Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Chuyên đề : Lịch sử Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 6114" data-attributes="member: 28779"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: Blue">MỘT SỐ GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA NỀN VĂN HIẾN THĂNG LONG – HÀ NỘI</span></strong></p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Truyền thống yêu nước, hào khí Thăng Long – Hà Nội</span></strong></p><p></p><p>Thăng Long – Hà Nội là một trong những Thủ đô lâu đời nhất trên thế giới. Trải nghìn năm, Thăng Long – Hà Nội từng bẩy lần bị giặc chiếm đóng, cả bẩy lần quân dân kinh thành đều nhất tề chiến đấu kiên cường. Trước thế mạnh hung hãn của kẻ thù, chưa đủ sức chống đỡ, quân dân ta chủ động thực hiện kế “thanh dã” rút khỏi kinh thành bảo toàn lực lượng, cho quân giặc “tạm đứng chân” ở Thăng Long một thời gian, rồi bao vây quét sạch chúng đi. Thăng Long – Hà Nội có thế “rồng cuộn, hổ ngồi”, có con người dám đánh và biết cách đánh giặc, thời bình thì thực hiện “ngụ binh ư nông”. Giặc đến, trên khắp đồng quê, làng phố người tay cầm cày, tay cầm gươm, người tay cầm bút, tay cầm súng, vừa duy trì cuộc sống, vừa chiến đấu cứu nước cứu nhà. Giặc đến, trai tráng ra trận, bạch đầu quân cũng hướng theo cờ nghĩa, thiếu niên cũng luyện võ, mài đao. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Sức mạnh lòng dân chính là nhân tố đem lại chiến thắng vẻ vang cho đất nước. Thế kỷ XI, nước lân bang chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đã chủ động viết hịch “Phạt Tống lộ bố văn” gửi các chúa vùng Ung, Khâm, Liêm rồi mang đại quân tiến thẳng vào sào huyệt để tiêu diệt các kho vũ khí, lương thảo của địch, sau đó lui về lập phòng tuyến vững chắc ở sông Như Nguyệt. Bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” âm vang trên dòng sông Như Nguyệt như lời hiệu triệu của núi sông, khích lệ toàn quân, toàn dân Đại Việt chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Thế kỷ XIII, ba lần quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, ba lần chúng chiếm được kinh thành Thăng Long. Nhưng lần thứ nhất quân dân Đại Việt cho 3 vạn quân Nguyên - Mông “ngủ trọ” trên đất nước ta mười một ngày; lần thứ hai, 50 vạn quân của Thoát Hoan và 10 vạn quân của Toa Đô “ngủ trọ” hơn ba tháng; lần thứ ba, quân dân Đại Việt cho 30 vạn quân Nguyên – Mông “ngủ trọ” 32 ngày, sau đó tổng phản công quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi. Hào khí Thăng Long, in đậm trong bài “Hịch tướng sĩ” bất hủ của Trần Hưng Đạo. Thế kỷ XV, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau mười năm nằm gai, nếm mật, Bình định vương Lê Lợi và quân sư Nguyễn Trãi đã đem đại quân bao vây thành Đông Quan vừa uy hiếp quân giặc, vừa địch vận, vừa diệt viện binh, buộc quân xâm lược phải bó giáo, lên đàn thề xin rút hết quân về nước. Thế kỷ XVIII, với cuộc hành quân thần tốc, bất ngờ sáng mồng Năm Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung cùng các tướng sĩ Tây Sơn dũng cảm tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng, đánh thọc sâu vào kinh thành Thăng Long, quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi kinh thành Thăng Long, đồng thời mở ra giai đoạn hợp nhất đất nước từ Bắc đến Nam. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tấn công Hà Nội. Hai tấm gương trung dũng, lẫm liệt “sống chết với Thành Hà” của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Hoàng Diệu sống mãi với Thủ đô. Trong buổi đầu chống thực dân Pháp, hai lần quân dân Hà Nội mưu trí giết chết sĩ quan chỉ huy của quân Pháp là Gácniê và Rivie ở Cầu Giấy. Chưa thể đuổi giặc ra khỏi thành bằng vũ lực, người dân Hà Nội tìm mọi cách để gây cho quân địch ăn không ngon, ngủ không yên. Những người yêu nước ở Hà Nội đã kết giao lập hội chống thực dân Pháp. Khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thanh niên, học sinh và người dân Hà Nội không ngại hy sinh, gian khổ, một lòng theo Đảng làm cách mạng. Thời cơ đến, Xứ ủy và Thành ủy Hà Nội nhạy bén phất cờ động viên nhân dân nhất tề đứng lên giành chính quyền, giành quyền làm chủ. Thắng lợi của phong trào cách mạng ở Hà Nội đã cổ vũ nhân dân cả nước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hà Nội trở thành Thủ đô của Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Giặc Pháp ngoan cố quay lại xâm lược nước ta, cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở Liên Khu Một với lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã thổi bùng hào khí Thăng Long – Hà Nội, mở đầu cho tám năm trường kỳ kháng chiến. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón mừng đoàn quân Chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô. Đế quốc Mỹ chia cắt đất nước ta, miền Nam còn kẻ thù xâm lược. Tiếng gọi non sông lại thôi thúc các chàng trai, cô gái Hà Nội tạm gác bút nghiên, lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Những người ra đi chiến đấu, in dấu chân trên khắp các chiến trường, có mặt trong các chiến dịch Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, cuộc Tổng tiến công nổi dậy ở Huế - Sài Gòn và kết thúc với sự có mặt của Trung đoàn Thăng Long cắm cờ trên dinh lũy Bộ Tổng tham mưu địch trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Những người ở lại vừa tăng gia sản xuất, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, vừa cầm súng đối mặt với chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Dưới mưa bom rải thảm của giặc Mỹ, Hà Nội bình tĩnh, ngoan cường hiệp đồng với các quân, binh chủng lực lượng vũ trang các tỉnh, thành phố miền Bắc, lập nên kỳ tích “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập “uy thế không lực Hoa Kỳ”, buộc chúng phải ký Hiệp định Pa ri rút quân về nước. </p><p></p><p>Với tấm lòng yêu nước sắt son, bất khuất, kiên cường, mưu trí, sáng tạo nghìn năm qua người Thăng Long - Hà Nội đã thể hiện sinh động hào khí Thăng Long trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới. Hà Nội là “Thủ đô anh hùng” của dân tộc Việt Nam anh hùng; Hà Nội là “Thủ đô của phẩm giá con người”, “Thủ đô vì hòa bình”; Hà Nội nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, tỏa chiếu văn hiến Thăng Long đi khắp mọi miền của Tổ quốc, trở thành niềm tự hào chung của đất nước Việt Nam, tiếp thêm sức mạnh cho mỗi người dân Thủ đô, mỗi người dân Việt Nam sống, chiến đấu, lao động và học tập vì hạnh phúc lớn của dân tộc.</p><p><strong><span style="color: Blue">2. Truyền thống nhân nghĩa, khát vọng hòa bình</span></strong></p><p></p><p>Hòa bình là khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta. Người Thăng Long – Hà Nội cũng như người dân đất Việt không bao giờ muốn chiến tranh. Lịch sử đã ghi nhận lòng khoan dung, nhân ái của nhân dân Thăng Long – Hà Nội ngay cả khi kẻ thù buộc chúng ta phải cầm gươm, cầm súng tự vệ, nhân dân ta vẫn tìm cách “vừa đánh, vừa đàm” cho kẻ thù thoát khỏi cuộc chiến tranh hao người tốn của, tìm cách cho kẻ thù đường rút danh dự.</p><p></p><p>Ở vào thời điểm nghĩa quân Lam Sơn đã đánh tan đạo quân tiếp viện của nhà Minh, giết chết tướng Liễu Thăng, quân và dân ta thừa cả thế và lực để tiêu diệt quân địch trong thành Đông Quan. Nhưng với lòng nhân đạo muốn tránh chết chóc cho quân sĩ cả hai bên, tránh cho kinh thành khỏi bị tàn phá và tạo sự hòa hiếu giữa hai nước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì thuyết phục tướng giặc. Nguyễn Trãi viết hàng chục bức thư gửi cho Vương Thông, lời lẽ trong các bức thư vừa thể hiện sự mềm mỏng, khiêm nhường vừa quyết liệt của người đang làm chủ hoàn toàn chiến trường. Vương Thông buộc phải mở cửa thành, lên đàn thề xin rút quân. Với tinh thần nhân đạo cao cả, Lê Lợi đã cấp hàng trăm thuyền, hàng nghìn ngựa, lương thực cho tù binh, hàng binh nhà Minh về nước. Câu chuyện truyền thuyết về vua Lê trả gươm thần cho Rùa vàng ở hồ Lục Thủy tiếp nối một cách tự nhiên trong dòng chảy của lịch sử. Chiến tranh kết thúc hoàn trả Thần Kiếm, đó chính là biểu trưng khát vọng hòa bình của dân tộc ta giữa lòng Thủ đô ngàn năm văn hiến. Nhân nghĩa trở thành truyền thống của dân tộc ta. Trong cuộc giao chiến kẻ địch giơ tay đầu hàng đều được nhân dân ta khoan hồng, đối xử nhân đạo. Chiến tranh kết thúc, nhân dân ta trải thảm cho tù binh, hàng binh về nước an toàn. Hài cốt lính địch bỏ xác trên đất Việt cũng được Nhà nước ta cho tìm kiếm trao trả thân nhân của họ. Nhân dân Thăng Long ngoài việc chôn cất lập đàn chẩn tế chu đáo, còn tu sửa, dựng chùa (chùa Bộc) làm nơi quy y cho vong linh binh sĩ của địch. Hận thù nên cởi, không nên buộc cũng là một triết lý nhân sinh của người Việt. Khắc ghi lịch sử, xóa bỏ hận thù, không quên quá khứ, hướng tới tương lai, đó là truyền thống văn hiến, anh hùng Thăng Long – Hà Nội. Với kẻ thù, người Thăng Long - Hà Nội và người dân Việt Nam luôn thể hiện lòng nhân nghĩa, với đồng bào lòng nhân ái càng được nâng cao, thể hiện bằng hành động thiết thực. Người dân Thăng Long – Hà Nội luôn hằng tâm, hằng sản, góp sức chung tay giúp đỡ mọi người trong cơn hoạn nạn. Đó là nét đẹp trong cuộc sống của người Thăng Long - Hà Nội.</p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Truyền thống tài hoa - trí tuệ Thăng Long - Hà Nội là đất nghìn năm văn hiến, là trung tâm tiêu biểu cho nhiều kỷ nguyên văn minh của dân tộc ta, như: kỷ nguyên văn minh sông Hồng, kỷ nguyên văn minh Đại Việt, kỷ nguyên văn minh Việt Nam.</span></strong></p><p></p><p>Thăng Long – Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài, hội tụ tinh hoa văn hóa – nghệ thuật, hội tụ tri thức. Trí tuệ của cả dân tộc hun đúc cho Thăng Long – Hà Nội và cũng từ đây trí tuệ Thăng Long – Hà Nội tỏa chiếu ra mọi miền của đất nước nâng cao tầm trí tuệ của dân tộc. Thăng Long – Hà Nội là nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, là nơi để các danh nhân, nghệ nhân phát huy tinh hoa. Năm 1070, Thăng Long có Văn Miếu. Năm 1076, Quốc Tử Giám, nhà Thái học - trường đại học đầu tiên của nước ta được xây dựng, lò luyện “nguyên khí Quốc gia” qua 124 khoa thi đã đào tạo 2.248 tiến sĩ, tên tuổi được vinh danh trên bia đá ở Văn Miếu và sử sách. Thăng Long còn có Giảng Võ Đường, nhà Võ học, đào tạo hàng trăm cống sĩ, võ tướng cho quân đội. Kinh đô Thăng Long là nơi rèn luyện, đào tạo, sản sinh ra: </p><p></p><p><em>“Văn quan cầm bút an thiên hạ.</em></p><p><em>Võ tướng đề đao định thái bình”.