càng nhỏ như ngày nay. Đầu thập kỷ 90, những chiếc đĩa CD với dung lượng trên 600 megabytes đã được những kẻ làm băng đĩa giả sử dụng tràn lan và thu được lợi nhuận lên đến hàng triệu đô-la. Giờ đây, một thiết bị nghe nhạc di động chỉ to bằng hộp thuốc lá cũng có thể chứa được một khối lượng thông tin lớn gấp 70 lần (khoảng 10.000 bài hát).
CÁC HÌNH THỨC KHAI THÁC VÀ CẠNH TRANH BẤT HỢP PHÁP MỚI
Cuộc cách mạng kỹ thuật trong phương thức tái bản, sao chép, lưu trữ thông tin số hóa bao gồm các tác phẩm được cấp bản quyền rõ ràng là một con dao hai lưỡi đối với tác giả và đối với cả người nắm giữ bản quyền. Một mặt, nó giúp cho tác giả có thể quảng bá tác phẩm của mình tới đông đảo khán giả một cách thuận tiện và tiết kiệm hơn nhiều so với trước đây. Ví dụ một ca sĩ có thể tải các bài hát của mình lên các trang web để các fan hâm mộ trên khắp thế giới có thể vào nghe mà không phải tốn tiền đầu tư cho sản xuất, đóng gói, chuyển phát những chiếc đĩa CD tới những nơi xa xôi theo cách thông thường. Mặt khác, tiến bộ công nghệ này cũng tạo cơ hội cho nhiều kẻ gian, nhiều kẻ cạnh tranh bất hợp pháp với tác giả sao chép và tiêu thụ trái phép những tác phẩm này.
Thách thức trong vấn đề bản quyền ở kỷ nguyên số hóa là làm sao có thể bảo vệ quyền lợi của tác giả cũng như người nắm giữ bản quyền trong việc sản xuất và sử dụng công nghệ mới để tiêu thụ các tác phẩm đó khi phải đối mặt với nạn ăn cắp và cạnh tranh bất hợp pháp ở khắp mọi nơi. Đồng thời, cũng phải đảm bảo rằng việc sử dụng hữu ích các tác phẩm không bị kiểm soát một cách không cần thiết bởi hệ thống bản quyền không hiệu quả do công nghệ mới gây ra. Bài viết này đề cập đến việc Hoa Kỳ đã phải đối mặt với thách thức này như thế nào và liệu trong tương lai có thể sẽ gặp lại thách thức đó ra sao.
NHỮNG CHỦ ĐIỂM CHUNG
Bài viết này đề cập tới một vài chủ điểm chung trong cách tiếp cận cho rằng luật bản quyền của Mỹ liên quan tới những tiến bộ công nghệ trong quá khứ và làm thế nào nước Mỹ đã vượt qua được những thách thức do những công nghệ hoàn toàn mới đó đặt ra.
Tìm đến những hình thức thể hiện mới:
Suốt hai thế kỷ qua, không biết bao nhiêu lần chủ đề bản quyền liên quan tới những hình thức mới của quyền tác giả được đưa ra thảo luận. Nghề nhiếp ảnh, kỹ thuật quay phim, các dữ liệu điện tử, và các chương trình máy tính là một số ví dụ điển hình. Về mặt cơ bản, trong mỗi trường hợp các nhà hoạch định chính sách đều có thể xem xét vấn đề một cách tổng quát hơn là chỉ dừng lại ở những kỹ thuật và phương thức biểu đạt cụ thể, để có thể thừa nhận sợi chỉ chung xuyên suốt về quyền sáng tạo liên quan tới bản quyền tác giả.
Duy trì cơ cấu các đặc quyền:
Một nguyên tắc cơ bản của hệ thống bản quyền trong nước cũng như quốc tế đó là các tác giả được trao cho những quyền lợi đặc biệt trong các lĩnh vực cụ thể liên quan tới hoạt động sáng tạo của họ (ví dụ như tái bản, phân phối hay trình chiếu). Những quyền này cho phép các tác giả đảm bảo được những lợi kinh tế cũng như lợi ích phi kinh tế của họ, do đó sẽ thúc đẩy các hoạt động sáng tác văn chương và nghệ thuật, đồng thời đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Nguyên tắc này được nói đến trong một điều của Hiến pháp Mỹ trao những quyền đặc biệt cho các tác giả “nhằm thúc đẩy Tiến bộ Khoa học và các Tác phẩm Nghệ thuật hữu ích”. Vì cách mạng công nghệ đã tạo ra nhiều phương thức mới trong việc khai thác các công trình sáng tạo nên các nhà hoạch định chính sách phải thường xuyên kiểm tra những đặc quyền của các tác giả để đảm bảo rằng các tác giả và những người sở hữu giấy chứng nhận bản quyền luôn có quyền kiểm soát đặc biệt đối với các sáng tác của họ.
Đôi khi, mở rộng phạm vi các quyền lợi hiện có cũng là một giải pháp. Ví dụ, ở Mỹ, quyền được tự do trình diễn trước công chúng còn được hiểu là quyền phát thanh truyền hình. Trong nhiều trường hợp khác, người ta lại bổ sung các quyền mới vào luật bản quyền, ví dụ như khi truyền hình phát triển, người ta đã thêm một số quyền liên quan tới thông tin liên lạc vào hiệp định về bản quyền quốc tế đầu tiên là Công ước Berne.
Đồng thời các nhà lập pháp cũng phải nghiên cứu bản chất và phạm vi của những trường hợp không được hưởng đặc quyền. Ví dụ, các trường hợp miễn trừ hạn chế đối với việc tái bản các phần mềm máy tính được quy định ở khoản 17 trong Luật Bản quyền của Mỹ đã tính đến những phương thức thích hợp đối với việc điều chỉnh những đặc quyền cho phù hợp với nhu cầu về công nghệ đó, cụ thể là nhu cầu sao chép trong quá trình sử dụng và nhu cầu sản xuất những phần mềm hỗ trợ khi có lỗi kỹ thuật. Tương tự như vậy, năm 2002, Mỹ đã xem xét và sửa đổi các điều khoản miễn trừ trong trường hợp sử dụng các công trình sáng tạo trong lĩnh vực giáo dục nhằm tạo điều kiện cho chương trình “giáo dục từ xa” cho phép các giáo viên và học sinh giao tiếp thông qua mạng viễn thông như Internet.
Tóm lại, công nghệ mới ra đời thường gây nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề liệu có nên điều chỉnh các đặc quyền của tác giả và người nắm giữ bản quyền hay không, nên mở rộng hay thu hẹp các quyền hạn đó để phục vụ mục tiêu bảo vệ bản quyền.
Giải pháp để thị trường tác động:
Một trong những lý do tại sao hệ thống đặc quyền như quyền tác giả từ trước tới nay lại thành công vang dội trong việc khuyến khích sức sáng tạo đó là nó cho phép những người sở hữu bản quyền tự tìm kiếm nguồn tài chính cho hoạt động của họ trên thị trường. Cụ thể là ở nơi nào mà công nghệ phát triển nhanh chóng thì ở đó tính linh hoạt của thị trường thường là phương thức tốt nhất để có thể đảm bảo rằng công trình sáng tạo vẫn liên tục được tạo ra và quảng bá đến công chúng.
