Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Chuyên đề : Lịch sử Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 6113" data-attributes="member: 28779"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: Blue">THĂNG LONG – HÀ NỘI, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ</span></strong></p><p></p><p>Theo chính sử của nước ta, mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh thành là Thăng Long, nay là Hà Nội. Với bề dày ngàn năm, Thăng Long – Hà Nội là nơi địa linh nhân kiệt, hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, hình thành văn hiến Thăng Long – Hà Nội, toả chiếu mọi miền Tổ quốc. Năm 2010, Thủ đô Hà Nội tròn 1000 năm tuổi. Đây là một sự kiện trọng đại trong lịch sử nước nhà. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Thời kỳ tiền Thăng Long</span></strong></p><p></p><p>Thời Hùng Vương, kinh đô đặt ở Văn Lang, vùng đất Thăng Long – Hà Nội lúc đó là một làng quê. Khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, Thục Phán (An Dương Vương) thay thế vua Hùng dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa. Kinh đô Cổ Loa đi vào lịch sử với tư cách là kinh thành, thị thành, quân thành, trung tâm đầu não chính trị, kinh tế của nước Âu Lạc. Năm 179 trước Công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính. Kể từ đó, Âu lạc rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc kéo dài ngàn năm, vùng đất Thăng Long – Hà Nội trở thành đại bản doanh của chính quyền đô hộ. Nửa sau thế kỷ VIII, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi tổ chức đắp La Thành. Năm 865 – 866, Tiết độ sứ Cao Biền cho đắp đê thành Đại La. Đặc trưng thành Đại La thời Bắc thuộc là quan, quân, dân chúng ở trong một vòng đê ngoài, mang tính chất quân sự, thiếu quy mô sinh hoạt kinh tế, văn hoá của các tầng lớp nhân dân.</p><p></p><p>Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, nhân dân Thăng Long – Hà Nội luôn bất khuất, quật cường khởi nghĩa chống quân xâm lược. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn đập tan ách đô hộ của nhà Hán, xây dựng kinh đô ở Mê Linh, khôi phục nhà nước độc lập. Năm 542 - 544, Lý Bí hào trưởng Thái Bình (vùng Sơn Tây cũ), dấy binh đánh đuổi giặc Lương, lên ngôi hoàng đế, chọn đất dựng chùa “Khai Quốc”, đóng đô ở vùng đất thuộc Thăng Long - Hà Nội (ngày nay), đặt quốc hiệu của nước là Vạn Xuân. Khoảng năm 766 - 779, Phùng Hưng thủ lĩnh vùng Đường Lâm khởi binh kéo đại quân từ vùng núi Ba Vì về bao vây thành Đại La, lật đổ ách đô hộ nhà Đường, xây dựng chính quyền độc lập tới năm 791. Năm 905, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng đất Hồng Châu nổi dậy chiếm giữ phủ thành Đại La, tự lập làm Tiết độ sứ, xoá bỏ chính quyền đô hộ. Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ tiến quân từ Ái Châu (Thanh Hoá) ra Bắc, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi thành Đại La, khôi phục nền tự chủ từ năm 931 đến năm 937. </p><p></p><p>Thời tiền Thăng Long các bậc đế vương của nước ta, như: An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền đã chọn đất thuộc vùng Thăng Long – Hà Nội để đóng đô, xây dựng nền độc lập. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Thăng Long thời Lý (1010 - 1225) </span></strong></p><p></p><p>Năm 1010, ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, đổi tên thành Đại La là thành Thăng Long. Chọn Thăng Long làm kinh đô, Lý Công Uẩn đã đứng trên “chủ thuyết phát triển” và cái nhìn toàn cục của quốc gia để chọn lấy một dải đất đắc địa bậc nhất của nước Đại Cồ Việt xây dựng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện cao độ ý chí độc lập, tự cường dân tộc.</p><p></p><p>Thời Lý kinh đô Thăng Long được xây dựng theo kiến trúc “Tam trùng thành quách” 3 vòng thành lồng nhau. Vòng thành ngoài gọi là thành Đại La. Vòng thành giữa gọi là Hoàng Thành, nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều của vua. Kinh thành được bao bọc bởi một toà thành bằng đất phát triển từ đê của 3 con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô ở phía Bắc và phía Tây, sông Kim Ngưu ở phía Nam. Nét nổi bật của kinh thành Thăng Long thời Lý là tận dụng tối đa những điều kiện tự nhiên và tạo ra sự hài hoà với kiến trúc nhân tạo. Dấu ấn Thăng Long thời kỳ này còn được lưu lại ở nhiều công trình kiến trúc đặc sắc, như: đền Đồng Cổ xây dựng năm 1028, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột -1049), tháp Báo Thiên (1057). Trong công trình “Thăng Long tứ trấn”, nhà lý xây dựng hoàn chỉnh ba trấn là: quán Trấn Vũ, đền Bạch Mã, đền Voi Phục.... Năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu; năm 1075, mở khoa thi Nho học đầu tiên; năm 1076, tuyển những văn quan có học vào tu nghiệp ở Quốc Tử Giám. Trong công cuộc phục hưng nền độc lập nhà Lý đã đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền tảng sự nghiệp văn hoá, giáo dục, đặt nền tảng cho nền giáo dục đại học và nhiều ngành khoa học của nước nhà, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Vào giai đoạn thịnh đạt của nhà Lý, kinh đô Thăng Long đã thực sự trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế, văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Thăng Long thời Trần (1226 - 1400)</span></strong></p><p></p><p>Sau 215 năm cầm quyền, triều Lý lâm vào tình trạng suy yếu, không giữ được binh quyền. Năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý chấm dứt tình trạng loạn ly, thiết lập lại trật tự chính trị - xã hội. Nhà Trần có nhiều chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhìn tổng thể kiến trúc cung đình Thăng Long thời Trần không bề thế như thời Lý. Quy mô kinh thành Thăng Long cơ bản vẫn giữ ranh giới cũ. Năm 1230, nhà Trần sửa chữa thành Đại La và các cung thất, hoạch định lại các đơn vị hành chính; năm 1243 đắp lại Cấm thành. Năm 1253 tu sửa lại Quốc Tử Giám, lập Viện Quốc học, Viện Quốc sử, Giảng Võ đường đào tạo nhiều văn quan, võ tướng tài năng. Nho học được coi trọng và phát triển, chế độ khoa cử được tổ chức chặt chẽ. Từ năm 1247, nhà Trần đặt thêm học vị Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn (Tam khôi). Thăng Long thời Trần thu hút nhiều nhân tài từ các nơi về học tập. Khoa học quân sự thời Trần là yếu tố cấu thành văn hóa Đại Việt, tạo nên hào khí Đông A.