</em></p><p><em></em></p><p>Nền giáo dục Thăng Long – Hà Nội còn lưu danh nhiều nhà giáo tâm huyết với nghề đã tạo nên bao học trò thành danh cho đất nước, như: Chu Văn An, Bùi Xương Trạch, Phù Thúc Hoành, Lê Đức Mao, Đoàn Lệnh Khương, Phạm Quý Thích, Nguyễn Án, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan, Nguyễn Quý Đức, Lương Văn Can…. Noi gương Chu Văn An “người thày của muôn đời”, nhiều nhà giáo đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp trồng người, trung thực với nghề, cam sống hàn vi, không ham danh vọng, bổng lộc. Khẩu ngữ “Tiên học lễ, hậu học văn” còn để lại tới hôm nay. Thăng Long – Hà Nội còn tiêu biểu cho nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nơi hội tụ khách văn chương cả nước. Một thi xã Tao Đàn đời Hồng Đức làm sáng cả mảng văn học thời Lê. Một văn phái Ngô Thì với bao tác phẩm văn chương đồ sộ, khiến trăm họ ngưỡng mộ. Bên những văn nhân, thi nhân người Hà Nội, như: Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Phan Huy Chú, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Lý Văn Phức, bà huyện Thanh Quan…còn có những ngôi sao gốc tứ trấn, có người sinh ở Hà Nội, như: Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương..., có người xứ Đoài, xứ Đông, xứ Bắc, xứ Nam, như: Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Thân Nhân Trung, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Đình Hổ, Lê Quý Đôn…sự nghiệp, công danh được lập trên đất Thăng Long. </p><p></p><p>Thăng Long – Hà Nội là nơi đào tạo trí thức lớn nhất cả nước, trí tuệ, nhân cách của trí thức Hà Nội tỏa sáng. Các sĩ tử học đạo Thánh hiền, các “tao nhân, mặc khách” bầu rượu, túi thơ” trọng nghĩa, trọng tài lập nghiệp thành danh trên đất đế đô đều có chung phong cách đối nhân, xử thế lịch duyệt, tao nhã. Chí sĩ Hà Thành yêu nước, trọng nghĩa, trọng tài, nhân ái bao dung trong cả vinh lẫn suy; trước tiền bạc, cám dỗ luôn biết kiềm chế không để mất nhân cách; trước hiểm nguy luôn bình tĩnh, sáng suốt tìm đối sách hợp lý; trước kẻ thù, trước cái chết luôn cứng rắn, không run sợ, giữ thần thái, khí tiết. Bên cạnh những nhà chính trị cách mạng, nhà quân sự, nhà giáo, nhà văn Thăng Long – Hà Nội còn có những nghệ nhân, những người thợ tài hoa đã làm sáng danh đất Kẻ Chợ. Nghệ nhân và người thợ đến kinh kỳ đem theo nghề chuyên từ quê nhà, nhu cầu và đòi hỏi khắt khe của khách hàng kinh đô đã làm cho họ có điều kiện rèn luyện tay nghề. Thăng Long - Hà Nội vùng đất trăm nghề, nghề nào cũng khéo. Tên nghề ở Thăng Long - Hà Nội thường gắn với tên làng, tiếng thơm của nhiều làng nghề trên đất Thăng Long – Hà Nội nức tiếng gần xa, như: đúc đồng Ngũ Xã, tranh Hàng Trống, gốm Bát Tràng, the La Cả, lụa trắng Cổ Đô, nón làng Chuông, thêu Quất Động, khảm xà cừ Chuôn Tre....Đất lành, mới đầu chỉ là những tốp thợ ra trú ngụ làm theo thời vụ, dần dà họ kéo theo người trong dòng tộc, người cùng làng ra ở hẳn Thăng Long – Hà Nội. Họ lập nên phường hội, lập phố hàng... vừa sản xuất, vừa kinh doanh góp phần làm thay đổi khu vực “thị”. Họ trở thành người Thăng Long – Hà Nội, cuộc sống gắn bó với thăng trầm của vùng đất này. Sinh cơ lập nghiệp, an cư ở đất kinh kỳ nhưng tâm hồn họ vẫn luôn hướng về quê hương, gốc tổ. Nhiều dòng tộc, phường nghề đã lập đền miếu thờ vọng tổ nghề, thành hoàng làng trên đất Thăng Long – Hà Nội, các di sản quý báu đó được người Hà Nội trân trọng, tự hào gìn giữ và phát huy. </p><p></p><p>Đất Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến đã góp phần tạo nên nhân tài và các thế hệ nhân tài đã bồi đắp trở lại cho trái tim đất nước ngày càng xứng đáng tiêu biểu cho nền văn hiến Việt Nam. Không chỉ hội tụ, mà còn tỏa sáng. Theo tiếng gọi của non sông, người Thăng Long - Hà Nội sẵn sàng gác bút nghiên đi bảo vệ biên cương, sẵn sàng đi mở đất, xây dựng quê hương mới, đáp ứng yêu cầu của mọi miền Tổ quốc. Tuổi trẻ Thủ đô hôm nay luôn nêu gương “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Ở bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, họ cũng phấn đấu hết mình để không hổ thẹn là người Thăng Long – Hà Nội, không hổ thẹn với cha ông: </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">4. Phẩm chất thanh lịch – văn minh Thăng Long - Hà Nội</span></strong></p><p></p><p><em>“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài</em></p><p><em>Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An”</em></p><p><em></em></p><p>Tràng An là chỉ kinh đô Thăng Long – Hà Nội. “Thanh lịch” hàm nghĩa rộng của phong cách sống đẹp từ trong nhà ra xã hội, từ ăn nói, ăn mặc, ăn ở, ăn làm, ăn học, ăn chơi, đi đứng cho đến phép giao tiếp, ứng xử giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, môi trường. “Thanh” có nghĩa là thanh cao trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn; thanh liêm với của cải xã hội; thanh bạch – thanh đạm trong cuộc sống đời thường; thanh nhã trong cử chỉ, hành động. “Lịch” phải chăng là con người cần có sự lịch lãm, lịch thiệp trong giao tiếp, ứng xử; lịch duyệt – hiểu biết rộng. Nếu như “thanh” muốn có phải học hỏi, tu dưỡng rèn luyện, thì ở “lịch” lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đem đến. Có đủ “thanh lịch” mới trọn vẹn. </p><p></p><p>Thăng Long – Hà Nội là nơi tụ hội người dân của mọi miền Tổ quốc, là điểm đến và sinh cơ lập nghiệp của một số kiều dân nước ngoài. Đến kinh đô, họ mang theo tinh hoa quê hương đến góp cho Thăng Long - Hà Nội, nhưng cũng đồng thời mang theo tập quán quê cũ. Kinh đô Thăng Long - Hà Nội như cái sàng, sàng lọc, gom nhặt từ những cái