Chủ thể hát ca dao gọi là gì ?

Theo mình biết thì không có một đại từ cố định để chỉ người hát và người nghe trong ca dao. Một số đại từ thường dùng ở đây là chàng/thiếp, mận/đào, em/anh...
 
Theo mình được biết thì người hát ca dao là đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo, tầng lớp,.... Như vậy, danh từ chỉ "người hát ca dao" ấy rất đa đạng, những ai theo nghề biểu diễn chuyên nghiệp thì được gọi là nghệ sĩ.
Ví dụ: mẹ hát ca dao, chị hát ca dao, cô ấy hát ru (ca dao), ...
Nghệ sĩ hát ru (...), nghệ sĩ (....) hò Nam Bộ,....
 
Ca dao dân ca / nét đẹp tâm hồn người Việt

Làng quê Việt Nam ở đâu cũng vậy, ẩn chứa trong nó bao điều gần gũi và thân thương. Mỗi một miền quê đều có những câu hò, điệu hát rất chung mà lại rất riêng, mang âm hưởng của từng vùng, miền. Tất cả cùng hòa vào câu thơ, giọng hát của những làn điệu, tạo thành dòng ca dao dân ca Việt Nam rất đa dạng và phong phú.
Ca dao dân ca, xét về góc độ tư duy của dân tộc, là tấm gương bức xạ hiện thực khách quan của mỗi dân tộc với lối sống, điều kiện sống và những phong tục tập quán riêng. Hình ảnh về thiên nhiên, cuộc sống, về truyền thống dân tộc, quan hệ xã hội được phạm trù hóa theo những cách khác nhau, bằng những hình thức ngôn ngữ khác nhau. Nghiên cứu về ca dao dân ca không chỉ cho thấy những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam mà còn làm nổi bật lên tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người thiết tha. Ca dao dân ca là kết tinh thuần tuý của tinh thần dân tộc, là nét đẹp trong văn hóa dân gian Việt Nam. Với cội nguồn lịch sử và chữ viết rất phong phú đa dạng nên ca dao và dân ca có mặt ở Việt Nam từ rất sớm. Các công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian, cũng như các nhà khoa học có liên quan đã khẳng định một trong những dấu tích của ca dao cách chúng ta khoảng trên dưới 2.500 năm. Điều này được thể hiện rất rõ qua các hoa văn trên trống đồng và các hiện vật khảo cổ cùng niên đại. Phân tích các họa tiết hoa văn trên trống đồng, nhiều người đã tìm thấy ở đây hình ảnh lễ thờ nữ thần Mặt Trời cũng là nữ thần Nông nghiệp. Trong lễ hội này đã sử dụng các hình thức âm nhạc, thanh nhạc múa hát và các nhạc khí.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện Văn học phát biểu: "Tất cả các dân tộc trên thế giới suốt mấy nghìn năm chỗ nào cũng có dân ca và ca dao. Vì thế nói về ca dao dân ca của một dân tộc hay ca dao dân ca nói chung là vấn đề rất lớn. Nó tồn tại rất lâu, từ hàng ngàn năm trước và như các nhà khoa học nghiên cứu trước đây, các học giả đã nói ca dao ra đời khi trong lòng mình có những điều muốn thể hiện ra, muốn nói lên. Những điều đó được gọi là ca dao".

Câu nói, làn điệu, giọng hát là những đòi hỏi bức thiết nảy sinh trong đời sống xã hội, qua thời gian, những câu nói hay, những làn điệu hấp dẫn đã được nhân dân sưu tập và gìn giữ. Cùng xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của đời sống xã hội và trí tuệ của nhân dân đúc kết nên. Qua lời ca, câu hát, ca dao và dân ca Việt Nam là những câu nói đúc kết những kinh nghiệm sống, những quan niệm về nhân cách, nhân đức ở mỗi con người. Càng đi sâu vào tìm hiểu ca dao dân ca, chúng ta sẽ thấy được những nét tài hoa, óc sáng tạo đầy tinh thần thẩm mỹ. Tuy nhiên ở mỗi loại hình lại có những đặc điểm riêng biệt.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện Văn học phát biểu: "Các cụ ngày xưa có nói bỏ ca đi thì còn lại dao, có nghĩa là ca dao và dân ca ra đời cùng một lúc. Nhưng cũng không phải tất cả câu hát của dân ca là ca dao. Đi sâu vào nghiên cứu thì thấy dân ca phát triển rất nhiều, còn ca dao chỉ có một số chức năng nhất định".

Ca dao dân ca là loại hình văn nghệ truyền miệng, là một hình thức văn hóa dân gian đã có từ rất lâu. Nó có thể là một câu nói triết lý bao hàm một nội dung giáo dục của ai đó. Trải qua thời gian, mọi người thấy đúng và nghe theo, thậm chí họ có thể thêm vào hoặc bớt đi để đúng với từng hoàn cảnh cụ thể. Vì vậy, có thể nói ca dao dân ca là của quần chúng nhân dân sáng tác nên và họ có thể sáng tác trong bất cứ hoàn cảnh nào, trong lễ hội, trong lao động sản xuất. Như Giáo sư Vũ Ngọc Phan đã viết: "Nó xuất hiện trong lao động từ thời cổ xưa và hình thức thô sơ của nó đã được sửa đổi qua các thế hệ của loài người". Có một câu ca dao rất ý nghĩa, không chỉ nói lên quan niệm triết lý của người Việt Nam mà đó còn là một câu nói thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó với nhau, thể hiện sức mạnh của tập thể.

"Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại thành hòn núi cao".

Chất trí tuệ, giàu tư tưởng tình cảm trong ca dao dân ca là những nguồn nhựa sống bổ sung cho văn hóa dân gian thêm phong phú và đậm đà bản sắc. Tuy cũng là câu nói, giọng điệu cùng với một cái nôi xuất phát nhưng không phải câu ca dao nào cũng có thể trở thành dân ca và ngược lại, ở mỗi thể loại lại có thêm những ưu thế bổ sung ứng dụng trong từng hoàn cảnh của thực tế đời sống. Theo cách hiểu thông thường, ca dao là lời của các bài dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy hoặc ngược lại là những câu thơ có thể bẻ thành những làn điệu dân ca. Như vậy giữa ca dao và dân ca không có ranh giới rõ ràng. Ca dao là những câu nói phổ thông trong dân gian. Ca dao người Việt thường được cấu tạo bằng hai câu lục bát, một thể thơ rất âm điệu tiếng Việt. Khi có nhiều câu kết thành một đoạn ngắn thì gọi là dân ca, vì vậy ranh giới giữa ca dao và dân ca là một sợi chỉ rất mỏng manh. Ca dao là lối văn truyền khẩu, trước tiên là do một người vì xúc cảm mà phát hiện ra, rồi vì lời hay, ý đẹp mà lan truyền trong dân gian và truyền mãi từ đời này qua đời khác. Tuy ca dao xuất phát trong giới bình dân nhưng nhiều câu rất nên thơ và ý nghĩa đậm đà, dễ xúc cảm người nghe nên được nhiều người để tâm sưu tầm.

"Có cha, có mẹ có hơn
Không cha, không mẹ như đàn không dây.
Mẹ cha như nước, như mây,
Làm con phải ở cho tầy lòng con".

Câu thơ không chỉ nói về công đức sinh thành, giáo dưỡng của cha mẹ mà còn khuyên nhủ, răn dạy mọi người phải ăn ở sao cho đúng đạo làm con. Âu đó cũng là triết lý, quan điểm sống của mỗi con người chúng ta. Hoặc đó cũng có thể là những câu nói khuyên răn về quan hệ giữa anh em, bạn bè.

"Anh em như chân, như tay
Như chim liền cánh, như cây liền cành".

Hoặc là những câu ngợi ca tình yêu lao động, trân trọng những giá trị của sự lao động.

"Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần".

Chính vì khả năng dễ nói, dễ tiếp thu, ca dao đã đi vào đời sống của nhân dân một cách rất tự nhiên và trong mọi hoàn cảnh.