</p><p></p><p>Kinh đô Thăng Long được quy hoạch lại thành 61 phường với số dân đông đúc hơn, tập trung trong khu vực dân sự, Thăng Long ngày càng rõ nét một thành thị với sự phát triển nhanh của phố, chợ, làng nghề thủ công. Nhà Trần có chính sách ngoại giao thông thoáng nhiều khách buôn nước ngoài đã đến đây làm ăn, sinh sống hoặc cư trú chính trị, như: người Hoa, người Hồi Hột, người Java… Kinh đô Thăng Long thời Trần là thành phố mở, hội tụ tinh hoa văn hoá của nhiều nước trên thế giới. Thời Lý và thời Trần nước Đại Việt nổi tiếng với 4 công trình nghệ thuật “An Nam tứ đại khí” làm bằng đồng: chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm và đỉnh tháp Báo Thiên. Trong vòng 30 năm (1258 – 1288), đế chế Mông Cổ ba lần đem quân đánh chiếm Thăng Long. Quân dân ta đều chủ động, khôn khéo rút lui chiến lược khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng, sau đó bao vây, phản công quét sạch quân xâm lược. Thăng Long góp phần cùng nhân dân cả nước lập nên chiến công vĩ đại, ba lần đại thắng quân Nguyên – Mông. Nền văn minh Đại Việt, hào khí Thăng Long, hào khí Đông A tỏa sáng, Thăng Long xứng đáng là kinh đô anh hùng của đất nước anh hùng.</p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">4. Thăng Long thời Lê, thời Mạc, Lê Trung hưng (1428 – 1788)</span></strong></p><p></p><p>Nhà Trần trị vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái. Hồ Quý Ly đại thần nhà Trần thâu tóm quyền lực. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, buộc vua Trần dời triều đình vào Tây Đô. Trong 10 năm cuối triều Trần nước ta có hai Đô là Tây Đô và Đông Đô. Tây Đô có triều đình, có vị thế về chính trị nhưng Đông Đô (Thăng Long) vẫn là trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, lên làm vua. Nhà Hồ ở ngôi 7 năm thì phong kiến nhà Minh sang xâm lược, cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt đưa về Trung Quốc. Sau gần 500 năm giành độc lập, đến nhà Hồ, nước ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Sau chín năm kháng chiến, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được các vùng từ Nam đến Bắc. Năm 1426, ba đạo quân Lam Sơn tiến ra bao vây thành Đông Quan, chủ động “vừa đánh vừa đàm”,“vây thành diệt viện”, dập tắt mọi hy vọng của giặc Minh trong thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải lên đàn thề từ bỏ dã tâm xâm lược và xin rút quân về nước. Ngày 29/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, định đô ở Đông Đô. Năm 1430, đổi tên là Đông Kinh. Thời Hậu Lê, kinh thành Thăng Long được quy hoạch và xây dựng theo quy cách đế đô của quốc gia quân chủ tập quyền. Kinh thành được mở rộng sang phía Đông. Trong Cấm thành, một toà thành hình chữ nhật xây gạch với cửa chính là Đoan Môn, nhà Lê xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác, thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên xây dựng trên đỉnh núi Nùng. Ngoài Hoàng thành, nhiều kiến trúc mới cũng xuất hiện. Kiến trúc kinh thành thời Lê đạt đến trình độ mực thước, hài hoà. Khu dân sự tiếp tục phát triển và được quy hoạch lại gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương, mỗi huyện có 18 phường. Đông Kinh lúc này đã có những phố chợ buôn bán tấp nập, nhiều phường thủ công nổi tiếng, như: Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải; Yên Thái làm giấy; Hàng Đào nhuộm điều; tranh Hàng Trống…</p><p></p><p>Năm 1428, Lê Lợi cho lập nhà Quốc Tử Giám. Năm 1442, mở khoa thi Hội đầu tiên, long trọng tổ chức lễ xướng danh, treo bảng vàng, ban mũ áo cho người trúng tuyển, khuyến khích học hành. Nước Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã đạt tới đỉnh cao của một quốc gia phong kiến độc lập. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong nội bộ triều Lê Sơ, từ đầu thế kỷ XVI, đã dẫn tới sự phế truất vua Lê của tập đoàn phong kiến Mạc Đăng Dung (1572). Năm 1588, nhà Mạc huy động dân đắp 3 lần luỹ đất để tăng cường hệ thống phòng thủ kinh thành. Nhưng chỉ 4 năm sau, dưới danh nghĩa phù Lê, họ Trịnh chiếm được kinh thành. Kinh đô chính thức trở lại tên gọi Thăng Long. Triều đình của vua Lê đóng trong Hoàng thành cũ. Phủ Chúa Trịnh được xây bên ngoài, gồm nhiều cung điện nguy nga, chạy dài theo bờ tây Hồ Gươm. Tuy có những biến động về chính trị, nhưng thời Lê, Mạc, Lê Trung hưng, Thăng Long vẫn là một thành thị - thương cảng sầm uất nhất cả nước và vào loại lớn ở Châu Á. Bên cạnh các thương điếm của người Hoa, còn có cả những thương điếm của người Anh, Hà Lan, Đức. Khu vực dân cư trong kinh thành Thăng Long đông đúc hơn trước và có cả nhà hai tầng. Nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật, đặc biệt là về tôn giáo đã được xây dựng thêm.</p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">5. Thăng Long- Hà Nội thời Tây Sơn (1788 - 1802)</span></strong></p><p></p><p>Cuối năm 1788, Kinh đô và đất nước Đại Việt lại phải đương đầu với cuộc xâm lược của đế chế Mãn Thanh. Từ Phú Xuân (Huế), vua Quang Trung thống lĩnh đại quân Tây Sơn tiến ra Bắc, giải phóng Thăng Long. Giặc tan, vua Quang Trung về đóng đô ở Huế. Thăng Long là thủ phủ của Bắc Thành. Hoàng thành Thăng Long vẫn được nhà Tây Sơn cho tu sửa, đắp lại những đoạn bị sụt đổ. Chùa Kim Liên (Nghi Tàm), chùa Tây Phương (Thạch Thất), tượng Tuyết Sơn và 18 vị La Hán được tu bổ, tôn tạo; nhiều chuông to, đẹp được đúc. Sau chiến thắng vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ và nhân dân thu gom xác giặc, chôn cất và sai lập đàn chẩn tế, tu sửa chùa Bộc làm nơi quy y cho quân sĩ nhà Thanh; ban Chiếu khuyến nông, khuyến khích nhân dân trở về quê cũ khai khẩn ruộng bỏ hoang, phục hồi sản xuất; ban Chiếu lập học khuyến khích các địa phương mở trường học. Lập Viện Sùng Chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức của quốc gia. Lịch sử triều đại Tây Sơn tuy ngắn ngủi, nhưng đã để lại những dấu ấn đậm nét trong trang sử Thăng Long - Hà Nội văn hiến, anh hùng.</p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">6. Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn và Pháp thuộc (1802 - 1945)</span></strong></p><p></p><p>Lợi dụng cơ hội vua Quang Trung qua đời (1792), tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh từ miền Nam đánh chiếm Phú Xuân (1801), thăng Long (1802). Kinh đô nhà Nguyễn vẫn đặt ở Phú Xuân, Thăng Long được gọi là Bắc Thành. Hoàng Thành bị phá bỏ, thay vào đó là một toà thành mới hình vuông, xây theo kiểu thành Vô - băng của Pháp. Năm 1831, Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội với tỉnh lỵ là phủ Hoài Đức (thành Thăng Long cũ), Thăng Long được gọi là Hà Nội. Quốc Tử Giám, cơ quan giáo dục cao nhất của đất nước bị dời vào Huế. Tuy không còn là trung tâm chính trị, nhưng Hà Nội lúc đó vẫn là trung tâm kinh tế -văn hoá lớn nhất của cả nước.</p><p></p><p>Cuối thế kỷ XIX, trước những hành động xâm lược của thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả nước, Hà Nội đã đứng lên kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và người kế nhiệm là Tổng đốc Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội đã anh dũng chống trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Nhưng triều đình nhà Nguyễn nhu nhược đã ký “Hiệp ước hoà bình” (1883), công nhận quyền thống trị của Pháp trên cả nước. Hà Nội trở thành đất “bảo hộ” thuộc Bắc kỳ, đặt dưới quyền cai trị của một viên Thống sứ người Pháp. Tháng 7/1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh lập thành phố Hà Nội, gồm đất đai tỉnh lỵ Hà Nội, đứng đầu là một viên Đốc ký.</p><p></p><p>Chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn của thực dân Pháp làm diện mạo của Hà Nội từ đầu thế kỷ XX có nhiều thay đổi. Các cơ sở hạ tầng được hoàn thành, trước hết là mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, cầu cống, trong đó có cầu Doumer qua sông Hồng. Thành cổ Hà Nội lại bị phá để xây các “khu nhà binh”, công sở. Điện Kính Thiên cũng bị phá huỷ, thay vào đó là nhà con Rồng hai tầng dùng làm sở chỉ huy pháo binh (1886). Đi đôi với việc hình thành các “khu phố Tây” (nằm trên các đường Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt…ngày nay), một số công trình khác mang phong cách Châu Âu được xây dựng, như: Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Ngân hàng Quốc gia, Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn, nhà Bưu điện, trường Viễn Đông Bác Cổ, ga Hà Nội…</p><p></p><p>Mặc dù thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo, phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội thời Pháp thuộc, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (02/1930), lúc âm ỉ, lúc rầm rộ, không bao giờ tắt…Ngày 19/8/1945, thực hiện lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành đã nhất tề xuống đường đấu tranh giành chính quyền.</p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">7. Hà Nội trong thời đại Hồ Chí Minh</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p>Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, công bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, tại kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất Hà Nội được vinh dự chọn làm Thủ đô của cả nước trong kỷ nguyên mới.</p><p></p><p>Bước vào xây dựng cuộc sống tự do, dân chủ chỉ hơn một năm, nhân dân Thủ đô lại phải đương đầu với một cuộc xâm lược mới của thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến. Sau tám năm trường kỳ chiến đấu, ngày 10/10/1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô.</p><p></p><p>Hoà bình lập lại, Hà Nội khẩn trương bước vào công cuộc khôi phục và xây dựng kinh tế. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đã hoàn thành thắng lợi việc tiếp quản, nhanh chóng ổn định tình hình, khẩn trương bắt tay vào khôi phục, cải tạo và xây dựng thành phố. Chỉ hơn một tháng sau giải phóng, thành phố đã thông qua kế hoạch phục hồi công thương nghiệp. Không khí hòa bình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố diễn ra sôi động. Một năm sau giải phóng, Hà Nội đã hoàn thành cải cách ruộng đất. Từ năm 1958 đến năm 1960 tiến hành xong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và hợp tác hoá nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Bộ mặt thành phố đổi mới từng ngày Sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965), Thủ đô đã trở thành trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế quan trọng trong cả nước.</p><p></p><p>Giữa năm 1966, giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, đánh phá Thủ đô. Tháng 3/1968, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Ngày 2/9/1969, Bác Hồ từ trần. Nhân dân Thủ đô Hà Nội tỏ rõ niềm tiếc thương vô hạn với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, ngày 9/9/1969, hơn 10 vạn cán bộ và nhân dân Thủ đô tới Quảng trường Ba Đình cùng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế dự Lễ truy điệu vĩnh biệt Người với lòng thành kính và biết ơn vô hạn. Tháng 4/1972, Hà Nội trở thành mục tiêu đánh phá lần thứ hai của Mỹ. Cuối năm đó, chỉ trong vòng 12 ngày đêm (18 - 29/12/1972), Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống địa bàn Hà Nội. Thể hiện bản lĩnh là “Thủ đô của phẩm giá con người”, quân dân Hà Nội đã lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập “uy thế không lực Hoa Kỳ”. Trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại bằng đường không của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, 358 máy bay các loại của Mỹ trong đó có 23 chiếc pháo đài bay B52, 2 chiếc F111 bị tan xác trên bầu trời Hà Nội; 83 máy bay trong đó có 1 máy bay B52 và 2 máy bay F.111 bị tan xác trên bầu trời Hà Tây. Quân và dân Thủ đô Hà Nội đã góp phần quyết định buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris (01/1973), rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước. Đúng một năm chín tháng sau, ngày 30/9/1974, tại Tổng hành dinh đóng trong Thành cổ Hà Nội, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Với sự chi viện hết lòng và toàn diện của quân dân Hà Nội và miền Bắc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975) đã toàn thắng. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam thống nhất.</p><p></p><p>Tháng 4/1976, Hà Nội được Quốc hội chung của cả nước quyết định là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội quyết tâm xây dựng Thủ đô “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hà Nội dấy lên nhiều phong trào thi đua yêu nước tiêu biểu như: phong trào bốn đổi mới trong công nghiệp, áp dụng khoán trong nông nghiệp, xử lý giá, lương, tiền trong lưu thông phân phối; tập trung quy hoạch phát triển đô thị - giao thông nội đô thống nhất; cải tạo lại mạng lưới điện hạ thế và cấp nước sạch; cải thiện nhà ở, giao thông và chiếu sáng đô thị.