đẹp nhỏ nhất của bốn phương để làm giàu cho mình, đồng thời cũng loại bỏ những gì không thích hợp để rồi ổn định, định hình, định tính, định vị cái thanh lịch cũng như tán phát văn hóa Thăng Long đi muôn nơi. Nét đặc trưng văn hóa Thăng Long là sự hòa hợp nếp sống giữa người dân Hà Thành với “người tứ chiếng”, giữa “người đồng văn, đồng chủng” với người nước ngoài. Bên cạnh những nét riêng trong các yếu tố nhân chủng, thể chất, ngôn ngữ, người Hà Nội có một số tư chất, nội tâm, đường ăn nết ở tài hoa, thanh lịch, kiên cường. Cái tư chất người Hà Nội thời phong kiến là giữ được cái căn tính của nền văn minh lúa nước. Cái chất của người Hà Nội thời Pháp thuộc là tài hoa và khí phách cách mạng anh hùng. Trong công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội phát huy tinh thần năng động, sáng tạo đã được hun đúc qua chiều dài hàng ngàn năm lịch sử. Người Thăng Long - Hà Nội tự hào về cái “thanh lịch” của mình. Cái thanh lịch của Thăng Long - Hà Nội thể hiện trong nhiều mặt. Trước hết là thể hiện ở lời nói. Tiếng nói của người Thủ đô chuẩn xác cao, thanh âm mẫu mực. Người Thăng Long - Hà Nội vận dụng từ ngữ khéo léo, nhã nhặn, tế nhị. Trong giao tiếp, biết nhún mình, tôn trọng người, mềm mỏng mà không thớ lợ, tài hoa mà không khoe khoang, biết rộng mà không làm cao. Người thợ thủ công trên đất Thăng Long – Hà Nội giữ cái tố chất tương trợ, phường hội giúp đỡ lẫn nhau, bênh vực lẽ phải, bênh vực “kẻ yếu”. Người nông dân giữ cái thuần phác, cần cù “biết nhịn”, “biết nể”. Nho sĩ, hàn sĩ giữ cái cốt cách của người học đạo thánh hiền lời nói văn vẻ, dễ nghe, còn một tấm áo lụa, ra đường còn nho nhã, còn một đồng trong túi là không để mâm cơm đãi khách phải ngọ ngằn. </p><p></p><p>Ngạn ngữ có câu “Ăn Bắc, mặc Kinh”. Thăng Long - Hà Nội là kinh đô đồng thời cũng tiêu biểu cho xứ Bắc. Ăn, mặc của người Thăng Long - Hà Nội cũng toát nên chất thanh lịch. Người Thăng Long - Hà Nội rất sành trong ăn uống, nâng cách ăn uống, chế biến món ăn thành nghệ thuật ẩm thực. Món ăn chế biến, mặn, ngọt, chua, cay vừa độ, gia vị đầy đủ; nước chấm, nước canh khéo chế. Bữa ăn ngon từ cách bày đĩa, xếp mâm, lên cỗ. Nét văn hoá bộc lộ trong ăn uống cũng tinh tế, phong phú. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Vào mâm cơm người Thăng Long – Hà Nội trọng người già, quý trẻ em, nhường nhịn món ăn ngon, gắp tiếp trước cho khách. Ăn uống từ tốn, nhai nuốt thong thả. Ăn để thòm thèm, nhớ mãi. Người Thăng Long – Hà Nội lịch sự trong cách mặc. Trang phục, trang sức ưa sự gọn gàng, trang nhã, tề chỉnh, cách tân tinh tế, đủ độ lộng lẫy, kiêu sa. Người Thăng Long - Hà Nội thích “diện”, thích đổi “mốt” làm đẹp phố phường. Cái “diện” của con người vùng đất này cũng mang “tư chất” kín đáo, tế nhị, không cầu kỳ, biết nâng “cái đẹp” đồng hành với “cái nết”. Người Thăng Long - Hà Nội xưa ra đường là mặc áo dài, khăn nón, giày guốc đầy đủ. Khách đến chơi nhà, chủ nhà giữ lễ “tôn trọng mình, tôn trọng khách”, “ăn vận” quần áo gọn gàng, tươm tất rồi mới tiếp khách. Con gái Thăng Long - Hà Nội giữ “công, dung, ngôn, hạnh”, giữ đủ nét e lệ, dịu dàng, giữ gìn ý tứ từ dáng đi, nụ cười, ánh mắt, đồ trang sức vừa đủ, ít người đeo vàng, ngọc đầy cổ, đầy tay. Trong giao tiếp, ứng xử người Hà Nội không chỉ giữ gìn thuần phong mỹ tục truyền thống mà còn tiếp thu tinh hoa văn minh, hiện đại của bốn phương. Trước đây người Hà Nội đón tiếp khách quý là chắp tay vái chào, nay bắt tay cởi mở. Từ chỗ “nam nữ thụ thụ bất thân” đã đi tới bình đẳng giới, xây dựng được nét đẹp tôn trọng người già, nhường nhịn phụ nữ, quý mến trẻ thơ, giúp đỡ người già yếu, khuyết tật, lịch sự thân thiện với người mới đến, người nước ngoài. Gặp vướng mắc, va chạm thì ứng xử ôn hoà, không đối đầu, bạo lực, luôn mong muốn giải quyết êm đẹp, phục thiện. </p><p></p><p>Gia đình là cái nôi nuôi lớn tâm hồn con người. Gia đình là tế bào quyết định chất lượng xã hội. Xây dựng và bảo toàn mái ấm gia đình là điều kiện cơ bản cho hôm nay và ngày mai đi lên của đất nước. Muốn thế phải phải giữ được “nếp nhà”. Chữ “hiếu” không cổ hủ mà thích nghi với hoàn cảnh mới. Trong gia đình, người Thăng Long - Hà Nội coi trọng giữ gìn nề nếp, gia phong. Dạy bảo con cháu, người Thăng Long - Hà Nội lấy chữ “hiếu” với ông bà, cha mẹ làm đầu, chữ “hiền thảo” với dâu rể, chữ “thành đạt” với con cháu. Ông bà, cha mẹ lấy cái mẫu mực, làm gương cho con cháu noi theo. Cuộc sống phố phường sôi động, nhưng người Thăng Long - Hà Nội vẫn giữ được nét đẹp của sinh hoạt tâm linh và cộng đồng đầy tính thiện như: hái lộc đầu xuân, đi lễ đền chùa cầu lành, cầu mát, cầu quốc thái, dân an, thắp hương thờ cúng tổ tiên, cúng giao thừa, năm mới xông đất chúc tụng nhau, đến Văn Miếu xin chữ Thánh hiền đầu xuân. Các cụ ông, các tài tử, văn nhân có cái thú uống trà, “nuôi cá dưỡng tâm, nuôi chim dưỡng tính”, “nuôi lan tích đức”, dựng hòn non bộ, trồng cây cảnh để cân bằng phong thủy. Với môi trường thiên nhiên, môi trường đô thị, môi trường hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội đang xây dựng được nét ứng xử đẹp phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Nhân cách của người Thăng Long - Hà Nội hôm nay được xây dựng trên tổng hoà các giá trị văn hiến truyền thống và hiện đại. Nâng cao phẩm chất trí tuệ, tài năng, tâm hồn, tình cảm, lý tưởng và hành động mang bản sắc Thăng Long – Hà Nội, xây dựng Thủ đô Hà Nội văn minh, hiện đại xứng tầm với thành phố nghìn năm tuổi là vinh dự và trách nhiệm của mỗi người dân cả nước nói chung và người dân Hà Nội nói riêng.