Trong mỗi chúng ta ai cũng có một miền quê, quê hương là cánh đồng lúa thơm ngát, luỹ tre xanh trải dài dọc bờ đê, là những hình ảnh thân thương nhất đối với cuộc sống mỗi con người. Hai tiếng quê hương nghe gần gũi và thân thương, đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đã nuôi dưỡng ta trưởng thành. Qua ca dao dân ca những hình ảnh của miền quê như trở nên gần gũi hơn, lung linh hơn nhờ những ca từ đầy hình ảnh. Khi nói đến dân ca, chúng ta không thể quên những lời ru con thiết tha trìu mến, qua tiếng ầu ơ mẹ ru con, những hình ảnh của miền quê yêu dấu của biển rộng non cao, của gió Lào cát cháy, những người mẹ năm tháng tảo tần một nắng hai sương nuôi dậy con khôn lớn. Những lời hát ru của mẹ đã hòa đồng với tâm hồn trẻ thơ, vừa đằm thắm nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần trầm tư sâu lắng. Trong câu hát của mẹ có ánh trăng soi rọi như đưa con vào giấc ngủ êm đềm, có áng mây trôi bồng bềnh trên đỉnh núi, có dòng sông bên lở bên bồi, có mặt biển long lanh ánh bạc và những con thuyền thấp thoáng ngoài khơi xa. Nghe lời ru của mẹ, trẻ thơ như được tiếp thêm nguồn dự trữ lớn lao về lòng yêu quê hương, đất nước, chắp cánh cho tuổi thơ của con thêm vững bước và sáng ngời niềm tin.

Lấy nguồn cảm hứng từ thực tế cuộc sống, ca dao dân ca được sáng tạo nên, đó là lời ăn, tiếng nói của ông cha ta tích lũy từ ngàn đời. Đó là những câu nói đúc kết từ những kinh nghiệm sản xuất răn dậy con cháu, bao hàm những nội dung mang ý nghĩa triết lý dậy bảo rất sâu sa. Đó là những câu hát được truyền tải bằng âm thanh giọng điệu ngôn ngữ với nội dung nghệ thuật phong phú, đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc. Giống như đại thi hào Macxingocki đã nhận định: "con người không thể sống mà không vui sướng được. Họ phải biết cười đùa, họ sáng tạo nên những bài hát vui tươi, họ thích nhẩy múa". Bởi vậy, ca dao dân ca là sản phẩm văn hoá tinh thần và cần thiết đối với mỗi dân tộc, con người.

Trong câu hát ru của người mẹ Thanh Hoá, câu ca dao: "Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" như một lời nhắn nhủ của người mẹ với đứa con thơ về tình nghĩa đạo lý ở đời, phải ăn ở thuỷ chung trước sau như một, đầy ắp tình thương và tình người. Từ thực tế cuộc sống những câu hát dân gian, những lối nói chân thành chất phác nhưng cũng không kém phần triết lý sâu sẵc, thực tế là những cái hay, cái tinh tuý của dân tộc được kết tinh từ cuộc sống hàng ngày. Trong ứng xử giao tiếp ông cha ta đã có vô vàn những câu nói đúc kết về những lối nói, những hành vi ứng xử khéo léo, lịch sự và duyên dáng.

Phó Giáo sư, Phó Tiến sỹ Mai Ngọc Chừ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia phát biểu: "Trước hết tôi xin nói về lời chào, người Việt Nam rất coi trọng lời chào. Người ta thường nói:"Tiếng chào cao hơn mâm cỗ". Trong ca dao thì tiếng chào không chỉ nói lên phép lịch sự của con người Việt Nam mà tiếng chào còn là cái cớ để những đôi trai gái làm quen với nhau, đó là những lời chào bắt duyên trong văn học dân gian. Ví dụ:

"Gặp nhau ăn một miếng trầu
Mai ra đường cái gặp nhau ta chào"
Hoặc: "Đôi ta như đá với dao,
Năng liếc thì sắc, năng chào thì quen".

Nhưng năng chào cũng chưa đủ, chào phải đúng lúc, đúng chỗ:

"Gặp nhau đường vắng thì chào
Gặp nhau giữa chợ lao xao xin đừng".

Câu thơ, giọng hát với cái đích là phục vụ nhân sinh. Con người luôn có hoài bão vươn tới cái hay, cái đẹp, cái thanh tao của cuộc sống là chân, thiện, mỹ, cho nên ca dao dân ca không chỉ là những bài hát ngắn dài, vần, vè về câu chữ, nhịp điệu trầm bổng du dương để quên nguôi cảnh buồn tẻ, trống trải mà thực tế nội dung ý nghĩa còn mang tính nhân văn sâu sắc.

"Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con".

Bên cạnh ý nghĩa là công nuôi dưỡng, sinh thành như trời bể của cha mẹ, câu ca dao này còn được hiểu rộng ra với những nét nghĩa rất phong phú.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Văn Lung, Trưởng Ban Văn học dân gian, Viện Văn học phát biểu: "Để hiểu câu ca dao như thế nó vừa lớn, vừa rộng, vừa có tính dân tộc, bởi vì núi được công nhận là cao, rộng, công cha đối với con là không phải bàn. Mình có đặc điểm khác các nước là làm nông nghiệp, việc bám vào quê hương, đất tổ, bám vào đất, nước là truyền thống của người Việt Nam. Người Việt Nam luôn bám vào quê hương và trong quê hương đó là do cha mẹ mình, tổ tiên mình sáng tạo ra, do vậy tấm lòng của mình phải hướng về cha mẹ, không thể xa rời được. Nghĩa đấy cũng như nước trong nguồn, chảy mãi. Công cha, nghĩa mẹ để lại mãi mãi cho mình, con cháu. Tình cảm con người đối với cha mẹ đều được công nhận trên thế giới, nhưng ở Việt Nam có đặc điểm riêng là làm lúa nước, phải bám đất, bám làng nên tình làng nghĩa nước, tình cha, nghĩa mẹ luôn đi với nhau rất trọn vẹn. Từ tình cha mẹ rồi mới đến tình làng nghĩa nước, tình yêu tổ quốc, 3 cái đó quyện chặt với nhau. Vì vậy công cha như núi Thái Sơn có thể hiểu là cha cụ thể nhưng cũng có thể là cha Tổ quốc, mẹ cũng thế, có thể hiểu là đất nước. Vì vậy đất nước mình cũng là cha mẹ mình, tổ tiên mình. Tổ tiên, đất nước, cha mẹ, tất cả hòa làm một trong câu ca dao đó".

Ca dao dân ca là sản phẩm được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân, nội dung mang tính chất chung cũng lại rất riêng, gần gũi với tập quán sinh hoạt của con người. Ngay từ thủa lọt lòng, ca dao dân ca đã giành cho trẻ những bài hát đơn sơ, mộc mạc nhưng du dương, ngọt ngào để đưa trẻ vào giấc ngủ êm đềm. Chuyển sang tuổi ấu thơ, các em lại được cất lên nhưng bài hát đồng dao để vui chơi giải trí, luyện cho trẻ quen với tiếng nói, tiếp cận với thiên nhiên, tìm hiểu những vấn đề xã hội nảy sinh trong đời sống hàng ngày. Khi trưởng thành, trai gái lại tụ họp nhau lại thi hát đố, hát giao duyên và các bài hát vui chơi trong đời sống. Đó là những tập tục rất phong phú, làm nảy nở thêm tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu người thiết tha.

Với nội dung truyền tải rất đa dạng và phong phú đời sống xã hội cho nên ở mỗi chủ đề, mỗi một lĩnh vực chúng ta có thể thấy vô vàn những câu nói, lối nói rất mộc mạc, dễ hiểu. Nhà văn Nguyễn Đình Thi đã nhận xét rằng: ca dao Việt Nam bắt nguồn từ tinh thần ham sống, ham đấu tranh, vui vẻ, tế nhị, có duyên nhưng cũng không kém phần dồi dào tình cảm, mạnh mẽ sức lực, nảy nở tự do để đón ánh sáng trời hòa hợp với cỏ cây, hoa lá. Nó như một nguồn nhựa sống để nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, chắp cánh cho thế hệ tương lai những hoài bão lớn lao về cuộc sống, thiên nhiên và con người. Như vậy có thể nói ca dao và dân ca Việt Nam là kho tàng văn hóa, tri thức dân gian, phản ánh những phong tục, tạp quán, tâm tư nguyện vọng của con người Việt Nam, tạo thành một hệ thống hình ảnh thiên nhiên, con người và lao động cùng hoà quyện vào nhau, tạo dựng nên cách nghĩ, cách cảm về cuộc sống, thiên nhiên và con người rất Việt Nam.