</p><p></p><p>Các công trình lớn như sân bay Nội Bài, cầu Thăng Long, cầu Đuống, cầu Chương Dương, đường 6 (đoạn Hà Nội - Hà Đông) và nhiều khu nhà cao tầng ở khu Bắc Thanh Xuân, Kim Giang, Đại học Bách Khoa, tập thể Quỳnh Lôi được xây dựng và đưa vào sử dụng. Một số ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm, cơ khí nông nghiệp, hóa chất, chế tạo máy đã được hình thành. Ngành nông nghiệp Thủ đô áp dụng tốt các kỹ thuật thâm canh, tăng vụ, hình thành nhiều vùng chuyên canh rau ở các huyện Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì. Kinh tế đối ngoại bắt đầu hình thành. </p><p></p><p>Với những bước đi quan trọng đó, lần đầu tiên trong kế hoạch 5 năm (1991 – 1995), nhiều mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội đã đạt và vượt toàn diện, nhiều mục tiêu đạt và hoàn thành trước thời hạn. Kinh tế Thủ đô liên tục tăng trưởng ở mức cao, điều đáng kể là bước đầu kinh tế Thủ đô đã có tích lũy. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. </p><p></p><p>Giai đoạn 1996 – 2000, thành phố đã tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất, thương mại, dịch vụ then chốt. Những chủ trương và giải pháp quan trọng đó đã tạo sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện của Hà Nội, góp phần đáng kể cho việc động viên nguồn thu ngân sách Nhà nước. So với cả nước: năm 1990 thu ngân sách địa bàn Hà Nội đạt 9,2%, năm 2000 đạt 16,3%. Năm 2000, Hà Nội chiếm 3,6% về dân số và 2,8% diện tích lãnh thổ quốc gia nhưng đã đóng góp với cả nước 7,8% GDP. Đời sống nhân dân có nhiều cải thiện. Bộ mặt của Thủ đô có nhiều thay đổi, vị thế của Thủ đô được nâng lên. Một vinh dự lớn đối với Thủ đô Hà Nội, năm 1999 được tổ chức UNESCO của Liên Hợp quốc trao tặng danh hiệu vẻ vang “Thành phố vì hòa bình” và lấy làm nơi phát động “Năm quốc tế hòa bình – 2000”. Năm 2000, Hà Nội được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Thủ đô Anh hùng.</p><p></p><p>Thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2000 – 2010), về kinh tế, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Hà Nội tập trung trí tuệ đẩy nhanh tiến độ sắp xếp cổ phần hóa vững chắc doanh nghiệp Nhà nước; đổi mới công nghệ, thiết bị và mô hình quản lý; tích cực thu hút vốn đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cấp hạ tầng đô thị. Những năm đầu của thế kỷ XXI, bộ mặt Thủ đô đổi thay nhanh chóng, Hà Nội đã mở ra 4 hướng với những khu công nghiệp hiện đại như: Sài Đồng A, Sài Đồng B, Bắc Thăng Long, Chèm, Mễ Trì, Thượng Đình, Thanh Trì, Cầu Bươu, Cầu Diễn, Nghĩa Đô, Đông Anh, Sóc Sơn…phát triển công nghiệp Hà Nội gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và công nghiệp của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh thực hiện thành công bước đi ban đầu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội trở thành trung tâm du lịch của cả nước, chất lượng dịch vụ du lịch từng bước được nâng cao. Thủ đô Hà Nội tích cực đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng văn hóa sinh thái. Cùng với phát triển kinh tế, Hà Nội tiếp tục đạt nhiều thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển văn hóa - xã hội và con người, tạo nên sức mạnh và độ bền vững của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. </p><p></p><p>Những năm đầu thế kỷ XXI, Hà Nội đổi thay từng ngày. Không gian Hà Nội được phân thành các vùng rõ nét. Khu vực trung tâm được bao quanh bằng các đường La Thành – đường Láng - Trường Chinh - Đại La - Minh Khai và dọc hữu ngạn sông Hồng. Khu phát triển mở rộng, được quy hoạch theo hữu ngạn và tả ngạn sông Hồng. Trong đó hữu ngạn gồm khu vực phía Nam cầu Thăng Long, dọc quốc lộ 32. Ở đây, có khu công nghiệp Cầu Diễn, khu công nghệ cao Nam Thăng Long, khu đô thị Ciputra, các khu dân cư tập trung Mai Dịch, Nghĩa Đô, Cầu Diễn, Tây sông Nhuệ, khu dân cư theo quốc lộ 6 và vành đai 3. Các khu công nghiệp Thượng Đình, công viên mới Mễ Trì, khu trung tâm Thể thao quốc gia, khu đô thị mới Trung Yên, Yên Hòa, Thanh Xuân. Khu công nghiệp Xuân Mai, Định Công, Linh Đàm, Cầu Bươu, Mai Động. Khu Bắc cầu Thăng Long; khu thị trấn Gia Lâm – Sài Đồng – Đức Giang – Yên Viên; khu dọc đường quốc lộ 3.</p><p></p><p>Việc cải tạo, xây dựng Thủ đô thành một đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng với tầm vóc của một Quốc gia khoảng trên một trăm triệu dân, trong thế kỷ XXI là một yêu cầu cần thiết. Quốc hội đã có Nghị quyết số 15-2008/QH12 về mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 260/CT-TTg, ngày 4 tháng 3 năm 2008 về việc tổ chức thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Theo đó, Hà Nội mở rộng bao gồm toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau khi hợp nhất, mở rộng Hà Nội có diện tích 3.340 km2 với gần 6,5 triệu dân, 29 đơn vị huyện, quận; 577 xã, phường, thị trấn; 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao sinh sống.</p><p></p><p>Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đặt mục tiêu sau năm 2010 xây dựng Thủ đô Hà Nội hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc tương xứng với truyền thống ngàn năm văn hiến. Hướng phát triển của thành phố Hà Nội về phía Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây; phía Bắc là cụm đô thị Sóc Sơn - Xuân Hòa - Đại Lải - Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) và các đô thị khác. Điều chỉnh xây dựng thêm các khu công nghiệp tập trung mới như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn, Thăng Long, Đông Anh, mở rộng khu công nghiệp Đức Giang, Cầu Diễn, Cầu Bươu. Các hệ thống công viên, khu cây xanh, vui chơi, giải trí, khu du lịch các công trình công cộng… được rà soát, quy hoạch, đảm bảo môi trường sống ngày càng văn minh, hiện đại.</p><p></p><p>Trải qua bao biến thiên của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, là nơi kết tinh tinh hoa của dân tộc, hội tụ nhân tài của đất nước. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội coi trọng việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể, kết hợp hài hoà trong quy hoạch và xây dựng đô thị, phát huy cao độ truyền thống Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến, đoàn kết xây dựng Hà Nội là “Thủ đô xanh, văn hiến – văn minh và hiện đại”, phát huy tốt vai trò là trung tâm lớn về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và giao dịch quốc tế.