</p><p></p><p>Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 6114, member: 28779"] [CENTER][B][COLOR="Blue"]MỘT SỐ GIÁ TRỊ TIÊU BIỂU CỦA NỀN VĂN HIẾN THĂNG LONG – HÀ NỘI[/COLOR][/B][/CENTER] [B][COLOR="Blue"]1. Truyền thống yêu nước, hào khí Thăng Long – Hà Nội[/COLOR][/B] Thăng Long – Hà Nội là một trong những Thủ đô lâu đời nhất trên thế giới. Trải nghìn năm, Thăng Long – Hà Nội từng bẩy lần bị giặc chiếm đóng, cả bẩy lần quân dân kinh thành đều nhất tề chiến đấu kiên cường. Trước thế mạnh hung hãn của kẻ thù, chưa đủ sức chống đỡ, quân dân ta chủ động thực hiện kế “thanh dã” rút khỏi kinh thành bảo toàn lực lượng, cho quân giặc “tạm đứng chân” ở Thăng Long một thời gian, rồi bao vây quét sạch chúng đi. Thăng Long – Hà Nội có thế “rồng cuộn, hổ ngồi”, có con người dám đánh và biết cách đánh giặc, thời bình thì thực hiện “ngụ binh ư nông”. Giặc đến, trên khắp đồng quê, làng phố người tay cầm cày, tay cầm gươm, người tay cầm bút, tay cầm súng, vừa duy trì cuộc sống, vừa chiến đấu cứu nước cứu nhà. Giặc đến, trai tráng ra trận, bạch đầu quân cũng hướng theo cờ nghĩa, thiếu niên cũng luyện võ, mài đao. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Sức mạnh lòng dân chính là nhân tố đem lại chiến thắng vẻ vang cho đất nước. Thế kỷ XI, nước lân bang chuẩn bị xâm lược nước ta, Lý Thường Kiệt đã chủ động viết hịch “Phạt Tống lộ bố văn” gửi các chúa vùng Ung, Khâm, Liêm rồi mang đại quân tiến thẳng vào sào huyệt để tiêu diệt các kho vũ khí, lương thảo của địch, sau đó lui về lập phòng tuyến vững chắc ở sông Như Nguyệt. Bài thơ “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” âm vang trên dòng sông Như Nguyệt như lời hiệu triệu của núi sông, khích lệ toàn quân, toàn dân Đại Việt chiến đấu, chiến thắng kẻ thù. Thế kỷ XIII, ba lần quân Nguyên - Mông xâm lược nước ta, ba lần chúng chiếm được kinh thành Thăng Long. Nhưng lần thứ nhất quân dân Đại Việt cho 3 vạn quân Nguyên - Mông “ngủ trọ” trên đất nước ta mười một ngày; lần thứ hai, 50 vạn quân của Thoát Hoan và 10 vạn quân của Toa Đô “ngủ trọ” hơn ba tháng; lần thứ ba, quân dân Đại Việt cho 30 vạn quân Nguyên – Mông “ngủ trọ” 32 ngày, sau đó tổng phản công quét sạch chúng ra khỏi bờ cõi. Hào khí Thăng Long, in đậm trong bài “Hịch tướng sĩ” bất hủ của Trần Hưng Đạo. Thế kỷ XV, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn sau mười năm nằm gai, nếm mật, Bình định vương Lê Lợi và quân sư Nguyễn Trãi đã đem đại quân bao vây thành Đông Quan vừa uy hiếp quân giặc, vừa địch vận, vừa diệt viện binh, buộc quân xâm lược phải bó giáo, lên đàn thề xin rút hết quân về nước. Thế kỷ XVIII, với cuộc hành quân thần tốc, bất ngờ sáng mồng Năm Tết Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung cùng các tướng sĩ Tây Sơn dũng cảm tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng, đánh thọc sâu vào kinh thành Thăng Long, quét sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi kinh thành Thăng Long, đồng thời mở ra giai đoạn hợp nhất đất nước từ Bắc đến Nam. Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp tấn công Hà Nội. Hai tấm gương trung dũng, lẫm liệt “sống chết với Thành Hà” của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và Tổng đốc Hoàng Diệu sống mãi với Thủ đô. Trong buổi đầu chống thực dân Pháp, hai lần quân dân Hà Nội mưu trí giết chết sĩ quan chỉ huy của quân Pháp là Gácniê và Rivie ở Cầu Giấy. Chưa thể đuổi giặc ra khỏi thành bằng vũ lực, người dân Hà Nội tìm mọi cách để gây cho quân địch ăn không ngon, ngủ không yên. Những người yêu nước ở Hà Nội đã kết giao lập hội chống thực dân Pháp. Khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, thanh niên, học sinh và người dân Hà Nội không ngại hy sinh, gian khổ, một lòng theo Đảng làm cách mạng. Thời cơ đến, Xứ ủy và Thành ủy Hà Nội nhạy bén phất cờ động viên nhân dân nhất tề đứng lên giành chính quyền, giành quyền làm chủ. Thắng lợi của phong trào cách mạng ở Hà Nội đã cổ vũ nhân dân cả nước Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Hà Nội trở thành Thủ đô của Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Giặc Pháp ngoan cố quay lại xâm lược nước ta, cuộc chiến đấu 60 ngày đêm ở Liên Khu Một với lời thề “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã thổi bùng hào khí Thăng Long – Hà Nội, mở đầu cho tám năm trường kỳ kháng chiến. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón mừng đoàn quân Chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô. Đế quốc Mỹ chia cắt đất nước ta, miền Nam còn kẻ thù xâm lược. Tiếng gọi non sông lại thôi thúc các chàng trai, cô gái Hà Nội tạm gác bút nghiên, lên đường “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Những người ra đi chiến đấu, in dấu chân trên khắp các chiến trường, có mặt trong các chiến dịch Khe Sanh, Đường 9 Nam Lào, cuộc Tổng tiến công nổi dậy ở Huế - Sài Gòn và kết thúc với sự có mặt của Trung đoàn Thăng Long cắm cờ trên dinh lũy Bộ Tổng tham mưu địch trong chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc. Những người ở lại vừa tăng gia sản xuất, chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn, vừa cầm súng đối mặt với chiến tranh leo thang phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Dưới mưa bom rải thảm của giặc Mỹ, Hà Nội bình tĩnh, ngoan cường hiệp đồng với các quân, binh chủng lực lượng vũ trang các tỉnh, thành phố miền Bắc, lập nên kỳ tích “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập “uy thế không lực Hoa Kỳ”, buộc chúng phải ký Hiệp định Pa ri rút quân về nước. Với tấm lòng yêu nước sắt son, bất khuất, kiên cường, mưu trí, sáng tạo nghìn năm qua người Thăng Long - Hà Nội đã thể hiện sinh động hào khí Thăng Long trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo nên chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại mới. Hà Nội là “Thủ đô anh hùng” của dân tộc Việt Nam anh hùng; Hà Nội là “Thủ đô của phẩm giá con người”, “Thủ đô vì hòa bình”; Hà Nội nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, tỏa chiếu văn hiến Thăng Long đi khắp mọi miền của Tổ quốc, trở thành niềm tự hào chung của đất nước Việt Nam, tiếp thêm sức mạnh cho mỗi người dân Thủ đô, mỗi người dân Việt Nam sống, chiến đấu, lao động và học tập vì hạnh phúc lớn của dân tộc. [B][COLOR="Blue"]2. Truyền thống nhân nghĩa, khát vọng hòa bình[/COLOR][/B] Hòa bình là khát vọng cháy bỏng của dân tộc ta. Người Thăng Long – Hà Nội cũng như người dân đất Việt không bao giờ muốn chiến tranh. Lịch sử đã ghi nhận lòng khoan dung, nhân ái của nhân dân Thăng Long – Hà Nội ngay cả khi kẻ thù buộc chúng ta phải cầm gươm, cầm súng tự vệ, nhân dân ta vẫn tìm cách “vừa đánh, vừa đàm” cho kẻ thù thoát khỏi cuộc chiến tranh hao người tốn của, tìm cách cho kẻ thù đường rút danh dự. Ở vào thời điểm nghĩa quân Lam Sơn đã đánh tan đạo quân tiếp viện của nhà Minh, giết chết tướng Liễu Thăng, quân và dân ta thừa cả thế và lực để tiêu diệt quân địch trong thành Đông Quan. Nhưng với lòng nhân đạo muốn tránh chết chóc cho quân sĩ cả hai bên, tránh cho kinh thành khỏi bị tàn phá và tạo sự hòa hiếu giữa hai nước, Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã kiên trì thuyết phục tướng giặc. Nguyễn Trãi viết hàng chục bức thư gửi cho Vương Thông, lời lẽ trong các bức thư vừa thể hiện sự mềm mỏng, khiêm nhường vừa quyết liệt của người đang làm chủ hoàn toàn chiến trường. Vương Thông buộc phải mở cửa thành, lên đàn thề xin rút quân. Với tinh thần nhân đạo cao cả, Lê Lợi đã cấp hàng trăm thuyền, hàng nghìn ngựa, lương thực cho tù binh, hàng binh nhà Minh về nước. Câu chuyện truyền thuyết về vua Lê trả gươm thần cho Rùa vàng ở hồ Lục Thủy tiếp nối một cách tự nhiên trong dòng chảy của lịch sử. Chiến tranh kết thúc hoàn trả Thần Kiếm, đó chính là biểu trưng khát vọng hòa bình của dân tộc ta giữa lòng Thủ đô ngàn năm văn hiến. Nhân nghĩa trở thành truyền thống của dân tộc ta. Trong cuộc giao chiến kẻ địch giơ tay đầu hàng đều được nhân dân ta khoan hồng, đối xử nhân đạo. Chiến tranh kết thúc, nhân dân ta trải thảm cho tù binh, hàng binh về nước an toàn. Hài cốt lính địch bỏ xác trên đất Việt cũng được Nhà nước ta cho tìm kiếm trao trả thân nhân của họ. Nhân dân Thăng Long ngoài việc chôn cất lập đàn chẩn tế chu đáo, còn tu sửa, dựng chùa (chùa Bộc) làm nơi quy y cho vong linh binh sĩ của địch. Hận thù nên cởi, không nên buộc cũng là một triết lý nhân sinh của người Việt. Khắc ghi lịch sử, xóa bỏ hận thù, không quên quá khứ, hướng tới tương lai, đó là truyền thống văn hiến, anh hùng Thăng Long – Hà Nội. Với kẻ thù, người Thăng Long - Hà Nội và người dân Việt Nam luôn thể hiện lòng nhân nghĩa, với đồng bào lòng nhân ái càng được nâng cao, thể hiện bằng hành động thiết thực. Người dân Thăng Long – Hà Nội luôn hằng tâm, hằng sản, góp sức chung tay giúp đỡ mọi người trong cơn hoạn nạn. Đó là nét đẹp trong cuộc sống của người Thăng Long - Hà Nội. [B][COLOR="Blue"]3. Truyền thống tài hoa - trí tuệ Thăng Long - Hà Nội là đất nghìn năm văn hiến, là trung tâm tiêu biểu cho nhiều kỷ nguyên văn minh của dân tộc ta, như: kỷ nguyên văn minh sông Hồng, kỷ nguyên văn minh Đại Việt, kỷ nguyên văn minh Việt Nam.[/COLOR][/B] Thăng Long – Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài, hội tụ tinh hoa văn hóa – nghệ thuật, hội tụ tri thức. Trí tuệ của cả dân tộc hun đúc cho Thăng Long – Hà Nội và cũng từ đây trí tuệ Thăng Long – Hà Nội tỏa chiếu ra mọi miền của đất nước nâng cao tầm trí tuệ của dân tộc. Thăng Long – Hà Nội là nơi “lắng hồn núi sông ngàn năm”, là nơi để các danh nhân, nghệ nhân phát huy tinh hoa. Năm 1070, Thăng Long có Văn Miếu. Năm 1076, Quốc Tử Giám, nhà Thái học - trường đại học đầu tiên của nước ta được xây dựng, lò luyện “nguyên khí Quốc gia” qua 124 khoa thi đã đào tạo 2.248 tiến sĩ, tên tuổi được vinh danh trên bia đá ở Văn Miếu và sử sách. Thăng Long còn có Giảng Võ Đường, nhà Võ học, đào tạo hàng trăm cống sĩ, võ tướng cho quân đội. Kinh đô Thăng Long là nơi rèn luyện, đào tạo, sản sinh ra: [I]“Văn quan cầm bút an thiên hạ. Võ tướng đề đao định thái bình”. [/I] Nền giáo dục Thăng Long – Hà Nội còn lưu danh nhiều nhà giáo tâm huyết với nghề đã tạo nên bao học trò thành danh cho đất nước, như: Chu Văn An, Bùi Xương Trạch, Phù Thúc Hoành, Lê Đức Mao, Đoàn Lệnh Khương, Phạm Quý Thích, Nguyễn Án, Nguyễn Văn Siêu, Vũ Tông Phan, Nguyễn Quý Đức, Lương Văn Can…. Noi gương Chu Văn An “người thày của muôn đời”, nhiều nhà giáo đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp trồng người, trung thực với nghề, cam sống hàn vi, không ham danh vọng, bổng lộc. Khẩu ngữ “Tiên học lễ, hậu học văn” còn để lại tới hôm nay. Thăng Long – Hà Nội còn tiêu biểu cho nền văn hoá lâu đời của dân tộc, là nơi hội tụ khách văn chương cả nước. Một thi xã Tao Đàn đời Hồng Đức làm sáng cả mảng văn học thời Lê. Một văn phái Ngô Thì với bao tác phẩm văn chương đồ sộ, khiến trăm họ ngưỡng mộ. Bên những văn nhân, thi nhân người Hà Nội, như: Nguyễn Trãi, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đặng Trần Côn, Phan Huy Ích, Nguyễn Huy Lượng, Phan Huy Chú, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, Lý Văn Phức, bà huyện Thanh Quan…còn có những ngôi sao gốc tứ trấn, có người sinh ở Hà Nội, như: Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương..., có người xứ Đoài, xứ Đông, xứ Bắc, xứ Nam, như: Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Thân Nhân Trung, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phạm Đình Hổ, Lê Quý Đôn…sự nghiệp, công danh được lập trên đất Thăng Long. Thăng Long – Hà Nội là nơi đào tạo trí thức lớn nhất cả nước, trí tuệ, nhân cách của trí thức Hà Nội tỏa sáng. Các sĩ tử học đạo Thánh hiền, các “tao nhân, mặc khách” bầu rượu, túi thơ” trọng nghĩa, trọng tài lập nghiệp thành danh trên đất đế đô đều có chung phong cách đối nhân, xử thế lịch duyệt, tao nhã. Chí sĩ Hà Thành yêu nước, trọng nghĩa, trọng tài, nhân ái bao dung trong cả vinh lẫn suy; trước tiền bạc, cám dỗ luôn biết kiềm chế không để mất nhân cách; trước hiểm nguy luôn bình tĩnh, sáng suốt tìm đối sách hợp lý; trước kẻ thù, trước cái chết luôn cứng rắn, không run sợ, giữ thần thái, khí tiết. Bên cạnh những nhà chính trị cách mạng, nhà quân sự, nhà giáo, nhà văn Thăng Long – Hà Nội còn có những nghệ nhân, những người thợ tài hoa đã làm sáng danh đất Kẻ Chợ. Nghệ nhân và người thợ đến kinh kỳ đem theo nghề chuyên từ quê nhà, nhu cầu và đòi hỏi khắt khe của khách hàng kinh đô đã làm cho họ có điều kiện rèn luyện tay nghề. Thăng Long - Hà Nội vùng đất trăm nghề, nghề nào cũng khéo. Tên nghề ở Thăng Long - Hà Nội thường gắn với tên làng, tiếng thơm của nhiều làng nghề trên đất Thăng Long – Hà Nội nức tiếng gần xa, như: đúc đồng Ngũ Xã, tranh Hàng Trống, gốm Bát Tràng, the La Cả, lụa trắng Cổ Đô, nón làng Chuông, thêu Quất Động, khảm xà cừ Chuôn Tre....Đất lành, mới đầu chỉ là những tốp thợ ra trú ngụ làm theo thời vụ, dần dà họ kéo theo người trong dòng tộc, người cùng làng ra ở hẳn Thăng Long – Hà Nội. Họ lập nên phường hội, lập phố hàng... vừa sản xuất, vừa kinh doanh góp phần làm thay đổi khu vực “thị”. Họ trở thành người Thăng Long – Hà Nội, cuộc sống gắn bó với thăng trầm của vùng đất này. Sinh cơ lập nghiệp, an cư ở đất kinh kỳ nhưng tâm hồn họ vẫn luôn hướng về quê hương, gốc tổ. Nhiều dòng tộc, phường nghề đã lập đền miếu thờ vọng tổ nghề, thành hoàng làng trên đất Thăng Long – Hà Nội, các di sản quý báu đó được người Hà Nội trân trọng, tự hào gìn giữ và phát huy. Đất Thăng Long – Hà Nội nghìn năm văn hiến đã góp phần tạo nên nhân tài và các thế hệ nhân tài đã bồi đắp trở lại cho trái tim đất nước ngày càng xứng đáng tiêu biểu cho nền văn hiến Việt Nam. Không chỉ hội tụ, mà còn tỏa sáng. Theo tiếng gọi của non sông, người Thăng Long - Hà Nội sẵn sàng gác bút nghiên đi bảo vệ biên cương, sẵn sàng đi mở đất, xây dựng quê hương mới, đáp ứng yêu cầu của mọi miền Tổ quốc. Tuổi trẻ Thủ đô hôm nay luôn nêu gương “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”. Ở bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, họ cũng phấn đấu hết mình để không hổ thẹn là người Thăng Long – Hà Nội, không hổ thẹn với cha ông: [B][COLOR="Blue"]4. Phẩm chất thanh lịch – văn minh Thăng Long - Hà Nội[/COLOR][/B] [I]“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu chưa thanh lịch cũng người Tràng An” [/I] Tràng An là chỉ kinh đô Thăng Long – Hà Nội. “Thanh lịch” hàm nghĩa rộng của phong cách sống đẹp từ trong nhà ra xã hội, từ ăn nói, ăn mặc, ăn ở, ăn làm, ăn học, ăn chơi, đi đứng cho đến phép giao tiếp, ứng xử giữa người với người, giữa người với thiên nhiên, môi trường. “Thanh” có nghĩa là thanh cao trong tư tưởng, tình cảm, tâm hồn; thanh liêm với của cải xã hội; thanh bạch – thanh đạm trong cuộc sống đời thường; thanh nhã trong cử chỉ, hành động. “Lịch” phải chăng là con người cần có sự lịch lãm, lịch thiệp trong giao tiếp, ứng xử; lịch duyệt – hiểu biết rộng. Nếu như “thanh” muốn có phải học hỏi, tu dưỡng rèn luyện, thì ở “lịch” lại do sự từng trải và kinh nghiệm sống đem đến. Có đủ “thanh lịch” mới trọn vẹn. Thăng Long – Hà Nội là nơi tụ hội người dân của mọi miền Tổ quốc, là điểm đến và sinh cơ lập nghiệp của một số kiều dân nước ngoài. Đến kinh đô, họ mang theo tinh hoa quê hương đến góp cho Thăng Long - Hà Nội, nhưng cũng đồng thời mang theo tập quán quê cũ. Kinh đô Thăng Long - Hà Nội như cái sàng, sàng lọc, gom nhặt từ những cái đẹp nhỏ nhất của bốn phương để làm giàu cho mình, đồng thời cũng loại bỏ những gì không thích hợp để rồi ổn định, định hình, định tính, định vị cái thanh lịch cũng như tán phát văn hóa Thăng Long đi muôn nơi. Nét đặc trưng văn hóa Thăng Long là sự hòa hợp nếp sống giữa người dân Hà Thành với “người tứ chiếng”, giữa “người đồng văn, đồng