Tuy nhiên bất kì thị trường nào cũng có những mặt trái và thách thức đặt ra đối với các chính phủ là làm sao khắc phục được những mặt hạn chế đó. Ví dụ, một đặc quyền sẽ trở nên vô ích đối với người sở hữu nó nếu thị trường ngăn trở việc thực thi quyền lợi ấy. Việc khai thác quyền được trình diễn ca nhạc trước công chúng chính là một ví dụ điển hình ở nước Mỹ. Giá trị của việc trình diễn đơn lẻ trước công chúng thì rất thấp nhưng lượng người sử dụng tác phẩm âm nhạc đó bao gồm các đài truyền hình, các quán bar, các nhà hàng, siêu thị, v.v. thì vô cùng đông đảo. Tóm lại giá trị của việc khai thác một tác phẩm là vô cùng to lớn và chi phí quản lý quyền tác giả trước một lượng người sử dụng đông đáo đó cũng vô cùng tốn kém.
Ở Mỹ, tính không hiệu quả đó của thị trường nói chung đã được khắc phục bằng giải pháp quen thuộc là để cho chính thị trường tác động: quản lý chung quyền trình chiếu. Trong hệ thống này, các hiệp hội thu phí cấp phép từ mỗi người sử dụng và trả cho tác giả cũng như nhà xuất bản. Ví dụ như ở Mỹ, Hiệp hội Các nhà soạn nhạc, nhà văn, nhà xuất bản (ASCAP) và Tập đoàn Truyền phát Nhạc (BMI) sẽ cấp hàng loạt giấy phép trình chiếu phổ thông cho các địa điểm và dùng khoản tiền cấp phép thu được trả cho các thành viên.
Cách tiếp cận tương tự cũng đang được sử dụng để quản lý quyền tái bản, sao chép điện tử và đã đạt được một số thành công nhất định. Ví dụ trong lĩnh vực này, Trung tâm Cấp phép Sử dụng Bản quyền đã đi đầu và hoạt động như một trung tâm cấp giấy phép cho đông đảo người sử dụng. Việc cấp phép bắt buộc, trong đó nhà nước in ấn và quản lý các giấy phép cũng là một giải pháp để khắc phục hạn chế của thị trường. Ví dụ, điều 111 và 119 trong Luật Bản quyền Mỹ đã quy định việc tái chuyển giao các tín hiệu truyển hình bắt buộc phải có giấy phép do chi phí giao dịch cao cùng với việc phải xin giấy phép cần thiết.
Kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong lĩnh vực này cho thấy những hình thức quản lý tập thể vấn đề bản quyền hữu hiệu nhất đó là những hình thức giữ được càng nhiều đặc tính của các đặc quyền thị trường càng tốt. Điều này đòi hỏi hệ thống quản lý tập thể phải luôn chủ động, thừa nhận và linh hoạt trước các tác động của thị trường (bao gồm các các tác động được tạo ra bởi những thay đổi của công nghệ). Tất cả ba nhân tố trên đều hướng tới những cá thể hoạt động trong môi trường có tính cạnh tranh cao để tập trung quản lý quyền. Ngoài ra nhân tố thứ ba còn cho rằng quá trình quản lý các quyền lợi không nên tập trung vì điều kiện thị trường ở mỗi nước là khác nhau.
Hơn nữa việc quy định giấy phép bắt buộc phải được quản lý bởi nhà nước cũng gây tốn kém cho xã hội. Trước hết, quy định giấy phép bắt buộc vi phạm nghiêm trọng đến quy phạm về đặc quyền. Thứ hai, giấy phép bắt buộc có thể bóp méo thị trường bởi vì nó kiểm soát giá cả một cách trực tiếp thông qua cơ chế ấn định mức tiền bản quyền tác giả và một cách gián tiếp thông qua việc kiểm soát nguồn cung. Thứ ba, một khi giấy phép bắt buộc được hình thành, nó sẽ kéo theo cả mạng lưới những kẻ ăn theo rất khó xóa bỏ ngay cả khi không còn những điều kiện nuôi dưỡng mạng lưới đó.
Vì những lý do trên, việc cấp giấy phép bắt buộc chỉ được cho phép sử dụng một cách hạn chế bởi các hiệp định bản quyền quốc tế và nên áp dụng một cách thận trọng ở mức độ quốc gia. Thất bại của thị trường, như thị trường tái chuyển giao vệ tinh và cáp trong đó chi phí giao dịch quá đắt đỏ chính là một minh chứng cho việc ứng dụng cấp giấy phép bắt buộc đó.
NHỮNG THÁCH THỨC ĐẦU TIÊN
Công nghệ số hóa phát triển đã đặt ra hàng loạt thách thức cho vấn đề bản quyền quốc tế.
Duy trì cơ cấu các đặc quyền
Bởi vì những tiến bộ trong công nghệ số hóa đã giúp cho việc tái bản và phân phối các tác phẩm trở nên nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới, những năm gần đây cộng đồng quốc tế đã phải chú ý rất nhiều đến việc điều chính các đặc quyền để giải quyết những vấn đề phát sinh từ công nghệ mới. Một kết luận mang tầm quốc tế được đưa ra đó là: vì luật bản quyền hiện tại đã tương đối đầy đủ để có thể điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan tới công nghệ mới, cho nên chỉ cần sửa đổi bổ sung chứ không cần thay đổi hoàn toàn. Điều này được phản ánh trong các quy định vừa phải nhưng quan trọng của Hiệp định về Bản quyền WIPO (WCT) được kí kết một thời gian ngắn trước khi công nghệ số hóa trở nên thịnh hành.
WCT đòi hỏi các nước thành viên công nhận những đặc quyền cụ thể dành cho các hoạt động diễn ra trong mạng lưới viễn thông số hóa mới như mạng Internet. Hiệp ước này cũng trao cho các tác giả quyền được giao dịch với công chúng, bao gồm quyền rao bán sản phẩm của mình như cung cấp phần mềm tải các tác phẩm xuống từ các website. Trong khi nhiều bộ luật về bản quyền lồng ghép đặc quyền đó trong những quyền mang tính chất truyền thống hơn như quyền tái bản hay quyền trình chiếu thì WCT lại quy định rõ ràng thành một điều khoản rằng quyền rao bán, dưới bất cứ hình thức nào đều thuộc về tác giả.
Những biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để bảo hộ bản quyền
Trong khi hầu như không sửa đổi gì đến nội dụng các đặc quyền, WCT đã bổ sung một số điều khoản khá mới mẻ đối với các hiệp định bản quyền quốc tế, đó là về các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để bảo hộ bản quyền. Những biện pháp đó nhằm thúc đẩy sự phát triển của cách mạng kỹ thuật số bằng cách đảm bảo rằng giấy chứng nhận bản quyền có thể được cấp và sử dụng trực tuyến.
