Trang Dimple
New member
- Xu
- 38
Trong đấu tranh với tầm nhìn xa trông rộng và tinh thần cảnh giác cao độ, Hồ Chí Minh luôn luôn suy nghĩ và chuẩn bị nhiều khả năng đối phó với kẻ thù của cách mạng. Người thường đối phó với khả năng khó khăn nhất, đồng thời quyết tâm tập trung lực lượng tranh thủ khả năng thuận lợi nhất, từ đó để ra chiến lược sách lược cụ thể và chiến lược phù hợp. Người nhạy bén và sớm nhận ra âm mưu của Mĩ.Sau khi kí hiệp định Giơ- ne- vơ năm 1954 chủ tịch Hồ Chí Minh và trung ương Đảng chủ trương đấu tranh thông qua tổng tuyển cử thực hiện việc thống nhất nước nhà. Chủ trương đó phù hợp với tình hình 2 miền nước nhà, đáp ứng được nguyện vọng hòa bình của quần chúng sau cuộc chiến tranh kéo dài hơn 10 năm. Nó còn phù hợp với xu thế hòa bình trên thế giới từ sau chiến tranh Triều Tiên.
Tuy nhiên nhận rõ rã tâm xâm lược của kẻ thù, ngay trong khi thực hiện thỏa thuận về việc tập kết chuyển quân giữa 2 miền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ “Chúng ta phải tỉnh táo đề phòng, phải kiên quốc chống âm mưu đế quốc Mỹ tăng cường can thiệp vào Đông Dương, xúi giực bọn tay sai của chúng phá hoại hiệp định đình chiến, phá hoại hòa bình và chúng ta cố gắng góp phần vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình Chấu Á và thế giới.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ đầu đã chuẩn bị cho cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam. Đó là việc duy trì một bộ phận khung của lực lượng vũ trang, tăng cường cán bộ chỉ đạo các cấp ở miền nam với chủ trương “ khéo che dấu lực lượng kết hợp công tác hợp Pháp và không hợp Pháp và không hợp pháp, chú trọng bảo tồn lực lượng cách mạng”
Khi địch phá hoại tổng tuyển cử, tăng cường đàn áp cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh và trung ương Đảng ta đã kịp thời lãnh đạo cách mạng miền nam từng bước chuyển hướng sang dung lực lượng nhân dân vũ trang tự vệ dưới nhiều hình thức. Sự chuyển hướng này diễn ra trong bối cảnh quốc tế không hề đơn giản. Tháng 2-năm 1956 đại hôi XX của Đảng Cộng Sản Liên Xô đã nhấn mạnh tư tưởng cùng tồn tại hòa bình và thực hiện quá độ hòa bình. Thực hiện đường lối đó, Liên Xô đã có những cố gắng để cải thiện quan hệ với Mĩ, nhất là sau năm 1957 khi Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo đưa tới chuyến thăm Mĩ đầu tiên của người lãnh đạo cao nhất ở Liên Xô là N. X Khơ- rút –sốp.
Tháng 4-1956 Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 9 mở rộng để nghiên cứu các văn kiện của đại hội XX Đảng cộng sản Liên Xô. Đọc diễn văn tại hội nghị chủ tịch Hồ Chí Minh nói : “ Trong khi nhận định có khả năng thống nhất bằng phương pháp hòa bình ở Việt Nam ta, chúng ta cần phải luôn luôn nhớ rằng kẻ thù của nhân dân ta là bọn đế quốc Mỹ và tay sai của chúng đang chiếm giữ một nửa nước ta và chúng đang chuẩn bị chiến tranh; vì vậy chúng ta phải luôn luôn nắm vững ngọn cờ hòa bình, nhưng đồng thời phải luôn luôn nâng cao đề phòng cảnh giác”
Tháng 8-1956 theo chỉ thị của Hồ Chí Minh đồng chí Lê Duẩn cũng đã soạn thảo “ Đề cương cách mạng miền Nam” nêu rõ xu thế phát triển tất yếu của xã hội miền Nam và kết luận : Muốn chống Mỹ- Diệm ngoài con đường cách mạng nhân dân miền Nam không còn con đường cách mạng nào khác”
Bước sang năm 1959 sự phát triển của tình hình miền Nam ngày càng theo chiều hướng mà Trung ương Đảng và Hồ Chí Minh đã dự kiến “ Hiệp định đình chiến có thể bị phá hoại”, “ Chia cắt có thể trường kì” và “ chiến tranh có thể trở lại” Từ thủ đô Hà Nội trái tim và trí tuệ cả nước, chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng ta hang ngày hang giờ suy nghĩ về cách mạng miền Nam. Người và Trung ương Đảng phải trải qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu với tinh thần khoa học sang tạo để giải quyết một bài toán lịch sử phức tạp.