Nguồn:
https://tranquanghai.info
 
[TABLE="width: 100%, align: center"]
[TR]
[TD] Hát lời thương: Đây là một loại hình dân ca của người Mường hát đối đáp nam nữ.
[/TD]
[/TR]
[/TABLE]
[TABLE="width: 100%, align: center"]
[TR]
[TD]
Trên cơ sở một số lời hát nhất định mà người hát vận luôn điều kiện hoàn cảnh tự nhiên nơi diễn ra cuộc hát mà đặt lời cho bài hát của mình. Người hát mượn mây, gió, trăng, hoa, thời tiết cũng như quang cảnh xung quanh mà sáng tác ra lời hát để đối đáp với đối tượng của mình. Sau này, do truyền từ người này qua người khác, thể loại hát này dần hình thành nhiều bài và thành ra “loại lời thương nề nếp có tới 25 bậc và các bài hát nối”. Dần dần hát lời thương càng ngày càng được phát triển và từ chỗ hát ở khuôn khổ hẹp ở sân chơi ngoài trời đến “hát trong ngày tết, hát đám cưới, vui nhà mới, ngày hội đình, hội đu…

Qua những cuộc hát đối đáp lời thương này mà biết bao nam nữ được giãi bày tâm sự, thổ lộ mối tình. Nhiều người đã nên vợ chồng sau những cuộc hát, cũng có những người do hoàn cảnh này hay hoàn cảnh khác mà không lấy được nhau cũng giữ mãi trong mình những kỷ niệm đẹp đẽ về một thời son trẻ, để sau này có chồng có vợ rồi, gặp lại nhau vẫn còn có tình cảm lưu luyến như đôi trai gái này:

Ngày nay trời nắng đỏ nắng vàng
Gặp anh đào củ cạnh xá cạnh đường
Lật đất đỏ đất vàng làm chi
Em đi chơi ông ngoại được giỏ cơm xôi
Với nửa thịt mái gà vàng
Anh móc chân sang mà móc giỏ
Anh chàng hát đáp:
Hôm nay trời nắng đỏ nắng vàng
Em sang chơi ông ngoại đấy à em à!
Em được cơm xôi với nửa thịt gà mái vàng
Có đức có đạo lòng thành
Thương em anh đạt vào cái lá
Em để ra ở cái giỏ
Bỏ lại cho anh mà đi
Anh không ra bề thân chi
Không giám móc giỏ nữa em à!

- Hát ví (hát bí):
Đây là loại hát dân ca được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày của người Mường, cũng là một hình thức hát đối đáp nam nữ nhưng dùng những lời lẽ ví von, mượn cảnh, mượn lời để chuyển tải những ý tưởng của mình cho đối tượng. Lời ca chủ yếu dùng thể thơ lục bát để ví, do vậy, khi đọc lên ta thấy rất gần gũi với ca dao của người việt dưới miền xuôi.

Chẳng hạn như:
Đi đâu mà vội mà vàng
Dừng chân đứng lại ăn nang ăn trầu
Ăn rồi xin nhớ đến nhau
Đừng như vôi bạc mà sầu lòng em.
Người con trai thì:
Muốn lặn nhưng sợ thuồng luồng
Muốn lội lại sợ con rồng quấn đi.
Vì thế mà chỉ giám mơ ước:
Anh như bông quả trên cây
Thân em như cỏ may dưới đường
Ước gì gió lớn nặng sương
Bông gạo xuống đường với cỏ may may…
Hát ví hay ở chỗ người hát không gọi tên sự việc cụ thể mà ra bằng sự ví von người khác vẫn hiểu được. Không những thế, lời hát ví lại rất hay, trữ tình và có tính văn vẻ, lãng mạn. Do vậy, lối hát ví đòi hỏi người hát phải có một trình độ nhất định thì mới có thể vận dụng được những kiến thức của cuộc sống vào trong văn học làm sao vừa hợp lý, vừa đúng mà lại mang chất trữ tình, hay và rễ đi vào lòng người.

Ngoài những loại hình dân ca trên đây, người Mường ở Hòa Bình còn có một số loại hình dân ca khác như hát ru con là điệu hát mà cả người già, trẻ, nam, nữ đều có thể dùng để ru trẻ nhỏ, diễn ra cả ban ngày, ban đêm với các giọng của mỗi vùng riêng biệt.

Hát mỡi chủ yếu sử dụng trong các hoạt động tín ngưỡng của ông mỡi, bà mỡi. Tuy nhiên, lời ca, tiếng nhạc của hát mỡi ngoài việc đáp ứng cho nghi lễ làm mỡi còn là một sinh hoạt văn hóa cho một lượng khán giả nhất định tham gia làm mỡi.