WCT quy định các quốc gia thành viên phải triển khai các giải pháp pháp lý hữu hiệu nhằm ngăn chặn những người sở hữu bản quyền sử dụng thủ đoạn kỹ thuật để bảo vệ quyền lợi của họ, đồng thời cũng ngăn chặn các cá nhân tẩy xóa hay sửa chữa thông tin quản lý quyền lợi được người sở hữu bản quyền cung cấp trong tác phẩm. Mục đầu tiên trong Hiệp định Bản quyền Kỷ nguyên Kỹ thuật Số (DMCA) đã quy định một hình thức trách nhiệm pháp lý mới đối với việc sử dụng các tiểu xảo kỹ thuật nhằm ngăn cản việc tiếp cận các công trình sáng tác đã được bảo hộ hay nhằm kiểm soát việc tái bản, phân phối, trình diễn, trình chiếu các tác phẩm đã được bảo hộ.
Vì vậy, WCT đã thừa nhận là các cá nhân sở hữu bản quyền nếu chỉ đơn phương sử dụng các biện pháp kỹ thuật thì khó có thể bảo vệ được tác phẩm của họ, bởi vì mọi thiết bị kỹ thuật đều có thể bị vô hiệu hóa bởi những kẻ tìm mọi cách ăn cắp tác phẩm đó. Nói cách khác, trong khi luật sở hữu trí tuệ hiện hành đang tiếp tục được điều chỉnh thì việc thực thi những quyền hạn đó trong bối cảnh có nhiều ứng dụng công nghệ mới như mạng Internet đòi hỏi phải bổ sung những điều luật mới ngăn cấm việc xâm hại đến các thiết bị kỹ thuật của các ứng dụng ấy.
Các thị trường và việc quản lý quyền lợi
Như đã đề cập ở trên, quản lý chung các đặc quyền chính là một giải pháp đối với tính không hiệu quả của quyền cấp phép sử dụng một số lượng lớn tác phẩm cho đông đảo người sử dụng khi mà giá trị sử dụng đơn lẻ tương đối thấp. Từ trước tới nay, việc cấp phép sử dụng đơn lẻ các tác phẩm thường làm cho chi phí giao dịch vượt quá giá trị của giấy phép.
Thoạt nhìn, quản lý chung nghe có vẻ là một cách tiếp cận hợp lý đối với việc quản lý quyền lợi, ít nhất là đối với một số tác phẩm trên mạng số hóa. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng như thế nào thì chưa được đề cập rõ ràng. Cơ sở hạ tầng thông tin cho phép phân phối các tác phẩm một cách nhanh chóng với chi phí thấp cũng có thể tăng cường khả năng của những người được hưởng đặc quyền để họ có thể tự mình quản lý quyền lợi đó. Các doanh nghiệp tư nhân đang rất nỗ lực để đưa ra các thiết bị giúp đơn giản hóa quá trình giao dịch riêng lẻ giữa người sở hữu bản quyền với người sử dụng. Việc ứng dụng rộng rãi công nghệ tự động hóa có thể giúp cắt giảm chi phí giao dịch thấp đến mức cho phép các cá nhân có thể tự quản lý quyền lợi của mình. Ngoài ra, các công nghệ như vậy còn có thể ứng dụng trong quản lý tổng hợp như là sự bổ sung cho việc cấp giấy phép phổ thông truyền thống.
Để những kỹ thuật này phát huy được tối đa tác dụng trên thị trường, vai trò của nhà nước ở đây phải là rất nhỏ. Chính các lực lượng thị trường chứ không phải nhà nước là yếu tố quyết định sự thắng thế của cơ chế quản lý quyền lợi chung, cơ chế quản lý quyền lợi đơn lẻ hay là kết hợp của cả hai cơ chế ấy.
NHỮNG THÁCH THỨC TRONG TƯƠNG LAI
Quy định trách nhiệm liên đới thích hợp trong kỷ nguyên kỹ thuật số
Một khía cạnh thú vị khác từ sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số hóa trong thập kỷ qua là tính chất cá nhân của công nghệ mới. Một người, hầu như không mất vốn liếng gì cũng có thể sao chép, phân phối hàng triệu bản copy các tác phẩm thông qua mạng Internet, đặc biệt là những tác phẩm dễ dàng chuyển về dạng số như ca nhạc, phim, ảnh. Ở Mỹ, chúng ta đã từng chứng kiến rất nhiều công ty triển khai mạng lưới bán hàng cá nhân-đến-cá nhân để tận dụng được ích lợi trên, mà cụ thể là tiếp nhận hàng triệu khách hàng vào mạng lưới vi phạm bản quyền quy mô lớn chưa từng thấy. Trước thực tế hoạt động của nhiều cá nhân có thể dẫn đến tình trạng vi phạm luật pháp hàng loạt, các câu hỏi nghiêm túc về việc thực thi pháp luật đã được đặt ra. Thật khó cho những ai sở hữu bản quyền để có thể xác định và tiến hành những biện pháp pháp lý để chống lại hiện tượng ăn cắp bản quyền tràn lan. Và ngay cả khi họ có thể thực thi các biện pháp ấy thì những người vi phạm nhiều khi cũng không có khả năng bồi thường cho những thiệt hại mà họ gây ra.
Nhằm cố gắng giải quyết có hiệu quả tình trạng ăn cắp bản quyền ngày nay, những người sở hữu bản quyền Mỹ đã phải sử dụng các học thuyết về trách nhiệm liên đới để quy trách nhiệm cho những kẻ tạo điều kiện cho những mạng lưới này vi phạm bản quyền. Các công ty này như công ty Napster trước đây, Aimster, Grokster, Morpheus, và Kazaa đã cung cấp phần mềm và các dịch vụ cho người sử dụng, đồng thời thu tiền quảng cáo dựa trên số lượng khán giả truy cập. Các quy định về Trách nhiệm Liên đới từ lâu đã là một phần của luật chung về bản quyền của Mỹ. Theo đó trách nhiệm sẽ thuộc về những ai thu được lợi từ các hoạt động phạm pháp và những ai kiểm soát hay ngăn cản nó. Những điều luật này có thể sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong tương lai, khi mà ngày càng có nhiều tiến bộ kỹ thuật cho phép các công ty lợi dụng các hoạt động phạm pháp của khách hàng.
Một loạt các vụ kiện chống lại các công ty như trên khiến cho các tòa án phải đau đầu để đưa ra được phán quyết thích hợp về trách nhiệm liên đới trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Ở Mỹ, quy định về trách nhiệm liên đới trong trường hợp ăn cắp bản quyền từ trước tới nay vẫn được xem là biện pháp có thể hạn chế tình trạng các công ty sử dụng tác phẩm được bảo hộ để thu hút khách hàng mà không được phép. Tuy nhiên, tòa án cũng đã phải can thiệp để cân đối trách nhiệm này với quyền được tự do tham gia vào các lĩnh vực không liên quan của thương mại.
Tòa án Tối cao Mỹ đã giải quyết những vấn đề này hơn 20 năm về trước khi vụ kiện giữa Tập đoàn Sony Mỹ và Tập đoàn Universal Studios xảy ra. Kể từ đó, vụ kiện này đã trở thành bài học cho các tòa án trong việc ứng dụng quy định về đồng lõa vi phạm. Sony đã bán đầu máy Video Betamax, và người mua đã sử dụng để ghi lại các chương trình truyền hình phát trên tivi để có thể xem lại sau. Khi đó tòa án đã không tìm thấy trách nhiệm tiếp tay cho kẻ vi phạm và kết luận rằng Sony không phải chịu trách nhiệm, miễn là các cuốn băng sao chép đó “không có ý nghĩa thương mại” và “không bị sử dụng một cách bất hợp pháp”. Vì Tòa án thấy rằng việc sử dụng phổ biến sản phẩm Betamax đó không bất hợp pháp nên Tòa án đã không cần phải giải thích gì thêm về cụm từ “sử dụng bất hợp pháp” nữa. Tuy nhiên, Tòa án cũng thừa nhận rằng những người sở hữu bản quyền có quyền được bảo hộ thực sự chứ không chỉ là danh nghĩa.
Gần đây nhất là trong vụ kiện giữa MGM Studios và Grokster, Tòa án Tối cao Mỹ đã giải quyết được câu hỏi là liệu các nhà cung cấp phần mềm bán hàng cá nhân-tới-cá nhân có phải chịu trách nhiệm liên đới hay không. Tòa án đã nhất trí rằng các nhà cung cấp như thế có thể sẽ chịu trách nhiệm liên đới nếu họ “cung cấp thiết bị với mục đích để khách hàng ăn cắp bản quyền, bộc lộ trong những biểu hiện rõ ràng hay việc dung túng cho hành động ăn cắp đó”. Nói cách khác, nếu nhà cung cấp khuyến khích khách hàng phạm pháp thì nhà cung cấp ấy cũng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những hậu quả do hành động phạm pháp đó gây ra. Tòa án Tối cao đã chỉ thị cho tòa án các bang phải luôn xem xét kỹ càng mọi tình huống mới có thể quyết định liệu có xảy ra tình trạng khuyến khích phạm pháp hay không, và phán quyết trong vụ kiện Sony không có nghĩa là bên bị đơn sẽ được miễn trách khi bị phát hiện có hành vi xúi giục khách hàng phạm pháp. Quy định này cho phép những người sở hữu bản quyền có thể khai thác hiệu quả bản quyền của họ mà không phải sợ các nhà cung cấp phần mềm và dịch vụ khuyến khích và thu lợi từ các hoạt động phạm pháp nữa. Nhiều bình luận viên đã gọi vụ kiện này là vụ kiện có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử luật bản quyền của Mỹ.
Mặc dù là vấn đề quốc tế nhưng có rất ít điểm tương đồng giữa luật của các quốc gia về trách nhiệm liên đới, liệu có được quy trách nhiệm cho một công ty triển khai công nghệ bán hàng cá nhân-tới-cá nhân để khuyến khích phạm pháp hoặc, như trong mục II của DMCA của Mỹ đã đề cập, một nhà cung cấp dịch vụ Internet cung cấp các thiết bị mà khách hàng sử dụng để phạm pháp hay không. Có lẽ đây là lĩnh vực đòi hỏi phải cân nhắc đến các chuẩn mực quốc tế về trách nhiệm liên đới, đặc biệt là khi phải đối mặt với bản chất toàn cầu của mạng Internet, nơi mà một công ty ở một nước có thể cung cấp các thiết bị có thể sử dụng dễ dàng để phạm pháp cho khách hàng ở nhiều nước trên toàn thế giới. Để có thể duy trì việc bảo hộ hiệu quả bản quyền trong kỷ nguyên số hóa đòi hỏi những chuẩn mực quốc tế đó.
Giảm tính không hiệu quả cho những người sử dụng tiếp theo
Như chúng ta đã thấy trong thập kỷ qua, mạng Internet đã cung cấp cho mọi người một kho thông tin khổng lồ dưới mọi hình thức, từ dạng văn bản đến dạng tranh ảnh, nhạc và phim. Ngoài ra, công nghệ số hóa còn đem lại cho mỗi cá nhân khả năng trở thành tác giả tự sáng tác và quảng bá tác phẩm của mình. Thường thì tác giả đó luôn muốn sáng tạo theo cách riêng của mình nhưng lại không chắc chắn về vấn đề bản quyền hoặc không biết xin cấp phép ở đâu. Như đã mô tả ở trên, việc cấp phép hàng loạt có thể hỗ trợ cho những tác giả như vậy bằng cách cung cấp cho họ những cơ chế hiệu quả trong việc xin cấp phép sử dụng các tác phẩm.
Tuy nhiên, sẽ có một số hay thậm chí là nhiều trường hợp các tác giả không tìm được người khai thác tác phẩm hay cơ quan quản lý chung, và tác giả đó không thể trả lời được câu hỏi là liệu luật bản quyền cho phép hay ngăn cấm khai thác các tác phẩm đó. Một thách thức đặt ra trong tương lai là luật bản quyền nên giải quyết thế nào với những “tác phẩm mồ côi” đó. Nếu quả thực có trường hợp người sở hữu bản quyền không còn quan tâm tới việc sử dụng sản phẩm ấy nữa thì cũng không nên ngăn cấm việc sử dụng sản phẩm đó, đơn giản vì không có gì chắc chắn về tình trạng của tác phẩm đó. Kết quả là sẽ làm giảm lượng người tiếp cận việc khai thác mới và hiệu quả của tác phẩm đó. Đây là mục tiêu cuối cùng của bất kì hệ thống bản quyền hiệu quả nào.
Tại Mỹ, cơ quan về bản quyền đã bắt đầu tìm hiểu vấn đề của các “tác phẩm mồ côi” để xem xét bản chất và quy mô của vấn đề cũng như tìm ra giải pháp pháp lý cho vấn đề đó. Còn các quốc gia khác như Canada đã phát triển những cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan tới các “tác phẩm mồ côi”. Một phần của thách thức đặt ra là phải đảm bảo rằng các giải pháp sẽ luôn trung thành và không làm tổn hại đến lợi ích của tác giả cũng như của người nắm giữ bản quyền và rằng chúng sẽ luôn tuân thủ luật bản quyền quốc tế - bộ luật ngăn cấm việc áp đặt các điều kiện cho việc thực thi và khai thác bản quyền.
Marybeth Peter
NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA CÔNG NGHỆ SỐ HÓA VỚI HÀM Ý VỀ BẢN QUYỀN
Những công nghệ cần được điều chỉnh bởi luật bản quyền đều là những ứng dụng kỹ thuật liên quan tới việc lưu trữ và chuyển giao quyền tác giả. Những công nghệ này liên quan tới luật bản quyền dưới nhiều phương diện được liệt kê dưới đây:
Dễ dàng sao chép: Một tác phẩm khi đã được số hóa có thể sao chép một cách dễ dàng, nhanh chóng, chi phí thấp mà chất lượng vẫn đảm bảo. Mỗi bản copy lại tiếp tục được sao thành nhiều bản khác mà vẫn giữ nguyên chất lượng ban đầu. Như vậy chỉ cần một bản copy thôi cũng có thể đáp ứng được nhu cầu của hàng triệu người. Chúng ta đã từng được chứng kiến những đĩa nhạc CD từ những năm 80, 90 được sao chép thành hàng tỉ bản và trở nên phổ biến như thế nào trên mạng Internet trong những năm gần đây.
Dễ dàng phổ biến: Mạng số hóa toàn cầu cho phép phổ biến tác phẩm dưới dạng số một cách nhanh chóng trên toàn thế giới. Giống như phát thanh truyền hình, mạng kỹ thuật số cho phép từ một trung tâm có thể truyền phát tới hàng triệu cá nhân (mặc dù có điểm khác biệt ở đây là các tác phẩm số hóa không nhất thiết phải đến tay người nhận cùng một lúc). Tuy nhiên, mạng số hóa còn cho phép mỗi cá nhân có thể trở thành chủ thể truyền phát, khiến cho số luợng phân phối tăng theo theo cấp số nhân, đôi khi gọi là hiệu ứng virus. Điều này cùng với khả năng dễ dàng sao chép cũng có nghĩa là một bản copy số hóa của một tác phẩm có thể được tái bản hàng chục nghìn lần chỉ trong vài tiếng đồng hồ. Khi được phân phát bằng đường truyền tốc độ cao như mạng lưới cáp đồng trục hoặc thậm chí đường dây cáp quang thì quá trình đó sẽ nhanh hơn rất nhiều, đồng thời khả năng truyền tải các tác phẩm cũng tăng lên.
Dễ dàng lưu trữ: Có thể lưu trữ một dung lượng lớn các thông tin số hóa, và mỗi năm giới hạn dung lượng đó lại được mở rộng ra rất nhiều. Chưa bao giờ một khối lượng lớn thông tin lại có thể được lưu trữ trong một không gian ngày càng nhỏ như ngày nay. Đầu thập kỷ 90, những chiếc đĩa CD với dung lượng trên 600 megabytes đã được những kẻ làm băng đĩa giả sử dụng tràn lan và thu được lợi nhuận lên đến hàng triệu đô-la. Giờ đây, một thiết bị nghe nhạc di động chỉ to bằng hộp thuốc lá cũng có thể chứa được một khối lượng thông tin lớn gấp 70 lần (khoảng 10.000 bài hát).
CÁC HÌNH THỨC KHAI THÁC VÀ CẠNH TRANH BẤT HỢP PHÁP MỚI
Cuộc cách mạng kỹ thuật trong phương thức tái bản, sao chép, lưu trữ thông tin số hóa bao gồm các tác phẩm được cấp bản quyền rõ ràng là một con dao hai lưỡi đối với tác giả và đối với cả người nắm giữ bản quyền. Một mặt, nó giúp cho tác giả có thể quảng bá tác phẩm của mình tới đông đảo khán giả một cách thuận tiện và tiết kiệm hơn nhiều so với trước đây. Ví dụ một ca sĩ có thể tải các bài hát của mình lên các trang web để các fan hâm mộ trên khắp thế giới có thể vào nghe mà không phải tốn tiền đầu tư cho sản xuất, đóng gói, chuyển phát những chiếc đĩa CD tới những nơi xa xôi theo cách thông thường. Mặt khác, tiến bộ công nghệ này cũng tạo cơ hội cho nhiều kẻ gian, nhiều kẻ cạnh tranh bất hợp pháp với tác giả sao chép và tiêu thụ trái phép những tác phẩm này.
Thách thức trong vấn đề bản quyền ở kỷ nguyên số hóa là làm sao có thể bảo vệ quyền lợi của tác giả cũng như người nắm giữ bản quyền trong việc sản xuất và sử dụng công nghệ mới để tiêu thụ các tác phẩm đó khi phải đối mặt với nạn ăn cắp và cạnh tranh bất hợp pháp ở khắp mọi nơi. Đồng thời, cũng phải đảm bảo rằng việc sử dụng hữu ích các tác phẩm không bị kiểm soát một cách không cần thiết bởi hệ thống bản quyền không hiệu quả do công nghệ mới gây ra. Bài viết này đề cập đến việc Hoa Kỳ đã phải đối mặt với thách thức này như thế nào và liệu trong tương lai có thể sẽ gặp lại thách thức đó ra sao.
NHỮNG CHỦ ĐIỂM CHUNG
Bài viết này đề cập tới một vài chủ điểm chung trong cách tiếp cận cho rằng luật bản quyền của Mỹ liên quan tới những tiến bộ công nghệ trong quá khứ và làm thế nào nước Mỹ đã vượt qua được những thách thức do những công nghệ hoàn toàn mới đó đặt ra.
Tìm đến những hình thức thể hiện mới:
Suốt hai thế kỷ qua, không biết bao nhiêu lần chủ đề bản quyền liên quan tới những hình thức mới của quyền tác giả được đưa ra thảo luận. Nghề nhiếp ảnh, kỹ thuật quay phim, các dữ liệu điện tử, và các chương trình máy tính là một số ví dụ điển hình. Về mặt cơ bản, trong mỗi trường hợp các nhà hoạch định chính sách đều có thể xem xét vấn đề một cách tổng quát hơn là chỉ dừng lại ở những kỹ thuật và phương thức biểu đạt cụ thể, để có thể thừa nhận sợi chỉ chung xuyên suốt về quyền sáng tạo liên quan tới bản quyền tác giả.
Duy trì cơ cấu các đặc quyền:
Một nguyên tắc cơ bản của hệ thống bản quyền trong nước cũng như quốc tế đó là các tác giả được trao cho những quyền lợi đặc biệt trong các lĩnh vực cụ thể liên quan tới hoạt động sáng tạo của họ (ví dụ như tái bản, phân phối hay trình chiếu). Những quyền này cho phép các tác giả đảm bảo được những lợi kinh tế cũng như lợi ích phi kinh tế của họ, do đó sẽ thúc đẩy các hoạt động sáng tác văn chương và nghệ thuật, đồng thời đem lại nhiều lợi ích cho xã hội. Nguyên tắc này được nói đến trong một điều của Hiến pháp Mỹ trao những quyền đặc biệt cho các tác giả “nhằm thúc đẩy Tiến bộ Khoa học và các Tác phẩm Nghệ thuật hữu ích”. Vì cách mạng công nghệ đã tạo ra nhiều phương thức mới trong việc khai thác các công trình sáng tạo nên các nhà hoạch định chính sách phải thường xuyên kiểm tra những đặc quyền của các tác giả để đảm bảo rằng các tác giả và những người sở hữu giấy chứng nhận bản quyền luôn có quyền kiểm soát đặc biệt đối với các sáng tác của họ.
Đôi khi, mở rộng phạm vi các quyền lợi hiện có cũng là một giải pháp. Ví dụ, ở Mỹ, quyền được tự do trình diễn trước công chúng còn được hiểu là quyền phát thanh truyền hình. Trong nhiều trường hợp khác, người ta lại bổ sung các quyền mới vào luật bản quyền, ví dụ như khi truyền hình phát triển, người ta đã thêm một số quyền liên quan tới thông tin liên lạc vào hiệp định về bản quyền quốc tế đầu tiên là Công ước Berne.
Đồng thời các nhà lập pháp cũng phải nghiên cứu bản chất và phạm vi của những trường hợp không được hưởng đặc quyền. Ví dụ, các trường hợp miễn trừ hạn chế đối với việc tái bản các phần mềm máy tính được quy định ở khoản 17 trong Luật Bản quyền của Mỹ đã tính đến những phương thức thích hợp đối với việc điều chỉnh những đặc quyền cho phù hợp với nhu cầu về công nghệ đó, cụ thể là nhu cầu sao chép trong quá trình sử dụng và nhu cầu sản xuất những phần mềm hỗ trợ khi có lỗi kỹ thuật. Tương tự như vậy, năm 2002, Mỹ đã xem xét và sửa đổi các điều khoản miễn trừ trong trường hợp sử dụng các công trình sáng tạo trong lĩnh vực giáo dục nhằm tạo điều kiện cho chương trình “giáo dục từ xa” cho phép các giáo viên và học sinh giao tiếp thông qua mạng viễn thông như Internet.
Tóm lại, công nghệ mới ra đời thường gây nhiều tranh cãi xung quanh vấn đề liệu có nên điều chỉnh các đặc quyền của tác giả và người nắm giữ bản quyền hay không, nên mở rộng hay thu hẹp các quyền hạn đó để phục vụ mục tiêu bảo vệ bản quyền.
Giải pháp để thị trường tác động:
Một trong những lý do tại sao hệ thống đặc quyền như quyền tác giả từ trước tới nay lại thành công vang dội trong việc khuyến khích sức sáng tạo đó là nó cho phép những người sở hữu bản quyền tự tìm kiếm nguồn tài chính cho hoạt động của họ trên thị trường. Cụ thể là ở nơi nào mà công nghệ phát triển nhanh chóng thì ở đó tính linh hoạt của thị trường thường là phương thức tốt nhất để có thể đảm bảo rằng công trình sáng tạo vẫn liên tục được tạo ra và quảng bá đến công chúng.
Tuy nhiên bất kì thị trường nào cũng có những mặt trái và thách thức đặt ra đối với các chính phủ là làm sao khắc phục được những mặt hạn chế đó. Ví dụ, một đặc quyền sẽ trở nên vô ích đối với người sở hữu nó nếu thị trường ngăn trở việc thực thi quyền lợi ấy. Việc khai thác quyền được trình diễn ca nhạc trước công chúng chính là một ví dụ điển hình ở nước Mỹ. Giá trị của việc trình diễn đơn lẻ trước công chúng thì rất thấp nhưng lượng người sử dụng tác phẩm âm nhạc đó bao gồm các đài truyền hình, các quán bar, các nhà hàng, siêu thị, v.v. thì vô cùng đông đảo. Tóm lại giá trị của việc khai thác một tác phẩm là vô cùng to lớn và chi phí quản lý quyền tác giả trước một lượng người sử dụng đông đáo đó cũng vô cùng tốn kém.
Ở Mỹ, tính không hiệu quả đó của thị trường nói chung đã được khắc phục bằng giải pháp quen thuộc là để cho chính thị trường tác động: quản lý chung quyền trình chiếu. Trong hệ thống này, các hiệp hội thu phí cấp phép từ mỗi người sử dụng và trả cho tác giả cũng như nhà xuất bản. Ví dụ như ở Mỹ, Hiệp hội Các nhà soạn nhạc, nhà văn, nhà xuất bản (ASCAP) và Tập đoàn Truyền phát Nhạc (BMI) sẽ cấp hàng loạt giấy phép trình chiếu phổ thông cho các địa điểm và dùng khoản tiền cấp phép thu được trả cho các thành viên.
Cách tiếp cận tương tự cũng đang được sử dụng để quản lý quyền tái bản, sao chép điện tử và đã đạt được một số thành công nhất định. Ví dụ trong lĩnh vực này, Trung tâm Cấp phép Sử dụng Bản quyền đã đi đầu và hoạt động như một trung tâm cấp giấy phép cho đông đảo người sử dụng. Việc cấp phép bắt buộc, trong đó nhà nước in ấn và quản lý các giấy phép cũng là một giải pháp để khắc phục hạn chế của thị trường. Ví dụ, điều 111 và 119 trong Luật Bản quyền Mỹ đã quy định việc tái chuyển giao các tín hiệu truyển hình bắt buộc phải có giấy phép do chi phí giao dịch cao cùng với việc phải xin giấy phép cần thiết.
Kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong lĩnh vực này cho thấy những hình thức quản lý tập thể vấn đề bản quyền hữu hiệu nhất đó là những hình thức giữ được càng nhiều đặc tính của các đặc quyền thị trường càng tốt. Điều này đòi hỏi hệ thống quản lý tập thể phải luôn chủ động, thừa nhận và linh hoạt trước các tác động của thị trường (bao gồm các các tác động được tạo ra bởi những thay đổi của công nghệ). Tất cả ba nhân tố trên đều hướng tới những cá thể hoạt động trong môi trường có tính cạnh tranh cao để tập trung quản lý quyền. Ngoài ra nhân tố thứ ba còn cho rằng quá trình quản lý các quyền lợi không nên tập trung vì điều kiện thị trường ở mỗi nước là khác nhau.
Hơn nữa việc quy định giấy phép bắt buộc phải được quản lý bởi nhà nước cũng gây tốn kém cho xã hội. Trước hết, quy định giấy phép bắt buộc vi phạm nghiêm trọng đến quy phạm về đặc quyền. Thứ hai, giấy phép bắt buộc có thể bóp méo thị trường bởi vì nó kiểm soát giá cả một cách trực tiếp thông qua cơ chế ấn định mức tiền bản quyền tác giả và một cách gián tiếp thông qua việc kiểm soát nguồn cung. Thứ ba, một khi giấy phép bắt buộc được hình thành, nó sẽ kéo theo cả mạng lưới những kẻ ăn theo rất khó xóa bỏ ngay cả khi không còn những điều kiện nuôi dưỡng mạng lưới đó.
Vì những lý do trên, việc cấp giấy phép bắt buộc chỉ được cho phép sử dụng một cách hạn chế bởi các hiệp định bản quyền quốc tế và nên áp dụng một cách thận trọng ở mức độ quốc gia. Thất bại của thị trường, như thị trường tái chuyển giao vệ tinh và cáp trong đó chi phí giao dịch quá đắt đỏ chính là một minh chứng cho việc ứng dụng cấp giấy phép bắt buộc đó.
NHỮNG THÁCH THỨC ĐẦU TIÊN
Công nghệ số hóa phát triển đã đặt ra hàng loạt thách thức cho vấn đề bản quyền quốc tế.
Duy trì cơ cấu các đặc quyền
Bởi vì những tiến bộ trong công nghệ số hóa đã giúp cho việc tái bản và phân phối các tác phẩm trở nên nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới, những năm gần đây cộng đồng quốc tế đã phải chú ý rất nhiều đến việc điều chính các đặc quyền để giải quyết những vấn đề phát sinh từ công nghệ mới. Một kết luận mang tầm quốc tế được đưa ra đó là: vì luật bản quyền hiện tại đã tương đối đầy đủ để có thể điều chỉnh các quan hệ phát sinh liên quan tới công nghệ mới, cho nên chỉ cần sửa đổi bổ sung chứ không cần thay đổi hoàn toàn. Điều này được phản ánh trong các quy định vừa phải nhưng quan trọng của Hiệp định về Bản quyền WIPO (WCT) được kí kết một thời gian ngắn trước khi công nghệ số hóa trở nên thịnh hành.
WCT đòi hỏi các nước thành viên công nhận những đặc quyền cụ thể dành cho các hoạt động diễn ra trong mạng lưới viễn thông số hóa mới như mạng Internet. Hiệp ước này cũng trao cho các tác giả quyền được giao dịch với công chúng, bao gồm quyền rao bán sản phẩm của mình như cung cấp phần mềm tải các tác phẩm xuống từ các website. Trong khi nhiều bộ luật về bản quyền lồng ghép đặc quyền đó trong những quyền mang tính chất truyền thống hơn như quyền tái bản hay quyền trình chiếu thì WCT lại quy định rõ ràng thành một điều khoản rằng quyền rao bán, dưới bất cứ hình thức nào đều thuộc về tác giả.
Những biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để bảo hộ bản quyền
Trong khi hầu như không sửa đổi gì đến nội dụng các đặc quyền, WCT đã bổ sung một số điều khoản khá mới mẻ đối với các hiệp định bản quyền quốc tế, đó là về các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ để bảo hộ bản quyền. Những biện pháp đó nhằm thúc đẩy sự phát triển của cách mạng kỹ thuật số bằng cách đảm bảo rằng giấy chứng nhận bản quyền có thể được cấp và sử dụng trực tuyến.
WCT quy định các quốc gia thành viên phải triển khai các giải pháp pháp lý hữu hiệu nhằm ngăn chặn những người sở hữu bản quyền sử dụng thủ đoạn kỹ thuật để bảo vệ quyền lợi của họ, đồng thời cũng ngăn chặn các cá nhân tẩy xóa hay sửa chữa thông tin quản lý quyền lợi được người sở hữu bản quyền cung cấp trong tác phẩm. Mục đầu tiên trong Hiệp định Bản quyền Kỷ nguyên Kỹ thuật Số (DMCA) đã quy định một hình thức trách nhiệm pháp lý mới đối với việc sử dụng các tiểu xảo kỹ thuật nhằm ngăn cản việc tiếp cận các công trình sáng tác đã được bảo hộ hay nhằm kiểm soát việc tái bản, phân phối, trình diễn, trình chiếu các tác phẩm đã được bảo hộ.
Vì vậy, WCT đã thừa nhận là các cá nhân sở hữu bản quyền nếu chỉ đơn phương sử dụng các biện pháp kỹ thuật thì khó có thể bảo vệ được tác phẩm của họ, bởi vì mọi thiết bị kỹ thuật đều có thể bị vô hiệu hóa bởi những kẻ tìm mọi cách ăn cắp tác phẩm đó. Nói cách khác, trong khi luật sở hữu trí tuệ hiện hành đang tiếp tục được điều chỉnh thì việc thực thi những quyền hạn đó trong bối cảnh có nhiều ứng dụng công nghệ mới như mạng Internet đòi hỏi phải bổ sung những điều luật mới ngăn cấm việc xâm hại đến các thiết bị kỹ thuật của các ứng dụng ấy.
Các thị trường và việc quản lý quyền lợi
Như đã đề cập ở trên, quản lý chung các đặc quyền chính là một giải pháp đối với tính không hiệu quả của quyền cấp phép sử dụng một số lượng lớn tác phẩm cho đông đảo người sử dụng khi mà giá trị sử dụng đơn lẻ tương đối thấp. Từ trước tới nay, việc cấp phép sử dụng đơn lẻ các tác phẩm thường làm cho chi phí giao dịch vượt quá giá trị của giấy phép.
Thoạt nhìn, quản lý chung nghe có vẻ là một cách tiếp cận hợp lý đối với việc quản lý quyền lợi, ít nhất là đối với một số tác phẩm trên mạng số hóa. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng như thế nào thì chưa được đề cập rõ ràng. Cơ sở hạ tầng thông tin cho phép phân phối các tác phẩm một cách nhanh chóng với chi phí thấp cũng có thể tăng cường khả năng của những người được hưởng đặc quyền để họ có thể tự mình quản lý quyền lợi đó. Các doanh nghiệp tư nhân đang rất nỗ lực để đưa ra các thiết bị giúp đơn giản hóa quá trình giao dịch riêng lẻ giữa người sở hữu bản quyền với người sử dụng. Việc ứng dụng rộng rãi công nghệ tự động hóa có thể giúp cắt giảm chi phí giao dịch thấp đến mức cho phép các cá nhân có thể tự quản lý quyền lợi của mình. Ngoài ra, các công nghệ như vậy còn có thể ứng dụng trong quản lý tổng hợp như là sự bổ sung cho việc cấp giấy phép phổ thông truyền thống.
Để những kỹ thuật này phát huy được tối đa tác dụng trên thị trường, vai trò của nhà nước ở đây phải là rất nhỏ. Chính các lực lượng thị trường chứ không phải nhà nước là yếu tố quyết định sự thắng thế của cơ chế quản lý quyền lợi chung, cơ chế quản lý quyền lợi đơn lẻ hay là kết hợp của cả hai cơ chế ấy.
NHỮNG THÁCH THỨC TRONG TƯƠNG LAI
Quy định trách nhiệm liên đới thích hợp trong kỷ nguyên kỹ thuật số
Một khía cạnh thú vị khác từ sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số hóa trong thập kỷ qua là tính chất cá nhân của công nghệ mới. Một người, hầu như không mất vốn liếng gì cũng có thể sao chép, phân phối hàng triệu bản copy các tác phẩm thông qua mạng Internet, đặc biệt là những tác phẩm dễ dàng chuyển về dạng số như ca nhạc, phim, ảnh. Ở Mỹ, chúng ta đã từng chứng kiến rất nhiều công ty triển khai mạng lưới bán hàng cá nhân-đến-cá nhân để tận dụng được ích lợi trên, mà cụ thể là tiếp nhận hàng triệu khách hàng vào mạng lưới vi phạm bản quyền quy mô lớn chưa từng thấy. Trước thực tế hoạt động của nhiều cá nhân có thể dẫn đến tình trạng vi phạm luật pháp hàng loạt, các câu hỏi nghiêm túc về việc thực thi pháp luật đã được đặt ra. Thật khó cho những ai sở hữu bản quyền để có thể xác định và tiến hành những biện pháp pháp lý để chống lại hiện tượng ăn cắp bản quyền tràn lan. Và ngay cả khi họ có thể thực thi các biện pháp ấy thì những người vi phạm nhiều khi cũng không có khả năng bồi thường cho những thiệt hại mà họ gây ra.
Nhằm cố gắng giải quyết có hiệu quả tình trạng ăn cắp bản quyền ngày nay, những người sở hữu bản quyền Mỹ đã phải sử dụng các học thuyết về trách nhiệm liên đới để quy trách nhiệm cho những kẻ tạo điều kiện cho những mạng lưới này vi phạm bản quyền. Các công ty này như công ty Napster trước đây, Aimster, Grokster, Morpheus, và Kazaa đã cung cấp phần mềm và các dịch vụ cho người sử dụng, đồng thời thu tiền quảng cáo dựa trên số lượng khán giả truy cập. Các quy định về Trách nhiệm Liên đới từ lâu đã là một phần của luật chung về bản quyền của Mỹ. Theo đó trách nhiệm sẽ thuộc về những ai thu được lợi từ các hoạt động phạm pháp và những ai kiểm soát hay ngăn cản nó. Những điều luật này có thể sẽ đóng vai trò quan trọng hơn trong tương lai, khi mà ngày càng có nhiều tiến bộ kỹ thuật cho phép các công ty lợi dụng các hoạt động phạm pháp của khách hàng.
Một loạt các vụ kiện chống lại các công ty như trên khiến cho các tòa án phải đau đầu để đưa ra được phán quyết thích hợp về trách nhiệm liên đới trong kỷ nguyên kỹ thuật số. Ở Mỹ, quy định về trách nhiệm liên đới trong trường hợp ăn cắp bản quyền từ trước tới nay vẫn được xem là biện pháp có thể hạn chế tình trạng các công ty sử dụng tác phẩm được bảo hộ để thu hút khách hàng mà không được phép. Tuy nhiên, tòa án cũng đã phải can thiệp để cân đối trách nhiệm này với quyền được tự do tham gia vào các lĩnh vực không liên quan của thương mại.
Tòa án Tối cao Mỹ đã giải quyết những vấn đề này hơn 20 năm về trước khi vụ kiện giữa Tập đoàn Sony Mỹ và Tập đoàn Universal Studios xảy ra. Kể từ đó, vụ kiện này đã trở thành bài học cho các tòa án trong việc ứng dụng quy định về đồng lõa vi phạm. Sony đã bán đầu máy Video Betamax, và người mua đã sử dụng để ghi lại các chương trình truyền hình phát trên tivi để có thể xem lại sau. Khi đó tòa án đã không tìm thấy trách nhiệm tiếp tay cho kẻ vi phạm và kết luận rằng Sony không phải chịu trách nhiệm, miễn là các cuốn băng sao chép đó “không có ý nghĩa thương mại” và “không bị sử dụng một cách bất hợp pháp”. Vì Tòa án thấy rằng việc sử dụng phổ biến sản phẩm Betamax đó không bất hợp pháp nên Tòa án đã không cần phải giải thích gì thêm về cụm từ “sử dụng bất hợp pháp” nữa. Tuy nhiên, Tòa án cũng thừa nhận rằng những người sở hữu bản quyền có quyền được bảo hộ thực sự chứ không chỉ là danh nghĩa.
Gần đây nhất là trong vụ kiện giữa MGM Studios và Grokster, Tòa án Tối cao Mỹ đã giải quyết được câu hỏi là liệu các nhà cung cấp phần mềm bán hàng cá nhân-tới-cá nhân có phải chịu trách nhiệm liên đới hay không. Tòa án đã nhất trí rằng các nhà cung cấp như thế có thể sẽ chịu trách nhiệm liên đới nếu họ “cung cấp thiết bị với mục đích để khách hàng ăn cắp bản quyền, bộc lộ trong những biểu hiện rõ ràng hay việc dung túng cho hành động ăn cắp đó”. Nói cách khác, nếu nhà cung cấp khuyến khích khách hàng phạm pháp thì nhà cung cấp ấy cũng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với những hậu quả do hành động phạm pháp đó gây ra. Tòa án Tối cao đã chỉ thị cho tòa án các bang phải luôn xem xét kỹ càng mọi tình huống mới có thể quyết định liệu có xảy ra tình trạng khuyến khích phạm pháp hay không, và phán quyết trong vụ kiện Sony không có nghĩa là bên bị đơn sẽ được miễn trách khi bị phát hiện có hành vi xúi giục khách hàng phạm pháp. Quy định này cho phép những người sở hữu bản quyền có thể khai thác hiệu quả bản quyền của họ mà không phải sợ các nhà cung cấp phần mềm và dịch vụ khuyến khích và thu lợi từ các hoạt động phạm pháp nữa. Nhiều bình luận viên đã gọi vụ kiện này là vụ kiện có ý nghĩa quan trọng nhất trong lịch sử luật bản quyền của Mỹ.
Mặc dù là vấn đề quốc tế nhưng có rất ít điểm tương đồng giữa luật của các quốc gia về trách nhiệm liên đới, liệu có được quy trách nhiệm cho một công ty triển khai công nghệ bán hàng cá nhân-tới-cá nhân để khuyến khích phạm pháp hoặc, như trong mục II của DMCA của Mỹ đã đề cập, một nhà cung cấp dịch vụ Internet cung cấp các thiết bị mà khách hàng sử dụng để phạm pháp hay không. Có lẽ đây là lĩnh vực đòi hỏi phải cân nhắc đến các chuẩn mực quốc tế về trách nhiệm liên đới, đặc biệt là khi phải đối mặt với bản chất toàn cầu của mạng Internet, nơi mà một công ty ở một nước có thể cung cấp các thiết bị có thể sử dụng dễ dàng để phạm pháp cho khách hàng ở nhiều nước trên toàn thế giới. Để có thể duy trì việc bảo hộ hiệu quả bản quyền trong kỷ nguyên số hóa đòi hỏi những chuẩn mực quốc tế đó.
Giảm tính không hiệu quả cho những người sử dụng tiếp theo
Như chúng ta đã thấy trong thập kỷ qua, mạng Internet đã cung cấp cho mọi người một kho thông tin khổng lồ dưới mọi hình thức, từ dạng văn bản đến dạng tranh ảnh, nhạc và phim. Ngoài ra, công nghệ số hóa còn đem lại cho mỗi cá nhân khả năng trở thành tác giả tự sáng tác và quảng bá tác phẩm của mình. Thường thì tác giả đó luôn muốn sáng tạo theo cách riêng của mình nhưng lại không chắc chắn về vấn đề bản quyền hoặc không biết xin cấp phép ở đâu. Như đã mô tả ở trên, việc cấp phép hàng loạt có thể hỗ trợ cho những tác giả như vậy bằng cách cung cấp cho họ những cơ chế hiệu quả trong việc xin cấp phép sử dụng các tác phẩm.
Tuy nhiên, sẽ có một số hay thậm chí là nhiều trường hợp các tác giả không tìm được người khai thác tác phẩm hay cơ quan quản lý chung, và tác giả đó không thể trả lời được câu hỏi là liệu luật bản quyền cho phép hay ngăn cấm khai thác các tác phẩm đó. Một thách thức đặt ra trong tương lai là luật bản quyền nên giải quyết thế nào với những “tác phẩm mồ côi” đó. Nếu quả thực có trường hợp người sở hữu bản quyền không còn quan tâm tới việc sử dụng sản phẩm ấy nữa thì cũng không nên ngăn cấm việc sử dụng sản phẩm đó, đơn giản vì không có gì chắc chắn về tình trạng của tác phẩm đó. Kết quả là sẽ làm giảm lượng người tiếp cận việc khai thác mới và hiệu quả của tác phẩm đó. Đây là mục tiêu cuối cùng của bất kì hệ thống bản quyền hiệu quả nào.
Tại Mỹ, cơ quan về bản quyền đã bắt đầu tìm hiểu vấn đề của các “tác phẩm mồ côi” để xem xét bản chất và quy mô của vấn đề cũng như tìm ra giải pháp pháp lý cho vấn đề đó. Còn các quốc gia khác như Canada đã phát triển những cơ chế giải quyết các vấn đề liên quan tới các “tác phẩm mồ côi”. Một phần của thách thức đặt ra là phải đảm bảo rằng các giải pháp sẽ luôn trung thành và không làm tổn hại đến lợi ích của tác giả cũng như của người nắm giữ bản quyền và rằng chúng sẽ luôn tuân thủ luật bản quyền quốc tế - bộ luật ngăn cấm việc áp đặt các điều kiện cho việc thực thi và khai thác bản quyền.
Marybeth Peter