</p><p></p><p>Nguồn: Ban tuyên giáo Trung ương</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 6113, member: 28779"] [CENTER][B][COLOR="Blue"]THĂNG LONG – HÀ NỘI, NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ[/COLOR][/B][/CENTER] Theo chính sử của nước ta, mùa thu năm Canh Tuất (1010), vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên kinh thành là Thăng Long, nay là Hà Nội. Với bề dày ngàn năm, Thăng Long – Hà Nội là nơi địa linh nhân kiệt, hội tụ tinh hoa văn hoá dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới, hình thành văn hiến Thăng Long – Hà Nội, toả chiếu mọi miền Tổ quốc. Năm 2010, Thủ đô Hà Nội tròn 1000 năm tuổi. Đây là một sự kiện trọng đại trong lịch sử nước nhà. [B][COLOR="Blue"]1. Thời kỳ tiền Thăng Long[/COLOR][/B] Thời Hùng Vương, kinh đô đặt ở Văn Lang, vùng đất Thăng Long – Hà Nội lúc đó là một làng quê. Khoảng thế kỷ III trước Công nguyên, Thục Phán (An Dương Vương) thay thế vua Hùng dựng nước Âu Lạc, dời đô xuống miền Cổ Loa. Kinh đô Cổ Loa đi vào lịch sử với tư cách là kinh thành, thị thành, quân thành, trung tâm đầu não chính trị, kinh tế của nước Âu Lạc. Năm 179 trước Công nguyên, nước Âu Lạc bị Triệu Đà thôn tính. Kể từ đó, Âu lạc rơi vào ách thống trị của các triều đại phong kiến phương Bắc kéo dài ngàn năm, vùng đất Thăng Long – Hà Nội trở thành đại bản doanh của chính quyền đô hộ. Nửa sau thế kỷ VIII, Kinh lược sứ nhà Đường là Trương Bá Nghi tổ chức đắp La Thành. Năm 865 – 866, Tiết độ sứ Cao Biền cho đắp đê thành Đại La. Đặc trưng thành Đại La thời Bắc thuộc là quan, quân, dân chúng ở trong một vòng đê ngoài, mang tính chất quân sự, thiếu quy mô sinh hoạt kinh tế, văn hoá của các tầng lớp nhân dân. Trong hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, nhân dân Thăng Long – Hà Nội luôn bất khuất, quật cường khởi nghĩa chống quân xâm lược. Năm 40, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa ở Hát Môn đập tan ách đô hộ của nhà Hán, xây dựng kinh đô ở Mê Linh, khôi phục nhà nước độc lập. Năm 542 - 544, Lý Bí hào trưởng Thái Bình (vùng Sơn Tây cũ), dấy binh đánh đuổi giặc Lương, lên ngôi hoàng đế, chọn đất dựng chùa “Khai Quốc”, đóng đô ở vùng đất thuộc Thăng Long - Hà Nội (ngày nay), đặt quốc hiệu của nước là Vạn Xuân. Khoảng năm 766 - 779, Phùng Hưng thủ lĩnh vùng Đường Lâm khởi binh kéo đại quân từ vùng núi Ba Vì về bao vây thành Đại La, lật đổ ách đô hộ nhà Đường, xây dựng chính quyền độc lập tới năm 791. Năm 905, Khúc Thừa Dụ, hào trưởng đất Hồng Châu nổi dậy chiếm giữ phủ thành Đại La, tự lập làm Tiết độ sứ, xoá bỏ chính quyền đô hộ. Năm 931, hào trưởng Dương Đình Nghệ tiến quân từ Ái Châu (Thanh Hoá) ra Bắc, đánh đuổi quân xâm lược ra khỏi thành Đại La, khôi phục nền tự chủ từ năm 931 đến năm 937. Thời tiền Thăng Long các bậc đế vương của nước ta, như: An Dương Vương, Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền đã chọn đất thuộc vùng Thăng Long – Hà Nội để đóng đô, xây dựng nền độc lập. [B][COLOR="Blue"]2. Thăng Long thời Lý (1010 - 1225) [/COLOR][/B] Năm 1010, ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La, đổi tên thành Đại La là thành Thăng Long. Chọn Thăng Long làm kinh đô, Lý Công Uẩn đã đứng trên “chủ thuyết phát triển” và cái nhìn toàn cục của quốc gia để chọn lấy một dải đất đắc địa bậc nhất của nước Đại Cồ Việt xây dựng trung tâm đầu não về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, thể hiện cao độ ý chí độc lập, tự cường dân tộc. Thời Lý kinh đô Thăng Long được xây dựng theo kiến trúc “Tam trùng thành quách” 3 vòng thành lồng nhau. Vòng thành ngoài gọi là thành Đại La. Vòng thành giữa gọi là Hoàng Thành, nơi có các cung điện hoàng gia và nơi thiết triều của vua. Kinh thành được bao bọc bởi một toà thành bằng đất phát triển từ đê của 3 con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô ở phía Bắc và phía Tây, sông Kim Ngưu ở phía Nam. Nét nổi bật của kinh thành Thăng Long thời Lý là tận dụng tối đa những điều kiện tự nhiên và tạo ra sự hài hoà với kiến trúc nhân tạo. Dấu ấn Thăng Long thời kỳ này còn được lưu lại ở nhiều công trình kiến trúc đặc sắc, như: đền Đồng Cổ xây dựng năm 1028, chùa Diên Hựu (chùa Một Cột -1049), tháp Báo Thiên (1057). Trong công trình “Thăng Long tứ trấn”, nhà lý xây dựng hoàn chỉnh ba trấn là: quán Trấn Vũ, đền Bạch Mã, đền Voi Phục.... Năm 1070, nhà Lý lập Văn Miếu; năm 1075, mở khoa thi Nho học đầu tiên; năm 1076, tuyển những văn quan có học vào tu nghiệp ở Quốc Tử Giám. Trong công cuộc phục hưng nền độc lập nhà Lý đã đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền tảng sự nghiệp văn hoá, giáo dục, đặt nền tảng cho nền giáo dục đại học và nhiều ngành khoa học của nước nhà, mở ra kỷ nguyên văn minh Đại Việt. Vào giai đoạn thịnh đạt của nhà Lý, kinh đô Thăng Long đã thực sự trở thành một trung tâm chính trị - kinh tế, văn hoá lớn nhất và tiêu biểu cho cả nước. [B][COLOR="Blue"]3. Thăng Long thời Trần (1226 - 1400)[/COLOR][/B] Sau 215 năm cầm quyền, triều Lý lâm vào tình trạng suy yếu, không giữ được binh quyền. Năm 1226, nhà Trần thay thế nhà Lý chấm dứt tình trạng loạn ly, thiết lập lại trật tự chính trị - xã hội. Nhà Trần có nhiều chính sách thúc đẩy sự phát triển kinh tế, tăng cường sức mạnh quốc phòng. Nhìn tổng thể kiến trúc cung đình Thăng Long thời Trần không bề thế như thời Lý. Quy mô kinh thành Thăng Long cơ bản vẫn giữ ranh giới cũ. Năm 1230, nhà Trần sửa chữa thành Đại La và các cung thất, hoạch định lại các đơn vị hành chính; năm 1243 đắp lại Cấm thành. Năm 1253 tu sửa lại Quốc Tử Giám, lập Viện Quốc học, Viện Quốc sử, Giảng Võ đường đào tạo nhiều văn quan, võ tướng tài năng. Nho học được coi trọng và phát triển, chế độ khoa cử được tổ chức chặt chẽ. Từ năm 1247, nhà Trần đặt thêm học vị Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn (Tam khôi). Thăng Long thời Trần thu hút nhiều nhân tài từ các nơi về học tập. Khoa học quân sự thời Trần là yếu tố cấu thành văn hóa Đại Việt, tạo nên hào khí Đông A. Kinh đô Thăng Long được quy hoạch lại thành 61 phường với số dân đông đúc hơn, tập trung trong khu vực dân sự, Thăng