Về phía Mỹ, Mỹ đã triển khai lực lượng quân sự trên thế giới, xác lập sự thống chế đối với tư bản chủ nghĩa đồng thời thực hiện chiến lược “ ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa cộng sản” song từ cuối những năm 1950 đầu 1960 chúng đã chuyển sang chiến lược “phản ứng linh hoạt” để đối phó với phong trào giải phóng dân tộc lúc này đang lên cao sau thắng lợi của Việt Nam. Đế quốc Mỹ là kẻ thù của nhân dân thế giới, đồng thời là kẻ thù trực tiếp của cách mạng nước ta.
Vì lợi ích duy trì hoàn cảnh quốc tế hòa bình để xây dựng lực lượng các nước an hem gợi ý “ hai miền Nam – Bắc Việt Nam chung sống hòa bình, thi đua kinh tế, miền Bắc hơn hẳn về mặt kinh tế thì miền Nam sẽ thống nhất vào miền bắc” hoặc “ Trường kì mai phục, lien hệ quần chúng, tích trữ lực lượng, chờ đón thời cơ”….
Xuất phát từ sự phân tích tình hình nước ta và thế giới, chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta kiên quyết đưa cách mạng nước ta đi lên, đẩy mạnh cách mạng miền Nam đưa miền bắc- căn cứ địa của cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời có tính đến xu thế trên thế giới.
Trung tuần tháng 1-1959, hội nghị trung ương lần thứ 15 (khóa II) họp dưới sự chủ tọa của chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra nghị quyết về cách mạng miền nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền nam là “ Giải phóng miền nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập và người cày có ruộng, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất độc lập dân chủ và giàu mạnh”. Đặc biệt nghị quyết khẳng định : con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền nam là đấu tranh vũ trang, kết hợp với đấu tranh chính trị, giành chính quyền về tay nhân dân.
Nghị quyết cũng nêu lên nhiệm vụ quốc tế của Đảng ta là tranh thủ và vận dụng mọi điều kiện thuận lợi trên thế giới có lợi cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của toàn dân ta, vì cuộc đấu tranh của nhân dân ta góp phần vào củng cố hòa bình, thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc và tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Phát biểu ý kiến tại hội nghị, chủ tịch Hồ Chí Minh chú ý tới cách đặt vấn đề, cách xen xét tình hình và đặc biệt là phương pháp đấu tranh. Người Phê phán những khunh hướng chỉ thấy đấu tranh thống nhất mà xem nhẹ củng cố miền bắc, chỉ nhấn mạnh một chiều đấu tranh vũ trang để tạo cớ cho đế quốc Mỹ can thiệp ồ ạt vào miền nam. Người nói : “ Ta phải đặt miền nam Việt Nam trong cách mạng chung cả nước và cách mạng nước ta trong cách mạng thế giới. Cách mạng xã hội chủ nghĩa ngày càng mạnh, ngày càng rộng . Đế quốc Mỹ ngày càng suy sụp nhưng nó còn những bộ phận mạnh… ta chú ý đẩy lùi địch từng bước, giành từng thắng lợi đó là khả năng đang có nhiều hơn. Khi có cơ hội, ta đánh đổ luôn, còn lúc này không nên bỏ những thắng lợi nhỏ”
Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 15 đã in đậm dấu ấn lịch sử chống Mĩ cứu nước, tạo ra bước ngoặt cho phong trào cách mạng miền nam, đáp ứng nguyện vọng bức thiết của đông đảo nhân dân, dẫn đến cuộc đồng khởi oanh liệt của toàn miền nam 1960. Thắng lợi của phong trào đồng khởi mang ý nghĩa chiến lược lớn, làm thay đổi cục diện ở miền nam, đưa cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công; đó là thất bại lớn đầu tiên của chủ nghĩa thực dân Mĩ ở miền nam nước ta .
NGUỒN : HỒ CHÍ MINH TRONG CÔNG TÁC NGOẠI GIAO
Sửa lần cuối: