Trang Dimple

New member
Xu
38
Để xác định đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng đã dũng cảm vượt lên những khuôn mẫu giáo điều, trải qua một cuộc đấu tranh lâu dài, có lúc rất gay gắt, từng bước vượt qua những khó khăn về vận dụng lý luận và nhận thức thực tiễn nhằm xác định chính xác kẻ thù, nhiệm vụ chiến lược, đề ra chủ trương tập hợp lực lượng đúng đắn và phương pháp cách mạng khoa học, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể ở một nước thuộc địa.

Chủ trương đấu tranh của Đảng trong thời kì cách mạng 1930- 1945

I. Thời kì 1930 – 1935
1. Hoàn cảnh:

– Tháng 4/1930, Trần Phủ về nước hoạt động, được bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, cùng Ban Thường vụ chuẩn bị cho Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương.
– Từ ngày 14 – 31/10/1930, Ban chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương cảng, Trung Quốc do Trần Phủ chủ trì. Hội nghị thống nhất
– Đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
– Thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phủ soạn thảo.
– Cử Trần Phủ làm Tổng Bí thư.


2. Nội dung Luận cương chính trị:
– Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền… Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục phát triển bỏ qua thời kỳ tư bản mà đấu tranh thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
– Nhiệm vụ cách mạng: Xoá bỏ tàn tích phong kiến và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ khăng khít với nhau.
– Lực lượng cách mạng: Vô sản và nông dân là lực lượng chính, trong đó vô sản lãnh đạo cách mạng. Phủ nhận vai trò của tư sản, tiểu tư sản, địa chủ và phú nông.


– Vai trò của Đảng: điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản.
– Phương pháp cách mạng: Vũ trang bạo động, theo khuôn phép nhà bình.
– Quan hệ quốc tế: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới vì thế giai cấp vô sản Đông Dương phải gắn bó với giai cấp vô sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp. Liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa.


3. Ý nghĩa của Luận cương:
– Luận cương đã vạch ra được nhiều vấn đề căn bản của cách mạng Việt Nam mà Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu ra, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế:
Luận cương không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và để quốc Pháp.
– Không đặt nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
– Chưa đánh giá đúng vai trò cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tư sản dân tộc mà cường điệu hoá những hạn chế của họ.


* Nguyên nhân của hạn chế:
– Do những người lãnh đạo nhận thức máy móc, giáo điều về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong xã hội thuộc địa nửa phong kiến Việt Nam.
– Không nắm được đầy đủ đặc điểm tình hình xã hội và giai cấp ở Việt Nam.
– Chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi khuynh hướng tả trong Quốc tế Cộng sản.


II. Thời kì 1936 – 1939
1. Hoàn cảnh lịch sử

a)Tình hình thế giới:
– Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 đã làm cho mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản thêm gay gắt và phong trào cách mạng của quần chúng dâng cao.
– Một số nước đi vào con đường phát xít hoá: dùng bạo lực để đàn áp phong trào đấu tranh trong nước và ráo riết chạy đua vũ trang phát động chiến tranh thế giới mới. Chủ nghĩa phát xít thắng thế ở Đức, y, Nhật, chúng liên kết với nhau lập ra phe Trục, tuyên bố chống Quốc tế Cộng sản và phát động chiến tranh chia lại thế giới. Nguy cơ phát xít và chiến tranh thế giới đe dọa nghiêm trọng nền hoà bình và an ninh quốc tế.
– Đại hội VII Quốc tế Cộng sản họp tại Matxcơva (7/1935) xác định:
– Kẻ thù nguy hiểm trước mắt của nhân dân thế giới chưa phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít.


– Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thế giới chưa phải là đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, giành chính quyền mà là chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống.
– Đối với các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, vấn đề lập Mặt trận thống nhất chống để quốc có tầm quan trọng đặc biệt.
b) Tình hình trong nước:
– Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống của mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Trong khi đó, bọn cầm quyền phản động ở Đông Dương ra sức vơ vét, bóc lột và khủng bố phong trào đấu tranh của nhân dân làm cho bầu không khí chính trị trở nên ngột ngạt, yêu cầu có những cải cách dân chủ.


2. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
– Tháng 7/1936, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ hai tại Thượng Hải. Xuất phát từ tình hình thực tế Hội nghị đã xác định:
Mục tiêu chiến lược: không thay đổi so với Hội nghị lần thứ nhất- cách mạng tư sản dân quyền – phân để và điền địa – lập chính quyền công nông bằng hình thức Xô viết, đề dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.
– Kẻ thù trước mắt và nguy hại nhất là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
– Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Để thực hiện được nhiệm vụ này, Ban Chấp hành quyết định lập Mặt trận nhân dân phân để gồm các giai cấp, đảng phải các đoàn thể chính trị và các tôn giáo khác nhau, các dân tộc xứ Đông Dương cũng đấu tranh đòi những quyền dân chủ đơn sơ.


Về đoàn kết quốc tế: Đoàn kết với giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Pháp, ủng hộ Mặt trận Nhân dân Pháp, ủng hộ Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp để cùng chống kẻ thù chung là phát xít và phân động thuộc địa ở Đông Dương.
Về hình thức tổ chức và biên pháp đấu tranh: Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật không hợp pháp sang hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, nửa công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp. Mục đích mở rộng quan hệ của Đảng với quần chúng.
– Tóm lại, trong những năm 1936 – 1939, bám sát tình hình thực tiễn, Đảng đã phát động được một cao trào cách mạng rộng lớn trên tất cả các mặt trận: chính trị, kinh tế, văn hoá tư tưởng với các hình thức đấu tranh phong phủ và linh hoạt. Qua cuộc vận động dân chủ rộng lớn, uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở rộng và nâng cao trong quần chúng, chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối của Đảng được tuyên truyền rộng rãi trong khắp mọi tầng lớp nhân dân, tổ chức Đảng được củng cố và mở rộng.


III. Thời kì 1939 – 1945
1. Chủ trương chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:

– Chiến tranh thế giới lần thứ 2 bùng nổ (1/9/1939) tác động sâu sắc đến tình hình chính trị thế giới. Để phục vụ cho chiến tranh, thực dân Pháp thực hiện nhiều chính sách cực kỳ phản động, giải tán Đảng Cộng sản ở Pháp, ở Đông Dương, chúng thực thi chính sách cai trị tàn bạo, điên cuồng tấn công nhằm tiêu diệt Đảng Cộng sản và các đoàn thể do Đảng lãnh đạo, thực hiện chính sách khủng bố, ban bố lệnh tổng động viên, ra sức bắt người, cướp của tại chỗ phục vụ cuộc chiến tranh để quốc của chúng.

– Trong tình hình đó, Đảng ta lần lượt triệu tập các Hội nghị: Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939); Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (1/1941) và Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941).Trong ba Hội nghị Trung ương đó, Đảng không có sự thay đổi chiến lược cách mạng, mà dựa trên cơ sở nắm vững sự biến đổi của tình hình thế giới và Đông Dương. Chủ trương của Đảng trong ba Hội nghị Trung ương 6,7,8 là sự nối tiếp, phát triển chiến lược cách mạng của Đảng ở thời kỳ mới, thể hiện tư duy mới về chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, tập trung trong mấy vấn đề cơ bản:
– Đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hết thảy.


– Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ, phong kiện mà thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc việt gian.
– Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng, ở Việt Nam là Việt Nam độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh.
– Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của toàn Đảng toàn dân.
– Hình thái khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa. Duy trì đội du kích Bắc Sơn tiến tới thành lập căn cứ địa du kích Bắc Sơn – Vũ Nhai.


2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa tháng Tám giành chính quyền
a) Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần
* Nhật đảo chính Pháp:
– Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thúc. Hồng quân Liên Xô tiến như vũ bão về phía sào huyệt của phát xít Đức và chúng sắp bị tiêu diệt.
– ở Thái Bình Dương, quân Nhật bị đẩy lùi khỏi Miama và Philipin. Phát -xít Nhật ở vào tình thế khốn quẫn, chuyển sang phòng ngự và bị thất bại liên tiếp.
– ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ-gôn đang chờ quân Đồng minh vào để nổi dậy đánh Nhật. Mâu thuẫn giữa Nhật – Pháp trở nên gay gắt. Để phòng hậu họa, 8 giờ tới 9/3/1945, Nhật làm cuộc đảo chính lật đổ Pháp. Trong thời gian ngắn, quân Pháp tan rã và đầu hàng. Sự câu kết Nhật – Pháp chấm dứt.
– Sau đảo chính, chính sách cai trị Đông Dương của Nhật vẫn không có gì thay đổi. Nhật giữ nguyên bộ máy cai trị của Pháp ở Đông Dương để phục vụ chúng.


* Chỉ thị Nhật — Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (12 /3 /1945)
– Ngay đêm 9/3/1945, Hội nghị mở rộng của Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Định Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Nghị quyết của Hội nghị thể hiện trong bản Chỉ th Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta ra ngày 12/3/1945. Chỉ th có nội dung như sau


+ Chỉ thị vạch rõ bản chất hành động của phát xít Nhật là đảo chính chứ không phải là cuộc cách mạng và chỉ ra nguyên nhân của cuộc chính biến: Hai tên đế quốc không thể ăn chung một miếng mồi béo Đông Dương; Trung Quốc, Mỹ sắp đánh vào Đông Dương, Nhật phải trừ Pháp để tránh tai họa Pháp đánh sau lưng khi quân đồng minh đổ bộ; sống chết Nhật phải giữ đường nối các thuộc địa miền Nam Dương á với Nhật vi đường thuỷ của Nhật đã bị cắt đứt.
+ Hội nghị nhận định: Đảo chính Nhật – Pháp dẫn đến khủng hoảng chính trị sâu sắc ở Đông Dương, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thực chín muồi, nhưng sẽ đi đến chín muồi nhanh chóng.
+ Xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của cách mạng Đông Dương lúc này là phát xít Nhật
+ Về khẩu hiệu đấu tranh: Thay đổi khẩu hiệu đấu tranh cho phù hợp, thay khẩu hiệu Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp bằng khẩu hiệu Đánh đuổi phát xít Nhật. Đồng thời, nêu ra khẩu hiệu: Thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đông Dương.


+ Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước, để làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa. Hội nghị xác định lúc này là thời kỳ tiền khởi nghĩa, nên phải có những hình thức đấu tranh, tuyên truyền cho thích hợp (như đẩy mạnh tuyên truyền vũ trang, biểu tình, tuần hành, bãi công chính trị, phá kho thóc của Nhật để cứu đói, thành lập căn cứ cách mạng… sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện).
+ Phương châm đấu tranh: Tiến hành khởi nghĩa từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa.
+ Dự đoán thời cơ khởi nghĩa: quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật chống đỡ, phía sau sơ hở; cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật ra đời; Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940, quân đội viễn chình Nhật hoang mạng, mất tinh thần.
– Chỉ thị xác định không được trông chờ và ý lại vào bên ngoài, phải dựa vào sức mình là chính.


* Ý nghĩa của chỉ thị:
– Chỉ thị đã làm rõ hơn về tình thế và thời cơ cách mạng. Đảng đã kịp thời phát động cao trào kháng Nhật cứu nước rộng khắp trên cả nước phân tích những điều kiện cụ thể để khởi nghĩa có thể nổ ra và giành thắng lợi; đặt ra cho các Đảng bộ địa phương tinh thần chủ động sáng tạo trong lãnh đạo khởi nghĩa ở địa phương mình khi ở đó những điều kiện khởi nghĩa đã chín muồi. Chỉ thị thể hiện sự nhận định sáng suốt, có những chủ trương kiên quyết, kp thời của Đảng ta, nhờ đó dấy lên một cao trào cách mạng, thúc đẩy tình thế cách mạng mau chóng chín muồi.


– Là kim chỉ nam cho hành động của toàn Đảng, toàn dân. Trên thực tế, khi Nhật đầu hàng, khi chưa nhận được lệnh của Trung ương, nhiều địa phương đã căn cứ vào Chỉ thị, chủ động, sáng tạo, mau lẹ và kịp thời khởi nghĩa vũ trang từng phần, tiến tới Tổng khởi nghĩa.

3. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa
a) Hội nghị Tân trào (13/9/1945) và Đại hội quốc dân Tân trào (161911945)

* Hội nghị Tân Trào chủ trương:
– Lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay quân Nhật, xác định:
– Thời cơ cách mạng xuất hiện, nhưng chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh đển trưóc khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Đó là lúc so sánh lực lượng có lợi nhất cho cách mạng Việt Nam.
– Nguyên tắc chỉ đạo Tổng khởi nghĩa: Thống nhất, tập trung, kp thời; phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành phô hay nông thôn; quân sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch trước khi đánh.
– Cử ủy ban khởi nghĩa toàn quốc do đồng chí Trường Chinh làm trưởng ban.