Long ngày càng rõ nét một thành thị với sự phát triển nhanh của phố, chợ, làng nghề thủ công. Nhà Trần có chính sách ngoại giao thông thoáng nhiều khách buôn nước ngoài đã đến đây làm ăn, sinh sống hoặc cư trú chính trị, như: người Hoa, người Hồi Hột, người Java… Kinh đô Thăng Long thời Trần là thành phố mở, hội tụ tinh hoa văn hoá của nhiều nước trên thế giới. Thời Lý và thời Trần nước Đại Việt nổi tiếng với 4 công trình nghệ thuật “An Nam tứ đại khí” làm bằng đồng: chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh, tượng Quỳnh Lâm và đỉnh tháp Báo Thiên. Trong vòng 30 năm (1258 – 1288), đế chế Mông Cổ ba lần đem quân đánh chiếm Thăng Long. Quân dân ta đều chủ động, khôn khéo rút lui chiến lược khỏi kinh thành để bảo toàn lực lượng, sau đó bao vây, phản công quét sạch quân xâm lược. Thăng Long góp phần cùng nhân dân cả nước lập nên chiến công vĩ đại, ba lần đại thắng quân Nguyên – Mông. Nền văn minh Đại Việt, hào khí Thăng Long, hào khí Đông A tỏa sáng, Thăng Long xứng đáng là kinh đô anh hùng của đất nước anh hùng. [B][COLOR="Blue"]4. Thăng Long thời Lê, thời Mạc, Lê Trung hưng (1428 – 1788)[/COLOR][/B] Nhà Trần trị vì được 175 năm thì lâm vào suy thoái. Hồ Quý Ly đại thần nhà Trần thâu tóm quyền lực. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho xây dựng Tây Đô ở Thanh Hóa, đổi tên Thăng Long thành Đông Đô, buộc vua Trần dời triều đình vào Tây Đô. Trong 10 năm cuối triều Trần nước ta có hai Đô là Tây Đô và Đông Đô. Tây Đô có triều đình, có vị thế về chính trị nhưng Đông Đô (Thăng Long) vẫn là trung tâm kinh tế lớn nhất của đất nước. Năm 1400, Hồ Quý Ly truất ngôi Trần Thiếu Đế, lên làm vua. Nhà Hồ ở ngôi 7 năm thì phong kiến nhà Minh sang xâm lược, cha con Hồ Quý Ly bị giặc bắt đưa về Trung Quốc. Sau gần 500 năm giành độc lập, đến nhà Hồ, nước ta lại bị phong kiến phương Bắc đô hộ. Năm 1418, Lê Lợi dấy binh khởi nghĩa. Sau chín năm kháng chiến, nghĩa quân Lam Sơn đã giải phóng được các vùng từ Nam đến Bắc. Năm 1426, ba đạo quân Lam Sơn tiến ra bao vây thành Đông Quan, chủ động “vừa đánh vừa đàm”,“vây thành diệt viện”, dập tắt mọi hy vọng của giặc Minh trong thành Đông Quan, buộc Vương Thông phải lên đàn thề từ bỏ dã tâm xâm lược và xin rút quân về nước. Ngày 29/4/1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, khôi phục quốc hiệu Đại Việt, định đô ở Đông Đô. Năm 1430, đổi tên là Đông Kinh. Thời Hậu Lê, kinh thành Thăng Long được quy hoạch và xây dựng theo quy cách đế đô của quốc gia quân chủ tập quyền. Kinh thành được mở rộng sang phía Đông. Trong Cấm thành, một toà thành hình chữ nhật xây gạch với cửa chính là Đoan Môn, nhà Lê xây dựng và bố trí lại nhiều cung điện, lầu gác, thâm nghiêm nhất là điện Kính Thiên xây dựng trên đỉnh núi Nùng. Ngoài Hoàng thành, nhiều kiến trúc mới cũng xuất hiện. Kiến trúc kinh thành thời Lê đạt đến trình độ mực thước, hài hoà. Khu dân sự tiếp tục phát triển và được quy hoạch lại gồm hai huyện Quảng Đức và Vĩnh Xương, mỗi huyện có 18 phường. Đông Kinh lúc này đã có những phố chợ buôn bán tấp nập, nhiều phường thủ công nổi tiếng, như: Nghi Tàm, Thụy Chương dệt vải; Yên Thái làm giấy; Hàng Đào nhuộm điều; tranh Hàng Trống… Năm 1428, Lê Lợi cho lập nhà Quốc Tử Giám. Năm 1442, mở khoa thi Hội đầu tiên, long trọng tổ chức lễ xướng danh, treo bảng vàng, ban mũ áo cho người trúng tuyển, khuyến khích học hành. Nước Đại Việt dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497) đã đạt tới đỉnh cao của một quốc gia phong kiến độc lập. Tuy nhiên, những mâu thuẫn trong nội bộ triều Lê Sơ, từ đầu thế kỷ XVI, đã dẫn tới sự phế truất vua Lê của tập đoàn phong kiến Mạc Đăng Dung (1572). Năm 1588, nhà Mạc huy động dân đắp 3 lần luỹ đất để tăng cường hệ thống phòng thủ kinh thành. Nhưng chỉ 4 năm sau, dưới danh nghĩa phù Lê, họ Trịnh chiếm được kinh thành. Kinh đô chính thức trở lại tên gọi Thăng Long. Triều đình của vua Lê đóng trong Hoàng thành cũ. Phủ Chúa Trịnh được xây bên ngoài, gồm nhiều cung điện nguy nga, chạy dài theo bờ tây Hồ Gươm. Tuy có những biến động về chính trị, nhưng thời Lê, Mạc, Lê Trung hưng, Thăng Long vẫn là một thành thị - thương cảng sầm uất nhất cả nước và vào loại lớn ở Châu Á. Bên cạnh các thương điếm của người Hoa, còn có cả những thương điếm của người Anh, Hà Lan, Đức. Khu vực dân cư trong kinh thành Thăng Long đông đúc hơn trước và có cả nhà hai tầng. Nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật, đặc biệt là về tôn giáo đã được xây dựng thêm. [B][COLOR="Blue"]5. Thăng Long- Hà Nội thời Tây Sơn (1788 - 1802)[/COLOR][/B] Cuối năm 1788, Kinh đô và đất nước Đại Việt lại phải đương đầu với cuộc xâm lược của đế chế Mãn Thanh. Từ Phú Xuân (Huế), vua Quang Trung thống lĩnh đại quân Tây Sơn tiến ra Bắc, giải phóng Thăng Long. Giặc tan, vua Quang Trung về đóng đô ở Huế. Thăng Long là thủ phủ của Bắc Thành. Hoàng thành Thăng Long vẫn được nhà Tây Sơn cho tu sửa, đắp lại những đoạn bị sụt đổ. Chùa Kim Liên (Nghi Tàm), chùa Tây Phương (Thạch Thất), tượng Tuyết Sơn và 18 vị La Hán được tu bổ, tôn tạo; nhiều chuông to, đẹp được đúc. Sau chiến thắng vua Quang Trung ra lệnh cho quân sĩ và nhân dân thu gom xác giặc, chôn cất và sai lập đàn chẩn tế, tu sửa chùa Bộc làm nơi quy y cho quân sĩ nhà Thanh; ban Chiếu khuyến nông, khuyến khích nhân dân trở về quê cũ khai khẩn ruộng bỏ hoang, phục hồi sản xuất; ban Chiếu lập học khuyến khích các địa phương mở trường học. Lập Viện Sùng Chính để dịch sách chữ Hán ra chữ Nôm, đưa chữ Nôm lên địa vị chính thức của quốc gia. Lịch sử triều đại Tây Sơn tuy ngắn ngủi, nhưng đã để lại những dấu ấn đậm nét trong trang sử Thăng Long - Hà Nội văn hiến, anh hùng. [B][COLOR="Blue"]6. Thăng Long - Hà Nội thời Nguyễn và Pháp thuộc (1802 - 1945)[/COLOR][/B] Lợi dụng cơ hội vua Quang Trung qua đời (1792), tập đoàn phong kiến Nguyễn Ánh từ miền Nam đánh chiếm Phú Xuân (1801), thăng Long (1802). Kinh đô nhà Nguyễn vẫn đặt ở Phú Xuân, Thăng Long được gọi là Bắc Thành. Hoàng Thành bị phá bỏ, thay vào đó là một toà thành mới hình vuông, xây theo kiểu thành Vô - băng của Pháp. Năm 1831, Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội với tỉnh lỵ là phủ Hoài Đức (thành Thăng Long cũ), Thăng Long được gọi là Hà Nội. Quốc Tử Giám, cơ quan giáo dục cao nhất của đất nước bị dời vào Huế. Tuy không còn