Hát “khu” (chuyện kể) là hình thức dân ca mà các ông mo, bà mỡi dùng để động viên, khuyên bảo những người già cả ồm đau bệnh tật. Vừa bằng lời hát và tâm linh, họ động viên những người ốm bình tĩnh, yên tâm chữa chạy, hy vọng một ngày kia sẽ khỏe mạnh để tiếp tục vui vẻ cùng con cháu.

Hát đồng giao phổ biến cho trẻ em trong lúc chơi đùa ban ngày cũng như ban đêm dưới ánh trăng. Hát đồng giao thường kèm theo các trò chơi của trẻ làm cho cuộc chơi vừa vui nhộn vừa thêm phần hớp dẫn.

Có thể thấy kho tàng dân ca của người Mường hết sức phong phú. Những loại hình dân ca ở đây có loại hát kèm theo nhạc của cồng chiêng, có loại nằn trong hát nghi lễ có thể có cả nhạc và múa, và condf lại là những loại dân ca chỉ do người hát theo những vần thơ, có làn điệu sẵn trong truyền thống dân ca của dân tộc. Mỗi thể loại dân ca có ý nghĩa và tác dụng riêng, song đều nhắm phục vụ đời sống tinh thần của người Mường trong quá khứ cũng như hiện tại.


HBĐT tổng hợp

[/TD]
[/TR]
[/TABLE]
 
Về Quảng Nam nghe điệu hò khoan


ghe-bau.jpg


Lão nhạc sĩ Trần Hồng khẳng định rằng: nói đến Quảng Nam là phải nói đến vè Quảng, hò Quảng. Đặc biệt hò khoan có sức níu kéo lòng người bởi ai đã một lần nghe hẳn sẽ thấy lòng quyến luyến giai điệu ấy…


Chưa ai xác định những câu hò xứ Quảng nói chung, hò khoan nói riêng có tự bao giờ, nhưng chắc chắn và trước hết hò khoan là bài ca lao động của ông cha ta trên con đường mở cõi, nó được hình thành cùng với quá trình khai canh, lập làng, mở đất. Xứ Quảng là vùng đất phì nhiêu, cởi mở nhưng cũng lắm tai ương và khắc nghiệt. Ở đó, các cộng đồng cư dân đã cố kết, thắp sáng cho nhau bởi niềm tin yêu cuộc sống. Bởi vậy mà ít có điệu hò nào lại mang tính cộng đồng như điệu hò khoan, ngay từ tên gọi như hò và hò khoan nguyên thủy đã dần dần chuyển thành các điệu hò, lối hò khác nhau như: hò chèo thuyền, hò giã vôi, hò giã gạo, hò hụi... Tất cả điệu hò, lối hò khoan gắn kết với cuộc sống đồng quê, với người nông dân “một nắng hai sương” một cách chân thực.

Đặc biệt hò khoan tuyệt nhiên không phảng phất giai điệu bi ai như một số điệu hò nơi khác. Bởi lẽ chính tính cách mạnh mẽ, cương trực, hết sức chân chất, mộc mạc và giàu tình cảm của con người nơi đây mới sản sinh ra điệu hò chan chứa ân tình. Do biên độ thời gian và do nhu cầu của cuộc sống mà các nhà nghiên cứu thường chia hò khoan thành hai loại: trên cạn và trên sông nước. Hò khoan trên sông nước thường là hò chèo thuyền mềm mại, sâu lắng như những chuyến đò ngang, đò dọc. Hò khoan trên cạn cũng đã có sự phát triển để thích ứng với cuộc sống, lao động, bao gồm các điệu hò giã vôi, hò giã gạo, hò tát nước, hò giã đậu, hò đi cấy, hò xay lúa, hò khoan đối đáp... Sự phân chia này cũng mang tính tương đối và chủ yếu dựa vào đặc thù của mỗi hình thức lao động sản xuất.

Nếu một buổi chiều trên đồng ruộng, nương dâu hay một đêm trăng thanh bên cối giã vôi, giã gạo, các nam thanh nữ tú trao tình gửi ý cho nhau bằng lối hát tự do, ứng tác thì trong các hội thi hát lại phải có kết cấu hẳn hoi. Trình tự diễn xướng của một buổi hát hò khoan như vậy thường bao gồm hát chào, sau đó các bên trai gái đối đáp nhau để tìm hiểu gia cảnh. Đây là giai đoạn thể hiện sự sáng tạo và ứng đối tài hoa của người hát. Kết thúc một đêm hát hò khoan là những câu hát chứa chan tình cảm, bày tỏ tâm tình của mình đối với con người, quê hương và cuộc sống. Cũng có khi kết thúc bằng những câu hát “xạo” một cách trào lộng vui vẻ.

Trong hai hình thức diễn xướng, có đội chuyên nghiệp hoặc không có đội chuyên nghiệp, thì hình thức không chuyên là phổ biến hơn cả. Ở đó, xuất hiện [A]những nghệ nhân hay những người thường[/A] có chút lưng vốn chữ nghĩa. Các [A]tài tử giai nhân [/A]thuở xưa đều lấy cái đạo thanh bần của bậc chân Nho làm trọng, học theo tiếng cười của thánh nhân. Hò khoan là lời tự tình mộc mạc nhưng không hề ai oán, kể cả là những lời bỡn cợt như phong cách tự trào của người xứ Quảng, ví như: “- Gặp anh Ba đây (mới) hỏi anh Ba/ Lâu nay làm ăn khấm khá hay vẫn sát da như bọn mình/-Thời buổi bây giờ công việc vẫn sớt sưa/ dư không dư, thiếu không thiếu vẫn đung đưa như mọi ngày… Khoan hố hợi hò khoan...”. Đó là hình thức hát “xạo” trong hò khoan đối đáp thể hiện nét cái tài hoa và dí dỏm. Ông Hoàng Hương Việt, một người nghiên cứu văn hóa dân gian xứ Quảng nhận xét: “Cái hay của hò khoan là sản phẩm của người dân lao động. Từ hò khoan nó biến thể thành nhưng điệu hò khác như hò Quảng, xuân nữ, lô tô…”.

Nói đến xứ Quảng là nói đến hò khoan. Hò khoan trong lao động, trong chiến đấu, trong thể hiện tình cảm nam nữ, hò khoan trong sinh hoạt thường ngày. Dù là lấy tích xưa hay mượn lời một câu ca cũ thì hò khoan vẫn nặng tình nặng nghĩa của người nông dân xứ Quảng.

Tính độc đáo và sức hấp dẫn của hò khoan trước hết nằm ở người sáng tạo ra nó. Đó chính là khả năng ứng tác và ứng biến một cách khéo léo đến tài tình của người hát, nhất là đối với thể loại hò khoan đối đáp. Làn điệu hò khoan nằm ở khuôn mẫu thơ lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể - thể thơ chân chất, dễ thuộc, dễ nhớ. Mỗi khổ thơ là một khuôn làn điệu. Mỗi câu hò gồm phần kể (một người) và phần xô (nhóm người), ngoài ra còn có thêm tiếng đệm, như "à ơi" (ngân dài ở đoạn đầu), "hố hò", "hố hụi" (rõ, gọn) và kết thúc bằng "khoan hố hợi hò khoan" tha thiết. Trong khi hò khoan lao động thiên về loại hát kể, chú trọng đến phần nhạc điệu, thì nhân ngãi và hội hè lại chú trọng đến phần phát triển, tiến triển giai điệu nên bao giờ cũng làm cho câu hò mượt mà, đằm thắm. Ca từ của hò khoan trở về làm làn điệu dân ca, tạo nên sự hòa quyện gắn kết giữa các loại hình nghệ thuật dân gian. Những câu hát được lưu truyền từ hế hệ này sang thế hệ khác và trở thành di sản văn hóa truyền thống của quê hương, của dân tộc.

Nói đến xứ Quảng là nói đến hò khoan. Hò khoan trong lao động, trong chiến đấu, trong thể hiện tình cảm nam nữ, hò khoan trong sinh hoạt thường ngày. Dù là lấy tích xưa hay mượn lời một câu ca cũ thì hò khoan vẫn nặng tình nặng nghĩa của người nông dân xứ Quảng. Dường như hò khoan chỉ là cái cớ, cơ hội để con người gửi ý, trao tình: “Đêm trường vẳng tiếng đàn Kiều/ Trăm năm chén rượu nguyên tiêu còn nồng / Khoan, hố hợi hò khoan...”.

HỒNG QUANG NĂM
Nguồn: baoquangnam
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top