* Đại hội quốc dân:
– Nhiệt liệt ủng hộ chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh
– Quyết định lập Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam tức Chính phủ lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, sẵn sàng tiếp quản, lãnh đạo đất nước khi cách mạng thắng lợi, tránh không để xuất hiện một khoảng trống quyền lực.


b) Tiến hành thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945
* Khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền bộ phận
– Từ giữa tháng 3/1945 trở đi, Cao trào kháng Nhật cứu nước đã diễn ra rất sôi nổi, mạnh mẽ và phong phú cả về nội dung và hình thức.
– Phong trào đấu tranh vũ trang, khởi nghĩa từng phần đã diễn ra trong nhiều nơi ở vùng thượng du và trung du Bắc Kỳ. Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng nhân dân giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện thuộc các tỉnh Cao BẰng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang.


– ở Bắc Giang, quần chúng nổi dậy thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng ở
nhiều làng. Đội du kích Bắc Giang được thành lập. ở Quảng Ngãi, cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Ba Tơ. Đội du kích Ba Tơ được thành lập,
– Ngày 15/4/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hoà (Bắc Giang), quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang sẵn có thành Việt Nam giải phóng quân; quyết định xây dựng bảy chiến khu trong cả nước và chủ trương phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang
– Trong tháng 5, 6/1945, các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục nổ ra và nhiều
chiến khu được thành lập ở cả ba miền, ở khu giải phóng và một số địa phương, chính quyền nhân dân đã hình thành, tồn tại song song với chính quyền tay sai của phát xít Nhật.
– Ngày 4/6/1945, khu giải phóng chính thức được thành lập gồm hầu hết các tỉnh Cao BẰng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang và một số vùng lân cận thuộc tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên.


– Giữa lúc phong trào quần chúng trong cả nước đang phát triển mạnh mẽ ở cả nông thôn và thành th, nạn đói đã diễn ra nghiêm trọng do Nhật, Pháp đã vơ vét hàng triệu tấn lúa gạo của nhân dân. Xuất phát từ lợi ích sống còn trước mắt của quần chúng, Đảng kp thời đề ra khẩu hiệu Phá kho thóc, giải quyết nạn đói, đáp ứng đúng nguyện vọng cấp bách của nhân dân ta, động viên được hàng triệu quần chúng tiến lên trận tuyến cách mạng.

*Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám thắng lợi
– Từ ngày 14/8 đến ngày 18/8/1945, khởi nghĩa giành chính quyền diễn ra và giành thắng lợi ở hầu hết các tỉnh lỵ trong cả nước (miền Bắc, miền Trung, Quảng Nam và Khánh Hoà).
– Ngày 19/8, Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội đã làm chính quyền tay sai Nhật các nơi bị tê liệt, cổ vũ các thành phố khác nổi dậy giành chính quyền.
– Từ ngày 25/8 đến ngày 28/8, Tổng khởi nghĩa diễn ra ở những vùng miền còn lại, kết thúc với tỉnh CUỐI cùng là Hà Tiến. Cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đã thành công trên cả nước trong vòng nửa tháng.
– Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trình trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.


4. Cách mạng tháng Tám năm 1945 – Một cuộc cách mạng bạo lực
– Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là một cuộc cách mạng dân tộc dân chủ kiểu mới. Nó có nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị thực dân phong kiến, giành độc lập cho Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho nhân dân, đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
– Trải qua 80 năm đô hộ nước ta của thực dân Pháp và gần 5 năm của phát xít Nhật, nhân dân ta đã tổ chức hàng chục cuộc khởi nghĩa vũ trang và hàng trăm, hàng nghìn cuộc đấu tranh lớn nhỏ để đòi các quyền dân tộc, dân chủ và dân sinh đã bị dìm trong máu. Lấy bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực của kẻ xâm lược.


Đảng ta hiểu bạo lực cách mạng không chỉ là bạo lực vũ trang mà còn có bạo lực chính trị. Đấu tranh vũ trang kết hợp chặt chẽ với đấu tranh chính trị được coi như một quy luật, trong đó đấu tranh chính trị là gốc, làm nền cho đấu tranh vũ trang, và đấu tranh vũ trang đến lượt nó sẽ làm chỗ dựa vững chắc và thúc đẩy đấu tranh chính trị đến cao trào, tiến tới một cuộc tổng khởi nghĩa toàn diện.
– Từ Cao trào kháng Nhật cứu nước được phát động ngay sau khi Nhật đảo chính Pháp vào đêm 9/3/1945, nước ta ngày càng tiến lên trong thế sục sôi cách mạng, chuẩn bị lực lượng cho thời cơ lớn. Một vùng căn cứ địa gồm 6 tỉnh Cao – Bắc – Lạng, Thái – Tuyên – Hà đã hình thành và ngày thêm mở rộng. Một đội quân giải phóng đã ra đời. Đồng thời, khắp cả nước, cũng đã thành lập nhiều khu du kích nhỏ khác như Ba Tơ ở Quảng Ngãi và nhiều đội tự vệ vũ trang của quần chúng. Đặc biệt, khi Mặt trận Việt Minh ra đời và hoạt động đã tập hợp được các đoàn thể cứu quốc trong Mặt trận, cách mạng nước ta đã tập hợp được một đội quân chính trị gồm hàng chục vạn, hàng triệu người sẵn sàng nổi dậy giành chính quyền.
– Bên cạnh khu căn cứ địa Việt Bắc, còn có một khu căn cứ địa bí mật khác ở sát trung tâm chỉ huy của địch ở Hà Nội, Phúc Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang.


– Khi Cao trào kháng Nhật cứu nước bùng nổ đã tạo nên tình thế cách mạng của ta trước Tổng khởi nghĩa tháng Tám. Chính trong tình thế đó, mà đêm 13/8/1945, ngay sau khi được tin phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, ủy ban khởi nghĩa do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã ra Quân lệnh số 1. Cùng lúc đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Lúc đó, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã xác định thời cơ cách mạng đã đến, nên đã phát động toàn dân đứng lên Tổng khởi giành chính quyền trong cả nước. Cuộc Tổng khởi nghĩa bắt đầu từ ngày 14/8/1945 đến ngày 18/8/1945, nhân dân ta giành được chính quyền ở các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tinh, Quảng Nam.

– Chiều ngày 16/8/1945, đội Việt Nam Giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy, kéo từ Tân Trào về giải phóng th xã Thái Nguyên. Đây là cuộc đấu tranh vũ trang đầu tiên trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
– Đến ngày l9/8/1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Hà Nội; 23/8/1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế và 25/8/1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn. Khắp nông thôn và thành th, rợp bóng sao vàng cờ đỏ. Bốn vạn quân Nhật hoang mang đến cực độ. Chính phủ bù nhìn tay sai thi bơ vơ rồi ngày 30/8/1945, Vua Bảo Đại bằng lòng trao ấn kiếm, thoái v để làm dân một nước độc lập hơn là làm vua một nước ô lệ. Cách mạng Tháng Tám đã diễn ra cơ bản là ít đổ máu. sở dĩ ít đổ máu là vi, Cách mạng tháng Tám nổ ra trong điều kiện khách quan thuận lợi, đó là kẻ thù ta định đánh, được Đồng minh đánh thay. Và, ít đổ máu, không có nghĩa là ta không dùng bạo lực cách mạng. Bạo lực cách mạng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh chính trị của quần chúng và đấu tranh vũ trang.


– Vấn đề bạo lực cách mạng được Đảng ta rút ra được những bài học từ thất bại của những cuộc khởi nghĩa trước đây, Đảng ta đã có chủ trương kết hợp đúng đắn sức mạnh quân sự với sức mạnh chính trị, xây dựng lực lượng vũ trang và các khu căn cứ địa, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân trong Mặt trận Việt Minh và các đoàn thể cứu quốc. Nhờ đó, khi thời cơ cách mạng đến, Đảng ta và Hồ Chí Minh chủ trương nhanh chóng chớp thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa. Do đó, cách mạng nổ ra và thành công một cách nhanh chóng và ít đổ máu.

5. Cao trào kháng Nhật cứu nước đã tạo tiền đề thúc đẩy thời cơ Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám nhanh chóng chín muồi
– Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là cuộc Tổng khởi nghĩa mang hình thái đi từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, khi thời cơ đến, tiến lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
– Vào đêm 9/3/1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp và quyết định phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho Tổng khởi nghĩa và sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra Chỉ th: Nhật — Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Thực hiện Chỉ th của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, cao trào kháng Nhật cứu nước phát triển mạnh mẽ. Cao trào kháng Nhật kéo dài từ đầu tháng 3/1945 đến trước tháng 8/1945. Qua cao trào kháng Nhật cứu nước, nhân dân ta đã lần lượt giành chính quyền ở các địa phương (kể ra).


– Cao trào kháng Nhật cứu nước Đảng ta đã phát triển lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang; đồng thời, tăng cường thống nhất về tư tưởng và hành động nhằm tạo sự chuyển biến để tiến tới Tổng khởi nghĩa.
– Cao trào kháng Nhật cứu nước, Đảng rèn luyện khả năng tổ chức quần chúng. Quần chúng được tôi luyện và thử thách, do vậy khi bước vào Tổng khởi nghĩa với tư thế chủ động và vững tin vào thắng lợi. Qua cao trào, ở nhiều địa phương đã thành lập được chính quyền cách mạng của nhân dân, thành các hội cứu quốc.
– Cao trào kháng Nhật đã quần chúng đã được chuẩn bị về tư tưởng và tố chức chỉ chò thời cơ đển là tống khởi nghĩa.
=> Như vậy, cao trào kháng Nhật cứu nước đã hoàn thành giai đoạn khởi nghĩa từng phần ở từng địa phương. Đây được coi là thời kỳ tiền khởi nghĩa để tiến đến tổng khởi nghĩa. Vì cao trào kháng Nhật cứu nước đã tạo ra thời cơ chủ quan thuận lợi và có tính chất quyết định đến thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945.


6. Những nét độc đáo trong Cách mạng tháng Tám năm 1945
– Nét độc đáo trong Cách mạng tháng Tám được thể hiện qua hai đặc điểm:
+ Thứ nhất, về hình thái giành chính quyền: đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa.
+ Thứ hai, về phương thức giành chính quyền: kết hợp giữa khởi nghĩa thành th và nông thôn; kết hợp đấu tranh chính trị với khởi nghĩa vũ trang; sử dụng nhuần nhuyễn bạo lực cách mạng.
+ Thứ ba, kết hợp giữa thời cơ chủ quan và khách quan, trong đó thời cơ chủ quan đóng vai trò quyết định, thời cơ khách quan có tác dụng đưa Cách mạng tháng Tám nhanh chóng giành thắng lợi, ít đổ máu;
+ Thứ tư, Cách mạng tháng Tám chuẩn bị 15 năm, giành thắng lợi chỉ trong 15 ngày.


* về hình thái giành chính quyền: đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên Tổng khởi nghĩa.
– Khởi nghĩa từng phần trong cao trào kháng Nhật cứu nước: Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức, một loạt nước châu Âu được giải phóng.
– ở mặt trận châu Á — Thái Bình Dương, quân Đồng minh giáng cho phát xít Nhật những đòn nặng nề.
– ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phải Đò Gôn ráo riết hoạt đông, chờ thời cơ phân công quân Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật – Pháp trở nên gay gắt.
– Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, quân Pháp mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyên bố giúp các dân tộc Đông Dương xây dựng nền độc lập. Chúng dựng lên Chính phủ Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm Quốc trưởng. Nhật Bản đã hoàn toàn độc chiếm Đông Dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và đàn áp dã man những người cách mạng.


– Trước tình hình đó, ngày 12/3/1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta. Hội nghị quyết định phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa.
– Từ tháng 3/1945, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra với quy mô lớn với nhiều hình thức đấu tranh phong phủ, quyết liệt, thích ứng với thời kì tiền khởi nghĩa.
– ở khu căn cứ địa Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt xã, châu, huyện. Tại những nơi này, chính quyền cách mạng được thành lập, các hội cứu quốc được củng cố và phát triển.


– Ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì, trước thực tế nạn đói đang diễn ra trầm trọng do chính sách cướp bóc của Pháp — Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu Phá kho thóc giải quyết nạn đói. Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của nông dân nên tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.
_ Đồng thời với phong trào này, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên tại nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiến Du (Bắc Ninh, 10/3), BẦn Yên Nhân (Hưng Yên, 11/3)…
– Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng (11/3), tổ chức đội du kích Ba Tơ.
– Đảng viên, cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò (Hà Nội), Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), Hội An (Quảng Nam) đã đấu tranh đòi tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động. Đó là nguồn bổ sung cán bộ quan trọng, là nhân tố thúc đẩy phong trào khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa về sau.


– ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất tại Mĩ Tho và Hậu Giang.
– Tháng 6/1945, khu giải phóng Việt Bắc chính thức được thành lập, gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận như Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Tân Trào được chọn làm Thủ đô Khu giải phóng, ủy ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới.
– Như vậy chính quyền cách mạng ra đời song song và tồn tại với chính quyền địch, là một bước nhảy vọt của cách mạng trong thời kỳ tiền khởi nghĩa, là dấu hiệu báo trước ngày vũ trang toàn quốc tới gần,


– Phát triển thành tổng khởi nghĩa: Sau khi phát xít Đức bị tiêu diệt, Liên Xô tuyên chiến với Nhật, đánh tan đạo quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc. Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống các thành phố Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản. Ngày 9/8/1945, Hội đồng tới cao chiến tranh của Nhật họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pốtxdiam. Ngày 14/8/1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản thông qua quyết định đầu hàng. Ngày 15/8/1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang, lo sợ đến cực điểm. Điều kiện khách quan thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
– Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố Quân lệnh số 1, chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
– Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trà thông qua kế hoạch lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa.


– Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17/8/1945, Đại hội quốc dân ở Tân Trào tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt minh, cử ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
– Từ ngày 14/8/1945, tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng căn cứ
vào tinh hình cụ thế của địa phương và vận dụng chỉ th Nhật — Pháp bắn nhau
và hành đông của chúng ta, một số cấp bố Đảng và Việt Minh đã phát đông tổng
khởi nghĩa và giành được thắng lợi.
– Chiều 16/8/1945, theo lệnh của ủy ban khởi nghĩa, một đơn vị của đội Việt Nam Giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về giải phóng th xã Thái Nguyên.


– Ngày 18/8/1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành chính quyền ở tỉnh l sớm nhất trong cả nước.
– Tại Hà Nội, ngày 19/8/1945, hàng vạn nhân dân đánh chiếm cơ quan đầu não của địch như Phủ Khâm sai, trại Bảo an bình, Toà Thị chính. Tới 19/8/1945, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
– Ngày 23/8/1945, hàng vạn nhân dân Huế biểu tình thị uy, chiếm công sở. Chính quyền về tay nhân dân. Ngày 25/8/1945, tổng khởi nghĩa tháng lợi ở Sài Gòn.
– Khởi nghĩa thắng lợi ở 3 thành phố lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tác động đến các địa phương trong nước, quần chúng các tỉnh còn lại nối tiếp nhau khởi nghĩa. Hà Tiến và Đồng Nai Thượng là những nơi giành chính quyền muộn nhất (28/8/1945);


– Chiều 30/8/1945 vua Bảo Đại thoái v, triều đình phong kiến nhà Nguyễn hoàn toàn sụp đổ.
– Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc Lập, trịnh trọng tuyên bố với toàn thể quốc dân và cả thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập.


* Phương thức giành chính quyền: kết hợp giữa khởi nghĩa thành th và nông thôn
– Tháng 8/1945, khi thời cơ cách mạng xuất hiện, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào chủ trương phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền và chỉ rõ phải chiếm ngay những căn cứ chính không kế thành phố hay vùng quê.
– Từ ngày 14/8 đến ngày 28/8/2945, Đảng và Mặt trận Việt Minh đã tổ chức cho nhân dân cả nước, từ thành thị đến nông thôn tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Do có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, có chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa, không phân biệt thành thị, nông thôn, bão táp cách mạng đã dồn dập nổi lên ở cả nông thôn và thành thị, nhất là những thành thị như ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sài Gòn (25/8), nhằm vào các cơ quan đầu não của kẻ thù, có tác dụng quyết định thắng lợi của Tổng khởi nghĩa.


– Khởi nghĩa thắng lợi ở 3 thành phố lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tác động đến các địa phương trong nước, quần chúng các tỉnh còn lại nối tiếp nhau khởi nghĩa. Hà Tiến và Đồng Nai Thượng là những nơi giành chính quyền muộn nhất (28/8).
– Qua đó, các sự kiện trên ta có thể thấy được, Đảng ta luôn coi trọng địa bàn nông thôn và thành th. Địa bàn nông thôn được xem là địa bàn vững chắc, dựa vào nông thôn để phát triển lực lượng chính trị, Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng. Đồng thời coi trọng thành th là địa bàn xung yếu, tiếp tục xây dựng cơ sở chính trị ở thành thị. Đó chính là điều kiện phát toàn dân nổi dậy ở cả nông thôn và thành thị.


* Kết hợp giữa thời cơ chủ quan và khách quan, trong đó thời cơ chủ quan đóng vai trò quyết định, thời cơ khách quan có tác động đưa Cách mạng tháng Tám nhanh chóng giành thắng lợi, ít đổ máu
– Thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là nhờ sự hội tụ những điều kiện khách quan và chủ quan khác nhau. Và một trong những vấn đề đó chính là việc Đảng ta đã biết nhận định về thời cơ và chớp lấy thời cơ.
– Thời cơ là một hoàn cảnh thuận lợi đến trong một thời gian ngắn, đâm bảo một việc nào đó có thể tiến hành có kết quả.
– Vào tháng 10/1944, cục diện Chiến tranh thế giới thứ hai đã bắt đầu đi đến hồi kết, Hồng quân Liên Xô đã đánh lùi quân Đức ra khỏi biên giới Liên Xô và đang tiến qua Trung Au, quân Nhật thất bại thảm hại ở chiến trường Thái Bình
Dương. Trong thư gửi cán bộ và đồng bào, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: bọn xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các nước đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Từ sự phân tích trên, Người khẳng định: cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta phải làm nhanh. Tuy nhiên, nhanh nhưng không nóng vội, vì vậy Người đã chỉ th thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân vào ngày 22/12/1944.


– Ngày 9/3/1945, nhận thấy Nhật sắp lật Pháp đến nơi, Đảng ta triệu tập Hội nghị Ban thường vụ Trung ương mở rộng ngay trong tối 9/3/1945. Hội nghị bắt đầu họp ở làng Định Bảng (Từ Sơn — Bắc Ninh) thị phát xít Nhật nổ súng đánh Pháp ở Hà Nội và trên toàn Đông Dương. Hội nghị đoán trước sự thất bại của Pháp, thắng lợi tạm thời của quân đội Nhật và cuộc đảo chính sẽ tạo ra một tình hình khủng hoảng chính trị sâu sắc, làm cho những điều kiện khởi nghĩa của Đông Dương chưa chín muồi đang đi tới chín muồi nhanh chóng. Vì vậy, Hội nghị đã ra Chỉ th Nhật — Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta vào ngày 12/3/1945. Đảng quyết định phát động cao trào chống Nhật cứu nước.

– Giữa trưa ngày 13/8/1945, khi nghe tin Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng các lực lượng Đồng minh. Hồ Chí Minh nhận thấy thời cơ có một không hai đã đến với dân tộc ta. bởi vậy, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành cho được tự do độc lập. Lập tức, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và lệnh khởi nghĩa được ban ra kịp thời: Giờ tổng khởi nghĩa đã đến! Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập cho nước nhà!… Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô cùng thận trọng!… Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta

– Nghe theo tiếng gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 20 triệu đồng bào trong cả nước nhất tề đứng dậy khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng. Trong vòng chưa đầy nửa tháng, các địa phương trên cả nước đã giành thắng lợi.
– Thời cơ trong Cách mạng tháng Tám xuất hiện và tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định. Thời cơ tồn tại một cách khách quan trong vòng khoảng 20 ngày, bắt đầu từ khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng (ngày 13/8/1945) và kết thúc khi quân Đồng minh vào tước khí giới quân Nhật trên đất nước ta theo Hiệp định Pôt-xđam (ngày 5/9/1945). Nếu phát động tổng khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc trước ngày 13/8/1945 và sau ngày 5/9/1945 đều không có khả năng thành công, bởi trước ngày 13/8/1945, quân Nhật còn mạnh, nhân dân ta sẽ tổn hại nhiều xương máu, còn sau ngày 5/9/1945, trên đất nước có nhiều kẻ thù (từ vĩ tuyến 16 trở ra là quân Tưởng – Mĩ, từ vĩ tuyến 16 trở vào là quân Anh và sau nó là quân Pháp trở lại xâm lược), cuộc cách mạng Việt nam sẽ mất đi thế chủ động và sẽ gặp nhiều khó khăn khác. Vì vậy, chỉ có thể giành chính quyền thắng lợi trong ngưỡng thời gian khắc nghiệt đó.


* Cách mạng tháng Tám chuẩn bị 15 năm, giành thắng lợi chỉ trong 15 ngày
Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 là thắng lợi lớn nhất trong suốt 15 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để khởi nghĩa thắng lợi Đảng ta đã xác định chuẩn bị về lực lượng cách mạng và đường lối cách mạng trong suốt 15 năm trải qua ba cao trào 1930 — 1931, 1936 — 1939, trực tiếp là 1939 — 1945.
* Chuẩn bị về lực lượng cách mạng.
– Cách mạng muốn thành công ngoài việc có đường lối đúng đắn phải có lực lượng thực hiện, lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang.
– Lực lượng chính trị: ngay từ những năm 1930 — 1935, Đảng ta đã xác định mới liên minh công-nông, đến giai đoạn 1936 – 1939, Đảng ta đã xây dựng Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phân để Đông Dương đến tháng 3/1938 đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm tập hợp mọi lực lượng yêu nước. Qua đó, Đảng ta đã xây dựng được đội quân chính trị hùng hậu bao gồm hàng triệu người. Mặt trận đã lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống phát xít và phản động thuộc địa Pháp đòi tự do dân chủ và cơm áo hoà bình.


– Bước sang những năm 1939 – 1945, Đảng ta đã xác định được lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị là bộ phận hợp thành bạo lực cách mạng của Đảng có vai trò quyết định trong việc tổng khởi nghĩa tháng Tám. Đảng ta đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phân để Đông Dương (11/1939) nhằm tập hợp tất cả các tầng lớp giai cấp các dân tộc tôn giáo chống phát xít làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
– Trước tình hình thế giới và trong nước có chuyển biến mau lẹ, ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh chỉ đạo cách mạng. Người đã chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh với các hội cứu quốc quân nhằm tập hợp hết các lực lượng yêu nước. Đảng đã xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh công – nông. Thông qua tổng bộ Việt Minh Đảng đã chủ trương phổ biến chính sách của Đảng đến quần chúng. Từ đó quần chúng được giáp ngộ trở thành lực lượng hùng hậu trong cách mạng tháng Tám.


– Bên cạnh việc chuẩn bị lực lượng chính trị Đảng ta còn chú trọng xây dựng lực lượng vũ trang. Lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang là mũi nhọn của bạo lực cách mạng do đó lực lượng vũ trang được hình thành trên nền tảng của đấu tranh chính trị và lực lượng chính trị. Sau khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, Đảng đã duy trì đội du kích Bắc Sơn sau đó thành lập đội du kích Thái Nguyên.

– Năm 1941, đội du kích Bắc Sơn hợp nhất với đội du kích Thái nguyên thành đội Cứu quân, đây là đội cứu quốc quân đầu tiến trong thời kì đánh Pháp đuổi Nhật.
– Ngày 22/12/1944, theo chỉ th của Hồ Chí Minhi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập tại Châu Nguyên Bình tỉnh Cao BẰng.
– Tháng 4/1945, Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự Bắc Kì. Hội nghị quyết định hợp nhất Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và đội Cứu quốc quân thành Việt Nam giải phóng quân. Thực hiện chủ trương trên 5/1945, hai đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và đội Cứu quốc quân hợp nhất thành Việt Nam giải phóng quân. Đây là lực lượng vũ trang trực tiếp tiến hành tổng khởi nghĩa vũ trang trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.


– Bên cạnh lực lượng cách mạng Đảng ta còn chú ý xây dựng căn cứ địa cách mạng: lúc đầu là căn cứ Bắc Sơn – Cao Bằng. Tháng 6/1945 khu giải phóng Việt Bắc được thành lập đây là căn cứ địa chủ yếu của cách mạng tháng Tám.
* Chuẩn bị lãnh đạo đấu tranh.
– Trước tình hình trong nước có nhiều chuyển biến, tháng 11/1939 Đảng triệu tập Hội nghị Ban chấp hành Trung ương tại Ba Đình, Hóc Môn, Gia Định do Nguyên Văn Cừ chủ trì Đảng đề ra nhiệm vụ trước mắt là đánh đổ đế quốc và tay sai làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị tạm gác khẩu hiệu ruộng đất chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai đề ra khẩu hiệu chính phủ dân chủ cộng hoà thay cho chính quyền Xô viết công – nông – bình.