là trung tâm chính trị, nhưng Hà Nội lúc đó vẫn là trung tâm kinh tế -văn hoá lớn nhất của cả nước. Cuối thế kỷ XIX, trước những hành động xâm lược của thực dân Pháp, cùng với nhân dân cả nước, Hà Nội đã đứng lên kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Kinh lược sứ Nguyễn Tri Phương và người kế nhiệm là Tổng đốc Hoàng Diệu, nhân dân Hà Nội đã anh dũng chống trả các cuộc tấn công của quân Pháp. Nhưng triều đình nhà Nguyễn nhu nhược đã ký “Hiệp ước hoà bình” (1883), công nhận quyền thống trị của Pháp trên cả nước. Hà Nội trở thành đất “bảo hộ” thuộc Bắc kỳ, đặt dưới quyền cai trị của một viên Thống sứ người Pháp. Tháng 7/1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh lập thành phố Hà Nội, gồm đất đai tỉnh lỵ Hà Nội, đứng đầu là một viên Đốc ký. Chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn của thực dân Pháp làm diện mạo của Hà Nội từ đầu thế kỷ XX có nhiều thay đổi. Các cơ sở hạ tầng được hoàn thành, trước hết là mạng lưới giao thông đường bộ, đường sắt, cầu cống, trong đó có cầu Doumer qua sông Hồng. Thành cổ Hà Nội lại bị phá để xây các “khu nhà binh”, công sở. Điện Kính Thiên cũng bị phá huỷ, thay vào đó là nhà con Rồng hai tầng dùng làm sở chỉ huy pháo binh (1886). Đi đôi với việc hình thành các “khu phố Tây” (nằm trên các đường Đinh Tiên Hoàng, Ngô Quyền, Lý Thái Tổ, Trần Hưng Đạo, Lý Thường Kiệt…ngày nay), một số công trình khác mang phong cách Châu Âu được xây dựng, như: Phủ Toàn quyền, Phủ Thống sứ, Ngân hàng Quốc gia, Nhà hát lớn, Nhà thờ lớn, nhà Bưu điện, trường Viễn Đông Bác Cổ, ga Hà Nội… Mặc dù thực dân Pháp thi hành chính sách đàn áp, khủng bố tàn bạo, phong trào đấu tranh của nhân dân Hà Nội thời Pháp thuộc, đặc biệt là sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (02/1930), lúc âm ỉ, lúc rầm rộ, không bao giờ tắt…Ngày 19/8/1945, thực hiện lệnh khởi nghĩa của Uỷ ban Quân sự Cách mạng Hà Nội, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành đã nhất tề xuống đường đấu tranh giành chính quyền. [B][COLOR="Blue"]7. Hà Nội trong thời đại Hồ Chí Minh [/COLOR][/B] Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, công bố trước toàn thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1946, tại kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất Hà Nội được vinh dự chọn làm Thủ đô của cả nước trong kỷ nguyên mới. Bước vào xây dựng cuộc sống tự do, dân chủ chỉ hơn một năm, nhân dân Thủ đô lại phải đương đầu với một cuộc xâm lược mới của thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quân và dân Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến. Sau tám năm trường kỳ chiến đấu, ngày 10/10/1954, Hà Nội rực rỡ cờ hoa đón chào đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô. Hoà bình lập lại, Hà Nội khẩn trương bước vào công cuộc khôi phục và xây dựng kinh tế. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đã hoàn thành thắng lợi việc tiếp quản, nhanh chóng ổn định tình hình, khẩn trương bắt tay vào khôi phục, cải tạo và xây dựng thành phố. Chỉ hơn một tháng sau giải phóng, thành phố đã thông qua kế hoạch phục hồi công thương nghiệp. Không khí hòa bình xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của thành phố diễn ra sôi động. Một năm sau giải phóng, Hà Nội đã hoàn thành cải cách ruộng đất. Từ năm 1958 đến năm 1960 tiến hành xong cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và hợp tác hoá nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Bộ mặt thành phố đổi mới từng ngày Sau kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1960 - 1965), Thủ đô đã trở thành trung tâm chính trị, văn hoá và kinh tế quan trọng trong cả nước. Giữa năm 1966, giặc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, đánh phá Thủ đô. Tháng 3/1968, đế quốc Mỹ buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra. Ngày 2/9/1969, Bác Hồ từ trần. Nhân dân Thủ đô Hà Nội tỏ rõ niềm tiếc thương vô hạn với vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, ngày 9/9/1969, hơn 10 vạn cán bộ và nhân dân Thủ đô tới Quảng trường Ba Đình cùng nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế dự Lễ truy điệu vĩnh biệt Người với lòng thành kính và biết ơn vô hạn. Tháng 4/1972, Hà Nội trở thành mục tiêu đánh phá lần thứ hai của Mỹ. Cuối năm đó, chỉ trong vòng 12 ngày đêm (18 - 29/12/1972), Mỹ đã trút hàng vạn tấn bom đạn xuống địa bàn Hà Nội. Thể hiện bản lĩnh là “Thủ đô của phẩm giá con người”, quân dân Hà Nội đã lập nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, đánh sập “uy thế không lực Hoa Kỳ”. Trong hai cuộc chống chiến tranh phá hoại bằng đường không của đế quốc Mỹ trên miền Bắc, 358 máy bay các loại của Mỹ trong đó có 23 chiếc pháo đài bay B52, 2 chiếc F111 bị tan xác trên bầu trời Hà Nội; 83 máy bay trong đó có 1 máy bay B52 và 2 máy bay F.111 bị tan xác trên bầu trời Hà Tây. Quân và dân Thủ đô Hà Nội đã góp phần quyết định buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris (01/1973), rút hết quân Mỹ và chư hầu về nước. Đúng một năm chín tháng sau, ngày 30/9/1974, tại Tổng hành dinh đóng trong Thành cổ Hà Nội, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương duyệt kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Với sự chi viện hết lòng và toàn diện của quân dân Hà Nội và miền Bắc, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (30/4/1975) đã toàn thắng. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, Bắc - Nam thống nhất. Tháng 4/1976, Hà Nội được Quốc hội chung của cả nước quyết định là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thực hiện Di chúc của Bác Hồ, Đảng bộ và nhân dân Hà Nội quyết tâm xây dựng Thủ đô “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Hà Nội dấy lên nhiều phong trào thi đua yêu nước tiêu biểu như: phong trào bốn đổi mới trong công nghiệp, áp dụng khoán trong nông nghiệp, xử lý giá, lương, tiền trong lưu thông phân phối; tập trung quy hoạch phát triển đô thị - giao thông nội đô thống nhất; cải tạo lại mạng lưới điện hạ thế và cấp nước sạch; cải thiện nhà ở, giao thông và chiếu sáng đô thị. Các công trình lớn như sân bay Nội Bài, cầu Thăng Long, cầu Đuống, cầu Chương Dương, đường 6 (đoạn Hà Nội - Hà Đông) và nhiều khu nhà cao tầng ở khu Bắc Thanh Xuân, Kim Giang, Đại học Bách Khoa, tập thể Quỳnh Lôi được xây dựng và đưa vào sử dụng. Một số ngành công nghiệp điện tử, công nghiệp chế biến thực phẩm, cơ khí nông nghiệp, hóa chất, chế tạo máy đã được hình thành. Ngành nông nghiệp Thủ đô áp dụng tốt các kỹ thuật thâm canh, tăng vụ, hình thành nhiều vùng chuyên canh rau ở các huyện Từ Liêm, Đông Anh, Thanh Trì. Kinh tế đối ngoại bắt đầu hình thành. Với những bước đi quan trọng đó, lần đầu tiên trong kế hoạch 5 năm (1991 – 1995), nhiều mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội đã đạt và vượt toàn diện, nhiều mục tiêu đạt và hoàn thành trước thời hạn. Kinh tế Thủ đô liên tục tăng trưởng ở mức cao, điều đáng kể là bước đầu kinh tế Thủ đô đã có tích lũy. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hình thành cơ cấu kinh tế mới theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Giai đoạn 1996 – 2000, thành phố đã tập trung nguồn lực phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất, thương mại, dịch vụ then chốt. Những chủ trương và giải pháp quan trọng đó đã tạo sự phát triển kinh tế - xã hội toàn diện của Hà Nội, góp phần đáng kể cho việc động viên nguồn thu ngân sách Nhà nước. So với cả nước: năm 1990 thu ngân sách địa bàn Hà Nội đạt 9,2%, năm 2000 đạt 16,3%. Năm 2000, Hà Nội chiếm 3,6% về dân số và 2,8% diện tích lãnh thổ quốc gia nhưng đã đóng góp với cả nước 7,8% GDP. Đời sống nhân dân có nhiều cải thiện. Bộ mặt của Thủ đô có nhiều thay đổi, vị thế của Thủ đô được nâng lên. Một vinh dự lớn đối với Thủ đô Hà Nội, năm 1999 được tổ chức UNESCO của Liên Hợp quốc trao tặng danh hiệu vẻ vang “Thành phố vì hòa bình” và lấy làm nơi phát động “Năm quốc tế hòa bình – 2000”. Năm 2000, Hà Nội được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu Thủ đô Anh hùng. Thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2000 – 2010), về kinh tế, thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, Hà Nội tập trung trí tuệ đẩy nhanh tiến độ sắp xếp cổ phần hóa vững chắc doanh nghiệp Nhà nước; đổi mới công nghệ, thiết bị và mô hình quản lý; tích cực thu hút vốn đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cấp hạ tầng đô thị. Những năm đầu của thế kỷ XXI, bộ mặt Thủ đô đổi thay nhanh chóng, Hà Nội đã mở ra 4 hướng với những khu công nghiệp hiện đại như: Sài Đồng A, Sài Đồng B, Bắc Thăng Long, Chèm, Mễ Trì, Thượng Đình, Thanh Trì, Cầu Bươu, Cầu Diễn, Nghĩa Đô, Đông Anh, Sóc Sơn…phát triển công nghiệp Hà Nội gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và công nghiệp của tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh thực hiện thành công bước đi ban đầu chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hà Nội trở thành trung tâm du lịch của cả nước, chất lượng dịch vụ du lịch từng bước được nâng cao. Thủ đô Hà Nội tích cực đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới theo hướng văn hóa sinh thái. Cùng với phát triển kinh tế, Hà Nội tiếp tục đạt nhiều thành tựu nổi bật trong sự nghiệp phát triển văn hóa - xã hội và con người, tạo nên sức mạnh và độ bền vững của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô. Những năm đầu thế kỷ XXI, Hà Nội đổi thay từng ngày. Không gian Hà Nội được phân thành các vùng rõ nét. Khu vực trung tâm được bao quanh bằng các đường La Thành – đường Láng - Trường Chinh - Đại La - Minh Khai và dọc hữu ngạn sông Hồng. Khu phát triển mở rộng, được quy hoạch theo hữu ngạn và tả ngạn sông Hồng. Trong đó hữu ngạn gồm khu vực phía Nam cầu Thăng Long, dọc quốc lộ 32. Ở đây, có khu công nghiệp Cầu Diễn, khu công nghệ cao Nam Thăng Long, khu đô thị Ciputra, các khu dân cư tập trung Mai Dịch, Nghĩa Đô, Cầu Diễn, Tây sông Nhuệ, khu dân cư theo quốc lộ 6 và vành đai 3. Các khu công nghiệp Thượng Đình, công viên mới Mễ Trì, khu trung tâm Thể thao quốc gia, khu đô thị mới Trung Yên, Yên Hòa, Thanh Xuân. Khu công nghiệp Xuân Mai, Định Công, Linh Đàm, Cầu Bươu, Mai Động. Khu Bắc cầu Thăng Long; khu thị trấn Gia Lâm – Sài Đồng – Đức Giang – Yên Viên; khu dọc đường quốc lộ 3. Việc cải tạo, xây dựng Thủ đô thành một đô thị văn minh, hiện đại, xứng đáng với tầm vóc của một Quốc gia khoảng trên một trăm triệu dân, trong thế kỷ XXI là một yêu cầu cần thiết. Quốc hội đã có Nghị quyết số 15-2008/QH12 về mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 260/CT-TTg, ngày 4 tháng 3 năm 2008 về việc tổ chức thực hiện chủ trương mở rộng địa giới hành chính thủ đô Hà Nội. Theo đó, Hà Nội mở rộng bao gồm toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình. Sau khi hợp nhất, mở rộng Hà Nội có diện tích 3.340 km2 với gần 6,5 triệu dân, 29 đơn vị huyện, quận; 577 xã, phường, thị trấn; 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao sinh sống. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội đặt mục tiêu sau năm 2010 xây dựng Thủ đô Hà Nội hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc tương xứng với truyền thống ngàn năm văn hiến. Hướng phát triển của thành phố Hà Nội về phía Tây, hình thành chuỗi đô thị Miếu Môn - Xuân Mai - Hòa Lạc - Sơn Tây; phía Bắc là cụm đô thị Sóc Sơn - Xuân Hòa - Đại Lải - Phúc Yên (tỉnh Vĩnh Phúc) và các đô thị khác. Điều chỉnh xây dựng thêm các khu công nghiệp tập trung mới như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn, Thăng Long, Đông Anh, mở rộng khu công nghiệp Đức Giang, Cầu Diễn, Cầu Bươu. Các hệ thống công viên, khu cây xanh, vui chơi, giải trí, khu du lịch các công trình công cộng… được rà soát, quy hoạch, đảm bảo môi trường sống ngày càng văn minh, hiện đại. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội luôn là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, là nơi kết tinh tinh hoa của dân tộc, hội tụ nhân tài của đất nước. Đảng bộ và nhân dân Hà Nội coi trọng việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể, kết hợp hài hoà trong quy hoạch và xây dựng đô thị, phát huy cao độ truyền thống Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến, đoàn kết xây dựng Hà Nội là “Thủ đô xanh, văn hiến – văn minh và hiện đại”, phát huy tốt vai trò là trung tâm lớn về văn hóa, khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, kinh tế và giao dịch quốc tế. Nguồn: Ban tuyên giáo Trung ương [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HÓA
Văn hóa Việt Nam
Chuyên đề : Lịch sử Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội
Top