chủng” với người nước ngoài. Bên cạnh những nét riêng trong các yếu tố nhân chủng, thể chất, ngôn ngữ, người Hà Nội có một số tư chất, nội tâm, đường ăn nết ở tài hoa, thanh lịch, kiên cường. Cái tư chất người Hà Nội thời phong kiến là giữ được cái căn tính của nền văn minh lúa nước. Cái chất của người Hà Nội thời Pháp thuộc là tài hoa và khí phách cách mạng anh hùng. Trong công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội phát huy tinh thần năng động, sáng tạo đã được hun đúc qua chiều dài hàng ngàn năm lịch sử. Người Thăng Long - Hà Nội tự hào về cái “thanh lịch” của mình. Cái thanh lịch của Thăng Long - Hà Nội thể hiện trong nhiều mặt. Trước hết là thể hiện ở lời nói. Tiếng nói của người Thủ đô chuẩn xác cao, thanh âm mẫu mực. Người Thăng Long - Hà Nội vận dụng từ ngữ khéo léo, nhã nhặn, tế nhị. Trong giao tiếp, biết nhún mình, tôn trọng người, mềm mỏng mà không thớ lợ, tài hoa mà không khoe khoang, biết rộng mà không làm cao. Người thợ thủ công trên đất Thăng Long – Hà Nội giữ cái tố chất tương trợ, phường hội giúp đỡ lẫn nhau, bênh vực lẽ phải, bênh vực “kẻ yếu”. Người nông dân giữ cái thuần phác, cần cù “biết nhịn”, “biết nể”. Nho sĩ, hàn sĩ giữ cái cốt cách của người học đạo thánh hiền lời nói văn vẻ, dễ nghe, còn một tấm áo lụa, ra đường còn nho nhã, còn một đồng trong túi là không để mâm cơm đãi khách phải ngọ ngằn. Ngạn ngữ có câu “Ăn Bắc, mặc Kinh”. Thăng Long - Hà Nội là kinh đô đồng thời cũng tiêu biểu cho xứ Bắc. Ăn, mặc của người Thăng Long - Hà Nội cũng toát nên chất thanh lịch. Người Thăng Long - Hà Nội rất sành trong ăn uống, nâng cách ăn uống, chế biến món ăn thành nghệ thuật ẩm thực. Món ăn chế biến, mặn, ngọt, chua, cay vừa độ, gia vị đầy đủ; nước chấm, nước canh khéo chế. Bữa ăn ngon từ cách bày đĩa, xếp mâm, lên cỗ. Nét văn hoá bộc lộ trong ăn uống cũng tinh tế, phong phú. “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”. Vào mâm cơm người Thăng Long – Hà Nội trọng người già, quý trẻ em, nhường nhịn món ăn ngon, gắp tiếp trước cho khách. Ăn uống từ tốn, nhai nuốt thong thả. Ăn để thòm thèm, nhớ mãi. Người Thăng Long – Hà Nội lịch sự trong cách mặc. Trang phục, trang sức ưa sự gọn gàng, trang nhã, tề chỉnh, cách tân tinh tế, đủ độ lộng lẫy, kiêu sa. Người Thăng Long - Hà Nội thích “diện”, thích đổi “mốt” làm đẹp phố phường. Cái “diện” của con người vùng đất này cũng mang “tư chất” kín đáo, tế nhị, không cầu kỳ, biết nâng “cái đẹp” đồng hành với “cái nết”. Người Thăng Long - Hà Nội xưa ra đường là mặc áo dài, khăn nón, giày guốc đầy đủ. Khách đến chơi nhà, chủ nhà giữ lễ “tôn trọng mình, tôn trọng khách”, “ăn vận” quần áo gọn gàng, tươm tất rồi mới tiếp khách. Con gái Thăng Long - Hà Nội giữ “công, dung, ngôn, hạnh”, giữ đủ nét e lệ, dịu dàng, giữ gìn ý tứ từ dáng đi, nụ cười, ánh mắt, đồ trang sức vừa đủ, ít người đeo vàng, ngọc đầy cổ, đầy tay. Trong giao tiếp, ứng xử người Hà Nội không chỉ giữ gìn thuần phong mỹ tục truyền thống mà còn tiếp thu tinh hoa văn minh, hiện đại của bốn phương. Trước đây người Hà Nội đón tiếp khách quý là chắp tay vái chào, nay bắt tay cởi mở. Từ chỗ “nam nữ thụ thụ bất thân” đã đi tới bình đẳng giới, xây dựng được nét đẹp tôn trọng người già, nhường nhịn phụ nữ, quý mến trẻ thơ, giúp đỡ người già yếu, khuyết tật, lịch sự thân thiện với người mới đến, người nước ngoài. Gặp vướng mắc, va chạm thì ứng xử ôn hoà, không đối đầu, bạo lực, luôn mong muốn giải quyết êm đẹp, phục thiện. Gia đình là cái nôi nuôi lớn tâm hồn con người. Gia đình là tế bào quyết định chất lượng xã hội. Xây dựng và bảo toàn mái ấm gia đình là điều kiện cơ bản cho hôm nay và ngày mai đi lên của đất nước. Muốn thế phải phải giữ được “nếp nhà”. Chữ “hiếu” không cổ hủ mà thích nghi với hoàn cảnh mới. Trong gia đình, người Thăng Long - Hà Nội coi trọng giữ gìn nề nếp, gia phong. Dạy bảo con cháu, người Thăng Long - Hà Nội lấy chữ “hiếu” với ông bà, cha mẹ làm đầu, chữ “hiền thảo” với dâu rể, chữ “thành đạt” với con cháu. Ông bà, cha mẹ lấy cái mẫu mực, làm gương cho con cháu noi theo. Cuộc sống phố phường sôi động, nhưng người Thăng Long - Hà Nội vẫn giữ được nét đẹp của sinh hoạt tâm linh và cộng đồng đầy tính thiện như: hái lộc đầu xuân, đi lễ đền chùa cầu lành, cầu mát, cầu quốc thái, dân an, thắp hương thờ cúng tổ tiên, cúng giao thừa, năm mới xông đất chúc tụng nhau, đến Văn Miếu xin chữ Thánh hiền đầu xuân. Các cụ ông, các tài tử, văn nhân có cái thú uống trà, “nuôi cá dưỡng tâm, nuôi chim dưỡng tính”, “nuôi lan tích đức”, dựng hòn non bộ, trồng cây cảnh để cân bằng phong thủy. Với môi trường thiên nhiên, môi trường đô thị, môi trường hội nhập kinh tế quốc tế, người Hà Nội đang xây dựng được nét ứng xử đẹp phù hợp với xu thế phát triển của đất nước. Nhân cách của người Thăng Long - Hà Nội hôm nay được xây dựng trên tổng hoà các giá trị văn hiến truyền thống và hiện đại. Nâng cao phẩm chất trí tuệ, tài năng, tâm hồn, tình cảm, lý tưởng và hành động mang bản sắc Thăng Long – Hà Nội, xây dựng Thủ đô Hà Nội văn minh, hiện đại xứng tầm với thành phố nghìn năm tuổi là vinh dự và trách nhiệm của mỗi người dân cả nước nói chung và người dân Hà Nội nói riêng. Nguồn: Ban Tuyên giáo Trung ương [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Chuyên đề : Lịch sử Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội
Top