Về phương pháp cách mạng: chuyển từ đấu tranh công khai hợp pháp sang đấu tranh bí mật bất hợp pháp và quyết định thắng lợi mặt trận dân tộc phân đế quốc Đông Dương.
– Hội nghị đánh dấu bước chuyển hướng quan trọng lần đầu tiên nhiệm vụ giải phóng dân tộc được đặt lên hàng đầu, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo.
– Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh chỉ đạo cách mạng, sau một giai đoạn chuẩn bị Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, họp từ ngày 10 – 19/5/1941 tại Pác Bỏ – Cao Bằng.


– Hội nghị nêu rõ nhiệm vụ trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất chỉ nêu khẩu hiệu giảm tô giảm tức chia lại ruộng công tiến tới người cày có ruộng.
– Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, thành lập Chính phủ nhân dân, giúp đỡ việc thành lập mặt trận ở Lào, Campuchia. Hội Nghị xác định hình thái cuộc khởi nghĩa ở nước ta đi từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa và nhấn mạnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân ta trong giai đoạn này. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương mới, do Trường Chinh làm Tổng bí thư.
– Hội nghị Trung ương Đảng lần 8 đã hoàn thành chủ trương đấu tranh được đề ra từ hội nghị Trung ương 11/1939. Nhằm giải quyết mục tiêu số một của cách mạng là giải phóng dân tộc.
– Khi thời cơ cách mạng xuất hiện từ ngày 14 – 15/8/1945, Đảng họp Hội nghi toàn quốc tại Tân Trào – Tuyên Quang để phát lệnh Tổng khởi nghĩa. Từ ngày 16
– 18/8/1945, Đại hội quốc dân được triệu tập, Đại hội đã tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và thông qua 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh và cử ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
=> Như vậy, Cách mạng tháng Tám thành công nhanh chóng là nhờ sự chuẩn bị 15 năm, qua các lần diễn tập và sự chuẩn bị về đầy đủ các yêu cầu cho một cuộc Tổng khởi nghĩa.
 
Sửa lần cuối:
Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp, Việt Nam từ một xã hội phong kiến thuần tuý biến thành một xã hội thuộc địa. Mặc dầu tính chất phong kiến còn được duy trì một phần, song tất cả các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và giai cấp đều bị đặt trong quỹ đạo chuyển động của xã hội thuộc địa. Trong lòng xã hội Việt Nam hình thành nên những mâu thuẫn đan xen nhau, nhưng mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động. Sự thống trị, áp bức và bóc lột càng tăng thì mâu thuẫn đó càng sâu sắc, sự phản kháng và đấu tranh vì sự tồn vong của dân tộc càng phát triển mạnh mẽ, gay gắt về tính chất, đa dạng về nội dung và hình thức. Trái lại, sự xung đột, đấu tranh về quyền lợi riêng của mỗi giai cấp trong nội bộ dân tộc được giảm thiểu và không quyết liệt như cuộc đấu tranh dân tộc.

Yêu cầu trước hết của dân tộc Việt Nam nói chung, giai cấp nông dân nói riêng là tiến hành cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động, giành độc lập dân tộc. Xét về tính chất, cuộc đấu tranh ở thuộc địa là một cuộc đấu tranh dân tộc, chứ chưa phải là cuộc đấu tranh giai cấp như ở các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây.

Năm 1917 Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, mở ra trước mắt các dân tộc thuộc địa "thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc". Hướng theo Cách mạng Tháng Mười, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và xác định con đường giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản. Trong tác phẩm Đường cách mệnh (1927), Người phân biệt ba loại cách mạng: “Tư bản cách mệnh”, “Dân tộc cách mệnh” và “Giai cấp cách mệnh”, đồng thời xác định tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Đó là một quá trình phát triển lâu dài, phải trải qua những giai đoạn chiến lược khác nhau, mà trước tiên là giành độc lập dân tộc. Nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai được nhấn mạnh trên cả hai phương diện chính trị và kinh tế: về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra chính phủ công nông binh và tổ chức ra quân đội công nông; về kinh tế, tịch thu hết các sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho chính phủ công nông binh quản lý; tịch thu hết ruộng đất của bọn đế quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo... Với chiến lược đấu tranh dân tộc, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân.

Tháng 10-1930, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (Dự án để thảo luận trong Đảng) được thay thế cho Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên là "một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa"3. Luận cương xác định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”. Đó là “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”

. Luận cương cho rằng nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để" và "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập". Hai nhiệm vụ đó phải được đặt ngang hàng nhau và tiến hành đồng thời với nhau: "... có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa". Luận cương khẳng định: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày. Luận cương quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp. Đó là điều không phù hợp với thực tế của xã hội thuộc địa.

Tháng 11-1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng nhận thấy mâu thuẫn chủ yếu ở Đông Dương là mâu thuẫn dân tộc, nhấn mạnh cuộc đấu tranh dân tộc. Bản Chỉ thị Về vấn đề thành lập Hội phản đế đồng minh”, nêu rõ: "Trong cách mạng phản đế và điền địa ở Đông Dương thì dân tộc Việt Nam là một dân tộc có lịch sử đấu tranh bất diệt với giặc Pháp từ ngày Pháp chiếm đến nay, nên dân tộc phản đế trong nhân dân rất mạnh". Đây là một nhận thức đúng thực tiễn, phù hợp với quan điểm trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Nhưng, tháng 12-1930, Thư của Trung ương gửi các cấp đảng bộ lại nhấn mạnh cuộc đấu tranh chống giai cấp bóc lột. Ban Thường vụ Trung ương cho rằng phải xét địa chủ “về phương diện giai cấp”. Đó là một giai cấp tuy sở hữu ruộng đất không đều nhau, nhưng đều “dùng cái quyền có đất để bóc lột dân nghèo, hãm hại kinh tế dân cày" và ngăn trở sức sản xuất. Địa chủ là “thù địch của dân cày không kém gì đế quốc chủ nghĩa”, “nó quan hệ mật thiết với quyền lợi của đế quốc chủ nghĩa”, “liên kết với đế quốc mà bóc lột dân cày”. Giai cấp tư sản “có một bộ phận đã ra mặt phản cách mạng", một bộ phận khác “kiếm cách hòa hiệp với đế quốc”, một bộ phận “ra mặt chống đế quốc”, nhưng đến khi cách mạng phát triển “cũng sẽ theo phe đế quốc mà chống cách mạng”. Ban Thường vụ Trung ương chủ trương “tiêu diệt địa chủ”, “tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó (địa chủ) mà giao cho bần và trung nông”9. Nhận thức này còn tiếp tục kéo dài trong một thời gian sau.

Tháng 10-1936, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Trung ương Đảng đã dũng cảm phê phán quan điểm của Luận cương chính trị tháng 10-1930: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng... nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng". Những quan điểm trong Chung quanh vấn đề chiến sách mới phù hợp với yêu cầu thực tiễn, bước đầu khắc phục hạn chế củaLuận cương chính trị tháng 10-1930 và khẳng định chủ trương đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Tháng 9-1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và ngày càng lan rộng, tác động mạnh mẽ đến Đông Dương. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11-1939) phân tích tình hình, đánh giá thái độ các giai cấp xã hội, các đảng phái và xu hướng chính trị ở Đông Dương, chỉ rõ tất cả các dân tộc, các giai cấp, trừ một số phản động làm tay sai đế quốc, “đều phải gánh những tai hại ghê tởm của đế quốc chiến tranh, đều căm tức kẻ thù chung là đế quốc chủ nghĩa”. Với quan điểm toàn diện, Trung ương Đảng đã chỉ rõ những hạn chế của các giai cấp địa chủ và tư sản, đồng thời cũng khẳng định mặt tích cực của họ: “Đám đông trung tiểu địa chủ và tư sản bổn xứ cũng căm tức đế quốc”. Nhấn mạnh chiến lược đấu tranh dân tộc, Hội nghị chỉ rõ: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”, “chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới"14, “nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc”. “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết"

. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11-1940) vạch rõ: “chính sách bòn vét của đế quốc Pháp làm cho nhân dân Đông Dương từ giàu đến nghèo đều cảm thấy sự thiệt thòi vô kể"16, vì thế, "trừ một số ít bọn phong kiến bản xứ, một phần đại tư bản, đại địa chủ và một nhóm trí thức tiểu tư sản nhát gan đi theo Pháp hay Nhật còn hầu hết các tầng lớp nhân dân hiện nay đương căm tức với đế quốc Pháp, hoặc ít nhiều chán ghét chúng”.

Tại Hội nghị lần thứ tám (5-1941) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì, Ban Chấp hành Trung ương Đảng hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn dân tộc đang phát triển gay gắt dưới hai tầng áp bức Nhật, Pháp. Hội nghị phân tích: “Đế quốc Pháp - Nhật chẳng những áp bức các giai cấp thợ thuyền, dân cày, mà chúng nó áp bức bóc lột cả các dân tộc không chừa một hạng nào. Dẫu là anh tư bản, anh địa chủ, một anh thợ hay một anh dân cày đều cảm thấy cái ách nặng nề của đế quốc là không thể nào sống được. Quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy vong không lúc nào bằng”. “Pháp - Nhật ngày nay không phải chỉ là kẻ thù của công nông mà là kẻ thù của cả dân tộc Đông Dương”. Không chỉ quần chúng lao khổ, mà cả “các tầng lớp tiểu tư sản, phú nông, địa chủ, viên chức thảy đều bị phá sản và khánh kiệt dưới sự bóc lột của Pháp - Nhật”.

Về thái độ chính trị của các giai cấp, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhận xét: giai cấp vô sản và dân cày nghèo “đã hăng hái chống đế quốc quyết liệt hơn”. Giai cấp tiểu tư sản “đều hăng hái tham gia hoặc cảm tình với cách mạng". Giai cấp địa chủ, phú nông và một phần tư bản bản xứ, chỉ trừ một số ít làm tay sai cho đế quốc, còn "phần đông có cảm tình với cách mạng hoặc giữ thái độ trung lập”. Hội nghị khẳng định: “Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương hợp với nguyện vọng chung của tất cả nhân dân Đông Dương”

. “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”

. Hội nghị chủ trương “thay đổi chiến lược" và giải thích rõ về nội dung sự thay đổi đó: “cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải phóng". “Trong giai đoạn hiện tại ai cũng biết rằng: nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật thì vận mạng của dân tộc phải chịu kiếp trâu ngựa muôn đời mà vấn đề ruộng đất cũng không làm sao giải quyết được. Vậy thì trong lúc này muốn giải quyết nhiệm vụ giải phóng không thể đưa thêm một nhiệm vụ thứ hai chưa cần thiết với toàn thể nhân dân, giải quyết trước mà có hại cho nhiệm vụ thứ nhất”

. Vấn đề ruộng đất mà Hội nghị Trung ương lần thứ tám bàn đến là chia lại công điền, và chia ruộng đất “tịch thu của Việt gian phản quốc”, tức là ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù của dân tộc, chứ không phải của địa chủ nói chung, nhằm đánh lại kẻ thù của dân tộc cả về chính trị và kinh tế. Vì thế, "Trong khi tuyên truyền, không được dùng những khẩu hiệu quá thời... Không nên nói đánh đổ Nam triều phong kiến và tịch thu ruộng đất của địa chủ mà nói diệt trừ bọn Việt gian phản quốc”

Chiến lược giải phóng dân tộc của Đảng còn được trình bày trong nhiều văn kiện tiếp theo. Nghị quyết Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943) khẳng định không thể hoàn thành luôn một lúc hai nhiệm vụ: “cách mạng dân tộc giải phóng và cách mạng thổ địa”. “Lúc này, nhiệm vụ dân tộc giải phóng cần kíp và quan trọng hơn. Nên Đảng phải thống nhất mọi lực lượng cách mạng đặng mau hoàn thành nhiệm vụ ấy trước... Do đó khẩu hiệu thổ địa cách mạng không thể đề ra lúc này. Như thế là chiến lược của Đảng có thay đổi ít nhiều chứ không phải chỉ có chiến thuật mà thôi...".

Như vậy, trải qua một quá trình nhận thức thực tiễn, vượt qua được quan điểm giáo điều, Đảng đã khẳng định mâu thuẫn chủ yếu và nhiệm vụ chiến lược hàng đầu của cách mạng thuộc địa, kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa thực dân. Đó là cơ sở để xác định chủ trương và hình thức tập hợp lực lượng cách mạng.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top